TÊN ĐỀ TÀI:
RÈN KĨ NĂNG THỰC HIỆN PHÉP NHÂN SỐ TỰ NHIÊN
CHO HỌC SINH LỚP 3
Nguyễn Thị Vân
Trường Tiểu học Bồng Sơn
A/ MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải quyết
- Trong chương trình Tiểu học, lớp 3 là lớp kết thúc giai đoạn đầu của bậc
tiểu học và chuẩn bị xây dựng nền móng toán học tiếp giai đoạn sau. Cho nên học
sinh phải nắm thật chắc cơ sở ban đầu về kĩ năng tính toán bốn phép tính: cộng,
trừ, nhân, chia trong phạm vi 100, 1000, 10000, 100000. Vì bốn phép tính này
được sử dụng hầu hết vào các khâu trong quá trình tính toán và được ứng dụng rất
nhiều trong đời sống. Như vậy, phép nhân cũng là một trong những phép tính đóng
vai trò chủ đạo trong tuyến kiến thức số học. Nó góp phần giúp học sinh học tốt
môn Toán.
- Tuy nhiên, trong quá trình dạy toán, tôi thấy vẫn còn không ít học sinh
chưa nắm chắc các kĩ năng trên do nhiều nguyên nhân như : đặc điểm tâm lí lứa
tuổi, tính vội vàng hấp tấp, sự đơn giản hoá các vấn đề, Từ đó các em làm toán
còn mắc nhiều sai sót dần dần các em ngại học toán, học yếu toán.
Bên cạnh đó, việc giảng dạy của giáo viên đôi khi còn chưa thật sự cải tiến
phương pháp, còn trung thành giảng dạy theo khuôn mẫu sách hướng dẫn, sách
giáo khoa và còn ít chú ý đến việc phát huy khả năng sáng tạo của học sinh.
- Xuất phát từ tình hình thực tế trên, tôi mong muốn tìm ra những giải pháp
nhằm giúp học sinh nắm chắc kiến thức và thành thạo kĩ năng thực hiện phép tính
nhân các số tự nhiên để góp phần giúp các em học tốt môn toán hơn.
- 1 -
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới
Khắc phục những tồn tại sai lầm của học sinh trong giải toán, nhất là thực
hiện phép tính nhân số tự nhiên cho học sinh lớp 3, tạo tiền đề cơ sở cho học sinh
ở các lớp học tiếp theo.
Rèn cho học sinh thành thạo kĩ năng tính toán; đặc biệt là phép tính nhân.
Từ đó, học sinh được hoàn thiện kĩ năng giải các dạng toán có liên quan như: tính
diện tích; gấp một số lên nhiều lần … Qua đó, từng bước hình thành tư duy học
Toán và niềm say mê học Toán của học sinh.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
+ Kĩ năng thực hiện tính nhân các số tự nhiên trong chương trình Toán lớp 3.
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn có tính định hướng cho việc nghiên cứu, tìm
giải pháp của đề tài
1.1. Cơ sở lí luận
- Chúng ta đều biết, trong chương trình tiểu học, cùng với môn Tiếng Việt,
môn Toán góp phần hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng ở
nhân cách con người. Môn toán hỗ trợ các môn học khác và được ứng dụng nhiều
trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra những kiến thức và kĩ năng của môn Toán ở
tiểu học còn rất cần thiết để chuẩn bị học tiếp ở các bậc học trên.
- Chương trình Toán lớp 3 góp phần thực hiện đổi mới về giáo dục toán học
ở tiểu học nhằm đáp ứng những yêu cầu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
- Lớp 3 là lớp kết thúc giai đoạn đầu của bậc tiểu học, do vậy cần phải chuẩn
bị đầy đủ kiến thức cơ sở để học sinh học tốt giai đoạn cuối của bậc tiểu học và
làm nền tảng cho bậc học trên.
- Kiến thức môn Toán hỗ trợ cho các môn học khác và phục vụ trực tiếp đời
sống hàng ngày.
- 2 -
1.2. Cơ sở thực tiễn
- Ở lớp 3, cùng với việc học các phép tính cộng, trừ, học sinh còn phải học
tiếp phép nhân. Trên thực tế của lớp tôi, còn có nhiều em học chậm và lúng túng ở
kiến thức này do nhiều nguyên nhân.
- Thực tế, trong từng tiết dạy, để giúp học sinh nắm chắc kiến thức này là
một vấn đề không dễ.
- Đặc điểm ở các em thường đơn giản hoá vấn đề, hấp tấp, cẩu thả trong làm
bài.
- Tuy cùng độ tuổi nhưng khả năng nhận thức, sự phát triển tư duy cũng như
trí nhớ của các em không đồng đều. Còn một số em học chậm nhớ mà nhanh quên.
Kĩ năng tính toán của các em còn nhiều sai sót. Không ít em còn quên bảng nhân,
việc thực hiện phép nhân số có nhiều chữ số với số có một chữ số có nhớ hai, ba
lần nhưng các em chỉ nhớ lần đầu mà quên không nhớ các lần tiếp theo. Hoặc phép
nhân có nhớ nhiều hơn 1 thì các em thường chỉ nhớ 1
- Các em còn nhỏ, ham chơi, khả năng tập trung còn hạn chế. Phụ huynh ít
quan tâm đến việc học và chuẩn bị bài ở nhà. Từ đó bài vở của các em không được
chu đáo làm ảnh hưởng đến việc học trên lớp.
2. Các biện pháp tiến hành và thời gian tạo ra giải pháp
* Các biện pháp tiến hành:
+ Phân tích kết quả các bài giải của học sinh tìm hiểu nguyên nhân và điều
chỉnh khắc phục
+ Trao đổi học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp
+ Tham khảo nghiên cứu các tài liệu có liên quan trên mọi phương tiện
thông tin.
Từ đó, đúc kết rút ra kinh nghiệm và vận dụng có điều chỉnh bổ sung kịp
thời.
* Thời gian tiến hành tạo ra giải pháp: Từ năm học 2008 – 2009 đến nay.
- 3 -
B/ NỘI DUNG
I. MỤC TIÊU
Đề tài: “RÈN KĨ NĂNG THỰC HIỆN PHÉP NHÂN SỐ TỰ NHIÊN
CHO HỌC SINH LỚP 3”
- Phân tích tình hình thực tại, xác định những hạn chế sai sót của học sinh
trong khi thực hiện tính nhân như đặt tính (khi thực hiện cột dọc); thực hiện sai qui
trình ….
- Trình bày các giải pháp giúp học sinh khắc phục. Qua đó, rèn kĩ năng cho
học sinh khi thực hiện phép nhân số tự nhiên. (Có ví dụ minh họa).
- Thông qua đề tài đề xuất, hệ thống các dạng loại bài tập khi thực hiện giải
toán có liên quan đến tính nhân.
- Đề tài được hình thành, tạo giải pháp thông qua việc thực nghiệm phân
tích các kết quả từng giai đoạn.
- Thông qua đề tài trong quá trình rèn kĩ năng, giáo dục tính tỉ mỉ, cẩn thận
chính xác khoa học trong quá trình giải toán. Từ đó hình thành và phát triển năng
lực Toán cho học sinh.
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI
1. Thuyết minh tính mới
Nội dung và giải pháp dạy học để rèn kĩ năng thực hành phép nhân cho học
sinh lớp 3:
Nội dung chủ yếu:
+ Nhân trong bảng: Các bảng nhân 6, 7, 8, 9.
+ Phép nhân ngoài bảng (tính viết): Nhân số có 2, 3, 4, 5 chữ số với số có
một chữ số trong phạm vi 100, 1000, 10000, 100000.
+ Nhân nhẩm.
Giải pháp dạy học để rèn kĩ năng thực hành phép nhân:
- 4 -
- Dạy học phép nhân thường áp dụng các phương pháp truyền thống như:
trực quan, giảng giải, minh hoạ, luyện tập - thực hành, gợi mở - vấn đáp. Đây vẫn
là những phương pháp mang lại hiệu quả cao nếu biết sử dụng đúng lúc, đúng chỗ.
Trong đó, để hình thành khái niệm phép nhân, lập các bảng tính thì phương pháp
trực quan, giảng giải - minh hoạ (nhất là giai đoạn đầu) đóng vai trò chủ yếu. Để
rèn kĩ năng tính thì phương pháp chủ yếu là luyện tập - thực hành, cụ thể:
* Đối với phép tính nhân trong bảng:
- Chúng ta điều biết, nhiệm vụ cơ bản, trọng tâm của việc dạy phép nhân ở
lớp 3 là trước hết giúp học sinh có kĩ năng thực hiện tốt nhân trong bảng. Phép
nhân là phép tính khó đối với học sinh cho nên giáo viên phải coi trọng việc hình
thành khái niệm phép tính, cách thực hiện phép tính. Hơn nữa học sinh tính nhẩm
nhân trong bảng tốt thì sẽ rất thuận lợi cho quá trình thực hiện nhân ngoài bảng.
Do vậy, giáo viên phải làm tốt các khâu sau:
Trước khi học phép tính mới (phép nhân), học sinh đều có giai đoạn chuẩn
bị. Đây là cơ sở cho việc hình thành kiến thức mới, cầu nối giữa kiến thức đã học
và kiến thức sẽ học. Vì vậy, khi dạy các bài học trong giai đoạn này, giáo viên cần
chuẩn bị tốt kiến thức cho học sinh để làm cơ sở vững chắc cho các em học những
kiến thức mới tiếp theo, cụ thể là :
+ Học sinh được học bài "Tổng của nhiều số" trước khi học "Phép nhân". Ở
đây học sinh được tính tổng các số hạng bằng nhau. Giáo viên phải lưu ý để nhận
ra các tổng này đều có các số hạng bằng nhau để giúp học sinh học bài phép nhân,
tính kết quả của phép nhân trong các bảng nhân (nhất là bảng nhân đầu tiên).
Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong từng giai đoạn lập bảng nhân là hết
sức quan trọng. Kĩ thuật chung của nhân trong bảng là: học sinh thao tác trên các
tấm bìa có các chấm tròn. Tuy nhiên mức độ trực quan không giống nhau ở mỗi
giai đoạn. Ở lớp 3 (học kì I), học sinh tiếp tục học bảng nhân 6, 7, 8, 9. Lúc này,
các em đã có kinh nghiệm sử dụng đồ dùng học tập, đã quen và thành thạo với
cách xây dựng phép nhân từ những miếng bìa. Hơn nữa, lên lớp 3 trình độ nhận
thức của học sinh phát triển hơn trước. Nên khi hướng dẫn học sinh lập bảng nhân,
giáo viên phải tăng dần mức độ khái quát để kích thích trí tưởng tượng, phát triển
tư duy cho học sinh.
- 5 -
Chẳng hạn: Giáo viên không lập các phép tính như lớp Hai mà chỉ nêu lệnh
để học sinh thao tác trên tấm bìa với các chấm tròn để lập 3, 4 phép tính trong
bảng. Các phép tính còn lại học sinh phải tự lập dựa vào phép đếm thêm hoặc dựa
vào các bảng nhân đã học.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh lập bảng nhân 6, giáo viên yêu cầu học
sinh sử dụng các tấm bìa , mỗi tấm bìa có 6 chấm tròn để lập các phép tính :
6 × 1 = 6
6 × 2 = 12
6 × 3 = 18
Sau đó học sinh nhận xét để từ 6 × 2 = 12 Suy ra 6 × 3 = 18.
Cụ thể là: Với 3 tấm bìa, học sinh nêu: "6 lấy 3 lần, ta có 6 × 3"
Mặt khác, cũng từ 3 tấm bìa này ta lấy 6 × 3 cũng chính là 6 × 2 + 6.
Vậy 6 × 2 + 6 = 18.
Bằng cách như vậy, học sinh có thể không dùng các tấm bìa mà vẫn tìm
được kết quả của phép tính:
6 × 4 = 6 × 3 + 6 = 24
6 × 5 = 6 × 4 + 6 = 30
Hoặc dựa trên bảng nhân đã học:
6 × 4 = 4 × 6 = 24
6 × 5 = 5 × 6 = 30
Như vậy, sử dụng phương pháp dạy học hợp lí không chỉ giúp học sinh nắm
chắc kiến thức mà còn phát triển tư duy rất nhiều.
- Sau đó, để học sinh thực hiện tốt nhân trong bảng thì giáo viên dựa vào
đặc điểm lứa tuổi của các em (nhất là ở giai đoạn đầu), có khả năng ghi nhớ rất tốt.
Đây là điều kiện thuận lợi, là cơ sở để giáo viên tổ chức cho học sinh học thuộc
các bảng nhân bằng cách cho các em đọc đi, đọc lại nhiều lần. Tái hiện các phép
tính nhiều lần bằng cách cho học sinh thường xuyên làm bài, giáo viên theo dõi,
kiểm tra liên tục. Tổ chức cho học sinh tự kiểm tra việc ghi nhớ bảng nhân lẫn
nhau trong lớp. Đây là việc làm cần thiết vì học sinh nhớ được bảng nhân thì mới
có đủ cơ sở thực hiện phép tính nhân ngoài bảng.
* Đối với phép tính nhân ngoài bảng:
- 6 -
- Đối với nhân ngoài bảng, phương pháp chủ yếu là làm mẫu, luyện tập –
thực hành trên các ví dụ cụ thể .
- Trong quá trình hình thành các phép nhân, sau khi giảng giải - hỏi đáp,
giáo viên cho học sinh nhắc lại hoặc tự rút ra kiến thức mới. Như vậy, học sinh sẽ
khắc sâu kiến thức và nắm bài chắc hơn.
- Trong quá trình thực hiện tính nhân học sinh thường mắc các sai lầm như:
đặt sai phép tính (lệch cột, …) quên nhớ hoặc thực hiện nhớ sai trong các bài tính
có nhớ.
- Khi rèn luyện học sinh thực hành cần đi từ dễ đến khó từng bước rèn
luyện, khắc phục những sai lầm.
Thông thường ban đầu học sinh được làm quen với kĩ năng thực hiện phép
tính nhân ngoài bảng bằng hoạt động thực hành trên những bài toán đơn giản
(không nhớ).
+ Với các bài tập này khi giải bài tập này đại đa số học sinh đều có kết quả
đúng. Nhưng có một số học sinh thực hiện đặt tính sai hoặc thực hiện tính sai thứ
tự; nếu chúng ta không chú ý điều chỉnh thì “vô hình chung” tạo lỗ hỏng kĩ năng
cho học sinh mà về sau khó sửa được.
Ví dụ: Thực hiện tính: 1034 x 2
+ Đại đa số học sinh trả lời được kết quả đúng (2068), nhưng có thể học
sinh đặt sai phép tính. Chẳng hạn 1034 hoặc thực hiện tính sai thứ tự như: lấy 2
× 2
nhân 1,
Giáo viên cho học sinh nhắc lại, củng cố lại: cách đặt tính như thế nào?
Thực hiện phép nhân theo thứ tự ra sao? Cách viết kết quả như thế nào? Giáo
viên thường xuyên củng cố trong suốt quá trình học sinh luyện tập thực hành. Từ
đó học sinh sẽ nắm chắc được cách đặt tính và tính. Khi thực hiện tính nhân (đặt
tính cột dọc), giáo viên cần phân tích và thực hiện mẫu hoặc nhắc lại khi sửa sai,
qui trình thực hiện tính nhân:
- 7 -
* Đặt tính:
- Chọn thừa số có nhiều chữ số viết trước. Thừa số còn lại viết bên dưới
theo nguyên tắc: hàng đơn vị đến hàng chục; … và các số cùng hàng viết thẳng cột
với nhau.
* Thực hiện nhân:
- Lấy hàng đơn vị của thừa số thứ hai (thừa số xếp dưới) nhân cho thừa số
thứ nhất (thực hiện từ phải sang trái). Với các phép nhân có nhớ lưu ý có nhớ
được cộng vào tích khi nhân với số liền kề bên trái. Kết quả được tích cần tìm.
- Đặc biệt giáo viên phải bám sát, theo dõi từng bước thực hiện tính của học
sinh phát hiện lỗi sai để có biện pháp sửa sai kịp thời.
Khi nhân số có nhiều chữ số với số có một chữ số có nhớ hai, ba lần liên
tiếp, học sinh thường chỉ nhớ một lần đầu tiên mà quên nhớ các lần tiếp theo.
Ví dụ :
1917 mà thực ra kết quả đúng là: 1917
× 4 × 4
4668 7668
Hoặc trong phép nhân có nhớ nhiều hơn 1 (nhớ 2, 3, ), học sinh chỉ nhớ 1
2913 mà thực ra kết quả đúng là: 2913
× 4 × 4
9652 11652
+ Cách khắc phục: Giáo viên khắc phục cho học sinh đối với hai lỗi trên
bằng cách: Yêu cầu các em nhẩm thầm trong khi tính (vừa tính vừa nhẩm) và viết
số cần nhớ ra lề phép tính rồi nhớ cộng số nhớ vào lần nhân tiếp theo. Giáo viên
nhắc một cách thường xuyên để học sinh thành thói quen khi tính.
- Để giúp học sinh khắc sâu và rèn luyện thành thạo kĩ năng thực hiện các
phép tính nhân có nhớ giáo viên cần để lại niềm tin trong quá trình giải mẫu. Câu
hỏi mà nhiều học sinh còn phân vân đặt ra khi thực hiện phép tính là: Vì sao phải
nhớ? Số nhớ đó là gì? Do đó, khi thực hiện mẫu giáo viên cần thực hiện và giải
thích chi tiết từng thao tác một. Việc làm này giúp học sinh nhất là ở độ tuổi lớp
Ba nắm chắc và tin tưởng vào kiến thức cũng như kĩ năng mình lĩnh hội được. Từ
- 8 -
đó từng bước hình thành thói quen và phát triển tư duy cho học sinh. Chẳng hạn:
Thực hiện tính: 8719 × 4
- Đặt tính theo cột dọc: Chú ý nhắc lại quan hệ cùng cột với các chữ số cùng
hàng (chữ số 4 cùng cột với chữ số 9).
8719
× 4
- Thực hiện tính nhân từng hàng:
4 nhân 9 được 36 Thực ra là 3 chục 6 đơn vị nên ghi 6 vào hàng đơn vị 3
vào hàng chục (3 ghi ở dạng nhớ).
4 nhân 1 được 4 Số 1 ở hàng chục nên ta có 4 chục kết hợp với 3 chục
đã nhớ ta có 7 chục nên ghi số 7 vào hàng chục của tích.
- Tương tự như thế ta có kết quả:
8719
× 4
34872
* Đối với phép tính nhân nhẩm:
- Tính nhẩm trong bảng: yêu cầu học sinh dựa vào các bảng nhân mình đã
học thuộc nhẩm nhớ lại để viết kết quả vào phép tính.
Ví dụ: 6 × 6 = 36 7 × 7 = 49 7 × 9 = 63
- Tính nhẩm ngoài bảng: Để hoc sinh làm bài ít sai sót, giáo viên làm tốt
khâu hướng dẫn phân tích mẫu theo sách giáo khoa:
Ví dụ: 2000 × 3 =
Giáo viên làm mẫu:
2000 × 3 = ?
Nhẩm: 2 nghìn × 3 = 6 nghìn
Vậy: 2000 × 3 = 6000
Trên cơ sở bài mẫu giáo viên yêu cầu học sinh nhận xét. Từ đó, rút ra kết
luận: Nhân với 10; 100; 1000; … thì viết lại số đó và thêm vào bên phải 1; 2; 3;…
chữ số 0. Đây là tiền đề; cơ sở để thực hiện các bài tính nhẩm cũng như hình thành
kĩ năng tính nhẩm cho học sinh.
- 9 -
+ Đối với học sinh khá, ta có thể khai thác nhằm củng cố rèn luyện kỹ năng
tính nhẩm qua các bài tập mức độ cao hơn. Chẳng hạn:
Thực hiện tính nhẩm các phép tính sau:
a/ 2 × 8 × 5
b/ 2 × 18 × 50
c/ 20 × 7 × 500
Với các bài tính này, ta định hướng cho học sinh thay đổi vị trí các thừa số
trong dãy tính để đưa về tính nhân với số tròn chục; tròn trăm; tròn nghìn.
a/ 2 × 8 × 5 = 8 × 2 × 5 = 8 × 10 = 80
b/ 2 × 18 × 50 = 18 × 2 × 50 = 18 × 100 = 1800
c/ 20 × 7 × 500 = 7 × 20 × 500 = 7 × 10000 = 70000
+ Đối với học sinh giỏi ta có thể tiếp tục nâng cao với các bài tính dạng:
a/ 17 × 2 + 17 × 8 = 17 × (2 + 8) = 17 × 10 = 170
b/ 8 × 27 + 23 × 8 = 8 × (27 + 23) = 8 × 50 = 400
Ngoài ra, để rèn kĩ năng thực hiện phép nhân, tôi còn thực hiện các giải
pháp sau:
- Trong từng buổi học, giáo viên thường xuyên sử dụng phương pháp luyện
tập - thực hành trong quá trình rèn luyện kĩ năng thực hiện phép nhân các số tự
nhiên cho học sinh bằng nhiều hình thức (nhóm đôi, nhóm lớn, cá nhân).
- Cố gắng dành thêm thời gian kiểm tra bài, chấm chữa bài trực tiếp theo sát
từng đối tượng học sinh để củng cố kiến thức cho phù hợp với từng đối tượng. Từ
đó, lựa chọn bài tập hợp lí cho từng đối tượng học sinh. Như vậy, các em sẽ có
điều kiện rèn luyện kĩ năng tính toán nhân của mình thành thạo hơn và tính nhanh
hơn.
- Trong quá trình luyện tập - thực hành, giáo viên tăng dần mức độ yêu cầu,
độ khó của bài, tạo điều kiện cho học sinh tự tái hiện, vận dụng kiến thức, kĩ năng
sẵn có để làm bài, đồng thời rèn cho học sinh khả năng trừu tượng, khả năng so
sánh, khái quát hoá, tổng hợp hoá, từng bước hình thành và phát triển tư duy toán
cho học sinh.
- 10 -
- Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với phụ huynh trong việc hướng dẫn các
em học ở nhà, giúp các em ôn lại bài đã học trên lớp để nắm vững kiến thức đã
học.
- Đồng thời tổ chức tốt đôi bạn học tập giúp nhau truy bài đầu giờ, giữa giờ.
2. Khả năng áp dụng và lợi ích kinh tế - xã hội
Qua vận dụng vào thực tế ở lớp, tôi thấy đề tài “Rèn kĩ năng thực hiện phép
nhân số tự nhiên cho học sinh lớp 3” có hiệu quả và có khả năng vận dụng được
cho tất cả các đối tượng học sinh đặc biệt là học sinh trung bình và trung bình yếu
môn toán.
Sau một khoảng thời gian vận dụng các phương pháp trên vào thực tiễn giảng
dạy môn Toán lớp 3, tôi nhận thấy học sinh của lớp đã có tiến bộ và từng bước
vươn lên. Cụ thể nhiều học sinh đã thực hiện thành thạo các bài tính nhân và vận
dụng được vào các bài toán giải có liên quan.
- Học sinh hứng thú hơn trong học tập, không còn học sinh chán nản, chay
lười. Từ đó góp phần khắc phục tình trạng học sinh bỏ học vì không theo kịp kiến
thức. Có nhiều học sinh ban đầu chưa nắm vững bảng nhân, kĩ năng thực hiện
phép tính nhân đơn giản còn chậm, nhiều sai sót đã thực hiện được thành thạo tính
nhân và đã có niềm vui hứng thú trong giờ học toán.
Đầu năm học lớp vẫn còn học sinh yếu Toán đến Giữa kì I và Cuối kì I, chất
lượng môn Toán của lớp đạt 100% từ trung bình trở lên, cụ thể :
Tính hiệu quả của đề tài có thể minh chứng qua bảng số liệu sau:
- 11 -
Kết quả bài kiểm tra về phép tính nhân
Năm học TSố
HS
GIỎI KHÁ
TRUNG
BÌNH
YẾU
SL % SL % SL % SL %
2007 – 2008
(Chưa áp dụng SKKN)
33 17 51,52 10 30,30 4 12,12 2 6,06
2008 – 2009
(Thử nghiệm SKKN)
34 19 55,88 11 32,35 3 8,82 1 2,94
2009 – 2010 33 19 57,58 11 33,33 3 9,09 - -
2010 - 2011 32 19 59,38 11 34,38 2 6,25 - -
2011 – 2012 30 20 66,67 9 30,00 1 3,33 - -
Trên đây là những phương pháp hướng dẫn học sinh lớp 3 rèn kĩ năng thực
hiện phép nhân số tự nhiên. Tôi nghĩ rằng nếu chúng ta làm tốt được như vậy thì
các em sẽ tránh được những sai sót thường gặp và sẽ giúp các em vận dụng tốt kĩ
năng tính nhân vào làm toán: tìm thành phần chưa biết, tính giá trị biểu thức, giải
toán có lời văn. Từ đó, các em học tốt môn Toán hơn. Như vậy phép nhân ảnh
hưởng rất lớn đến kết quả dạy học Toán đại trà và bồi dưỡng phát triển năng lực tư
duy sáng tạo cho học sinh giỏi.
Đối với học sinh, khi đã có đủ vốn kiến thức, phương pháp giải toán các em
sẽ tự tin hơn, thích học toán và sẽ không còn ngại học nữa.
C/ KẾT LUẬN
- 12 -
Trên cơ sở kết quả đạt được bước đầu của học sinh, tôi rút ra một số kinh
nghiệm sau:
- Hướng dẫn học sinh nắm đầy đủ các kĩ năng cơ bản, cần thiết khi làm tính
bằng phương pháp phù hợp để rèn các em kĩ năng tính toán chính xác.
- Thường xuyên quan sát, theo dõi từng bước làm bài của học sinh để thấy
được các em sai ở bước nào? Sai như thế nào? Vì sao sai như vậy? Từ đó giáo viên
kịp thời giúp các em sửa sai đúng lúc, đúng chỗ. Như vậy học sinh sẽ hiểu bài
ngay và dễ dàng khắc phục chỗ sai.
- Kích thích tư duy sáng tạo, khả năng phân tích tổng hợp trong quá trình
dạy toán cho học sinh. Giáo viên cần đưa ra những bài toán vừa sức với học sinh.
Tránh những bài toán quá dễ hoặc quá khó làm cho học sinh nhàm chán hoặc căng
thẳng.
- Đặc biệt luôn tạo không khí giờ học nhẹ nhàng, thân thiện, tránh gây áp
lực căng thẳng đối với học sinh.
- Gần gũi động viên những em học yếu toán để các em có tiến bộ.
- Hiểu rõ đặt điểm nhận thức, đặc điểm tâm lý lứa tuổi, hoàn cảnh gia đình
và năng lực học tập của từng em sẽ giúp giáo viên lựa chọn và vận dụng phương
pháp dạy học đúng, hiệu quả và phát huy được tính tích cực trong học tập của học
sinh.
Với trách nhiệm và sự say mê nghề nghiệp trong quá trình dạy học, nhất là
những năm gần đây, trước thực trạng chất lượng giáo dục nói chung và môn Toán
nói riêng chưa đáp ứng được nhu cầu, mà nguyên nhân chính là tư duy toán của
học sinh còn hạn chế. Cá nhân tôi đã cố gắng nghiên cứu và đúc kết một số kinh
nghiệm về dạy học Toán nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn qua
việc rèn kỹ năng thực hiện phép tính nhân số tự nhiên cho học sinh. Chắc rằng nội
dung và các biện pháp còn nhiều bất cập, thiếu sót, mong rằng lãnh đạo ngành,
đồng nghiệp nghiên cứu, chỉnh lí, bổ sung, trao đổi để hoạt động dạy học đạt hiệu
quả cao hơn, thiết thực hơn, giúp giáo viên hoàn thành nhiệm vụ chính trị của
mình, góp phần vào việc đào tạo thế hệ trẻ có tri thức tốt, có phương pháp làm việc
khoa học, linh hoạt, sáng tạo trở thành lực lượng lao động tốt trong công cuộc
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế./.
- 13 -
MỤC LỤC
- 14 -
NỘI DUNG Trang
* Phần I: MỞ ĐẦU
I/ Đặt vấn đề 01
1- Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới giải quyết 01
2 - Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới 01
3 - Phạm vi nghiên cứu của đề tài 02
II/ Phương pháp tiến hành 02
1 - Cơ cở lí luận và thực tiển có tính định hướng cho việc nghiên
cứu, tìm giải pháp của đề tài 02
2 - Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp 03
* Phần II: NỘI DUNG
I/ Mục tiêu 04
II/ Mô tả giải pháp của đề tài 04
1- Thuyết minh tính mới 04
2 - Khả năng áp dụng và lợi ích kinh tế - xã hội 09
* Phần III: KẾT LUẬN
Kết luận 11
- 15 -
Ý KIẾN XÉT DUYỆT CỦA HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH
- 16 -
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
BẢN CAM KẾT
I. THÔNG TIN TÁC GIẢ
Họ và tên: ………………………
Ngày, tháng, năm sinh: …………
Đơn vị: Trường tiểu học ………
Địên thoại: 0912345678
E-mail:
II. TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên SKKN:
III. NỘI DUNG CAM KẾT
Tôi xin cam kết sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã áp dụng thành công trong giảng dạy tại
trường ……………………………… . Trong trường hợp có xảy ra tranh chấp về quyền sở hữu
đối với một phần hay toàn bộ sản phẩm sáng kiến kinh nghiệm này mà tôi là người vi phạm, tôi
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo sở GD&ĐT. Sáng kiến kinh nghiệm
này tôi cũng đã phổ biến cho đồng nghiệp nên nếu có bạn đọc học tập, nghiên cứu, sử dụng, áp
dụng sáng kiến này tôi cũng không khiếu nại hay đòi hỏi quyền sở hữu.
…………, ngày … tháng … năm 20….
Người cam kết
(Ký, ghi rõ họ tên)
- 17 -
- 18 -
- 19 -
- 20 -