Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Chính sách tỷ giá và tác động của tỷ giá hối đoái tới cán cân thương mại việt nam giai đoạn từ 1989 đến 2013 lê đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.33 KB, 37 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 1
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ 3
LỜI MỞ ĐẦU
Tầm quan trọng và vai trò của tỷ giá hối đoái gắn liền với quá trình lớn mạnh
không ngừng của nền kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế. Giống như vai trò
của giá cả trong nền kinh tế thị trường, tỷ giá hối đoái có tác động quan trọng đến
những biến đổi của nền kinh tế mỗi quốc gia. Thực tế cho thấy một chính sách tỷ giá
hối đoái hợp lý có thể là nhân tố quan trọng tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế một
nước tăng trưởng. Không ít nước đã thành công khi sử dụng chính sách tỷ giá hối đoái
để phát triển, cũng có nhiều nước đã vấp phải những thất bại về chính sách tỷ giá. Sự
biến động mạnh của một số các đồng tiền mạnh trong thời gian gần đây (đồng đô la
Mỹ, đồng Yên Nhật, đồng Euro) có ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế của nhiều
nước và thế giới. Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và
từng bước hội nhập quốc tế không thể không quan tâm đến tỷ giá hối đoái và chính
sách tỷ giá. Hiện nay đồng Việt Nam vẫn neo đậu chủ yếu vào đồng đô la Mỹ, việc
điều chỉnh tỷ giá hiện nay lên hay xuống để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu, giúp cải
thiện cán cân thương mại là một vấn đề mà các nhà kinh tế Việt Nam luôn luôn phải
tính toán.
Xuất phát từ tầm quan trọng của tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá trong nền
kinh tế mở, đặc biệt là một nền kinh tế đang hội nhập mạnh mẽ như Việt Nam. Đồng
thời chúng ta cũng chưa có một chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt để giúp điều chỉnh
và làm cải thiện cán cân thương mại. Do vậy tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu:
“Chính sách tỷ giá và tác động của tỷ giá hối đoái tới cán cân thương mại Việt Nam
giai đoạn từ 1989 đến 2013”.
Ngoài phần mở đầu, mục lục, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài nghiên
cứu gồm 3 chương:
- Chương 1: Khái quát chung về chính sách tỷ giá hối đoái và cán cân thương
mại.
- Chương 2: Chính sách tỷ giá và tác động của tỷ giá hối đoái tới cán cân thương


mại Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến 2013.
- Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách tỷ giá hối đoái
nhằm cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam.
1
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
Do giới hạn về thời gian, tài liệu tham khảo cũng như những hạn chế về mặt kiến
thức của người viết, đề tài nghiên cứu không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi
rất mong nhận được sự chỉ bảo của thầy cô, bạn bè cũng như những ý kiến đóng góp
quý báu của những ai quan tâm tới đề tài này đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
BẢNG
Bảng 1: Tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 1986-1992
Bảng 2: Tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 1993-1996
Bảng 3: Tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 1997 – 1999
Bảng 4: Tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại Việt Nam giai đoan 2000-2006
Bảng 5: Tỷ giá hối đoái và CCTM của Việt Nam từ năm 2007 đến nay
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Diễn biến tỷ giá USD/VND 2008-2009
Biểu đồ 2: Biến động tỷ giá USD/VND trên thị trường năm 2009-2010

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ

HỐI ĐOÁI VÀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
1.1. Chính sách tỷ giá hối đoái
1.1.1. Khái niệm tỷ giá hối đoái
a. Khái niệm
Trong điều kiện của một nền kinh tế mở, thương mại quốc tế trở thành phổ
biến, việc thanh toán giữa các quốc gia nhất thiết phải sử dụng tiền tệ của nước này
hay nước khác. Để thực hiện việc chuyển đổi tiền tệ giữa các nước, các quốc gia phải
dựa vào tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đồng tiền được tính bằng một
đồng tiền khác, hay là quan hệ so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng tiền của các quốc
gia khác nhau.
Tỷ giá được niêm yết theo hai phương pháp:
+ Yết giá trực tiếp đồng nội tệ: tức là việc niêm yết giá trong đó đồng nội tệ là
đồng tiền yết giá còn đồng ngoại tệ là đồng tiền định giá cho đồng nội tệ, ví dụ 1USD
= 20.800VND tại Việt Nam.
+ Yết giá gián tiếp đồng nội tệ: là việc niêm yết giá trong đó đồng ngoại tệ là
đồng tiền yết giá còn đồng nội tệ là đồng tiền định giá cho đồng ngoại tệ, ví dụ 1USD
= 20.800VND tại Mỹ.
b. Phân loại tỷ giá
Trong thực tế tùy từng trường hợp mà người ta sử dụng các loại tỷ giá khác
nhau. Do đó mà dựa vào những căn cứ khác nhau người ta chia tỷ giá hối đoái thành
nhiều loại tỷ giá khác nhau:
(1) Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá gồm 2 loại:
+ Tỷ giá điện hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm
chuyển ngoại hối bằng điện (telegraphic transfer - T/T).
+ Tỷ giá thư hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm
chuyển ngoại hối bằng thư (mail transfer - M/T).
(2) Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá gồm:
+ Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do nhà Nước công bố được hình thành trên cơ sở
ngang giá vàng.
+ Tỷ giá tự do là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường do quan hệ cung cầu qui

định.

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
+ Tỷ giá thả nổi là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường và nhà nước không
can thiệp vào sự hình thành và quản lý tỷ giá này.
+ Tỷ giá cố định là tỷ giá không biến động trong phạm vi thời gian nào đó.
(3) Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế, tỷ giá gồm:
+ Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ.
+ Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu có kỳ hạn
bằng ngoại tệ.
+ Tỷ giá chuyển khoản là tỷ giá mua bán ngoại hối trong đó việc chuyển khoản
ngoại hối không phải bằng tiền mặt mà bằng cách chuyển khoản qua ngân hàng.
+ Tỷ giá tiền mặt là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc chuyển trả ngoại hối bằng
tiền mặt.
(4) Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối:
+ Tỷ giá mở cửa: là tỷ giá vào đầu giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán ngoại hối của
chuyến giao dịch đầu tiên trong ngày.
+ Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá vào cuối giờ giao dịch hay tỷ giá mua bán ngoại hối
của chuyến giao dịch cuối cùng trong ngày.
+ Tỷ giá giao nhận ngay: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận ngoại hối
sẽ được thực hiện chậm nhất trong 2 ngày làm việc.
+ Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận
ngoại hối sẽ được thực hiện theo thời hạn nhất định ghi trong hợp đồng(có thể là 1,2,3
tháng sau).
(5) Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng, tỷ giá được chia ra
làm hai loại:
+ Tỷ giá mua: là tỷ giá mà ngân hàng mua ngoại hối vào.
+ Tỷ giá bán: là tỷ giá mà ngân hàng bán ngoại hối ra.

1.1.2. Chính sách tỷ giá hối đoái
a. Khái niệm
Chính sách tỷ giá hối đoái là một hệ thống các công cụ dùng để tác động tới
cung cầu ngoại tệ trên thị trường từ đó giúp điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm đạt tới
những mục tiêu cần thiết.
Về cơ bản, chính sách tỷ giá hối đoái tập trung chú trọng vào hai vấn đề lớn là:
vấn đề lựa chọn chế độ (hệ thống) tỷ giá hối đoái (cơ chế vận động của tỷ giá hối
đoái) và vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối đoái .
b. Các chế độ tỷ giá hối đoái
 Chế độ tỷ giá hối đoái cố định

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
Tỷ giá hối đoái cố định, đôi khi còn được gọi là tỷ giá hối đoái neo, là một kiểu
chế độ tỷ giá hối đoái trong đó giá trị của một đồng tiền được gắn với giá trị của một
đồng tiền khác hay với một rổ các đồng tiền khác, hay với một thước đo giá trị khác,
như vàng chẳng hạn. Khi giá trị tham khảo tăng hoặc giảm, thì giá trị của đồng tiền
neo vào cũng tăng hoặc giảm. Đồng tiền sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định gọi
là đồng tiền cố định. Tỷ giá hối đoái cố định là một lựa chọn chế độ tỷ giá ngược hoàn
toàn với tỷ giá hối đoái thả nổi.
 Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi hoàn toàn
Chế độ tỷ giá thả nổi hay còn gọi là chế độ tỷ giá linh hoạt là một chế độ trong
đó giá trị của một đồng tiền được phép dao động trên thị trường ngoại hối.
Đồng tiền sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi được gọi là một đồng tiền thả nổi.
Nói chung, các nhà kinh tế đều cho rằng, trong phần lớn trường hợp, chế độ tỷ
giá thả nổi tốt hơn chế độ tỷ giá cố định bởi vì tỷ giá thả nổi nhạy với thị trường ngoại
hối. Điều này cho phép làm dịu tác động của các cú sốc và chu kỳ kinh doanh nước
ngoài. Thêm vào đó, nó không bóp méo các hoạt động kinh tế.
 Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có sự điều tiết

Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết là một chế độ tỷ giá hối đoái nằm giữa hai chế
độ thả nổi và cố định. Mặc dù lý thuyết nói chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tốt hơn,
nhưng trong thực tế không có một đồng tiền nào được thả nổi hoàn toàn, vì nó quá bất
ổn định. Tuy chế độ tỷ giá hối đoái cố định tạo ra sự ổn định, song việc thực hiện các
biện pháp chính sách nhằm giữ cho tỷ giá hối đoái cố định tương đối khó khăn và tốn
kém, và trên hết là chế độ này làm cho chính sách tiền tệ trở nên vô hiệu lực. Chính vì
thế, chỉ một số ít đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Hầu
hết các đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi, nhưng chính phủ sẽ can
thiệp để tỷ giá không hoàn toàn phản ứng theo thị trường.
1.2. Cán cân thương mại
1.2.1. Khái niệm
Cán cân thương mại phản ánh chênh lệch giữa các khoản thu từ xuất khẩu và
các khoản chi cho nhập khẩu hàng hoá. Chính vì vậy, nó được gọi là cán cân hữu hình
bởi vì hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá hoàn toàn có thể quan sát bằng mắt thường
khi di chuyển qua biên giới. Trong cán cân thương mại, hoạt động xuất khẩu làm phát

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
sinh cung ngoại tệ (cầu nội tệ) nên được ghi có (+) trong cán cân thanh toán BP, còn
hoạt động nhập khẩu làm phát sinh cầu ngoại tệ (cung nội tệ) nên được ghi nợ (-) trong
cán cân thanh toán BP.
Khi nguồn thu từ xuất khẩu lớn hơn các khoản chi cho nhập khẩu hàng hoá thì
cán cân thương mại thặng dư. Ngược lại, khi thu từ xuất khẩu nhỏ hơn chi cho nhập
khẩu hàng hoá thì cán cân thương mại thâm hụt, còn khi thu từ xuất khẩu bằng chi cho
nhập khẩu thì cán cân thương mại cân bằng. Khi giá trị xuất khẩu ròng (hiệu số giữa
xuất khẩu và nhập khẩu) tăng, cán cân thương mại được cải thiện; ngược lại, giá trị
xuất khẩu ròng giảm, cán cân thương mại trở nên xấu đi.
Cán cân thương mại là một trong những cán cân bộ phận rất quan trọng của BP
bởi vì nó phản ảnh vị thế của quốc gia trong thương mại quốc tế. Cán cân thương mại

thặng dư phản ánh quốc gia đang có ưu thế trong mua bán trao đối với các nước bạn
hàng, vì giá trị xuất khẩu cao hơn giá trị nhập khẩu, làm tăng nguồn thu cho đất nước.
Ngược lại, cán cân thương mại thâm hụt cho thấy quốc gia đang ở vị thế không thuận
lợi trong thương mại quốc tế, nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu, làm giảm thu nhập quốc
gia.
1.2.2. Biện pháp điều chỉnh cán cân thương mại
Cán cân thương mại có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế, nó thể hiện rất rõ
mối liên hệ giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa tiết kiệm và đầu tư, nhờ vậy chúng ta có
thể thấy được sự thay đổi của những nhân tố trong nền kinh tế sẽ có tác động theo
chiều hướng nào đối với cán cân thương mại. Trong phần này chúng ta sẽ nghiên cứu
về việc điều chỉnh cán cân thương mại được thực hiện thông qua biện pháp nào cùng
với mức độ tác động của sự biến đổi những nhân tố trong nền kinh tế đối với cán cân
thương mại. Thông thường, quá trình điều chỉnh cán cân thương mại được thực hiện
thông qua 2 biện pháp chính: điều chỉnh tỷ giá và điều chỉnh thu nhập.
 Biện pháp điều chỉnh tỷ giá
Tỷ giá hối đoái là mức giá mà ở đó đồng tiền của một quốc gia được trao đổi
với đồng tiền của một quốc gia khác. Trong thương mại, giá cả là một nhân tố vô cùng
quan trọng quyết định hành vi mua hàng. Vì vậy, biện pháp điều chỉnh tỷ giá có tác
động trực tiếp tới cán cân thương mại. Một đồng tiền của một quốc gia có thể được
nâng giá hay giảm giá tuỳ thuộc vào chính sách thương mại của quốc gia đó. Trong

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
trường hợp cán cân thương mại của một quốc gia bị thâm hụt thì thông thường việc
phá giá đồng tiền là một biện pháp nhằm cải thiện cán cân thương mại giúp quốc gia
đó tăng cường xuất khẩu và giảm nhập khẩu do giá hàng hoá xuất khẩu tính bằng đồng
ngoại tệ sẽ rẻ hơn tương đối. Ngược lại, trong trường hợp một quốc gia sử dụng biện
pháp thắt chặt tiền tệ với mục đích điều chỉnh yếu tố kinh tê vĩ mô khác như kiềm chế
lạm phát thì đồng tiền của quốc gia đó sẽ lên giá tương đối so với đồng tiền khác, điều

này sẽ làm giảm xuất khẩu và tăng cường nhập khẩu, sẽ tác động không tốt đến cán
cân thương mại.
 Biện pháp điều chỉnh thu nhập
Thu nhập có mối quan hệ trực tiếp tới cầu nhập khẩu của một quốc gia. Thu nhập
tăng sẽ làm cho nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ của người dân đối với cả hàng trong nước
và hàng nhập khẩu tăng lên, vì vậy sẽ làm tăng nhập khẩu. Trong một chế độ tỷ giá cố định,
khi một quốc gia có cán cân thương mại thâm hụt thường xuyên sẽ dẫn đến việc giảm thu
nhập và sau đó là giảm nhập khẩu. Ngược lại, khi một quốc gia có cán cân thương mại
thặng dư sẽ làm tăng thu nhập và kéo theo đó là tăng nhập khẩu. Như thế những tác động
của thu nhập tới nhập khẩu sẽ điều chỉnh cán cân thương mại, kéo về vị trí cân bằng.
Tóm lại, thông qua cái nhìn tổng quan về cán cân thương mại ở trên có thể cho
ta thấy, cán cân thương mại có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế, nó
phản sức cạnh tranh và trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia cũng như chính
sách kinh tế vĩ mô của nền kinh tế đó. Khi một quốc gia có cán cân thương mại thặng
dư là khi quốc gia đó có tiềm lực, khả năng đạt mức tăng trưởng cao, chính sách kinh
tế ổn định, nếu một quốc gia bị thâm hụt thương mại thì quốc gia đó luôn phải điều
chỉnh chính sách kinh tế của mình sao cho có thể cải thiện cán cân thương mại về mức
cân bằng. Tuy nhiên, đối với nhiều quốc gia thâm hụt thương mại chưa chắc đã là dấu
hiệu xấu của nền kinh tế, nhưng nếu thâm hụt liên tục trong dài hạn thì quốc gia đó cần
phải điều chỉnh chính sách kinh tế của mình. Có nhiều yếu tố có thể tác động tới cán
cân thương mại như tác động của tiêu dùng, của đầu tư, của tiết kiệm, tác động trực
tiếp từ xuất khẩu, nhập khẩu và đặc biệt là tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái có mối quan
hệ mật thiết tới cán cân thương mại vì thực thế cán cân thương mại là thể hiện tình
hình ngoại thương với các quốc gia và tỷ giá hối đoái là sự định giá đồng tiền nội tệ so
với đồng ngoại tệ, điều này rất quan trọng trong hoạt động ngoại thương của một quốc

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
gia. Trong phần tiếp theo tôi sẽ trình bày rõ hơn về tỷ giá hối đoái cũng như tác động

của nó tới xuất nhập khẩu, là hai yếu tố quan trọng của cán cân thương mại.

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ
GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN TỪ 1989 ĐẾN 2013
Trước năm 1986 nền kinh tế nước ta trong tình trạng kế hoạch hoá tập trung cao
độ mọi vấn đề sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai hoàn toàn là do
ý muốn chủ quan của các nhà hoạch định chính sách. Nền kinh tế lâm vào khủng
hoảng trì trệ, đòi hỏi một sự đổi mới kịp thời và toàn diện. Trong thời kỳ này quan hệ
ngoại thương của nước ta chỉ bó hẹp với những nước xã hội chủ nghĩa, ngoài đồng
Rup chuyển nhượng là chính, dự trữ ngoại hối của chúng ta rất ít các đống tiền tự do
chuyển đổi khác. Ngoài ra, trên thị trường, quan hệ cung cầu, các yếu tố ảnh hưởng
đến nền kinh tế không được xem xét. Trong giai đoạn này Việt Nam áp dụng chế độ tỷ
giá cố định và cấu trúc đa tỷ giá được áp dụng để xác định tỷ giá giữa VND và đồng
tiền của các quốc gia trong hệ thống các nước Xă hội chủ nghĩa. Đây là một khó khăn
rất lớn của chúng ta trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Thời kỳ này, đất nước bị
đặt trong tình trạng rất nhiều thử thách, lạm phát phi mã, cán cân thanh toán bị mất cân
bằng nghiêm trọng. Yêu cầu của nền kinh tế lúc này là cần nhanh chóng có một đường
lối đổi mới đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng và suy thoái kéo dài.
Từ năm 1989 trở về sau cho đến nay, nhà nước ta đã có những chủ trương và
giải pháp đổi mới trong quan hệ đối ngoại, và chính sách tỷ giá đã từng bước xoá bỏ
cơ chế độc quyền ngoại thương, cho phép các tổ chức kinh tế được phép xuất nhập
khẩu trực tiếp với nước ngoài. Số lượng các công ty được trực tiếp kinh doanh xuất
nhập khẩu không ngừng tăng lên, cùng với việc mở rộng ngoại thương chế độ tỷ giá
cũng có những thay đổi căn bản; chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới bản thân cơ
chế điều hành tỷ giá hối đoái đã được nhanh chóng thay đổi phù hợp với bối cảnh thực
tế. Từ một cơ chế đa tỷ giá, mang nặng tính chủ quan bao cấp, xa rời với thị rường; tỷ

giá hối đoái đã được điều chỉnh theo các quan hệ và điều kiện của các quy luật kinh tế
thị trường. Cơ chế một tỷ giá linh hoạt, có sự điều tiết của nhà nước đã phát huy được
vai trò vừa là một phạm trù kinh tế vận động theo quy luật cung cầu của nền kinh tế
vừa là một công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của nhà nước. Nhà nước đã áp dụng

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
chính sách tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của nhà nước nhưng việc điều hành của nhà
nước trong từng năm có khác nhau, ta có thể chia ra 3 thời kỳ:
2.1. Chính sách tỷ giá thời kỳ từ năm 1989 đến năm 1992
Chỉ thị 271-CT ban hành tháng 10/1988 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng với
nội dung xác lập một mức tỷ giá đồng Việt Nam đối với khu vực ngoại tệ chuyển đổi
phù hợp với mức tỷ giá thị trường trong biên độ dao động 10-20% chính là biện pháp
đầu tiên trong việc thực hiện chính sách đổi mới tỷ giá của Chính phủ. Tháng 3/1989,
Nhà nước bãi bỏ hệ thống tỷ giá kết toán nội bộ, tiến tới thực hiện thống nhất một mức
tỷ giá duy nhất cho toàn bộ hoạt động của nền kinh tế - tỷ giá chính thức. Từ đó, động
lực phát triển ngoại thương được khôi phục, kinh tế Việt Nam cũng như hoạt động
xuất nhập khẩu có cơ hội phát triển mạnh.
Thật vậy, tỷ giá hối đoái cũng đã thể hiện vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
hoạt động ngoại thương trên tất cả các phương diện từ kim ngạch cho đến cơ cấu, thị
trường xuất nhập khẩu.
Bảng 1: Tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại Việt Nam
giai đoạn 1986-1992
Năm
Tỷ giá chính thức
(USD/VND)
Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại
Tỷ giá thị trường
(USD/VND)

Mức tỷ
giá
(đồng)
%Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
% Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
% Tăng,
giảm
Giá trị
(triệu USD)
% Tăng,
giảm
Mức tỷ
giá
(đồng)
% Tăng,
giảm
1986 80 100 789,1 100 2155,1 100 -1366 100 425 369,56
1987 368 460 854,2 108,25 2455,1 113,92 -1600,9 117,20 1270 298,82
1988 3000 815,21 1038,4 121,56 2756,7 112,29 -1718,3 107,33 5000 393,70
1989 3900 130 1320 127,12 2565,8 93,08 -1245,8 72,50 4100 82

1990 6300 161,54 2404 182,12 2752,4 107,27 -348,4 27,96 6500 158,54
1991 9767 155,03 2087,1 86,82 2338.4 84,96 -251,3 72,13 11975 184,23
1992 10720 109,75 2580,7 123,65 2540,7 108,65 40 -15,92 10550 88,1
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu Tổng Cục Thống Kê

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
Bảng 1 cho thấy giá trị danh nghĩa đồng Việt Nam sụt giảm mạnh và liên tiếp
trong suốt giai đoạn 89-92. Từ mức tỷ giá 1USD = 3000VND năm 1989, đồng VND
đã giảm xuống 10720 đồng/đôla năm 1992. Trong vòng 3 năm, tỷ giá đã sụt giảm gần
4 lần. Sự sụt giảm này đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động ngoại thương Việt Nam,
đặc biệt là trên phương diện kim ngạch xuất nhập khẩu trong quan hệ buôn bán với các
quốc gia.
Ta có thể nhận thấy trước thời điểm 1989, khi Nhà nước càng cố gắng hạ giá
đồng nội tệ thì nhập siêu lại càng lớn. Nếu nhập siêu năm 1987 khoảng 1,6 tỷ thì sang
năm 1988, khi tỷ giá bị hạ xuống thấp hơn so với năm trước đó 8 lần thì nhập siêu lại
lên đến hơn 1,7 tỷ. Điều này cho thấy việc hạ giá đồng Việt Nam trong bối cảnh vẫn
áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ không kích thích được ngoại thương mà còn làm cho
nhập siêu trầm trọng hơn.
Năm 1989, sau khi xóa bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, thực hiện thống nhất tỷ giá,
lĩnh vực ngoại thương nhanh chóng có chuyển biến rõ nét. Mặc dù mức giá đồng ngoại
tệ chỉ tăng 30% (ít hơn so với giai đoạn trước đó) song nhập khẩu đã giảm xuống chỉ
bằng 93% so với năm trước, xuất khẩu được kích thích tăng trưởng nên kim ngạch đã
đạt được 1,3 tỷ USD, thu hẹp khoảng cách nhập siêu xuống còn 1,2 tỷ USD (so với
mức 1,7 tỷ USD năm 1988).
Mặt khác, do tỷ giá chính thức được điều chỉnh sát với tỷ giá thị trường, hình
thành theo quy luật cung cầu nên tác động của tỷ giá đến hoạt động thương mại - xuất
nhập khẩu trở nên rõ ràng hơn. Giá đồng nội tệ giảm xuống thực sự kích thích tăng
trưởng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Năm 1989 nếu tỷ giá giảm 1 đồng, xuất khẩu lập

tức tăng lên 0,97 đồng, thì bước sang năm 1990 sau khi giảm tỷ giá xuống trên 60%
thì 1 đồng giảm của tỷ giá lại khiến xuất khẩu tăng những 1,13 đồng, một mức tăng
khá lớn, ta thấy được xuất khẩu co giãn hoàn toàn với tỷ giá do đó có tác động tích cực
lên hoạt động xuất khẩu. Trong bốn năm 1989-1992 tác động của tỷ giá đến hoạt động
nhập khẩu thể hiện qua thực trạng: mức giảm giá đồng nội tệ càng lớn thì mức tăng
nhập khẩu càng giảm. Như năm 1989, mức giảm giá 30%, trong đó 1 đồng giảm giá
kéo theo mức tăng 0,71 đồng thì bước sang năm 1990, tỷ giá giảm đến 60% đã lập tức
giảm mức tăng nhập khẩu xuống còn 0,66 đồng.

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
Đặc biệt, sự kiện tỷ giá danh nghĩa giảm thấp hơn 7,04% so với tỷ giá thị
trường cuối năm 1991 cùng với quyết định bãi bỏ “tỷ giá nhóm hàng” trong thanh toán
ngoại thương năm 1992 đã khiến ngoại thương Việt Nam xuất siêu liên tục trong 6
tháng đầu năm 1992. Vào cuối năm 1992, cán cân thương mại thặng dư 40 triệu USD.
Nguyên nhân xuất siêu chính là do tỷ giá năm 1992, bởi tại thời điểm năm 1992 giá
thành sản xuất hàng Việt Nam còn cao, chất lượng còn thấp, công tác xúc tiến thương
mại cũng chưa được coi trọng và cạnh tranh về giá được xem là yếu tố duy nhất đưa
ngoại thương Việt Nam đạt thành tích trên. Nếu đầu năm 1991, buôn lậu qua biên giới
Việt Nam - Trung Quốc tăng mạnh do hàng hóa của Trung Quốc được duy trì ở mức
giá thấp hơn nhiều so với mức giá hàng hóa của nước ta thì cuối năm 1991, khi đồng
Việt Nam bị phá giá mạnh so với USD 50% từ khoảng 7000VND/USD xuống 14500
VND/USD thì tỷ giá đồng Việt Nam so với nhân dân tệ của Trung Quốc cũng bị sụt
giảm mạnh. So với năm 1991, đồng nhân dân tệ đã tăng giá 50%, mức tăng giá này đã
kéo theo tình trạng hàng hóa Trung Quốc bị tăng cao, gặp khó khăn trong tiêu thụ trên
thị trường Việt Nam. Nhiều mặt hàng Việt Nam có cơ hội cạnh tranh với giá thấp hơn
các sản phẩm nội địa trên thị trường Trung Quốc.
Chúng ta có thể nhận thấy rằng việc xóa bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, thống nhất tỷ
giá, đưa tỷ giá chính thức tiến gần tỷ giá thị trường nhằm đạt được mức tỷ giá hợp lý

những năm cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 thế kỷ trước là một chủ trương đúng
đắn. Chủ trương này đã có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động nhập khẩu, giúp cải thiện
cán cân thương mại.
2.2. Chính sách tỷ giá thời kỳ từ năm 1993 đến năm 1997
Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả sự can thiệp của Ngân hàng Nhà
nước vào thị trường ngoại tệ, tỷ giá dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ đầu cơ
trong các doanh nghiệp được tung ra, hướng mạnh vào kinh doanh xuất nhập khẩu .
Động thời có một lượng ngoại tệ được chuyển về do người Việt Nam ở nước ngoài
gửi về cho người thân tăng lên khoảng 300-400 triệu USD làm cung ngoại tệ lớn
hơn cầu ngoại tệ và kéo theo tỷ giá VND/USD giảm mạnh. Lĩnh vực tài chính - tiền
tệ bắt đầu trở ngại. Bên cạnh đó, cùng với việc quản lý các đại lý thu đổi ngoại tệ
còn lỏng lẻo, sự chênh lệch lớn giữa tỷ giá hối đoái ở thị trường chính thức và thị
trường chợ đen dẫn đến việc các đại lý lợi dụng danh nghĩa của Nhà nước để buôn

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
bán trục lợi, các ngân hàng không thu mua được lượng ngoại tệ đáng kể qua nguồn
này. Một mặt tình trạng này làm hạn chế khả năng kiểm soát các luồng ngoại tệ lưu
hành trong nước. Mặt khác làm gia tăng các giao dịch trên thị trường chợ đen bất
hợp pháp, tâm lý đầu cơ, găm giữ ngoại tệ tăng mạnh.
Việc ngân hàng Nhà nước khống chế chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán
là cứng nhắc. Điều này làm cho tỷ giá vận hành thoát ly hoàn toàn quan hệ cung cầu
và không khuyến khích các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại hoạt động
theo đúng quan hệ nội tại của nó và thực tế không ít các ngân hàng thương mại đã
phá rào.
Trước những tồn tại của việc”thả nổi” mất kiểm soát tỷ giá, chính phủ đã thay
đổi cơ chế điều hành tỷ giá với những nội dung cụ thể sau:
− Thứ nhất, quy định biên độ giao động của tỷ giá với tỷ giá chính thức được
công bố bởi Ngân hàng nhà nước (công bố tỷ giá chính thức mỗi ngày và xác định

rõ biên độ giao động); Tăng cường sức mạnh của các biện pháp hành chính mà cụ
thể là buộc các đơn vị kinh tế (trước hết là đơn vị kinh tế quốc doanh) có ngoại tệ
phải bán cho Ngân hàng theo tỷ giá nhất định.
− Thứ hai, bãi bỏ hoàn toàn hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh
toán ngoại thương giữa ngân sách với các đơn vị kinh tế tham gia vào hoạt động
ngoại thương. Thay vào đó là việc áp dụng tỷ giá chính thức do Ngân hàng nhà nước
công bố.
Để hạn chế tác động của các yếu tố phi kinh tế, một mặt chính phủ đã tăng
cường công tác thông tin, cho công khai hoá một cách nhanh chóng và chính xác chỉ
số kinh tế quan trọng như tỷ giá chính thức, tỷ giá thị trường, chỉ số giá, sự biến
động giá vàng… Nhờ vậy hạn chế được hoạt động đầu cơ, giải tâm lý hoang mang.
Mặt khác, chính phủ cũng thông quan nhiều hình thức, tốc độ, mức can thiệp để thể
hiện rõ quyết tâm cải cách triệt để nền kinh tế nói chung và áp dập tắt nguy cơ bùng
nổ trở lại lạm phát nói riêng.
Ngoài ra, chính phủ cũng cho thấy có sự chú trong tăng cường thực lực kinh tế
cho hoạt động can thiệp vào tỷ giá bằng cách gia tăng mạnh mẽ dự trữ ngoại tệ, lập
quỹ ổn giá. Theo số liệu báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước cho thấy,
chính phủ thường dành một tỷ trọng khá lớn trong tổng lượng tiền cung ứng thêm

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
cho nền kinh tế để tăng tài sản có ngoại tệ. Những biện pháp can thiệp trên đã phần
nào xoá đi tâm lý găm giữ ngoại tệ, góp phần làm giảm giá đô la và tỷ giá được ổn
định trong những năm tiếp theo.
− Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động của trung tâm giao dịch ngoại tệ (trung tâm giao
dịch ngoại tệ tại trực tiếp Hồ Chí Minh được mở cửa từ tháng 8 năm 1991) để cho
các đơn vị kinh tế và các tổ chức tín dụng trao đổi, mua bán ngoại tệ với nhau theo
giá tự thoả thuận, tạo ra môi trường điều kiện để cung cầu thực sự gặp nhau. Sau đó,
tiến dần tới việc thành lập thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng tháng 9 năm 1994.

Tính đến cuối năm 1992, đầu năm 1993, những biện pháp can thiệp đã đem
lại một kết quả như mong đợi, nạn đầu cơ ngoại tệ về cơ bản đã được giải toả, những
đồng ngoại tệ đã được hướng mạnh vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Tình
hình cung - cầu ngoại tệ đã được cải thiện với cùng kỳ trong những năm trước đó,
Đôla có xu hướng giảm giá. Mức tỷ giá trên thị trường chợ đen chỉ giao động trong
phạm vi từ 10200 đến 10400 đồng Việt Nam ăn 1 Đôla Mỹ. Thậm chí có lúc tỷ giá
tụt xuống ở mức 1USD = 9750VND. Mặc dù có nhiều ý kiến cho rằng tình hình này
phần lớn là nhờ vào lượng kiều hối vào nhiều (ước tính trong tháng 1 năm 1993,
nhân dịp tết nguyên đán, có trên 60.000 việt kiều về thăm quê đã đem theo một
lượng ngoại tệ khoảng 400 triệu Đôla Mỹ). Dĩ nhiên không thể phủ nhận đóng góp
của lượng kiều hối này vào việc làm gia tăng cung ngoại tệ trên thị trường. Trên
thực tế cho thấy, lượng kiều hối này tăng giảm hoàn toàn không ổn định qua các
năm và chỉ tập trung vào những thời gian ngắn nhất định trong năm, trong khi tình
hình cung - cầu ngoại tệ về tỷ giá hối đoái luôn được ổn định trong suốt thời gian dài
từ năm 1993 đến đầu năm 1997.

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
Bảng 2: Tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn
1993- 1996
Năm
Tỷ giá chính
thức
(USD/VND)
Xuất khẩu Nhập khẩu
Cán cân thương
mại
Mức
tỷ giá

%Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Thâm
hụt
(triệu
USD)
% Tăng,
giảm
1993 10640 100 2985,2 100 3924 100 938,8 100
1994 10955 102,9 4054,3 135,8 5825,8 148,5 1771,5 143,7
1995 10970 100,1 5448,9 134,4 8155,4 140 2706,5 149,7
1996 11100 101,2 7255,9 133,2 11143,6 136,6 3887,7 153,6
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê
Với các số liệu tính toán từ bảng 2 trên đây, việc tỷ giá dao động với biên độ +/-
0,5% trong giai đoạn 93-96 đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu. Nhập
siêu tăng gần gấp đôi trong năm 93, 94. Đặc biệt năm 1996, khi tỷ giá danh nghĩa bị ấn

định so với tỷ giá thực ở mức cao nhất 28% thì nhập siêu cũng đạt mức kỷ lục: 3,8 tỷ
đô la. Trung bình giai đoạn 94-96, cứ 1 đồng tăng giá nội tệ kéo theo hàng nhập khẩu
rẻ đi 1,4 đồng trong khi xuất khẩu sụt giảm 1,3 đồng. Điều này cho thấy tác động của
tỷ giá hối đoái lên ngoại thương Việt Nam trong bối cảnh tỷ giá hối đoái nội tệ bị ấn
định cao hơn so với giá trị thực vận động theo xu thế lí luận chung. Tỷ giá tăng đã kéo
lùi tốc độ tăng xuất khẩu, đẩy nhanh tốc độ nhập siêu và gây thiệt hại đến sản xuất
trong nước.
Đối với cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu, việc tỷ giá lên cao tạo điều kiện thuận
lợi cho các mặt hàng nhập khẩu hơn. Tỷ giá danh nghĩa được định cao hơn tỷ giá thực
bao nhiêu thì giá hàng nhập khẩu cũng được rẻ đi bấy nhiêu. Trước tình trạng hàng
trong nước cạnh tranh không nổi, năm 1994, nhà nước phải có chính sách cấm nhập
khẩu 17 mặt hàng nhằm bảo vệ sản xuất trong nước. Thời điểm này,hàng hóa xuất
khẩu lại gặp bất lợi. Trong 3 năm 1993-1995, nếu lấy năm 1992 làm mốc thì đồng Việt
Nam đã lên giá và giá hàng xuất khẩu đã bị đẩy đắt lên trên các thị trường ngoại quốc.
Ngoài ra, việc đồng Việt Nam tăng giá so với đồng đô la cũng góp phần khiến
đồng Việt Nam tăng giá so với các đồng tiền khác như Nhân dân tệ, Yên Nhật Điều

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
này cũng khiến việc mở rộng thị trường trở nên khó khăn. Tuy nhiên do việc giới thiệu
sản phẩm Việt Nam tại thị trường nước ngoài bắt đầu được thực hiện mạnh mẽ nên qui
mô thị trường ngày càng được mở rộng. Ta nhận thấy thời kỳ này tỷ giá không ảnh
hưởng lớn đến hoạt động xuất-nhập khẩu
Trong bối cảnh nến kinh tế thế giới và thị trường tiền tệ quốc tế đầy biến
động mà nền kinh tế xã hội Việt Nam lại đạt được sự ổn định và tăng trưởng cao,
điều này đã thể hiện tính hợp lý về cơ bản của các tỷ số kinh tế vĩ mô và tất yếu là
có biến số tỷ giá hối đoái. Giai đoạn này là giai đoạn tăng giá mạnh của đồng tiền
Việt Nam. Chính điều này là nguyên nhân gây ra tình trạng thâm hụt lớn cán cân
thương mại của Việt Nam.

2.3. Chính sách tỷ giá thời kỳ từ năm 1997 đến nay
Đây là giai đoạn điều hành tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của nhà nước. Chủ
trương điều hành tỷ giá một cách linh hoạt theo tình hình trong nước và quốc tế nhằm
khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và tăng dự trữ ngoại tệ. Trong thời kỳ này
chúng ta sẽ cùng nghiên cứu các giai đoạn khác nhau tương ứng vơi sự phát triển của
kinh tế Việt Nam.
2.3.1. Giai đoạn từ năm 1997 đến năm 1999
Đây là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam chịu những tác động mạnh mẽ của
cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Đồng Đô la lên giá mạnh so với tất cả các đồng
tiền trong khu vực Đông Nam Á. Trong tình hình đó Ngân hàng Trung ương đã tiến
hành điều chỉnh tỷ giá đồng Việt Nam: Tăng biên độ tỷ giá giao dịch lên +/-5% rồi
+/-10%, đồng thời giảm giá đồng tiền Việt Nam nhằm tạo ra một mức tỷ giá mới sát
với mức tỷ giá thực tế.
Chính sách tỷ giá mới đã khiến cho đồng Việt Nam giảm giá
16% chỉ trong vòng một năm, khoảng cách giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa cũng
được thu hẹp. Điều này đã đem lại những tác động tích cực cho cán cân thương mại
Việt Nam: kim ngạch nhập khẩu tăng chậm, mức nhập siêu giảm xuống còn 2,4 tỷ
USD (giảm 36,8% so với năm trước). Đặc biệt trong năm 1999 mức nhập siêu chỉ còn
200 triệu USD.

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
Bảng 3: Tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại Việt Nam
giai đoạn 1997 – 1999
Năm
Tỷ giá chính
thức
(USD/VND)
Xuất khẩu Nhập khẩu

Cán cân thương
mại
Mức
tỷ giá
%Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Thâm
hụt
(triệu
USD)
% Tăng,
giảm
1996 11100 100 7255,9 100 11143,6 100 3887,7 100
1997 11175 100,7 9185 126,6 11592,3 104 2407,3 126,2
1998 12985 116,2 9360 101,9 11499,6 99,2 2139,6 122,9
1999 14004 107,85 11541.4 123,31 11742,1 102,109 200,7 101,7

Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của Tổng Cục Thống Kê
Mặc dù vậy, đồng Việt Nam vẫn còn bị định giá cao so với các nước trong khu
vực, khiến cho giá hàng hoá Việt Nam tăng cao. Hàng hoá Việt Nam khó có thể cạnh
tranh được với các nước trong khu vực nên hoạt động xuất khẩu phần nào bị hạn chế
(tốc độ tăng xuất khẩu ở mức tương đối thấp: 1,9% trong năm 1998). Đồng thời việc
đồng Việt Nam bị định giá cao trong khu vực cũng khiến cho cơ cấu thị trường xuất
khẩu của Việt Nam chuyển dịch từ khối ASEAN sang thị trường châu Âu. Cuộc khủng
hoảng kinh tế khiến cho các quốc gia châu Á phải hạn chế nhập khẩu để dữ trữ ngoại
tệ cũng là một phần nguyên nhân của hiện tượng này.
Nói tóm lại, trong giai đoạn này, việc điều chỉnh tỷ giá ở Việt Nam đã mang lại
những kết quả hết sức tích cực: kiểm soát được nhập khẩu đồng thời mở ra những cơ
hội mới khi thay đổi thị trường xuất khẩu, từ đó cải thiện cán cân thương mại của Việt
Nam. Có thể nói đây là một giai đoạn thành công trong điều hành tỷ giá ở Việt Nam.
2.3.2. Giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2006
Giai đoạn này được đánh dấu bằng việc đồng EUR được lưu hành thống nhất
trên tất cả các quốc gia EU và trờ thành đối thủ nặng ký của USD. Trong bối cảnh này,
Việt Nam đã áp dụng cơ chế neo tỷ giá có điều chỉnh, đồng thời tỷ giá Việt Nam được
gắn với một “rổ tiền tệ” trong đó tỷ trọng của EUR được nâng lên.
Trong giai đoạn này, biên độ tỷ giá được nới rộng từ +/-0,1% lên +/-0,25% đối
với nghiệp vụ giao ngay và từ +/-0,4% lên +/0,5% đối với nghiệp vụ kì hạn ngày

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
1/7/2002. Tỷ giá nội tệ bị ép cao hơn giá trị thực khiến đồng Việt Nam bị định giá cao
hơn USD từ 10-20%.
Xuất khẩu Việt Nam thời kỳ này gặp nhiều khó khăn do không cạnh tranh được
với hàng hoá Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu tăng chậm (thấp nhất là hơn 3% năm
2001), đồng thời tốc độ tăng xuất khẩu luôn nhỏ hơn tốc độ tăng nhập khẩu, dẫn đến
tình trạng nhập siêu ở mức cao: đến tháng 10/2003, mức nhập siêu là 4,55 tỷ USD.

Bên cạnh đó, việc định giá cao đồng Việt Nam cũng dẫn đến tình trạng nhập khẩu
hàng loạt, kể cả những mặt hàng trong nước có thể sản xuất được do mức giá nhập
khẩu rẻ hơn mức giá hàng hoá trong nước.
Bảng 4: Tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại Việt Nam
giai đoan 2000-2006
Năm
Tỷ giá chính
thức
(USD/VND)
Xuất khẩu Nhập khẩu
Cán cân thương
mại
Mức
tỷ giá
%Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm

Thâm
hụt
(triệu
USD)
% Tăng,
giảm
2000 14157 100 14483 100 15637 100 1154 100
2001 14752 104,2 15029 103,77 16218 113,72 1189 103,03
2002 15368 104,18 16706 111,16 19746 121,75 3040 255,68
2003 15608 101,56 20149 120,61 25256 127,90 5152 169,47
2004 15739 100,84 26485 131,45 31969 126,58 5484 106,44
2005 15873 100,85 32447 122,51 36761 114,99 4314 78,66
2006 16091 101,37 39826 122,74 44891 122,12 5065 117,41
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của Tổng cục Thống Kê
Tóm lại, diễn biến tỷ giá và cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 2000 –
2006 cho thấy ảnh hưởng của tỷ giá tới cán cân thương mại là tương đối rõ ràng, biến
động của tỷ giá và cán cân thương mại có xu hướng bám sát nhau: tỷ giá có xu hướng
tăng, trong khi cán cân thương mại giai đoạn đầu có chiều hướng tăng thâm hụt nhưng
sau đó lại được cải thiện dần. Tuy vậy nhưng trong giai đoạn này, cùng với quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam được cải thiện rõ rệt,
kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng mạnh, góp phần không nhỏ cho quá trình

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
xây dựng và đổi mới đất nước. Tuy nhiên, trên danh nghĩa Việt Nam áp đặt cơ chế tỷ
giá thả nổi có sự điều tiết của nhà nước nhưng trên thực tế đồng Việt Nam bị neo giữ
một cách cứng nhắc gây ra những tổn thất cho cán cân thương mại Việt Nam.
2.3.3. Giai đoạn từ năm 2007 đến nay
Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã được kết nạp vào Tổ chức Thương mại Thế giới

(WTO). Đối với nước ta, sự kiện này có một ý nghĩa đặc biệt. Đây là kết quả của quá
trình đổi mới nhằm mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN và hội nhập kinh
tế quốc tế. Gia nhập WTO với những cơ hội và thách thức mới cho Việt Nam khi hội
nhập kinh tế quốc tế. Trước những cơ hội và thách thức đó, lựa chọn những bước đi
đúng đắn và phù hợp trong cơ chế điều hành tỷ giá là điều trăn trở của các nhà hoạch
định chính sách.
Thời gian này, chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá theo hướng
khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Tuy nhiên, trong bối cảnh đồng USD
đang giảm giá so với các ngoại tệ mạnh và các dòng vốn lớn đang vào Việt Nam làm
phức tạp thêm nỗ lực ngăn cản VND lên giá.
Bảng 5: Tỷ giá hối đoái và CCTM của Việt Nam từ năm 2007 đến nay
Năm
Tỷ giá chính thức
(USD/VND)
Xuất khẩu Nhập khẩu
Cán cân thương
mại
Mức tỷ
giá
%Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Kim
ngạch

(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Giá trị
(triệu
USD)
% Tăng,
giảm
2007 15738,30 100 48561 100 62765 100 -14204 100
2008 16179,00 102,8 62285 128,26 80714 128,597 -18029 126,93
2009 17490,00 108,1 57096 91,67 69949 86,66 -12853 71,29
2010 18921,30 108,18 72237 126,52 84839 121,29 -12602 98,05
2011 20229,00 106,91 96906 134,15 106750 125,83 -9844 78,11
2012 20828,00 102,96 114529 118,19 113780 106,59 749 -7,61
2013 21036,00 100,99 132200 115,43 131300 115,398 900 120,16
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của Tổng Cục Thống Kê
So với cuối năm 2007, tỷ giá USD/VND năm 2008 đã tăng khoảng 9%, vượt xa
mức thay đổi quanh 1% những năm gần đây, trong khi đồng USD vẫn chiếm tỷ trọng

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
chi phối trong thanh toán quốc tế (khoảng 70%). Mức tăng vượt trội này đẩy chi phí
nhập khẩu, chi phí sản xuất kinh doanh của những ngành hàng có đầu vào lớn từ
nguyên liệu nhập khẩu, chi phí vay nợ ngoại tệ tăng cao. Đây cũng là năm nổi bật khi
trong báo cáo tài chính của nhiều doanh nghiệp chi phí của tỷ giá tăng đột biến.
Biến động khó lường của tỷ giá còn thể hiện ở sự trái chiều trong nửa đầu năm
2008 (giảm mạnh những tháng đầu năm, tăng đột biến ngay sau đó), gây xáo trộn kế

hoạch sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Năm tháng đầu năm 2008, nhập
siêu đạt mức quá cao (14,4 tỷ USD), cao hơn mức nhập siêu cả năm 2007 (14 tỷ
USD). Nửa đầu năm 2008 lạm phát và nhập siêu gia tăng đã khiến nhiều người dân và
doanh nghiệp chuyển tài sản từ VND sang USD. Tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do
có lúc đã lên đến mức 19.000 VND/USD, thậm chí 20.000VND, trong khi đó giá USD
trong các ngân hàng thương mại vẫn là trong khoảng 16.000 – 17.000 VND.
Trên thực tế, có doanh nghiệp nhập khẩu đầu tháng vay USD của ngân hàng để
nhập nguyên liệu được tính tỷ giá 16.243 đồng/USD, cuối tháng, doanh nghiệp mua
USD để trả nợ vay chỉ với tỷ giá 16.015 đồng/USD, nhờ tỷ giá giảm doanh nghiệp
được lãi. Trong khi đó, có doanh nghiệp xuất khẩu thu về 100.000 USD, nếu doanh
nghiệp thu tiền xuất khẩu trong tháng 8/2007 thì sẽ được chuyển ra VND với tỷ giá
16.245 đồng/USD, nhưng xuất khẩu tại thời điểm tháng 1/2008 thì chỉ còn 15.599
đồng/USD, doanh nghiệp sẽ thất thu 26 triệu đồng. Với sự biến động mạnh mẽ của tỷ
giá trong năm 2008 đã ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế, trước nhất là hoạt động
xuất nhập khẩu.
Năm 2009 có thể coi là năm “tiền tệ” tại Việt Nam. Tỷ giá USD/VND tăng
mạnh, nhập siêu cao, lạm phát đứng trước áp lực tăng trở lại vào năm 2010, khan hiếm
cục bộ USD, giá vàng sốt nóng, lãi suất ngân hàng lên kịch trần. Tỷ giá chính thức
giữa USD và VND trong năm 2009 đã trải qua hai lần điều chỉnh, một lần vào tháng 3
(+2%) do tăng biên độ giao dịch từ 3% lên 5% và lần gần nhất là vào tháng 11
(+3,4%). Mặc dù sau mỗi lần điều chỉnh, tỷ giá chính thức đều lên kịch trần nhưng tỷ
giá trên thị trường không chính thức (tỷ giá thị trường tự do) vẫn luôn nằm ngoài biên
độ cho phép của Ngân hàng Nhà nước.Trên thực tế, điều này đã xảy ra từ đầu năm tới
nay, cho thấy thị trường ngoại hối luôn căng thẳng (theo dõi biểu đồ dưới).

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
Biểu đồ 1:Diễn biến tỷ giá USD/VND 2008-2009
Biểu đồ cho thấy càng về cuối năm tỷ giá càng biến động và mất giá mạnh, thị

trường ngoại hối luôn có biểu hiện căng thẳng, đồng thời USD tín dụng thì thừa, USD
thương mại thì thiếu. Các ngân hàng không có ngoại tệ để bán cho doanh nghiệp và
nếu có bán thì mức tỷ giá cũng cao hơn mức tỷ giá trần do NHNN quy định. Những
bất ổn trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái đã tiếp tục gây ra những khó khăn
cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hơn nữa, đồng tiền mất giá còn ảnh hưởng đến lạm
phát trong nước do giá hàng nhập khẩu tăng mạnh.
Đến năm 2010,Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có quyết định nâng tỷ giá giữa
USD/VND thêm 2.1%, từ 18,544 lên 18,932, với biên độ được giữ nguyên ở mức +/-
3%, áp dụng từ ngày 18/08/2010.
Với sự nới rộng tỷ giá này, tỷ giá trần USD/VND có thể giao dịch sẽ tăng lên ở
mức 19,500. Đây là đợt điều chỉnh thứ 2 trong năm 2010 và là đợt thứ 3 kể từ ngày
25/11/2009 NHNN điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng.

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
Biểu đồ 2: Biến động tỷ giá USD/VND trên thị trường năm 2009-2010
Mặc dù tỷ giá USD/VND vẫn tăng cao nhưng Việt Nam vẫn trong tình trạng
nhập siêu còn khá lớn. Mặc dù theo lý thuyết, tỷ giá USD/VND tăng (USD lên giá còn
VND giảm giá) sẽ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gia tăng, hạn chế nhập khẩu. Nhưng
trên thực tế khi tỷ giá USD/VND tăng, không những xuất khẩu tăng mà nhập khẩu
cũng tăng, đáng chú ý mức tăng của nhập khẩu mạnh hơn mức tăng của xuất khẩu,
nghĩa là cán cân thương mại vẫn thâm hụt. Đó là do ở Việt Nam có sự phụ thuộc quá
cao giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Chính vì có sự phụ thuộc quá nhiều của xuất khẩu
vào nhập khẩu nên khi tỷ giá tăng xuất khẩu tăng thì nhập khẩu cũng tăng theo và tăng
nhiều hơn mức tăng của xuất khẩu, điều này lý giải tại sao cán cân thương mại vẫn
thâm hụt mặc dù xuất khẩu có gia tăng khi VND giảm giá.
Bước sang năm 2011, là một năm tương đối thành công của chính sách quản lý
ngoại hối với tỷ giá diễn biến tương đối ổn định, giá vàng trong nước tuy vẫn tiếp tục
tăng nóng nhưng đã bám sát hơn với giá vàng thế giới. Ngay từ đầu năm 2011, Ngân

hàng Nhà nước (NHNN) đã điều chỉnh mạnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng với
quyết định số 230/2011/QĐ-NHNN ngày 11/2/2011: tỷ giá USD/VND tăng (giảm giá
VND) 9,3% từ 18.932 lên 20.693 VND/USD; biên độ giao dịch giảm từ +/-3% xuống
+/-1%. Mức tỷ giá mới phản ánh sát hơn cung – cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
Nhờ đó, tỷ giá thực hiệu quả REER tiến sát với trục gốc 100% và tỷ giá trên thị trường

Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
tự do giảm nhiệt, chênh lệch thu hẹp dần từ 1.500VND/ 1USD thời điểm đầu năm
xuống còn 500VND/1USD vào tuần đầu tháng 3/2011. Do vậy mà cán cân thương mại
năm 2011 được cải thiện hơn đáng kể so với năm 2010, cán cân thương mại từ mức
thâm hụt 12.602 triệu USD giảm xuống còn 9.844 triệu USD.
Mặc dù kinh tế thế giới năm 2012 vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, thị trường tài
chính toàn cầu vẫn tiềm ẩn rủi ro do khủng hoảng nợ công khu vực đồng tiền chung
Châu Âu chưa được giải quyết, nhiều ngân hàng trong khu vực Châu Âu bị hạ bậc tín
nhiệm; kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với rủi ro tăng trưởng kinh tế chậm lại,
hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn nhưng về
cơ bản, diễn biến thị trường ngoại hối trong và ngoài nước không có nhiều biến động.
Tỷ giá hối đoái đã giữ được ổn định, sau thời kỳ điều chỉnh mạnh mấy năm trước đó,
thậm chí điều chỉnh quá mạnh đầu năm 2011. Kiều hối tăng mạnh (lên tới 9 tỷ USD
trong 9 tháng và cả năm khoảng 11-12 tỷ USD), tạo điều kiện để NHNN mua được số
lượng lớn ngoại tệ. Trên cơ sở ổn định tỷ giá, Việt Nam cũng đã tăng cường được
nguồn dự trữ ngoại tệ một cách ổn định: dự trữ ngoại tệ năm 2012 đã đạt 23 tỷ USD,
đạt mức cao nhất trong ba năm qua. Xuất khẩu cũng được tăng trưởng mạnh. Trong
những tháng đầu năm 2012, nhập siêu của cả nước có thể nói là rất thấp, có một vài
tháng Việt Nam đã cân bằng được cán cân thương mại. Điển hình nhất là trong 2 tháng
liên tiếp 6 và 7, Việt nam đã xuất siêu (tháng 6 xuất siêu 360 triệu USD, tháng 7 là 579
triệu USD). Tính đến cuối năm 2012, Việt Nam đạt mức thặng dư thương mại 749
triệu USD.

Bước sang năm 2013, trên cơ sở bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, NHNN tiếp
tục cam kết điều hành giữ biến động tỷ giá khoảng 2-3% trong cả năm. Để thực hiện
cam kết này, công tác điều hành tỷ giá tiếp tục được thực hiện linh hoạt kết hợp với
hoạt động mua bán của NHNN. Để phù hợp với tình hình lãi suất, duy trì ổn định thị
trường ngoại hối, ngày 28/6/2013, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân
hàng từ mức 20.828 VND/USD tăng 1% lên mức 21.036 VND/USD; đồng thời thực
hiện một loạt các giải pháp hỗ trợ khác, trong đó có việc quy định lãi suất tối đa áp
dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 6 tháng với mức trần là
7%/năm; điều chỉnh giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD của tổ chức từ
2%/năm xuống 0,25%/năm, cá nhân từ 2%/năm xuống 1,25%/năm tại các tổ chức tín

Lê Thị Đông - FTU

×