Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP Ở TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.18 MB, 13 trang )

CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP Ở TRUNG QUỐC
Nhóm 2
Bối cảnh cải cách DNNN ở Trung Quốc
Quá trình cải cách
Hiệu quả của việc cải cách
Bài học về cải cách DNNN
Thứ nhất, cơ cấu quản lý tập trung của các DNNN không
hiệu quả trong khi việc sản xuất, kinh doanh bị tác động bởi
các quyết định của chính phủ.
Thứ hai, cơ chế tập trung quan liêu ở các DNNN gây khó
khăn lớn cho việc xác lập các thị trường về vốn, công nghệ,
nhân lực và kỹ năng quản lý cho các doanh nghiệp này.
Thứ ba, sự gắn kết chặt chẽ giữa các DNNN và Bộ, ban
ngành TW dẫn tới sự thiên vị trong quá trình xây dựng luật
và chính sách.
Tiến trình cải cách kinh tế đã tạo
ra những thay đổi cơ bản trong môi
trường hoạt động của DNNN Trung
Quốc. Việc xây dựng cơ chế giá cả thị
trường; cho phép khu vực tư nhân
và doanh nghiệp nước ngoài được
phép đầu tư – kinh doanh những
lĩnh vực trước đây do DNNN độc
quyền; và việc chính phủ không cung
cấp các khoản tài chính dành cho
DNNN mà thay vào đó là các khoản
vay ngân hàng đã tạo ra áp lực cạnh
tranh cao buộc DNNN phải thay đổi
và đáp ứng theo luật chơi cung - cầu
của thị trường.
Giai đoạn thứ nhất (1978 – 1986)


Giai đoạn thứ hai (1986 – 1991)
Giai đoạn thứ ba (1992 đến nay )
Tháng 10/1978, có 6 DNNN đầu tiên ở Tứ xuyên được
chọn để thực hiện thí điểm cải cách. Tháng 6/1980, việc
thí điểm mở rộng quyền tự chủ cho các DNNN được áp
dụng đối với 6600 DNNN quy mô lớn và vừa
Tháng 11/1981 Hội đồng nhà nước đã phê chuẩn “Đề
xuất một số vấn đề trong việc thực hiện hệ thống trách
nhiệm kinh tế”. Đến cuối năm 1981, hầu hết các DNNN
công nghiệp đã áp dụng hệ thống này.
Đầu năm 1983, quyết định bãi bỏ cơ chế phân chia lợi
nhuận và thực hiện cải cách mới nhằm thay đổi toàn bộ
cơ chế kiểm soát lợi nhuận cùa các DNNN sang cơ chế
thuế định mức. Các DNNN phải trả thuế lợi tức cao bằng
55% lợi nhuận chịu thuế.
Cho đến tận cuối năm 1987, hệ thống ERS đã
được áp dụng tại 78% số DNNN có 100% vốn ngân
sách
Hệ thống ERS có hai nội dung: Thứ nhất là đưa
quyền tự chủ trong hoạt động của các doanh
nghiệp có hiệu quả và bảo vệ các quyền hợp pháp
của các doanh nghiệp
Thứ hai là đặt ra mục tiêu đóng thuế tối thiểu cho các DNNN
và đặt ra tỷ lệ cho việc phân chia mục tiêu lợi nhuận giữa
nhà nước và doanh nghiệp. Đối với các DNNN không thực
hiện đủ mục tiêu lợi nhuận thì phải trang trải các khoản thuế
bằng chính các quỹ của mình
Đến cuối năm 1998, trên 90% các DNNN
trong ngành thương mại và công nghiệp có
100% vốn nhà nước đã áp dụng hệ thống

ERS. Đối với các DNNN có quy mô vừa và lớn,
tỷ lệ áp dụng hệ thống này đạt trên 95%.
Hệ thống ERS là bước thay đổi thụt lùi so với hệ thống
thuế định mức. Chỉ sau một thời gian ngắn áp dụng
hệ thống ERS, xu hướng lợi nhuận của các DNNN giảm
liên tục trong 20 tháng trước đây đã chấm dứt, cả lợi
nhuận lẫn ngân sách nhà nước đều tăng.
1
• Các DNNN vẫn còn phụ thuộc vào nhà nước, chưa thực sự là doanh
nghiệp độc lập.
2
• Điều kiện hợp đồng phụ thuộc vào những thoả thuận giữa từng doanh nghiệp và
Chính phủ, điều đó dẫn tới điều kiện không bình đẳng trong cạnh tranh trên thị
trường giữa các doanh nghiệp.
3
• Thời hạn của hợp đồng thường là 3-5 năm, trong thời gian này tình hình thực tế
trong cung cầu thị trường có thể có nhiều thay đổi làm cho mục tiêu ban đầu của
hợp đồng trở nên không thể thực hiện được
4
• Để thực hiện hợp đồng trong vài năm, các nhà quản lí doanh nghiệp thường chỉ
quan tâm đến lợi nhuận trước mắt và bỏ qua đầu tư và phát triển dài hạn và họ có
xu hướng khai thác quá mức và làm hư hỏng các trang thiết bị của doanh nghiệp.
5
• Các hợp đồng cố định hạn chế việc hợp nhất, thôn tính và các hình thức
khác trong cải cách DNNN.
Cải cách sở
hữu đối với
các DNNN quy
mô nhỏ tạo ra
một sự cải cách

nhanh chóng từ
năm 1992.
Tháng 11/1993, Uỷ
ban Trung ương
Đảng cộng sản
Trung Quốc thông
qua “Quyết định
của Uỷ ban Trung
ương Đảng cộng
sản Trung Quốcvề
một số vấn đề
thiết lập cơ chế
kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa”
Vào tháng
11/1994, 100
DNNN vừa và
lớn được lựa
chọn để thí
điểm thành lập
hệ thống doanh
nghiệp hiện đại.
Tháng 7/1997, Đại
hội Đảng lần thứ 15
đặt ra mục tiêu 3
năm sẽ đưa phần lớn
các DNNN quy mô
vừa và lớn thoát khỏi
tình trạng thua lỗ qua
các công cụ cải cách

như cơ cấu lại, xây
dựng lại và cải thiện
quản lí doanh nghiệp
và cơ bản hình thành
hệ thống doanh
nghiệp hiện đại ở hầu
hết các DNNN quy
mô vừa và lớn.
Thứ nhất
• Hướng đến nhu cầu thực tế của khách hàng, tăng
cường năng lực phân tích xu hướng tiêu dùng. Theo
đó, sản xuất các sản phẩm có chất lượng và có giá
trị, công năng sử dụng thực tế, phù hợp với nhu cầu
thị trường.
Thứ hai
• Tập trung vào các thị trường bên ngoài; việc cải cách
DNNN hoạt động theo hướng hiệu quả, ứng dụng
các công nghệ mới và tiêu chuẩn quốc tế cùng việc
hội nhập quốc tế của Trung Quốc đã giúp các DNNN
của nước này ngày càng mở rộng thị trường quốc tế
Thứ ba
• Kết quả tổng lợi nhuận tăng lên thực tế là 89%, từ
53 tỷ tệ năm 1998 lên 99 tỷ năm 2000. Tỷ suất sinh
lợi của tài sản của DNNN tăng từ 0,7% lên 1,3%
trong giai đoạn 1998 - 2000.
Bài học
kinh
nghiệm
Sự can
thiệp của

Chính
phủ
Động lực
khuyến
khích
Hình
thức
phạt
Vấn đề
giám sát
Thái độ
đầu tư
của chính
phủ
Thank you

×