SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
MỤC LỤC
Nội dung Trang
Phần A: Mở đầu
I. Đặt vấn đề 2
1.Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải
quyết
2
2.Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới 2 - 3
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 3
II. Phương pháp tiến hành 3
1. Cơ sở lí luận và thực tiễn có tính định hướng cho việc nghiên
cứu, tìm giải pháp của đề tài
3
2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp 5
Phần B: Nội dung
I. Mục tiêu 6
II. Mô tả giải pháp của đề tài 6
1. Tính thuyết minh mới 6 - 13
2. Khả năng áp dụng 14
3. Lợi ích kinh tế - xã hội 14
Phần C: Kết luận
1.Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp 14 - 15
2.Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp 15
3.Đề xuất, kiến nghị 15 - 16
Đề tài:
RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Thọ
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Bồng Sơn
A. MỞ ĐẦU
1
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
I. Đặt vấn đề
1. Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải quyết
Trong tất cả các môn học ở bậc Tiểu học, Tiếng Việt là môn đặc biệt quan trọng
không thể thiếu đối với các em. Vì ngôn ngữ chính là phương tiện giao tiếp đặc trưng
của loài người. Ngôn ngữ là công cụ tổ chức quá trình tư duy phát triển, và là phương
tiện bộc lộ tư duy, biểu hiện tâm trạng tình cảm.
Dạy môn Tiếng Việt đang là vấn đề được nhà trường, các nhà nghiên cứu và
toàn xã hội quan tâm. Biết đọc là biết thêm một công cụ mới để học tập, để giao tiếp,
để nắm bắt được mọi thông tin diễn ra hằng ngày trong xã hội. Tập đọc là phương tiện
để học sinh tiếp nhận tri thức cửa loài người. Nó góp phần quan trọng vào việc thực
hiện mục tiêu chung của bậc tiểu học về tất cả các mặt: Đức - Trí - Lao - Thể - Mỹ. Nó
có khả năng trực tiếp hay giám tiếp phát huy năng lực tư duy của học sinh. Dạy học
không những rèn luyện kỹ năng đọc mà còn phát triển cho các em vốn từ ngữ Tiếng
Việt phong phú, từ đó các em sẽ học tốt các môn học khác. Học đọc các em cũng đồng
thời học được cách nói cách viết một cách chính xác, ngôn ngữ trong sáng, có nghệ
thuật, góp phần không nhỏ vào việc rèn luyện suy nghĩ, diễn đạt, hình thành một nhân
cách toàn diện cho lớp người chủ tương lai của xã hội.
Qua giảng dạy ở trường tiểu học tôi thấy việc rèn đọc hiểu chiếm vị trí đặc biệt
quan trọng. Đọc hiểu giúp các em nâng cao năng lực tư duy, từ đó các em tự chiếm
lĩnh kiến thức mới và vận dụng kiến thức đó theo năng lực của bản thân Nhưng thực
tế giảng dạy, việc rèn kĩ năng đọc hiểu cho học sinh thì một số giáo viên còn chưa hiểu
được một cách sâu sắc yêu cầu đặc trưng của môn học.
Với các lý do trên tôi mạnh dạn hình thành ý tưởng và xây dựng thành đề tài
Sáng kiến- Kinh nghiệm với tiêu đề: “ Rèn đọc hiểu cho học sinh lớp 4 ”
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới.
2
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
Tập đọc là môn học thực hành Tiếng Việt. Dạy Tập đọc chính là dạy một kĩ
năng, cần coi trọng kĩ năng đọc hiểu cho học sinh, coi việc rèn kĩ năng là nhiệm vụ
trọng tâm của bài. Giáo viên cần tổ chức cho học sinh bằng nhiều hình thức hoạt động:
phiếu học tập cá nhân, bảng phụ đóng vai, đàm thoại, kể chuyện
Trong việc rèn kĩ năng đọc hiểu đã phát huy tính tích cực học tập của học sinh,
giáo viên tạo mọi điều kiện cho các em được “tự bộc lộ” năng lực nhận thức và thực
hành luyện tập kĩ năng đọc hiểu với sự hỗ trợ của bạn bè và cô giáo.
Giáo viên đã quan tâm tới tất cả các đối tượng học sinh trong lớp, đặc biệt
những em nhút nhát, lúng túng khi trả lời Ngoài ra, đòi hỏi người giáo viên phải kiên
trì, vượt khó, tìm tòi sáng tạo và phải có tinh thần trách nhiệm cao, lòng say mê với
công việc.
Mặt khác, ngoài việc giáo viên nắm chắc mục tiêu, phương pháp giảng dạy bộ
môn, thì phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo, cải tiến sao cho phù hợp với từng bài dạy
cụ thể để học sinh nào cũng có thể hiểu bài, nắm chắc nội dung bài.
Giáo viên đã biết khéo léo, khuyến khích động viên khen thưởng kịp thời đối với
những học sinh có tiến bộ, phát huy được khả năng phát triển tư duy tạo cho không khí
lớp học sôi nổi, hào hứng, có như vậy thì giờ học mới đạt hiệu quả cao.
Giáo viên biết vận dụng, kết hợp hài hoà các điều kiện thực hiện thường xuyên,
liên tục thì việc rèn kĩ năng đọc hiểu của học sinh sẽ đạt kết quả cao, tạo đà cho học
sinh học tốt các môn học khác và học tiếp lên các lớp trên.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Tôi đã thử nghiệm việc áp dụng phương pháp này qua nhiều năm giảng dạy đối
với mọi đối tượng học sinh, vận dụng được cho nhiều lớp học khác nhau ở trường tôi
công tác.
Tôi đã xác định phạm vi nghiên cứu đề tài như sau:
3
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
- Tìm hiểu thực trạng dạy học ở tiểu học.
- Những điều chỉnh- đề xuất biện pháp rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh lớp 4
trong giờ tập đọc.
- Thực nghiệm dạy học.
II. Phương pháp tiến hành
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn có tính định hướng cho việc nghiên cứu, tìm
giải pháp của đề tài
1.1. Cơ sở lý luận:
Phương pháp dạy đọc phải dựa trên những cơ sở khoa học. Nó phải dựa vào
những kết quả nghiên cứu của ngôn ngữ học,văn học, sư phạm học, tâm lý ngữ học để
xây dựng, xác lập nội dung và phương pháp dạy học.
Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt có quan hệ mật thiết với nhau,
là việc sử dụng một bộ mã gồm hai phương diện. Thứ nhất, đó là quá trình vận động
bằng mắt, sử dụng bộ mã chữ- âm để phát ra một cách trung thành những dòng văn tự
ghi lại lời nói âm thanh. Quá trình này được gọi là quá trình đọc thành tiếng. Thứ hai ,
đó là sự vận động của tư tưởng, tình cảm sử dụng bộ mã chữ- nghĩa tức là mối liên hệ
giữa con người và ý tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu được
nội dung những gì được đọc. Quá trình này gọi là quá trình đọc hiểu.
Mục đích của đọc thành tiếng là chuyển đổi chính xác và ngày càng nhanh các
ký hiệu văn tự thành âm thanh. Vì vậy,chất lượng của đọc thành tiếng trước hết được
đo bằng hai phẩm chất: Đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy). Đó cũng là hai kĩ
năng đầu tiên của đọc.Khi đọc hiểu, mục đích của người đọc là làm rõ nghĩa các kí tự,
làm rõ nội dung và mục đích thông báo của văn bản. Lúc này quá trình đọc không chỉ
là sự vận động của cơ quan thị giác và cơ quan phát âm mà còn là sự vận động của trí
4
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
tuệ. Vì vậy, đọc có ý thức là một yêu cầu quan trọng của đọc, trở thành một kỹ năng
của đọc. Ở đây ta gọi là kỹ năng của đọc hiểu.
Quá trình hiểu văn bản bao gồm các bước sau:
- Hiểu nghĩa các từ, các ngữ.
- Hiểu các câu.
- Hiểu các khối đoạn, tức là những tập hợp câu dùng để phát biểu một ý trọn
vẹn.
- Hiểu được cả bài.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
Ở trường tiểu học, việc dạy tập đọc, bên cạnh những thành công còn nhiều hạn
chế. Học sinh của chúng ta đọc chưa được như mong muốn. Kết quả học đọc của các
em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kĩ năng đọc. Các em chưa nắm
vững được công cụ hữu hiệu để lĩnh hội tri thức, tư tưởng, tình cảm của người khác
chứa đựng trong văn bản được đọc.
Giáo viên tiểu học còn lúng túng khi dạy tập đọc: Cần đọc bài tập đọc với giọng
như thế nào, làm thế nào để chữa lỗi phát âm cho học sinh, để các em học sinh đọc
nhanh hơn, hay hơn, diễn cảm hơn, làm thế nào để phối hợp đọc thành tiếng và đọc
hiểu, để các em hiểu văn bản được đọc, nhất là làm thế nào để các em hiểu được “
văn”, làm thế nào để những gì đọc được tác động vào chính cuộc sống của các em?
Đó chính là những trăn trở của giáo viên trong mỗi giờ dạy tập đọc.
Thực tế cho thấy: Đọc những bài văn xuôi, học sinh thường mắc lỗi ngắt giọng ở
những câu dài có cấu trúc ngữ pháp phức tạp. Học sinh cũng có thể mắc lỗi ngay ở
những câu ngắt nhưng các em chưa nắm được quan hệ ngữ pháp giữa các từ này. Lúc
này các em thường ngắt giọng để lấy hơi một cách tuỳ tiện mà không tính đến nghĩa,
tạo ra những lỗi ngắt giọng
5
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
Trong nhiều tiết dạy giáo viên quá sa đà vào giảng văn, lúng túng trong xử lí
phần tìm hiểu bài, cần cung cấp kiến thức giúp học sinh đọc hiểu bài. Đây là điểm
vướng mắc khá phổ biến mà nhiều giáo viên chưa tìm ra cách gỡ. Phần luyện đọc chưa
thực sự được giáo viên chú trọng, nhiều giáo viên cho là dễ vì thấy học sinh đọc được
trôi chảy, nhưng thực ra đây là phần khó nhất, phần trọng tâm của bài.
Ở phần này giáo viên ít mắc lỗi về thao tác nhưng lại không biết dạy thế nào để
phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh, chưa chú ý đến tốc độ đọc của học sinh
theo yêu cầu về kiến thức và kĩ năng cơ bản phù hợp với khối lớp.Thường ở tiết dạy
các giáo viên ít chú ý đến đối tượng đọc yếu, phát âm sai, chưa thông hiểu được từ
nghĩa. Đó là một lỗi khá phổ biến ở trường học hiện nay. Không khơi gợi, phát huy
được tính tích cực ở học sinh.
2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp.
Trong quá trình giảng dạy, nghiên cứu bản thân đã tổ chức thực hiện như sau:
Sau khi nhận lớp, tôi đã ổn định chung tổ chức lớp. Qua tìm hiểu điều tra để nắm
chắc đối tượng học sinh và lựa chọn, đặc biệt là kĩ năng đọc và phân loại học sinh theo
ba đối tượng:
1. Học sinh biết đọc diễn cảm
2. Học sinh mới chỉ biết đọc to, rõ, lưu loát
3. Học sinh đọc nhỏ, lí nhí, ấp úng, ngọng,
Dựa vào đó, tôi đã sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh. Những em đọc yếu ngồi cạnh
những em đọc khá, đọc tốt để đôi bạn cùng tiến. Tôi tiến hành công việc tiếp theo là
giới thiệu cấu tạo chương trình môn tập đọc để các em nắm được chủ đề chính trong
từng học kì và cả năm học. Đồng thời nêu tầm quan trọng, yêu cầu cơ bản về cách tìm
hiểu nội dung của bài học. Hướng dẫn mỗi em có một quyển vở để ghi lại những câu
trả lời theo từng câu hỏi ở sách giáo khoa cũng như nội dung các bài đã học qua.
* Sự chuẩn bị của học sinh
6
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
Trước khi học bài tập đọc, tôi dặn học sinh đọc nhiều lần ở nhà cho trôi chảy và
chuẩn bị trước phần câu hỏi cũng như tập tìm hiểu nội dung bài, đề ra các yêu cầu phù
hợp với từng đối tượng học sinh.
Trong các năm qua tôi đã dành nhiều thời gian cho đề tài nghiên cứu này.
B. NỘI DUNG
I. Mục tiêu:
Giúp học sinh biết đọc, biết tư duy để tạo được sự sinh động, hứng thú, sôi nổi
để lôi cuốn sự chú ý của các em vào cách luyện đọc sao cho có hiệu quả hơn. Khi dạy
tập đọc cho học sinh lớp 4 vấn đề không phải chỉ là dạy cho học sinh đọc to, rõ ràng
mà còn phải dạy cho học sinh đọc đúng, lưu loát, ngắt, nghỉ, hạ giọng, cao giọng, đọc
nhớ, đọc nhanh, ngoài ra còn giúp các em hiểu và cảm thụ tốt bài học đó thì học sinh
mới đọc hay, đọc diễn cảm được bài đọc đó, phải hiểu được bài đọc đó nói lên cái gì?
và các em học được gì qua mỗi bài học đó.
Đa số việc đọc văn bản của học sinh lớp 4 mới chỉ dừng ở đọc hiểu mức độ thấp,
chất lượng chưa cao. Tôi muốn nêu ra một số quan điểm trong dạy học nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy tập đọc nói chung và kiến thức, kỹ năng đọc hiểu cho học sinh
nói riêng.
II. Mô tả giải pháp của đề tài
1. Tính thuyết minh mới
Từ việc tìm hiểu các nguyên nhân cùng với những nhận xét rút ra qua kết quả
khảo sát thực tế, tôi đã tiến hành dần từng biện pháp nhằm khắc phục những tồn tại nêu
trên để giúp HS nâng cao chất lượng đọc- hiểu.
7
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
1.1. Hướng dẫn học sinh đọc văn bản:
Để hướng dẫn HS tìm hiểu bài đạt kết quả tốt, đầu tiên giáo viên yêu cầu học
sinh đọc văn bản (đoạn văn) cần tìm hiểu nội dung nhằm mục đích đọc để phát hiện từ
khó, từ trọng tâm có trong đoạn văn để rút ra phân tích.
1.2. Giúp HS hiểu nghĩa từ ngữ mới:
GV cần giúp các em hiểu nghĩa của một số từ ngữ có tác dụng góp phần nâng
cao kĩ năng đọc- hiểu (từ ngữ được chú giải trong sách giáo khoa, từ ngữ phổ thông mà
HS địa phương chưa quen, từ ngữ đóng vai trò quan trọng để hiểu nội dung bài đọc).
Đối với những từ ngữ đã được chú thích trong sách giáo khoa: GV không nhất
thiết phải yêu cầu HS trình bày tất cả các từ ngữ này mà có thể sàng lọc, chọn một số
từ ngữ khó để giải thích cho rõ. Biện pháp thực hiện là tổ chức cho HS đọc thầm nội
dung chú thích trong sách giáo khoa rồi trình bày lại.
Đối với những từ ngữ khác trong bài khó hiểu, những từ “chìa khóa” mang ý
nghĩa cơ bản, GV có thể hướng dẫn HS giải thích bằng các biện pháp như sau:
- Dùng các từ cùng nghĩa, trái nghĩa hoặc từ ngữ thông dụng ở địa phương để giải
nghĩa.
- Đặt câu với từ ngữ ấy (có nghĩa là dùng từ đó trong một văn cảnh cụ thể).
- Miêu tả sự vật, hoạt động, trạng thái, đặc điểm hoặc tính chất được gọi tên bằng
từ ngữ đó.
Ví dụ:
* Bài “Sầu riêng”- TV4, tập 2. Với từ “đam mê”, tôi hướng dẫn các em tìm từ
thay thế như: thích thú ,yêu thích, khát khao…Sau đó cho các em so sánh và thấy được
“đam mê” là sự ham thích quá mức bao gồm cả sự yêu thích, khát khao và thèm
muốn. Vì vậy trong câu văn này dùng từ “đam mê “ là chính xác nhất, hay nhất.
Từ “đam mê” còn khẳng định sức hấp dẫn, giá trị quí hiếm của quả sầu riêng- đặc sản
của miền Nam nước ta. Đây chính là ý nghĩa khái quát của bài đọc.
8
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
* Bài “Hoa học trò”,TV4, tập 2. Với từ “đỏ rực” trong hình ảnh “một góc trời
đỏ rực”- để giải nghĩa được từ này, trước hết tôi cho các em quan sát tranh. Từ hoạt
động quan sát , các em có được nhận xét về màu sắc, đặc điểm, tính chất của hoa
phượng nở rộ với số lượng rất nhiều. Từ đó, các em dễ dàng giải thích được “đỏ rực”
có nghĩa là: đỏ thắm, tươi tắn và tỏa sáng ra xung quanh.
1.3. Giúp HS hiểu câu, đoạn quan trọng trong bài:
Không phải văn bản nào cũng chỉ gồm những câu đơn giản, có độ dài vừa phải dễ
hiểu với tất cả HS. Một số văn bản có những câu văn có cấu trúc phức tạp mà GV
thường chọn để luyện đọc thành tiếng. Phần lớn những câu này chứa đựng ý quan
trọng thể hiện nội dung chính của bài.
Ví dụ:
* Bài “Hoa học trò”, có câu: “ Mỗi hoa chỉ là một phần tử của xã hội thắm tươi;
người ta quên đóa hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán hoa lớn xòe ra như
muôn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau”.
Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo hoa phượng với muôn ngàn con bướm thắm,
tác giả đã cho ta cảm nhận được hoa phượng nở với số lượng rất nhiều , rất lớn và rất
đẹp. Đó chính là loài hoa gần gũi, thân thiết, gắn liền với những kỉ niệm buồn vui của
tuổi học trò.
Hoặc: Bài “Khuất phục tên cướp biển”, qua cặp câu: “Một đằng thì đức độ,
hiền từ mà nghiêm nghị. Một đằng thì nanh ác, hung hăng như con thú nhốt chuồng”.
GV cần hướng dẫn cho các em thấy được hai hình ảnh đối nghịch nhau của bác sĩ Ly
và tên cướp biển. Từ đó HS sẽ tự rút ra được nội dung bài và khẳng định một chân lý
đó là: sức mạnh chính nghĩa bao giờ cũng thắng sự hung tàn,bạo ngược.
* Đoạn là yếu tố trực tiếp cấu thành bài. Để hiểu bài,các em phải hiểu đoạn. Để
hiểu nghĩa của một đoạn, yêu cầu GV phải hướng dẫn các em xác định được đoạn.
Đoạn là một phần của bài đọc bao gồm một số câu liên kết chặt chẽ với nhau, thể hiện
cùng một tiểu chủ đề. Trong thực tế ở Tiểu học phần lớn các đoạn lời trùng với đoạn ý.
9
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
Song chỉ có một số ít bài có đoạn lời không trùng với đoạn ý, đó là trường hợp chuyển
tiếp, trường hợp trong văn bản có lời đối thoại. Trong thể loại thơ cũng vậy, đoạn ý có
thể trùng với một hoặc một số khổ thơ. Để nhận ra đoạn, GV cần yêu cầu HS đọc lướt
bài, dựa vào cácdấu hiệu hình thức của đoạn. Nếu đoạn lời không trùng đoạn ý thì cần
nhận ra dấu hiệu nội dung và hình thức để chia đoạn ý.
- Đối với tác phẩm tự sự mà các sự kiện được trình bày theo diễn biến thời gian,
GV hướng dẫn các em tìm hiểu các từ ngữ chỉ thời gian để tìm đoạn ý.
Ví dụ: Bài: “Ông Trạng thả diều” TV4, tập 1- Bắt đầu mỗi đoạn bằng các từ ngữ:
Đoạn 1: Vào đời vua Trần….
Đoạn 2: Lên sáu tuổi….
Đoản 3: Sau vì nhà nghèo….
Đoạn 4: Thế rồi….
- Đối với tác phẩm trữ tình, GV cần hướng dẫn các em căn cứ vào các câu văn, câu
thơ có sự chuyển đổi cảm xúc, tâm trạng để xác định đoạn ý.
Ví dụ: Bài “Tiếng cười là liều thuốc bổ” TV4, tập 2; có câu: “Bởi vì cười tốc độ
thở của con người lên đến 100 ki- lô- mét một giờ, các cơ mặt được thư giãn thoải mái
và não thì tiết ra một chất làm người ta có cảm giác sảng khoái thỏa mãn”.
Đây là dạng câu dài có cấu trúc gồm nhiều cụm chủ vị tạo thành và một thành
phần phụ đứng ở đầu câu. GV cần hướng dẫn cho HS thấy thành phần phụ và các cụm
chủ vị đứng trước là nguyên nhân tạo nên kết quả cuối cùng là “người ta có cảm giác
sảng khoái, thỏa mãn”. Hiểu rõ nghĩa câu này, các em đã tự trả lời được vì sao lại nói
“tiếng cười là liều thuốc bổ”.
* Tiếp đến là việc làm rõ nghĩa của đoạn. Muốn hiểu rõ nghĩa của đoạn, ta cần
tìm được câu chủ đề, câu quan trọng trong đoạn.
- Đoạn có cấu trúc diễn dịch, câu chủ đề là câu đầu đoạn.
Ví dụ: Câu “Ngày xửa ngày xưa có một vương quốc buồn chán kinh khủng chỉ vì
cư dân ở đó không ai biết cười”. (Đoạn 1, bài Vương quốc vắng nụ cười).
10
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
- Đoạn có cấu trúc quy nạp thì câu chủ đề là câu cuối đoạn.
Ví dụ: Câu “Hoàng hôn áp phiên của phiên chợ thị trấn, người ngựa dập dìu chìm
trong sương núi tím nhạt”. (Đoạn 2, bài Đường đi Sa Pa).
- Đoạn có cấu trúc tối giản chỉ có một câu. Hiểu được nghĩa câu này là hiểu được
nghĩa của đoạn.
Ví dụ: Câu “Sa Pa quả là món quà tặng diệu kì mà thiên nhiên dành cho đất nước
ta” (Đoạn cuối, bài Đường đi Sa Pa).
* Trong việc làm rõ ý của đoạn, HS không biết tổng hợp - chỉ biết đọc nguyên
văn văn bản mà không biết diễn đạt theo cách khác bằng lời của mình. Để rèn luyện
cho các em kĩ năng này, tôi đã hướng dẫn HS bằng cách phân tích.
Ví dụ: Xác định nội dung đoạn: “Đứng ngắm cây sầu riêng tôi cứ nghĩ mãi về cái
dáng cây kì lạ này. Thân nó cao vút, cành ngang thẳng đuột, thiếu cái dáng cong,
dáng nghiêng, chiều quằn, chiều lượn của cây xoài, cây nhãn. Lá nhỏ xanh vàng, hơi
khép lại, tưởng như lá héo. Vậy mà khi trái chín, hương tỏa ra ngào ngạt, vị ngọt đến
đam mê”.
* Đoạn văn trên có thể chia làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất gồm ba câu đầu,
nhóm thứ hai có một câu cuối. Đọc câu một, hai, ba HS phải biết “dáng, thân, cành, lá”
tổng hợp thành “vẻ ngoài” hoặc “cái dáng, cái vẻ” của cây sầu riêng. Các từ “khẳng
khiu, thẳng đuột…khép lại tưởng như lá héo” phải được khái quát lên thành một nghĩa
chung là “xấu xí”. Từ đó rút ra nghĩa chung của ba câu này là dáng vẻ xấu xí của cây
sầu riêng. Nhóm hai là một câu ghép có hai chủ ngữ và hai vị ngữ đó là “hương - vị”,
“tỏa ra ngào ngạt- ngọt đến đam mê”. HS phải tổng hợp thành ý nhỏ là: hương vị độc
đáo của quả sầu riêng. Hai nhóm được nối bằng từ “vậy mà” thể hiện một cách lập
luận đối lập càng tăng thêm sự kì lạ của hương vị sầu riêng.
* Sau đó HS có thể nêu ý của đoạn là: mặc dù hình dáng xấu xí nhưng sầu riêng
có hương vị rất độc đáo và quyến rũ.
11
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
Ngoài ra đọc diễn cảm cũng là một thao tác giúp HS hiểu sâu sắc hơn ý của đoạn
(nhất là với văn bản nghệ thuật). Lúc này nhờ âm thanh- các ý, tình của tác phẩm được
vang lên; HS sẽ hứng thú hơn với nội dung của đoạn và hiểu được đoạn đó muốn biểu
đạt điều gì. Các em mới cảm nhận được hết tư tưởng, tình cảm của tác giả gửi gắm qua
bài tập đọc. Từ đó HS nhận ra nội dung một cách dễ dàng hơn.
1.4. Giúp HS nắm vững câu hỏi ( bài tập tìm hiểu bài):
Để giúp các em trả lời tốt các câu hỏi và làm tốt các bài tập (SGK), bản thân tôi đã
áp dụng các biện pháp như:
- Cho HS đọc thầm câu hỏi (bài tập) rồi trình bày lại- nếu là những câu hỏi (bài
tập) dễ. Đồng thời GV cần giải thích thêm cho rõ yêu cầu của câu hỏi (bài tập)- nếu HS
chưa định hướng, chưa xác định rõ yêu cầu của câu hỏi (bài tập).
- Có thể thay thế hoặc tách câu hỏi (bài tập) khó, diễn đạt dài dòng thành một số câu
hỏi (bài tập) nhỏ hoặc bổ sung câu hỏi phụ để HS dễ thực hiện. (Mục đích làm giảm độ
khó của câu hỏi nhưng cũng cần lưu ý: tránh đặt thêm những câu hỏi không phù hợp
với chủ điểm học tập hoặc vượt quá khả năng nhận thức của các em).
Ví dụ:
- Bài “Người ăn xin” TV4, tập 1:
Câu hỏi 1: Hình ảnh ông lão đáng thương như thế nào? Các em thường đọc cả đoạn
văn để trả lời chứ không chịu phát huy năng lực tư duy của bản thân. Vì vậy cần thay
bằng câu hỏi: Tìm những từ ngữ miêu tả ông lão ăn xin? Em có nhận xét gì về ông
lão?
- Bài: “Nếu chúng mình có phép lạ”.
Câu hỏi 1: Câu thơ nào được lặp lại nhiều lần trong bài? Việc lặp lại nhiều lần
câu thơ ấy nói lên điều gì?
12
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
Cần chuyển như sau: Việc lặp lại câu thơ “Nếu chúng mình có phép lạ” ở đầu
mỗi khổ thơ và khổ thơ cuối nói lên điều gì? Đánh dấu x vào câu em chọn là đúng:
Đây là những ước mơ thiết tha của các bạn nhỏ.
Nhằm để các bạn nhỏ mau thuộc bài.
Nhằm để các bạn nhỏ chú ý đến bài thơ.
………
1.5. GV tổ chức cho HS trả lời câu hỏi( thực hiện bài tập) tìm hiểu bài:
Đây là vấn đề quan trọng nhất trong phần hướng dẫn HS tìm hiểu bài. Để đạt
hiệu quả cao, GV cần phải quan tâm tới cách tổ chức có hệ thống, lô gíc. GV phải đưa
ra được các phương pháp, hình thức dạy học phù hợp với từng bài dạy cũng như phù
hợp với từng đối tượng HS mình phụ trách. Đặc biệt với bài dài, bài có nhiều từ mang
tính nghệ thuật cao hoặc khó hiểu. Các biện pháp tôi đã áp dụng là:
- Tổ chức HS làm việc cá nhân (đối với những câu hỏi, bài tập dễ). Yêu cầu HS
hoạt động theo nhóm đôi, nhóm bàn, nhóm lớn, theo dãy, theo tổ…để trả lời câu hỏi
hoặc thực hiện bài tập (đối với những câu hỏi, bài tập khó hơn).
- Tổ chức cho HS báo cáo kết quả bằng nhiều hình thức phong phú, sinh động
khác nhau như: nêu miệng, thi đua tiếp sức, bảng con, bảng phụ, hoặc trên những đồ
dùng dạy học tự làm…
- GV có thể trao đổi hoặc sửa lỗi cho HS, hoặc tổ chức để HS giải đáp thắc mắc
cho nhau, bổ sung góp ý cho nhau, đánh giá lẫn nhau trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ tìm hiểu bài.
- Để gây hứng thú cho học sinh, làm cho giờ học sôi nổi hơn, giáo viên có thể tổ
chức cho học sinh tham gia một số Trò chơi học tập theo nguyên tắc: “Học mà chơi,
chơi mà học”. Thông qua các hình thức tổ chức hoạt đoọng vui chơi, học sinh được vui
chơi được củng cố các kiến thức đã học, tạo điều kiện cho học sinh được rèn kĩ năng
giao tiếp, kĩ năng nghe - nói. Từ đó kích thích khả năng ứng xử ngôn ngữ của học sinh.
13
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
Rèn tư duy linh hoạt, tác phong nhanh nhẹn, tháo vát, tự tin cho học sinh. Giáo dục tư
tưởng lành mạnh, tình cảm tốt đẹp cho học sinh (qua các tổ chức mang tính tập thể).
Một số trò chơi đa dạng về hình thức như: Thi đọc tiếp sức, thả thơ, đọc bài
truyền điện, đọc đúng đọc hay, đọc hiểu, giải ô chữ Tuỳ từng bài mà giáo viên lựa
chọn trò chơi cho phù hợp.
- GV sơ kết, tổng kết ý kiến của HS và có thể ghi bảng những nội dung cần thiết.
1.6. Giúp HS tìm ra nội dung chính của bài:
Việc đọc hiểu chỉ xem là hoàn tất khi HS đã nắm nội dung chính của toàn văn bản.
Lúc này HS phải hiểu được nội dung văn bản như một chỉnh thể. Để có kĩ năng làm rõ
nội dung chính của văn bản, bằng những phương pháp và hình thức khác nhau, GV yêu
cầu HS phải làm các công việc như sau:
- Ghi nhớ sự kiện chính, ý chính của từng đoạn.
- Tổng hợp ý chính của các đoạn theo lập luận của người viết thành ý chung cả bài.
- Phát biểu ý chung này dưới dạng một vài câu mà lõi thông báo của câu là nội
dung tổng quát của toàn văn bản.
Ví dụ:
- Bài “Ăng - co Vát” TV4, tập 2. HS chỉ cần dựa vào câu chủ đề để phát hiện nội
dung chính: Ăng-co Vát là một công trình kiến trúc và điêu khắc tuyệt diệu của nhân
dân Cam-pu-chia. Vì bài đọc được viết theo thể diễn dịch.
- Bài “Ông Trạng thả diều” TV4, tập 1. Sau khi hướng dẫn HS trả lời các câu hỏi,
bài tập (SGK), để rút ra được nội dung chính của bài, tôi đã đưa ra câu hỏi: Câu
chuyện ca ngợi ai? Ca ngợi về điều gì?; …
HS suy nghĩ cá nhân, nêu ý kiến và nhận xét, bổ sung. GV kết hợp ghi bảng nội
dung bài.
* Một số vấn đề giáo viên cần lưu ý khi Rèn đọc hiểu cho học sinh:
14
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
- Khi giao tiếp với học sinh người giáo viên Tiểu học luôn có thái độ nâng đỡ,
khích lệ, thông cảm, luôn luôn nhấn mạnh vào thành công của trẻ. Có khả năng biết
kiềm chế khả năng đồng cảm với học sinh, khả năng làm việc kiên trì, tỉ mỉ, có khả
năng biết tổ chức quá trình dạy học kết hợp với vui chơi.
- Người giáo viên Tiểu học phải nắm được đặc điểm của học sinh, hình dung
thấy những khó khăn của các em khi học đọc để bình tĩnh trước những sai sót của các
em khi đọc, không ca thán trước lỗi phát âm, những cách hiểu sai trong khi đọc, những
lỗi tưởng như lạ lùng với người lớn nhưng lại là bình thường ở trẻ em.
- Giáo viên cần chú ý luyện tập để có ngôn ngữ chuẩn, trong sáng, dễ hiểu,
truyền cảm. Người thầy phải đọc được bài tập đọc đúng với giọng cần thiết, đúng với ý
của văn bản nghĩa là phải tạo được hình mẫu đọc lí tưởng cho học sinh theo.
- Đối với những câu hỏi trong bài học khi hướng dẫn học sinh trả lời, giáo viên
phải nắm được mục đích, ý nghĩa cơ sở xây dựng câu hỏi mà biết cách giải chính xác
bài tập, biết trình tự quá trình giải bài tập để hướng dẫn cho học sinh.
- Trong giờ dạy giáo viên cần nêu câu hỏi một cách chậm rãi, rõ ràng, có một số
trường hợp phải điều chỉnh câu hỏi của sách giáo khoa, có thể cắt nhỏ câu hỏi cho phù
hợp với đối tượng học sinh. Khi nêu câu hỏi, bài tập phải chú ý đến sự phân hoá câu
hỏi cho phù hợp đối tượng. Những câu hỏi mà học sinh còn lúng túng giáo viên cần
hướng dẫn tỉ mỉ. Với những học sinh yếu cần có câu hỏi gợi mở.
- Khi dạy hiểu văn chương, giáo viên cần tôn trọng những cảm xúc, cảm nhận,
suy nghĩ tuy còn thơ ngây, non nớt, nhưng rất riêng của học sinh, không gò ép các em
hiểu theo cách duy nhất hoặc nói theo lời lẽ của giáo viên. tôn trọng cái riêng của học
sinh trong giờ học, nên có những bài tập yêu cầu học sinh nêu những từ ngữ, hình ảnh,
tình tiết mà mình thích nhất và cho các em tập lý giải vì sao mình lại thích những từ
ngữ, hình ảnh, tình tiết đó. Nên đưa ra các câu hỏi hay bài tập có tính phản hồi, các câu
hỏi " Vì sao? tại sao? " để đánh giá cũng như kích thích sự suy nghĩ của học sinh.
15
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
- Giáo viên cần có khả năng tự xác định mục tiêu, nội dung dạy đọc, tự cảm
nhận bài đọc, từ đó mới chủ động tiến hành bài dạy để đạt được kết quả tốt của giờ
học.
- Hướng dẫn đọc cần lưu ý hướng học sinh tìm những câu văn quan trọng nêu ý
của toàn đoạn hoặc bài. Ví dụ câu: "Ôi chao! chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm
sao!" ngay câu đầu của bài đã thể hiện nội dung bao trùm của bài : Giới thiệu về vẻ
đẹp của con chuồn chuồn nước mà những câu sau sẽ diễn giải cho điều đó. Trong tìm
hiểu nội dung của bài cần chú ý tìm ra, và khai thác giá trị của những từ "Đắc", từ
"Chìa khoá " của bài để bật lên nội dung. Ví dụ trong đoạn thơ:
"Bè đi chiều thầm thì
Gỗ lượn đàn thong thả
Như bầy trâu lim dim
Đằm mình trong êm ả".
( Bè xuôi sông La - TV4)
Các từ láy" thầm thì", " thong thả", "lim dim", "êm ả" dùng rất “đắt”, có giá
trị đặc tả một buổi chiều êm ả, thơ mộng thanh bình của dòng sông La. Hay các hình
ảnh ẩn dụ: "nụ ngói hồng", "hoa lúa trổ", "khói nở xoà như bông" Hiện lên trong
cảnh "đạn bom đổ nát" gợi tả cảnh tái thiết đất nước trong một ngày mai thắng trận.
Tinh thần lạc quan tin tưởng sáng bừng vần thơ:
" Trong đạn bom đổ nát
Bừng tươi nụ ngói hồng
Đồng vàng hoa lúa trổ
Khói nở xoà như bông
( Bè xuôi sông La - TV4).
Ngắt giọng đúng và hay là đích của dạy đọc và cũng là một trong những phương
tiện để dạy tiếp nhận, chiếm lĩnh văn bản.
16
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
- Khi hướng dẫn đọc thơ,hướng dẫn ngắt nhịp phải tính đến nghĩa , chứ không
đọc theo áp lực của nhạc thơ. Nếu không lưu ý về nghĩa thì sẽ ngắt nhịp tạo ra sự cân
đối về mặt âm thanh khi đọc từng câu thơ. Với thơ 4 tiếng, thường ngắt nhịp 2/2, với
thơ 5 tiếng ngắt nhịp 2/3 hoặc 3/2, thơ 7 tiếng ngắt nhịp 3/4 hoặc 4/3, thơ lục bát sẽ
được ngắt nhịp chẵn 2/2/2 vì vậy sẽ dẫn đến ngắt nhịp sai do không hiểu nghĩa của
từng dòng thơ đối với một số dòng thơ cụ thể. Ví dụ chọn cách ngắt:
Bè đi/ chiều thầm thì
Gỗ/ lượn đàn thong thả.
( Bè xuôi sông La -TV4)
Mà không ngắt: Bè đi chiều/ thầm thì. Để tạo ra 3 cặp chủ - vị làm cho hai câu thơ
sống động hơn với nhiều đối tượng đựơc miêu tả, nhiều hoạt động và không hạn chế
thời gian"Bè đi" vào buổi chiều mà tạo sự kết hợp bất thường"chiều thầm thì", cho
thời gian cất lên thành lời. Cũng như vậy, ta chọn cách ngắt "Sông La/ ơi sông La"
để"ơi" được ngân dài tha thiết, mà cách ngắt 3/2 không được hay như thế.
- Khi dạy đọc câu văn dài, cần hiểu rõ nội dung để hướng dẫn ngắt, nghỉ, nhấn
giọng, ngừng giọng, hạ giọng, lên giọng, kéo dài giọng thể hiện tình cảm của bài. Ví dụ
thể hiện sự hồi hộp, căng thẳng: " Bỗng/ từ trên cây cao gần đó/ một con sẻ già có bộ
ức đen nhánh lao xuống như hòn đá/ rơi trước mõm con chó."
Con sẻ - TV4)
Thể hiện giọng ngạc nhiên thán phục: "Ôi chao !/ Chú chuồn chuồn nước/ mới
đẹp làm sao !".
( Con chuồn chuồn nước - TV4)
- Để nâng cao chất lượng giờ dạy tập đọc cần tận dụng không gian lớp học, sử
dụng, các phương tiện dạy học như đồ dùng trực quan, các phiếu học tập, các băng
hình, băng tiếng Vận dụng đồng bộ các hình thức tổ chức dạy học như dạy học cá
nhân, theo nhóm, tổ chức trò chơi,
17
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
Tóm lại: Để học sinh hiểu tốt nội dung bài thì giáo viên phải thực hiện tốt khâu
luyện đọc, ít nhất các em phải đọc trôi chảy, ngắt câu chính xác văn bản trước khi tìm
hiểu nội dung văn bản đó thì việc rèn đọc hiểu mới đạt hiệu quả cao.
2. Khả năng áp dụng:
Đề tài này tôi đã xây dựng, thử nghiệm qua nhiều năm giảng dạy và hoàn thành
xong đề tài vào đầu năm học 2012 – 2013.
Với quá trình nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn giảng dạy, tôi thấy đây là một
giải pháp có hiệu quả cao trong việc rèn đọc hiểu cho học sinh lớp 4.Kết quả đọc hiểu
của học sinh bước đầu được nâng cao cả về chất lượng và số lượng. Qua đó, tôi thấy
đây là việc làm thiết thực và hết sức quan trọng để nâng cao chất lượng học tập toàn
diện cho học sinh.
Với giải pháp này có thể áp dụng đại trà trong nhà trường tôi đang công tác và các
trường tiểu học khác.
3. Lợi ích kinh tế - xã hội
Khi thực hiện các giải pháp này góp phần vào việc nâng cao chất lượng học
tập của học sinh về môn Tiếng Việt, ở phần kiểm tra kết quả giúp học sinh khẳng định
thêm sự tin tưởng của mình vào bài làm. Việc vận dụng nó một cách thường xuyên đã
rèn luyện cho học sinh óc tưởng tượng, phán đoán, ghi nhớ, Trẻ có khả năng sử dụng,
tiếp thu các nguồn thông tin một cách nhanh chóng để cùng giao tiếp và học tập Giải
pháp này tác động mạnh mẽ trong giáo dục mĩ cảm, học sinh yêu cái đẹp, rung cảm
trước cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong xã hội, cái đẹp trong văn chương, gây
hứng thú trong việc học nhất là đối với các em khá giỏi và nhạy bén.
Kết quả cho thấy các giải pháp trên rất phù hợp với học sinh, giúp các em có
cảm thụ sâu sắc hơn nội dung bài và có thói quen chuẩn bị bài tốt trước khi đến lớp.
18
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
C: KẾT LUẬN
1. Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp.
Qua nghiên cứu, thực hành dạy đọc hiểu trong giờ Tập đọc cho học sinh lớp 4
theo chương trình và sách giáo khoa mới tôi nhận thấy:
Để có một giờ dạy Tập đọc nói chung và phần Rèn đọc hiểu nói riêng được “
Nhẹ nhàng, tự nhiên và hiệu quả ”, theo tôi mỗi giáo viên chúng ta cần:
- Phải đủ tự tin
- Am hiểu đầy đủ nội dung kiến thức, kĩ năng của từng loại bài văn, bài thơ cần
truyền thụ.
- Biết kích thích, khêu gợi tư duy độc lập, phát huy hết năng lực tìm tàng của mỗi
bản thân học sinh.
- Trong từng tiết dạy người giáo viên phải có khả năng ứng xử sư phạm tốt, luôn tạo
không khí sôi nổi thân mật giữa thầy và trò.
- Không có con đường nào khác để dẫn đến giờ tập đọc cũng như việc Rèn đọc hiểu
thành công là sự phấn đấu của bản thân, sự rèn luyện đầu tư nghiên cứu để thiết kế bài
giảng có chất lượng, phù hợp với đối tượng của lớp mình.
- Giáo viên thường xuyên quan tâm, uốn nắn để kĩ năng đọc – nói và trả lời của học
sinh. Đánh giá, nhận xét và tuyên dương kịp thời để khích lệ việc học tập. Để từ đó,
các em có lòng say mê hơn trong học tập.
19
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
2. Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp.
- Kết quả đọc hiểu của học sinh bước đầu được nâng cao cả về chất lượng và số
lượng. Qua đó, tôi thấy đây là việc làm thiết thực và hết sức quan trọng để nâng cao
chất lượng học tập toàn diện cho học sinh.
- Học sinh được phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong giờ học. Các
em có ý thức tự giác trong việc tự phát hiện, tìm tòi nội dung kiến thức mới. Mặt khác,
các em còn thi đua đọc hay, đọc đúng và đọc hiểu để từ đó có điều kiện giao tiếp và
học giao tiếp.
Qua tìm tòi, nghiên cứu và vận dụng một số giải pháp Rèn đọc hiểu cho học
sinh đã nêu trên, tôi thấy chất lượng đọc và hiểu của các em ngày càng được nâng cao.
Dạy cho học sinh đọc tốt, hiểu sâu người giáo viên sẽ tiếp thêm một phương tiện để
các em khám phá ra cái hay, cái đẹp của văn chương và cuộc sống. Từ đó vốn tri thức
của các em giàu hơn và chính là nền tảng vững chắc để học tốt môn Tiếng Việt ở các
lớp trên.
3. Đề xuất, kiến nghị.
3.1. Đối với Phụ huynh:
- Mua đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập cho học sinh.
- Thường xuyên quan tâm đến việc học của con em mình, nhất là phần luyện đọc và
soạn bài.
3.2. Đối với giáo viên:
- Giáo viên phải chuẩn bị kĩ bài soạn trước khi lên lớp. Cần chú ý luyện tập để có
ngôn ngữ chuẩn, trong sáng, giọng đọc truyền cảm.
- Hệ thống câu hỏi trong SGK cần bổ sung những câu hỏi mang tính chất phản hồi
nhằm khắc sâu kiến thức, kích thích sự tìm tòi sáng tạo cho học sinh.
- Làm tốt công tác bồi dưỡng giáo viên dưới nhiều hình thức, cung cấp tài liệu, sách
giáo khoa, sách tham khảo.
20
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
3.2. Đối với Nhà trường:
- Tạo điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học phục vụ cho hoạt động
day - học.
-Tổ chức các buổi giao lưu, thi đọc hay, đọc diễn cảm để động viên phong trào rèn
đọc cho học sinh.
- Tổ chức hội thảo, chuyên đề trong tổ chuyên môn để phân tích thống nhất điều
chỉnh phương pháp đổi mới cho phù hợp với nhận thức của học sinh trong trường.
Trên đây là một vài kinh nghiệm mà bản thân tôi đã đúc kết được trong suốt quá trình
giảng dạy ở chương trình lớp 4. Tôi rất mong được sự góp ý chân thành của quý đồng
nghiệp và các cấp lãnh đạo để tôi có thêm những kinh nghiệm cho chuyên môn cũng
như phương pháp sư phạm giúp tôi phục vụ cho ngành được tốt hơn./.
21
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
Ý kiến của Hội đồng xét duyệt cấp Trường
22
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
Ý kiến của Hội đồng xét duyệt Ngành GD - ĐT Hoài Nhơn
23
SKKN: RÈN ĐỌC HIỂU CHO HỌC SINH LỚP 4
24