Tải bản đầy đủ (.ppt) (30 trang)

đề tài thảo luận gió mùa nhiệt đới và hưởng của nó mà đến khí hậu việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.46 MB, 30 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HUẾ
KHOA ĐỊA LÝ

Đề tài thảo luận:
Gió mùa nhiệt đới và hưởng của nó mà đến
khí hậu Việt Nam
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN :

PGS.TS. Nguyễn Thám

Nhóm học viên thực hiện :
NGUYỄN VĂN NHẬT - LỚP CAO HỌC ĐỊA LÝ – K20
Nguyễn Thị Hoàng Mai
TRẦN THỊ THU HƯƠNG
Phạm Nhật Lai


Gió mùa nhiệt đới và hưởng của gió mà đến Việt Nam
NỘI DUNG BÀI BÁO CÁO
1. Quan niệm về gió mùa
2. Quan niệm về ngun nhân hình thành gió mùa
3. Đặc điểm gió mùa
4. Khái niệm Gió mùa
5. Các loại gió mùa
5.1.Gió mùa nội chí tuyến hay nhiệt đới

5.2. Gió mùa ngoại chí tuyến hay ơn đới.
65.3. Gió mùa Nam Á và Đơng Nam Á.
6. Gió mùa Việt Nam



1. QUAN NIỆM VỀ GIÓ MÙA
Cho đến nay định nghĩa gió mùa và phân vùng gió mùa trên bản đồ
thế giới của S.P Khromov (1957) vẫn là cơ sở để nghiên cứu hiện
tượng này.
- Theo S.P Khrơmov: ''Gió mùa là chế độ dịng khí của hồn lưu
chung khí quyển trên một phạm vi đáng kể của bề mặt Trái Đất, trong
đó ở mọi nơi trong khu vực gió mùa, gió thịnh hành chuyển ngược
hướng hay gần như ngược hướng từ mùa đông sang mùa hè và từ
mùa hè sang mùa đơng''. Khromov cịn đưa ra khái niệm góc gió mùa,
đó là góc giữa hướng gió thịnh hành giữa mùa đơng và mùa hè lớn
hơn hoặc bằng 1200. Klein (1971) và Ramage (1971) thống nhất với
định nghĩa này và cụ thể hố các tiêu chuẩn xác định khu vực gió
mùa , đó là khu vực thoả mãn bốn điều kiện sau:
Hướng gió thịnh hành tháng 1 và tháng 7 phải lệch nhau
một góc 120 0- 180 0.
Tần suất trung bình của hướng gió thịnh hành tháng 1 và
tháng 7 phải vượt quá 40%.
Xảy ra sự thay thế giữa xoáy thuận, xoáy nghịch mặt đất
vào mùa đông cũng như mùa hè (Klein,1957).
Tốc độ trung bình của gió hợp thành của ít nhất một trong
hai tháng nói trên phải vượt quá 3 m/s (Ramage,1971).


1. Quan niệm về gió mùa
- Trên hình là phân vùng các khu vực
gió mùa trên thế giới của S.P
Khromov (1957) và khu vực gió mùa
theo tiêu chuẩn về tần suất của
hướng gió thịnh hành.

- Trong đó khu vực có tần suất gió
thịnh hành là 40% được gọi là khu
vực có xu thế gió mùa; Khu vực có
tần suất gió thịnh hành từ 40% đến
60% được gọi là khu vực gió mùa;
Khu vực có tần suất gió thịnh hành
lớn hơn 60% được gọi là khu vực gió
mùa điển hình. Việt Nam nằm trong
khu vực gió mùa Đơng Nam Á điển
hình nhất trên Trái Đất. Đơng Nam Á
với gió mùa mùa đơng thịnh hành với
tần suất 75%, thổi từ phía áp cao
châu Á (áp cao Siberi) ngược hướng
với gió mùa tây nam cũng với tần
suất thịnh hành hơn 60% thổi từ
phần phía đơng nam của áp thấp
Nam Á và tín phong Nam Bán Cầu
vượt xích đạo và chuyển hướng nên
là khu vực gió mùa điển hình nhất
trên thế giới.

Phân vùng gió mùa của S.P.Khromov
(1957). Phần giới hạn trong hình chữ nhật
là khu vực gió mùa Đơng Nam Á (bao
gồm: Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan,
Brunei, Tây Malaysia và Singapo) theo số
liệu mới (Ramage, 1971) 1. Khu vực có xu
thế gió mùa 2.
Khu vực gió mùa 3. Khu vực gió mùa điển
hình



1. Quan niệm về gió mùa
• Gần đây Matsumoto (1995)
dùng số liệu phát xạ sóng dài
nhận được từ tài liệu vệ tinh
NOAA quan trắc trong 12 năm
(1975-1987) và tốc độ gió vĩ
hướng tại mực 200 và 850mb
để phân vùng các khu vực gió
mùa như biểu diễn trên hình
2.2. và hai vùng mưa ngoại
nhiệt đới Maiu ở Trung Quốc và
Baiu ở Nhật Bản. Vùng có độ
cao hơn 3000m được tơ sẫm.
Matsumoto (1985)
• Theo Matsumoto khu vực gió
mùa Đơng Nam Á (SEAMSoutheast Asia Monsoon) trải
dài từ phần đông biển A Rập
qua Ấn Độ, vịnh Bengal tới
Đông Dương (Việt Nam, Lào,
Campuchia) nghĩa là bao gồm
cả gió mùa Nam Á, vùng gió
mùa Bắc Australia và Indonesia



Hình 2.2.
Các vùng gió mùa trong khu vực gió mùa
châu Á Matsumoto



2. Quan niệm về ngun nhân hình thành gió mùa

Có nhiều quan điểm
1. Theo quan điểm triết học
- Halây (1686): Gió mùa là cơ chế nhiệt của mặt đất.
Ơng giải thích, trong mùa đơng lục địa nguội lạnh hình thành những miền
cao áp, nhiệt và khơng khí lạnh đặc hơn khơng khí nóng, ngược lại áp
suất giảm trong khơng khí nóng và nhẹ trên đại dương. Vì vậy, dịng khí
chuyển động từ miền áp cao trên đất liền tới miền áp thấp trên biển.
Mùa hạ một dịng khí ngược hướng chuyển động từ biển tương đối lạnh
vào đất liền bị đốt nóng.
- Bơơ (1944): Gió mùa là sự thay đổi nhiệt theo mùa khơng có cùng hướng
thịnh hành.
- Sechac (1948): Gió mùa là sự thay đổi nhiệt trong khí quyển tự do giữa
mùa đông và mùa hạ phù hợp với sự thay đổi hướng của nó.
- Phlơn (1951): Gió mùa là sự thay đổi có tính chất chu kỳ của hướng gió
mặt đất và trên cao, là kết quả dao động bình thường của các đới

hồn lưu hành tinh.


2. Quan niệm về ngun nhân hình thành gió mùa

Theo quan điểm khí tượng học:
Bất kì dịng khơng khí nào vượt qua xích đạo và lêch hướng
đều gọi là gió mùa, khác dịng tín phong khơng chuyển qua xích
đạo và không lệch hướng.
Theo quan điểm động lực

học:

Do sự tương phản
về khí áp giữa lục địa và
đại dương, giữa lục địa
bán cầu Bắc và bán cầu
Nam theo mùa làm phát
sinh ra một loại gió
chuyển động từ áp cao
đến áp thấp theo mùa có
hướng ngược nhau gọi là
gió mùa.


Theo quan điểm động nhóm
Ở trên đại dương, sự biến thiên mùa của hoàn lưu nhiệt đới
chỉ là những giao động nhỏ về cường độ của các khâu của hoàn lưu
cịn nét cơ bản vẫn giữ ngun. Cịn hồn lưu ở trên lục địa và các
biển lân cận thì nhịp điệu mùa thể hiện rất rõ rệt. Lục địa hấp thu
được nhiệt lập tức truyền cho các lớp khơng khí ở trên Lục địa làm
cho nhiệt độ khơng khí biến thiên theo mùa rõ hơn trên đại dương.
Nếu như đại dương hấp thụ, tích tụ nhiệt và được các dịng biển đưa
về các vĩ độ cao thì lục địa hoạt động theo phương thức khác, bề mặt
lục cao.
Mùa đông, cũng ở trên dải này nhiệt độ tương đối thấp, hình thành
khu vực áp cao với gió thổi gần như Tín phong nhưng tốc độ và
hướng gió khơng thay đổi
Mùa hè, ở vĩ độ 15 – 250 dòng bức xạ lớn cho nên khơng khí ở
trên bị đốt nóng rất nhiều và do đó hạ áp nhiệt được hình thành. Hạ
áp này dần dần có chức năng hoạt động như một rãnh thấp xích đạo

và tạo nên một miền hội tụ mới. Khi đó, rãnh thấp gần xích đạo thay
đổi cấu trúc và yếu đi. Tín phong Nam bán cầu vượt qua xích đạo,
chậm dần lại và tạo thành dải hội tụ. Khơng khí được hút vào miền
hạ áp trên lục địa.


3. Đặc điểm gió mùa








* Đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa
Nhiệt độ lượng mưa thay đổi theo mùa gió
+ Nhiệt độ TB > 200C
+ Biên độ nhiệt TB Khoảng 80C
+ Lượng mưa > 1000mm
- Thời tiết diễn biến thất thường

- Mùa hạ: Gió từ Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương
tới đem theo khơng khí mát mẻ và mưa lớn
- Mùa đơng: Gió mùa thổi từ lục địa Châu Á ra
đem khơng khí khơ và lạnh


TRUNG TÂM ÁP THẤP VÀO ÁP CAO VÀO MÙA HẠ



4. Khái niệm Gió mùa
Gió mùa là dịng khơng khí ổn định theo mùa với sự biến đổi căn bản
của hướng gió thịnh hành từ mùa đơng sang mùa hạ và từ mùa hạ sang mùa
đơng.
Có nghĩa là ở mỗi khu vực gió mùa mùa đơng và gió mùa mùa hạ với những
hướng gió thịnh hành ngược nhau hay ít nhất cũng khác biệt rõ nét với nhau.

5. Các loại Gió mùa
5.1.Gió mùa nội chí tuyến hay nhiệt đới.
Tháng giêng là mùa đông ở Bắc bán cầu, trên các đại dương áp cao cận chí

tuyến bành trướng ra rất rộng, trên các lục địa áp cao cũng được thành lập do
mặt đất bị lạnh đi rất nhiều. Tất cả những trung tâm áp cao ấy họp thành đai
liên tục trên các miền cận chí tuyến Bắc. Lúc này ở Nam bán cầu là mùa hạ, áp
thấp xích đạo hơi dịch về phía nam xích đạo. Các lục địa Nam bán cầu được
đốt nóng lên nhất là lục địa Úc được đốt nóng lên dữ dội, áp thấp xuống đến
dưới 1006 mb. Sự chênh lệch khí áp giữa hai bán cầu làm cho khơng khí
chuyển động thành những luồng lớn từ các áp cao Bắc bán cầu sang các áp
thấp Nam bán cầu theo hướng chung là Đông Bắc – Tây Nam, cùng hướng
chuyển động với gió tín phong Bắc bán cầu, khi qua xích đạo để chuyển đến
các áp thấp Nam bán cầu thì chuyển hướng thành gió mùa Tây Bắc mùa hạ
của Nam bán cầu.


Nam Á

Đơng Nam Á

•Gió mùa: Chế độ gió có quy mô lớn, thổi trên nhiều vùng rộng lớn

Xác địnhĐiển của mơi Nam Á đổi hướng ngược trên hình 5.1?
vị trí hình ở trường nhiệt đới gió mùa Á
của bề mặt Trái Đất, với sự thay Và Đông Nam chiều hoặc
gần như ngược chiều nhau theo mùa.


Tháng bảy tình hình khí áp ngược lại. Ở miền cận chí tuyến
Bắc bán cầu, trên các đại dương trung tâm cao áp thường xuyên
hoạt động và hơi dịch về phía bắc, cịn trên lục địa thì khí áp
xuống rất thấp do bị đốt nóng mãnh liệt, đặc biệt là trên lục địa
châu Á. Phía đơng cao ngun Iran, miền Tây Bắc Ấn Độ, áp thấp
hạ xuống đến 998 mb. Áp thấp xích đạo lúc này hơi dịch, lên phía
Bắc xích đạo và nối liền với các áp thấp lục dịa Bắc bán cầu. Ở
Nam bán cầu thời kỳ này là mùa đông, các trung tâm áp cao
thường xuyên cận chí tuyến bành trướng. Trên lục địa các cao áp
cũng hình thành nhất là cao áp lục địa Úc có khí áp lên đến 1021
mb. Tình trạng khí áp chênh lệch ấy làm cho các luồng khơng khí
chuyển từ các cao áp Nam bán cầu lên các áp thấp Bắc bán cầu
theo hướng Đông Nam – Tây Bắc (cùng hướng với gió Tín
phong), và khi vượt qua xích đạo đến các áp thấp Bắc bán cầu thì
đổi hướng thành gió mùa Tây Nam mùa hạ của bán cầu Bắc. Tất
nhiên là quy luật thống trị hướng gió mùa nội chí tuyến phần nào
bị phá vỡ do sự chênh lệch về nhiệt độ và áp suất giữa lục địa và
đại dương theo mùa ở bán cầu.


Ngun nhân hình thành gió mùa nội chí tuyến.
+ Nằm ở vĩ độ thấp.
+ Độ cao mặt trời trên đường chân
trời lớn.

+ Chịu ảnh hưởng của lực Cơriơlít.
+ Chịu sự hoạt động của hồn lưu
chung của khí quyển, với các khối khí:
Pc, Pm, khối khí nhiệt biển Đơng
Trung Hoa, Tc, Tm, và E.
+ Chịu ảnh hưởng của Frônt cực, và
dải hội tụ nội chí tuyến CIT.
- Hướng di chuyển.
Về mùa đơng có hướng trùng với gió
tín phong nhưng mùa hạ thì khơng
trùng với gió Tín phong.
- Tính chất.
Gió mùa đơng lạnh và khơ ráo, gió
mùa hè mát đem lại mùa mưa ẩm.
Nhưng do ảnh hưởng của vị trí địa lý
và những đặc điểm của hoàn cảnh tự
nhiên nên sự phân bố lượng mưa
trong mùa hạ không đều.


Các khu vực hoạt động của hồn lưu gió mùa nội chí tuyến.

Ở miền nội chí tuyến có hồn lưu gió màu hoạt động ổn
định và biểu hiện rõ nét. Nhưng do đặc điểm của điều kiện địa
lý (phân bố lục địa và đại dương) của mỗi bán cấu mà cường
độ gió mỗi nơi một khác. Ở Thái Bình Dương và Đại Tây Dương
gió mùa nhiệt đới ít phát triển (trừ phần phía tây Thái Bình
Dương gần lục địa châu Á). Ở các vùng nhiệt đới thuộc các đại
dương quanh năm thịnh hành gió tín phong có hướng đơng rất
ổn định. Ở Ấn Độ Dương hồn lưu gió mùa ổn định quan sát

thấy mức độ ảnh hưởng đến trên một phạm vi rất lớn trong
miền nội chí tuyến, hầu như trên tồn miền Bắc Ấn Độ Dương,
bán đảo Đơng Dương và những khu vực Nam Ấn Độ Dương
như bắc lục địa Úc, đảo Mađagaxca cũng như vùng rộng lớn
phía đơng Châu Phi. Sự phát triển mạnh mẽ của gió mùa ở
những miền diễn ra ở trên đều có liên quan với đặc điểm của
những điều kiện địa lý như kích thước và sự phân bố của các
châu lục.


5.2. Gió mùa ngoại chí tuyến hay ơn đới.

Trên bản đồ khí hậu thế giới cho thấy là trên các lục địa
ngoại chí tuyến, chế độ áp cao mùa đơng được thay thế bởi
chế độ áp thấp mùa hạ. Ngoài ra áp cao cận chí tuyến trên
các đại dương Bắc bán cầu từ tháng giêng đến tháng bảy có
xu hướng chuyển dần lên các vĩ độ cao hơn, ngược lại từ
tháng bảy đến tháng giêng thì hơi dịch dần xuống các vĩ độ
thấp hơn, còn các áp thấp á cực trên các đại dương từ mùa
đông sang mùa hạ yếu dần. Nếu như phân bố khí áp ở một
nơi nào đó trong q trình một mùa tương đối ổn định và có
sự biến đổi đột ngột từ mùa này sang mùa khác thì trong chế
độ gió cũng xảy ra sự biến đổi tương tự. Trong một mùa gió
với hướng nhất định sẽ thịnh hành so với hướng khác. Vào
mùa ngược lại gió thịnh hành sẽ thay đổi ngược lại. Chế độ
gió như vậy gọi là chế độ gió mùa ngoại chí tuyến.


5.3. Gió mùa Nam Á và Đơng Nam Á.


Các điều kiện hình thành
- Châu Á là lục địa lớn nhất trên địa cầu.
- Được bao bọc bởi Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương.
- Có cao nguyên Trung Á và khối núi Tây Tạng cao,
rộng chạy từ tây sang đơng.
- Có dải áp cao Xibia được hình thành do lạnh bức
xạ, hoạt động với cường độ lớn, gió thổi từ xốy
nghịch về phía nam và đơng nam.
- Tầng trên khí quyển ở độ cao 700 mb đại bộ phận
là gió tây.
- Có sự góp mặt của xốy thuận Địa Trung Hải.


5.3. Gió mùa Nam Á và Đơng Nam Á.

chế hoạt động: về phía Nam và Đơng Nam qua Triều Tiên, Trung Quốc, Nhật
Bản hội tụ với dịng đơng bắc từ Thái Bình Dương tới vĩ độ 15 - 20o tạo nên
frơnt phân cách. Cả hai dịng này hội hợp dần với nhau tạo thành gió mùa
đơng bắc tại Malaixia. Sau khi vượt qua xích đạo (ở Inđơnêxia) nó lệch hướng
thành dịng gió tây tiến về dải hội tụ nội chí tuyến, lúc bấy giờ nằm ở 10 – 15o
vĩ nam (ở phía bắc Oxtrâylia lúc này là hạ áp).
Gió mùa mùa đông ở châu Á chỉ bao quát một lớp mỏng ở gần nơi phát
sinh, còn ở độ cao trên 700 mb đại bộ phận là Tín phong gió tây Gió tây ở trên
cao khi gặp dãy Himalaya phân thành hai nhánh Bắc và Nam, nhưng nhánh
chính là nhánh Nam, khi đến phía đơng khối núi hai nhánh hợp thành một dịng
duy nhất tiến đến tận Nhật Bản, ở phía nam Châu Á gió mùa mùa đơng hợp với
bắc Thái Bình Dương phát triển lên cao tới tận 700 mb. Gió mùa mùa đơng chỉ
đậm nét ở phía bắc Ấn Độ, nơi đây ở trên cao cũng như ở trên mặt đất chủ yếu
là gió tây và xốy thuận từ Địa Trung Hải tới. Khơng khí lạnh thâm nhập theo

sau lưng các nhiễu động xoáy thuận. Dãy núi Tây Tạng, Himalaya ngăn khơng
cho khơng khí ơn đới tràn xuống Ấn Độ. Ở phía nam Ấn Độ tuy cũng chịu ảnh
hưởng gió mùa mùa đơng nhưng yếu và khơng phải là khơng khí có nguồn gốc
cực mà gió này chính là Tín phong. Xét về nguồn gốc phát sinh, nó khơng
giống với sự xâm nhập của khơng khí lạnh ngoại chí tuyến cùng với gió mùa
Đơng Á mà là một khâu của khí lưu động nội chí tuyến.


5.3. Gió mùa Nam Á và Đơng Nam Á.

TV đầu mùa hạ khơng chỉ duy nhất có tác động của hạ áp nhiệt được hình
thành ở trên lục địa. Tuy hạ áp này đã được hình thành ở tây bắc
Ấn Độ, nhưng gió mùa lại bắt dầu từ nam Trung Quốc, sau phát triển
sang Mianma, còn ở Ấn Độ lúc đó vẫn chưa xuất hiện mưa rào, tuy nhiệt
độ ở đây vào tháng 5 đã có giá trị cực đại, nhưng một tháng sau đó gió
mùa mới xuất hiện
Sở dĩ có hiện tương trên là do đầu mùa hè đới gió tây phát triển về phía
nam Himalaya đến cả độ cao 8 km tạo thành một rãnh thấp ở trên cao
theo hướng kinh tuyến ở vịnh Bangan. Chính rãnh thấp này tạo điều kiện
cho đới gió đơng ở tên cao Trung Quốc, Mianma hình thành, đây là dịng
thổi về xích đạo, là một bộ phận của hoàn lưu mùa hè giữ vai trị quan
trọng trong q trình xác lập gió mùa hè

Vào cuối tháng 5, đầu tháng 6 dịng gió tây trên cao bỗng đột ngột chuyển về
phía bắc khối Tây Tạng - Himalaya và rãnh thấp trên cao theo hướng kinh tuyến tiến về
phía tây. Như vậy dịng gió đông trên cao được xác lập ở trên Ấn Độ mở đường cho gió
mùa mùa hè ở dưới thấp. Gió mùa bùng nổ ở Ấn Độ và Pakixtan rồi sau phát triển tồn
Đơng Nam Á.
Núi và cao ngun Trung Á làm cho dịng gió tây ở trên cao lệch về phía bắc và
cung cấp nguồn nhiệt cho các tầng ở trên cao. Cường độ bức xạ Mặt Trời lớn tạo nên

nhiệt độ cao và từ đó một hạ áp được hình thành ở phía bắc Ấn Độ. Do điều kiện địa
hình nên dịng gió mùa ở đây dày, vào tháng 6 tháng 7 chiều dày có thể đến 6 km cịn
ở Miến Điện đến 9 km. Về phía đơng do ảnh hưởng địa hình nên dịng gió mùa mỏng
hơn (ở Nhật Bản chỉ khoảng 2 km).


Các tính chất chung của gió mùa Nam Á và Đơng Nam Á.
- Tính khơng liên tục về bản chất:
+ Nguyên nhân hình thành này phát huy thì nguyên nhân khác trở thành
thứ yếu. Thể hiện rõ nhất là sự hình thành gió mùa mùa hạ ở đầu và cuối
mùa hạ, về hình thức giống nhau nhưng bản chất hồn tồn khác nhau.
+ Về mùa đơng đường đi từ bắc xuống nam được duy trì nhưng tới các vĩ
độ khác nhau thì tính chất hồn tồn khác nhau, thể hiện rõ ở phía năm
Viêt Nam và phía nam Ấn Độ.
- Tính hai mặt của gió mùa:
Mặt ổn định và mặt bất ổn định, theo không gian và thời gian.
+ Sự ổn định thể hiện ở tính quy mơ hành tinh của các trung tâm tác động
và điều khiển. Do sự kết hợp của cả hai nhân tố nhiệt lực và động lực mà
trên một khu vực rộng lớn của châu Á đã bị khống chế bởi nhịp điệu biến
đổi thường kỳ của hoàn lưu, tạo nên quy luật địa đới của khí hậu châu Á.
- Sự bất ổn định thể hiện ở gió mùa mùa đơng được bắt đầu với sự thành
lập dịng xiết ở phía nam cao ngun Tây Tạng, gây ra sự đảo lộn hồn lưu
chứ khơng phải tịnh tiến dần dần của các hệ thống thời tiết. Về mùa hạ, sự
bùng nổ của gió mùa trên quy mơ tồn châu Á, gây ra bước tiến nhảy vọt
làm mờ đi tính địa đới của khí hậu.


6. Gió mùa việt nam
Ngun nhân hình thành gió mùa việt nam
- Vĩ độ: Lãnh thổ Việt Nam kéo dài theo chiều kinh tuyến từ 8o30’ VB đến

22o23’VB. Nhưng đối với phần phía Nam lãnh thổ (khoảng từ 18 - 16o
trở vào) mùa đơng có thể xem như gió tín phong Đơng Bắc của bán cầu
Bắc, cịn mùa hạ là Tín phong của bán cầu Nam, sự thay đổi theo mùa
của hướng gió liên quan chặt chẽ với sự xê dịch của các đới gió hành
tinh. Nhưng ở phần phía Bắc, tình hình phức tạp hơn, ln có sự giao
tranh của 2 loại gió mùa khác nhau về bản chất là hệ thống gió cực đới
và Tín phong.
- Vị trí địa lý: Do tiếp giáp với biển trên suốt 3000km ranh giới phía Đơng và
phía Nam đã khiến cho các luồng gió mùa thổi đến nước ta, dù xuất
phát từ lục địa hay hải dương, mùa đông hay mùa hạ, đều phải trải qua
một đoạn đường dài trên biển. Chỉ riêng trường hợp lưỡi áp cao cực đới
đầu mùa và luồng hướng Tây của gió mùa mùa hạ mới tràn tới hướng
lục địa mà thơi.
- Dịng biển trong vịnh Bắc bộ và vùng biển Đơng : Mùa đơng, gió hướng
Bắc ổn định đã làm xuất hiện một dòng biển hướng từ Bắc xuống Nam
mang theo nước lạnh từ các vùng vĩ độ cao vào vịnh Bắc bộ và ảnh
hưởng đến vùng biển Trung bộ. Tuy nhiên do sự khác biệt giữa nhiệt
dung giữa nước và khơng khí, nên trong nửa đầu mùa đông, nhiệt độ
nước biển cao hơn nhiệt độ khơng khí. Kết quả, biển đã làm cho khơng
khí gió mùa Đông Bắc vào nửa cuối mùa đông bị ẩm ướt tới mức gần
bảo hoà, là nguyên nhân tạo nên mây mù dày đặc và mưa phùn ở Bắc
bộ.


6. Gió mùa việt nam

Ngun nhân hình thành gió mùa việt nam

- Địa


hình: Đối với các hệ thống
phía bắc, những địa hình núi
hướng theo Tây Bắc - Đơng
Nam thường có tác dụng ngăn
frơnt và biến nó thành một dải
frơnt tỉnh. Cịn đối với gió mùa
mùa hạ cũng những dãy núi
hướng Tây Bắc - Đông Nam đã
phát huy hiệu ứng feonh mạnh
mẽ, hình thành gió tây khơ
nóng. Địa hình Bắc bộ đã tạo ra
áp thấp địa phương, là tâm hút
gió làm lệch hướng gió Tây
Nam thành gió Đơng Nam thổi
vào đồng bằng Bắc bộ, tạo nên
chế độ thời tiết đặc trưng ở
lãnh thổ phía Bắc.


6. Gió mùa việt nam

Các kiểu thời tiết do gió mùa gây nên ở nước ta.
Do sự tác động giữa gió mùa và Tín phong làm cho thời tiết của
nước ta có nhiều biến động. Ở miền bắc thường có những giai đoạn lạnh
thường xen kẽ với những quãng ngày nóng ấm, nhưng về mùa hạ đem lại
thời tiết nóng ẩm và mưa nhiều. Tình trạng khơng thuần nhất về bản chất
của gió mùa làm xuất hiện những nhiễu động trong cơ chế hồn lưu.
Những nhiễu động này có quy mơ và tính chất rất khác nhau, đó là:
- Frơnt cực đới: Nhiễu động mạnh mẽ nhất trong mùa đông, hàng
năm có khoảng 15 – 20 đợt frơnt tràn tới khu vực nước ta. Tuy nhiên

frônt thường yếu, không gây ra những biến đổi quan trọng về điều kiện
nhiệt ẩm.
- Hội tụ nội chí tuyến: là dạng nhiễu động đặc trung của gió mùa
mùa hạ, đặc điểm là tịnh tiến từ phía nam lên phía bắc và tan đi ở vĩ độ
ngồi chí tuyến. Hội tụ thường đem lại mưa lớn, đó là nguyên nhân của
hiện tượng mưa ngâu ở miền bắc.
- Bão: Là dạng nhiễu động mạnh mẽ nhất trong cơ chế gió mùa, có
ý nghĩa quan trọng về mặt thời tiết. Bão thường gây mưa lớn và làm biến
động đến lượng mưa của nước ta trong năm
- Rãnh nhiệt đới: là một dạng nhiễu động yếu trong tầng đối lưu trên
cao, cùng với frônt cực đới, đây là nhân tố gây mưa có hệ thống trong
mùa đơng ở nước ta.


6. Gió mùa việt nam
• Trên Trái Đất, gió mùa nội chí tuyến là những luồng khơng khí chuyển động

rộng lớn nhất, là hiện tượng duy nhất làm cho những khối khơng khí khổng
lồ chuyển từ bán cầu này sang bán cầu khác, xố cả khu lặng gió xích đạo và
cận chí tuyến. Trong đại thể, gió mùa mùa hạ mát đem theo mưa, gió mùa
mùa đơng lạnh và khơ ráo. Nhưng khơng phải miền nào thuộc lĩnh vực gió
mùa đều có khí hậu như vậy, ở miền trung Việt Nam là một ví dụ, mùa hạ
kh- Vĩ độ: Lãnh thổ Việt Nam kéo dài theo chiều kinh tuyến từ 8o30’ VB đến
22o23’VB. Nhưng đối với phần phía Nam lãnh thổ (khoảng từ 18 - 16o trở
vào) mùa đơng có thể xem như gió tín phong Đơng Bắc của bán cầu Bắc,
cịn mùa hạ là Tín phong của bán cầu Nam, sự thay đổi theo mùa của hướng
gió liên quan chặt chẽ với sự xê dịch của các đới gió hành tinh. Nhưng ở
phần phía Bắc, tình hình phức tạp hơn, ln có sự giao tranh của 2 loại gió
mùa khác nhau về bản chất là hệ thống gió cực đới và Tín phong.
• - Vị trí địa lý: Do tiếp giáp với biển trên suốt 3000km ranh giới phía Đơng và

phía Nam đã khiến cho các luồng gió mùa thổi đến nước ta, dù xuất phát từ
lục địa hay hải dương, mùa đông hay mùa hạ, đều phải trải qua một đoạn
đường dài trên biển. Chỉ riêng trường hợp lưỡi áp cao cực đới đầu mùa và
luồng hướng Tây của gió mùa mùa hạ mới tràn tới hướng lục địa mà thôi.


6. Gió mùa việt nam

- Dịng biển trong vịnh Bắc bộ và vùng biển Đơng : Mùa đơng,
gió hướng Bắc ổn định đã làm xuất hiện một dòng biển hướng
từ Bắc xuống Nam mang theo nước lạnh từ các vùng vĩ độ cao
vào vịnh Bắc bộ và ảnh hưởng đến vùng biển Trung bộ. Tuy
nhiên do sự khác biệt giữa nhiệt dung giữa nước và khơng khí,
nên trong nửa đầu mùa đông, nhiệt độ nước biển cao hơn
nhiệt độ không khí. Kết quả, biển đã làm cho khơng khí gió
mùa Đông Bắc vào nửa cuối mùa đông bị ẩm ướt tới mức gần
bảo hoà, là nguyên nhân tạo nên mây mù dày đặc và mưa
phùn ở Bắc bộ.
• - Địa hình: Đối với các hệ thống phía bắc, những địa hình núi
hướng theo Tây Bắc - Đơng Nam thường có tác dụng ngăn
frơnt và biến nó thành một dải frơnt tỉnh. Cịn đối với gió mùa
mùa hạ cũng những dãy núi hướng Tây Bắc - Đông Nam đã
phát huy hiệu ứng feonh mạnh mẽ, hình thành gió tây khơ
nóng. Địa hình Bắc bộ đã tạo ra áp thấp địa phương, là tâm
hút gió làm lệch hướng gió Tây Nam thành gió Đơng Nam thổi
vào đồng bằng Bắc bộ, tạo nên chế độ thời tiết đặc trưng ở
lãnh thổ phía Bắc.




×