Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.81 KB, 38 trang )


Trang 1

                
 !"
## $%&'()&*+'&
### ('&,& /01$%&'()&*+'&
Tỷ giá hối đoái (Exchange rate) là tỷ lệ chuyển đổi, tỷ lệ so sánh từ đơn vị tiền tệ này
sang đơn vị tiền tệ khác. Tỷ giá hối đoái được xác định bởi mối quan hệ cung – cầu ngoại tệ
trên thị trường ngoại hối.
Trong tài chính, 1$%&'()&*+'& (còn được gọi là 1$%&'123+*4&,%+5&1-6giữa hai tiền
tệ là tỷ giá mà tại đó một đồng tiền này sẽ được trao đổi cho một đồng tiền khác. Nó cũng
được coi là giá trị đồng tiền của một quốc gia đối với một tiền tệ khác. Ví dụ, một tỷ giá hối
đoái liên ngân hàng của đồng Việt Nam (VND) với đô la Hoa Kỳ (USD) là 22000, có nghĩa là
22000 đồng Việt Nam sẽ được trao đổi cho mỗi 1 USD hoặc 1 USD sẽ được trao đổi cho mỗi
22000 VND.
##7# '89:;1)8<=>,>,((?@,%*:,1$%&'()&*+'&
Trong mối quan hệ với tỷ giá hối đoái có nhiều yếu tố tác động đến tỷ giá, cụ thể là:
- Tốc độ lạm phát trong nước và nước ngoài.
- Trạng thái cán cân thanh toán quốc tế tác động đến sự dao động của tỷ giá.
- Chênh lệch lãi suất giữa nội tệ và ngoại tệ liên quan đến sự dịch chuyển các luồng vốn đầu
tư.
- Độ mở nền kinh tế.
- Chính sách can thiệp tỷ giá của Nhà nước.
- Ảnh hưởng yếu tố tâm lý trước việc điều chỉnh tỷ giá dẫn đến việc găm giữ ngoại tệ, đầu cơ.
##A#'8B+5&1$%&'()&*+'&8<=>,
Trong nền kinh tế thị trường tồn tại đồng thời nhiều loại tỷ giá khác nhau, trong quá
trình theo dõi sự vận động của tỷ giá, tùy theo mục đích, tiêu thức phân loại người ta đưa ra
nhiều khái niệm về các loại tỷ giá hối đoái như sau:
Trang 2
1.1.3.1.Phân theo đối tượng xác định:


- Tỷ giá chính thức tại Việt Nam do Ngân hàng Nhà nước quy định là tỷ giá bình quân
liên ngân hàng. Dựa vào tỷ giá chính thức cộng thêm biên độ giao dịch do Thống đốc NHNN
quy định, các tổ chức tín dụng Việt Nam sẽ ấn định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay, mua
bán ngoại tệ có kỳ hạn, hoán đổi. Ở một số nước (Pháp, Bỉ), tỷ giá hối đoái chính thức được
ấn định thông qua phiên giao dịch vào thời điểm được quy định trong ngày.
- Tỷ giá thị trường là tỷ giá hình thành theo quan hệ cung - cầu trên thị trường hối
đoái. Nếu tỷ giá hình thành theo quan hệ cung cầu trên thị trường tự do không được nhà nước
thừa nhận chính thức thì gọi là tỷ giá thị trường tự do.
1.1.3.2. Phân loại theo kỹ thuật giao dịch:
- Tỷ giá giao ngay (Spot rate) là tỷ giá do tổ chức tín dụng yết giá tại thời điểm giao
dịch. Việc thanh toán giữa các bên mua bán phải được thực hiện trong vòng 2 ngày làm việc
tiếp theo sau ngày cam kết mua bán.
- Tỷ giá giao dịch kỳ hạn (Forward rate) là tỷ giá giao dịch do ngân hàng thương mại,
ngân hàng đầu tư & phát triển yết giá, là tỷ giá được dùng cho các giao dịch kỳ hạn, thời gian
giữa ngày ký hợp đồng và ngày giao tiền thường kéo dài từ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng
hay 1 năm. Hai bên sẽ cam kết mua bán với nhau một số lượng ngoại tệ theo một mức tỷ giá
xác định và việc thanh toán sẽ diễn ra trong tương lai.
Ngoài ra còn có tỷ giá mua vào (Bid rate); Tỷ giá bán (Ask rate); Tỷ giá tiền mặt
(Bank note rate); Tỷ giá chuyển khoản (Transfer rate); Tỷ giá mở cửa (Opening rate); Tỷ giá
đóng cửa ((Closing rate).
1.1.3.3. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa, tỷ giá hối đoái thực:
- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (Nominal exchange rate – NER hay E) là tỷ giá song
phương mà chưa tính đến những thay đổi trong mức giá giữa hai quốc gia.
- Tỷ giá hối đoái thực (Real exchange rate – RER hay e) là tỷ giá song phương đã tính
đến sự thay đổi trong mức giá giữa hai quốc gia. Như vậy RER là NER được điều chỉnh theo
giá tương đối của hàng hóa trong nước và nước ngoài. RER biểu thị giá của hàng hoá trong
nước tính theo đồng tiền nước ngoài so sánh với giá hàng hoá nước ngoài (P*). RER tăng
biểu thị sự mất giá thực và RER giảm biểu thị sự lên giá thực.
E x P
Tỷ giá thực e =

P*
Trang 3
Đặc tính quan trọng nhất của tỷ giá thực là nó đại diện cho khả năng cạnh tranh quốc
tế của một quốc gia.
#7# 3&12C8D31$%&'()&*+'&12+,%E;'12F,((G&,(HI*)&/J&,0,K&,(1:
Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ngày càng mạnh mẽ: tự do hoá thương
mại, đầu tư và tài chính. Sự hội nhập quốc tế của kinh tế quốc gia là nhu cầu khách quan có
tính quy luật tất yếu. Các quốc gia trên thế giới đều ý thức được rằng tỷ giá hối đoái sẽ là một
công cụ hữu hiệu, một liều thuốc cứu cánh cho thương mại các quốc gia nói chung cũng như
ngoại thương nói riêng.
Tỷ giá hối đoái cũng được xem là vô cùng nhạy cảm, hấp thu mọi tác động từ các biến
số kinh tế vĩ mô khác trong quá trình hội nhập quốc tế, các nhà hoạch định do đó cần phải rất
thận trọng khi điều chỉnh tỷ giá hối đoái, phải cân nhắc tới mọi động thái, mọi nhân tố tác
động để có thể đạt được mục tiêu hiệu quả trên tổng thể toàn bộ nền kinh tế.
Hội nhập quốc tế là việc chủ động phát triển nền kinh tế đất nước theo xu thế thời đại,
tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới nhằm tạo liên kết nhiều mặt giữa các
nước thành viên trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc, luật lệ của tổ chức.
Hội nhập quốc tế là quá trình tất yếu của các nước có nền kinh tế mở cửa, mở rộng
giao thương với các nước trên thế giới, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các nguồn lực
trong và ngoài nước, thực hiện cam kết quốc tế đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia, thúc
đẩy thương mại quốc tế, cải tổ toàn diện các mặt hoạt động của nền kinh tế phù hợp với yêu
cầu hội nhập.
Hội nhập quốc tế là quá trình tất yếu của các nước có nền kinh tế mở cửa, mở rộng
giao thương với các nước trên thế giới, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các nguồn lực
trong và ngoài nước, thực hiện cam kết quốc tế đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia, thúc
đẩy thương mại quốc tế, cải tổ toàn diện các mặt hoạt động của nền kinh tế phù hợp với yêu
cầu hội nhập. Hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng nói
riêng là xu hướng tất yếu khách quan để cạnh tranh bình đẳng và cùng phát triển; đòi hỏi
chính phủ các nước phải biết tận dụng cơ hội và lường trước những thách thức để luôn chủ
động trong quá trình hội nhập quốc tế. Chi phí sử dụng vốn trong nước trước khi hội nhập

thường rất cao so với chi phí sử dụng vốn quốc tế. Sau khi hội nhập, vốn sẽ chảy vào cơ hội
đầu tư có tỷ suất sinh lợi cao nhất, làm hiệu quả sử dụng vốn được nâng cao. Hội nhập quốc
tế đã thúc đẩy luân chuyển và điều tiết vốn trên phạm vi toàn cầu.
Trong nền kinh tế hiện nay, khi kinh tế càng “hướng ngoại” bao nhiêu thì qui mô và vị
trí của nền kinh tế đó càng mở rộng và tăng trưởng bấy nhiêu, do đó vị trí của đồng tiền nước
đó và sức mua của nó trên thị trường quốc tế càng lớn bấy nhiêu. tỷ giá hối đoái là một công
Trang 4
cụ hết sức quan trọng trong chính sách quản lý ngoại hối. Vì thế không thể không thừa nhận
vai trò trên của tỷ giá, vấn đề là ở chỗ phải có một chế độ tỷ giá phù hợp để đảm bảo thực
hiện.
Việc nâng cao vai trò tỷ giá hối đoái trong hội nhập quốc tế là cần thiết, sử dụng công
cụ tỷ giá điều tiết thị trường nhằm tạo sự thông thoáng cho quá trình lưu thông vốn, hấp thu
hiệu quả các nguồn vốn từ nước ngoài để phát triển kinh tế, mở rộng giao lưu kinh tế.
Tỷ giá hối đoái có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế là:
#7## L,%8M*&0;1&:18'8(+51*G,%,%+5&1(?<,%
Một nền kinh tế mở, tiến tới hội nhập với thị trường thế giới đòi hỏi phải xác định một
tỷ giá hối đoái thích hợp để có thể khuyến khích, tận dụng nguồn lực sản xuất trong nước và
cả bên ngoài nhằm mở rộng nền kinh tế hàng hóa, đẩy mạnh xuất khẩu, từ đó mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại. Tỷ giá hối đoái phản ánh cung cầu ngoại tệ và điều tiết hoạt động ngoại
thương và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
Tỷ giá hối đoái đóng vai trò chính trong thương mại quốc tế khi hội nhập, nó cho phép
chúng ta so sánh giá cả của các hàng hoá và dịch vụ sản xuất trên các nước khác nhau. Giá
hàng xuất khẩu của một nước sẽ được tính theo giá của nước nhập khẩu nếu biết tỷ giá hối
đoái giữa đồng tiền của hai nước. Khi đồng tiền của một nước mất giá, người nước ngoài
nhận ra rằng hàng xuất khẩu của nước đó rẻ đi nên sẽ mua nhiều hơn làm tăng xuất khẩu,
trong khi người dân trong nước nhận thấy hàng nhập khẩu từ nước ngoài đắt hơn, điều đó làm
cho người dân trong nước dùng hàng nhập khẩu ít hơn nên nhập khẩu giảm. Vì vậy tỷ giá hối
đoái được sử dụng để điều tiết hoạt động xuất khẩu hay nhập khẩu hàng hoá của một nước có
nền kinh tế mở cửa hội nhập.
#7#7#L,%8M*&0;1&:1NOPQ8(8(;9R,8'8PC,%/),

Một tỷ giá phù hợp sẽ góp phần thu hút đầu tư từ bên ngoài, kể cả đầu tư trực tiếp và
đầu tư gián tiếp, sẽ tạo hiệu ứng trong việc điều chỉnh sự dịch chuyển các dòng vốn.
Thị trường tài chính của một quốc gia khi hội nhập ngày càng sâu vào thị trường quốc
tế, các luồng vốn đầu tư sẽ liên tục gia tăng đổ vào trong nước đặc biệt là vốn đầu tư gián
tiếp, ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu ngoại tệ và điều hành tỷ giá; không thể điều hành tỷ giá
cứng nhắc cố định mà phải theo hướng linh hoạt trong mối quan hệ với quy luật thị trường để
thu hút vốn đầu tư.
Nâng cao vai trò của tỷ giá có ý nghĩa cực kỳ quan trọng vì tỷ giá hối đoái là một loại
biến số trong nền kinh tế mở, sự thay đổi của tỷ giá hối đoái sẽ có tác động đến cả hai nhóm
mục tiêu của nền kinh tế là mục tiêu cân bằng ngoại (cân bằng ngoại thương) và mục
Trang 5
tiêu cân bằng nội (sản lượng, công ăn việc làm và lạm phát). Nhận thức việc nâng cao vai trò
của tỷ giá hối đoái sẽ giúp cho việc điều hành cơ chế tỷ giá được hoàn thiện và phù hợp với
quy luật thị trường, tạo điều kiện cho nền kinh tế hấp thụ có hiệu quả luồng vốn đầu tư
nước ngoài mà vẫn đảm bảo mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô.
Việc nâng cao vai trò tỷ giá hối đoái trong hội nhập quốc tế là cần thiết, sử dụng công
cụ tỷ giá điều tiết thị trường nhằm tạo sự thông thoáng cho quá trình lưu thông vốn, hấp thu
hiệu quả các nguồn vốn từ nước ngoài để phát triển kinh tế, mở rộng giao lưu kinh tế.
Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi phải có một nguồn vốn rất lớn
phục vụ nhu cầu đầu tư. Nhu cầu này thường vượt xa số tiền tiết kiệm có được và tạo ra sự
mất cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư. Thêm vào đó, sự thâm hụt về mậu dịch ngoại thương
đã gây ảnh hưởng không nhỏ đối với sự ổn định của nền kinh tế. Để thiết lập lại trạng thái cân
bằng vĩ mô, bổ sung vào sự thiếu hụt đó, nền kinh tế cần thiết phải huy động một lượng vốn
rất lớn từ bên ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp không nhỏ cho ngành công nghiệp sản xuất, tăng
kim ngạch xuất khẩu và tạo công ăn việc làm, ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ
mạnh mẽ. Bên cạnh đó, đầu tư gián tiếp nước ngoài có thể giúp vốn cho các doanh nghiệp
trong nước, giúp bản thân doanh nghiệp tự mình có thể tăng trưởng và nâng cao năng lực
cạnh tranh. Chính vì thế, đầu tư gián tiếp nước ngoài rất quan trọng đối với các doanh nghiệp
trong nước đang thiếu vốn. Ngoài việc tiếp cận được các nguồn vốn mới thì doanh nghiệp còn

tiếp cận được với kỹ thuật điều hành tiên tiến để thúc đẩy sự phát triển kinh doanh. Ngoài ra,
việc thu hút vốn đầu tư gián tiếp làm cho thị trường tài chính phát triển đồng đều và có chiều
sâu hơn. Thu hút được nhiều vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài chứng tỏ thị trường tài chính
thực sự ổn định và có một cơ sở vững chắc. Khi đó, các doanh nghiệp trong nước cũng như
nước ngoài có nhiều cơ hội để tiếp cận được với những nguồn vốn đa dạng, phong phú trên
toàn thế giới.
Cơ chế điều hành tỷ giá có thể gây ra những hậu quả bất lợi như bản tệ mất giá gây
nguy cơ lạm phát, ''chảy máu'' ngoại tệ, đầu cơ tiền tệ, hạn chế nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Vì vậy, trong quản lý vĩ mô, chính sách tỷ giá phải được xử lý một cách đồng bộ và phù hợp
với thực trạng của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định như quy định lượng ngoại tệ được
phép chuyển ra nước ngoài trong một thời gian xác định; ngăn việc chuyển nhượng từ tài
khoản ngoại tệ này sang tài khoản ngoại tệ khác; quy định hạn chế việc sử dụng ngoại tệ
trong các giao dịch thanh toán trong nước; quy định không cho phép hoặc khống chế hạn mức
tín dụng ngoại tệ mà NHTM được phép cho khách hàng vay; các giao dịch ngoại hối chỉ được
phép khi có sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền ….
Trang 6
Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến các quyết định của những người sản xuất, người tiêu
dùng, các nhà đầu tư và đến giá cả trong một quốc gia. Việc phân tích về tỷ giá phải được đặt
trong các mô hình kinh tế vĩ mô của một nền kinh tế mở mới thấy được mối quan hệ của tỷ
giá và các biến số vĩ mô khác.
#7#A#L,%8M8D38(S,(N'8(1&0,1-E;)8%&3#
Tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng rất lớn đến các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn và các
giao dịch khác giữa trong nước với nước ngoài. Sử dụng TGHĐ như là một công cụ để thực
thi chính sách tiền tệ quốc gia là việc mà nhiều nước đã làm, trong đó Trung Quốc là một điển
hình.
Ở Việt Nam, NHNN là cơ quan xác định và công bố TGHĐ của đồng Việt Nam.
NHNN một mặt vận dụng cơ chế quản lý TGHĐ phù hợp kinh tế thị trường, mặt khác theo
dõi nắm bắt thực tế và dự báo tương lai để công bố tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam nhằm đạt
được những mục tiêu cụ thể của chính sách tiền tệ quốc gia.
NHTW xác định tỷ giá hối đoái và vận dụng cơ chế quản lý tỷ giá phù hợp với kinh tế

thị trường còn góp phần đảm bảo một chính sách tiền tệ độc lập, một chính sách tài chính
vững mạnh, giải quyết một cách chủ động và hiệu quả các vấn đề khác như: ổn định ngân
sách, ổn định tiền tệ, nợ nước ngoài…Việc xác định một tỷ giá hối đoái phù hợp với sức mua
của nội tệ và quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại tệ sẽ giúp quốc gia chủ động được trong
việc can thiệp vào tỷ giá khi có biến động bất thường để giữ cân bằng mà tránh cho nền kinh
tế thoát khỏi những cú sốc. Từ đó, giúp ổn định giá cả, ổn định tiền tệ, thu hút đầu tư, kiểm
soát được lạm phát, hạn chế thất nghiệp, tạo được lòng tin của người dân vào nội tệ, vào
chính sách kinh tế.
Đồng tiền ổn định và tỷ giá hối đoái hợp lý có vai trò quan trọng trong chính sách tiền
tệ, sẽ tạo điều kiện cho việc duy trì, mở rộng và phát triển các mối quan hệ kinh tế trong nước
và quốc tế, giúp cho nền kinh tế trong nước có điều kiện hội nhập khu vực và thế giới ngày
càng mạnh mẽ hơn.
Tỷ giá hối đoái là một công cụ của chính sách tiền tệ, do đó nâng cao vai trò của tỷ giá
hối đoái trong hội nhập kinh tế sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định đặc biệt trong lĩnh
vực xuất nhập khẩu và bảo vệ giá trị nội tệ, kích thích tăng trưởng kinh tế, góp phần nâng cao
tính chuyển đổi của đồng tiền quốc gia.
Không ngừng hướng tới việc nâng cao uy tín của nội tệ trên cơ sở ổn định giá trị đồng
tiền, duy trì sự tương đồng hợp lý giữa giá trị đối nội và đối ngoại. Hướng dần tới việc nội tệ
có khả năng chuyển đổi. Sở dĩ vấn đề uy tín của nội tệ đựơc nhấn mạnh bởi nó có ý nghĩa hết
sức to lớn trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị, đối nội và đối ngoại, đồng thời gắn với
Trang 7
hàng loạt vấn đề mang tầm chiến lược. Trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sự mất uy tín
của nội tệ ở bất kỳ quốc gia nào bao giờ cũng là nguyên nhân của các biến động kinh tế- tài
chính và để lại nhiều hậu quả tiêu cực khó lường. Rõ ràng một đồng tiền mất uy tín tất yếu sẽ
làm tổn thương đến tích luỹ, đầu tư nội địa, loại bỏ sự hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài,
tăng nguy cơ lạm phát, chi phí huy động vốn cao, nếu trầm trọng có thể bị tước bỏ chức năng,
bị đẩy ra khỏi hệ thống lưu thông - thanh toán, tạo điều kiện cho hội chứng đôla hoá. Các
nước có nền kinh tế đang phát triển, uy tín của nội tệ trong dân chúng chưa cao. Do đó, việc
nhận thức đầy đủ vấn đề nâng cao vai trò tỷ giá hối đoái chính là nâng cao uy tín của đồng
tiền quốc gia cũng chính là một tác nhân trực tiếp vào chiến lược vốn, chiến lược tăng trưởng

kinh tế nhanh, bền vững.
Trang 8
7
 T 
UV !
7##)&/J&,%+5&1(?<,%
Việt Nam thành công trong việc điều chỉnh tỷ giá ngân hàng công bố và tỷ giá trên thị
trường tự do gần sát nhau và thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt với biên độ được điều chỉnh
trong từng thời kỳ2.1.1. Trước năm 1989: Cố định và đa tỷ giá
Ngày 20/10/1988 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là thủ tướng Chính phủ ) ra quyết
định số 271/CT cho phép Ngân hàng Nhà nước được phép điều chỉnh tỷ giá phù hợp với sự
biến động giá cả trong nước theo nguyên tắc thời giá trừ lùi 10% đến 30% cá biệt đến 50%.
Nghị định 53/HĐBT ra đời, qui định về việc tách hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp
thành hai cấp, bao gồm ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô và hệ thống
ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và tín dụng. $%&'.;3=',
8D38'8,%W,(X,%*?Y8I(ZIPO312[,8<N@1$%&'8(S,(1(\8P+8L,%=)8G,%
12]^_#
Quá trình xóa bỏ chế độ tỷ giá kết toán nội bộ diễn ta cùng lúc với việc điều chỉnh
giảm giá mạnh nội tệ. Để giảm bớt chênh lệch tỷ giá nhằm tiến tới điều hành tỷ giá dựa chủ
yếu vào quan hệ cung cầu trên thị trường, nhà nước đã thông qua chính sách tỷ giá linh hoạt
hơn – điều chỉnh tỷ giá chính thức theo tỷ giá trên thị trường tự do sao cho mức chênh lệch
nhỏ hơn 20%. Kết quả là mức chênh lệch tỷ giá được thu hẹp.
Trang 9
Bảng 2.1. Tỷ giá hối đoái và xuất nhập khẩu giai đoạn 1986-1989

m
Tỷ giá chính
thức
(USD/VND)
Xuất khẩu Nhập khẩu

Cán cân thương
mại
Tỷ giá thị
trường
(USD/VND)
Mức
tỷ giá
(đồng
)
%Tăng
, giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Giá trị
(triệu
USD)
%
Tăng,

giảm
Mức
tỷ giá
(đồng)
%
Tăng,
giảm
1986 80 _ 789,1 _ 2,155 _ -1,366 _ 425 _
1987 368 360 854,2 8.25 2,455 13.92 -1,601 -17.20 1,270 198.82
1988 3,000 715.21 1038,4 21.56 2,756 12.29 -1,718 -7.31 5,000 293.70
(Nguồn : Tính toán dựa trên số liệu Tổng Cục Thống Kê)
Có thể dễ dàng nhận thấy trước thời điểm 1989, khi Nhà nước càng cố gắng hạ giá
đồng nội tệ thì nhập siêu lại càng nặng. Nếu nhập siêu năm 1987 khoảng 1,6 tỷ USD thì sang
năm 1988, khi tỷ giá bị hạ xuống thấp hơn so với năm trước đó 8 lần thì nhập siêu lại lên đến
hơn 1,7 tỷ. Điều này cho thấy việc hạ giá đồng Việt Nam trong bối cảnh vẫn áp dụng tỷ giá
kết toán nội bộ không những không kích thích được ngoại thương mà còn đẩy hoạt động này
đến tình cảnh nhập siêu trầm trọng hơn.
Năm 1989, sau khi xóa bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, thực hiện thống nhất tỷ giá, bộ mặt
ngoại thương lập tức có biến chuyển rõ nét. Mặc dù mức giá đồng ngoại tệ chỉ tăng 30% ( ít
hơn so với giai đoạn trước đó) song nhập khẩu đã giảm xuống chỉ bằng 93% so với năm
trước, xuất khẩu được kích thích tăng trưởng nên kim ngạch đã đạt được 1,3 tỷ đô la, thu hẹp
khoảng cách nhập siêu xuống còn 1,2 tỷ đô la (so với mức 1,7 tỷ đô la năm 1988).
Thời kỳ 1986-1989, tổng độ co giãn xuất nhập khẩu chỉ đạt 0,003 một chỉ số quá thấp
thể hiện nền kinh tế tăng trưởng không bền vững hay đúng hơn là không tăng trưởng. Trung
bình giá đồng nội tệ giảm 1 đồng thì xuất khẩu chỉ tăng có 0,195 đồng và nhập khẩu giảm
0,192 đồng. Nhưng do lượng hàng xuất đi luôn nhỏ hơn lượng hàng nhập về nên tình trạng
kim ngạch nhập khẩu lớn gấp hai, ba lần kim ngạch xuất khẩu diễn ra liên tục trong 3 năm
1986-1989. Lý do cơ bản giải thích cho vấn đề này chính là trong khi sản xuất hàng xuất khẩu
sụt giảm, động lực xuất khẩu bị thủ tiêu do tính cứng nhắc của tỷ giá, thì nhập khẩu lại tăng
Trang 10

lên để phục vụ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, nhu cầu mà sản xuất trong nước chưa thể đáp ứng
nổi.
7##7#],`.abacaad(>,4&e1$%&'()&*+'&
Thời kỳ này đánh dấu sự sụp đổ của hệ thống Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Quan hệ
ngoại thương với các thị trường truyền thống bị gián đoạn, khiến chúng ta phải chuyển sang
buôn bán với khu vực thanh toán bằng đồng Đô-la Mỹ.
Quá trình đổi mới kinh tế thực sự diễn ra mạnh mẽ bắt đầu từ năm 1989. Chính phủ
cam kết và thực thi chiến lược ổn định hóa nền kinh tế - tài chính – tiền tệ, trong đó vấn đề tỷ
giá được coi là khâu đột phá, có vai trò cực kỳ quan trọng đối với quá trình cải cách, chuyển
đổi cơ chế và mở cửa kinh tế.
Chính phủ đã có những bước đi mới để tỷ giá đồng VND được linh hoạt hơn theo nhu
cầu thị trường và điều này đã tạo nên những chuyển biến trong tình hình xuất nhập khẩu của
Việt Nam.
Trang 11
Năm
Tỷ giá chính
thức
(USD/VND)
Xuất khẩu Nhập khẩu
Cán cân
thương mại
Tỷ giá thị trường
(USD/VND)
Mức
tỷ giá
(đồng)
%Tăng,
giảm
Kim
ngạch

(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Giá trị
(triệu
USD)
%
Tăng
,
giảm
Mức tỷ
giá
(đồng)
% Tăng,
giảm
aba Afagg Ag 1,320 7h#7 7f^ii ci#a7 cf7j^ h7#^g jfgg cb
1990 6,300 61.54 2,404 82.12 2,752 7.27 -348 27.96 6,500 58.54
1991 9,767 55.03 2,087 -13.19 2,338 -15.04 -251 72.13 11,975 84.23
Bảng 2.2. Tỷ giá hối đoái và xuất nhập khẩu giai đoạn 1989-1991
(Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu Tổng Cục Thống Kê)
Bảng 2.2 cho thấy giá trị danh nghĩa đồng Việt Nam sụt giảm mạnh và liên tiếp trong

suốt giai đoạn 89-92. Từ mức tỷ giá 1USD = 3000VND năm 1989, đồng nội tệ đã giảm
xuống 9767 đồng/đôla năm 1991; trong vòng 3 năm, tỷ giá đã sụt giảm gần 3 lần. Sự sụt giảm
này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động ngoại thương Việt Nam, đặc biệt là trên phương
diện kim ngạch xuất-nhập khẩu trong quan hệ buôn bán với các quốc gia bao gồm cả những
nước tư bản phương Tây.
Do tỷ giá chính thức được điều chỉnh tiến sát với tỷ giá thị trường, hình thành theo quy
luật cung cầu nên vai trò của tỷ giá đến hoạt động thương mại- xuất nhập khẩu trở nên rõ nét
hơn, chính xác hơn.
Giá đồng nội tệ giảm xuống thực sự kích thích tăng trưởng xuất khẩu, hạn chế nhập
khẩu. Năm 1989 nếu tỷ giá giảm 1 đồng, xuất khẩu lập tức tăng lên 0,97 đồng, thì bước sang
năm 1990 sau khi giảm tỷ giá xuống trên 60% thì 1 đồng giảm của tỷ giá lại khiến xuất khẩu
tăng những 1,13 đồng, một mức tăng khá, thể hiện xuất khẩu co giãn hoàn toàn với tỷ giá do
đó có tác động tích cực lên hoạt động xuất khẩu. Trong ba năm 1989-1991 yếu tố nổi bật
trong tác động của tỷ giá đến hoạt động nhập khẩu là mức giảm giá đồng nội tệ càng lớn thì
mức tăng nhập khẩu càng giảm. Đơn cử như năm 1989, mức giảm giá 30%, trong đó 1 đồng
giảm giá kéo theo mức tăng 0,71 đồng thì bước sang năm 1990, tỷ giá giảm đến 60% đã lập
tức thu hẹp mức tăng nhập khẩu xuống còn 0,66 đồng.
Trang 12
Xét về tác động của tỷ giá lên cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu giai đoạn 1989-1991,
cùng với sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trên cơ sở giảm giá đồng nội tệ, nền kinh tế đã
tích lũy được một số vốn sử dụng trong việc đầu tư, mở rộng sản xuất. Sản xuất lương thực
trong nước đối với một số mặt hàng nhờ có vốn đã bắt đầu đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nước. Số lượng gạo nhập khẩu giảm, thay vào đó là các mặt hàng thuộc danh mục tư
liệu sản xuất, nguyên nhiên vật liệu. Cơ cấu xuất khẩu cũng có sự thay đổi, danh mục các mặt
hàng xuất khẩu được mở rộng. Năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô với sản lượng
1,5 triệu tấn, đó là chưa kể đến hàng loạt các nhà máy cũ được đổi mới, các nhà máy mới
được xây dựng nhằm phục vụ công tác xuất khẩu. Ngoại thương được đa dạng hóa ở mức
cao, tạo ra được gần 10 mặt hàng chủ lực có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD. Bên
cạnh đó, việc tỷ giá giảm mạnh kéo theo sự tăng lên đáng kể trong đầu tư nước ngoài đặc biệt
là đầu tư trực tiếp đã làm phong phú hơn danh mục xuất nhập khẩu của Việt Nam. Việc liên

doanh thường dẫn đến tình trạng góp vốn thông qua công nghệ và thế là Việt Nam bắt đầu
nhập về những công nghệ mới như công nghệ dán da, công nghệ xử lý chất thải những công
nghệ từ trước tới nay chưa từng có trong danh mục nhập khẩu để rồi đi đến sản xuất những
chủng loại hàng có thể cũng chưa bao giờ xuất hiện trong danh mục xuất khẩu.
Về thị trường xuất nhập khẩu, do tỷ giá hối đoái neo với đồng đô la được xem là chuẩn
mực nên khu vực thị trường xuất nhập khẩu cũng có xu thế chuyển hướng sang những khu
vực sử dụng đồng đô la trong thanh toán. Tỷ trọng xuất nhập khẩu từ khu vực đồng Rúp giảm
hẳn, chỉ còn khoảng 15% năm 1989 so với 85% năm 1987. Thị trường Đông Âu không còn
giữ vai trò chủ đạo, thay vào đó là sự lên ngôi của thị trường Châu Á trong hợp tác thương
mại với Việt Nam trên cả lĩnh vực xuất khẩu lẫn nhập khẩu.
Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, thời kỳ này do có lợi thế về giá cộng với rủi ro tỷ
giá hoàn toàn không có nên đã yên tâm phát triển sản xuất, mạnh bạo hơn trong vấn đề vay
vốn và bước đầu sản xuất hàng xuất khẩu có hiệu quả.
k1(R,k&, việc mở rộng hoạt động ngoại thương sang khu vực đồng USD là một
bước đi quan trọng, tỷ giá đồng VND được điều chỉnh bởi thị trường đã góp phần thay đổi bộ
mặt xuất nhập khẩu của Việt Nam, vai trò của tỷ giá hối đoái đối với hoạt động ngoại thương
được thể hiện rõ nét hơn.
7##A#],`.aa7laaa
Nhìn vào bảng 2.2 trên có thể thấy trong các năm từ 1992 – 1999, duy chỉ có năm 1992
là Việt Nam đạt xuất siêu. Tuy nhiên, thành tích xuất siêu kéo dài không được bao lâu. Ngay
trong năm 1992, trong khi 6 tháng đầu năm xuất siêu do tỷ giá diễn biến có lợi cho xuất khẩu
thì 6 tháng cuối năm, nhập siêu liên tục diễn ra.
Trang 13
Những năm 90, có ý kiến cho rằng tỷ giá không hề có vai trò gì đến hoạt động xuất-
nhập khẩu nói riêng cũng như ngoại thương nói chung, rằng hoạt động này chịu sự chi phối
hoàn toàn của các chiến lược phát triển ngoại thương, cách quản lý hạn ngạch, cách áp đặt
thuế suất và nhất là chất lượng sản phẩm. Song thực tế cho thấy trong khi Bộ Thương Mại
cùng các cơ quan chức năng đang ra sức củng cố, mở rộng thị trường xuất khẩu, đầu tư mới
dây chuyền-công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản xuất hàng xuất khẩu thì mức tăng kim
ngạch xuất khẩu lại sụt giảm. Năm 1994, nếu mức tăng kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 36%

ở mức giảm giá danh nghĩa nội tệ 2,96% thì sang năm 1995, mức tăng xuất khẩu chỉ đạt
khoảng 34% bởi tỷ giá giảm rất thấp, ở mức 0,14%.
Trang 14
`.
$  %&'  8(S,(
1(\8
mnopo6
q;r1K(s; (HIK(s;
',  8W,
1(?<,%.5&
-  N)  8+
%&t,
\8
1$%&'
mo6
_
`,%f
%&>.
&.
,%58(
m12&-;
no6
_
`,%f
%&>.
&.
,%58(
m12&-;
no6
_

`,%f
%&>.
 &'
12Q
m12&-;
no6
_
`,%f
%&>.
q;r1
K(s;
mu
v
6
(HI
K(s;
mu
,
6
aa7 10,720 9.8 2,581 23.65 2,540 8.65 41 116.73 _ _
aaA 10,640 -0.7 2,985 15.65 3,924 54.49 -939 -2390 _ _
aaj 10,955 2.9 4,054 35.8 5,826 48.5 -1,771 -88.6 1.32 -1.44
aa^ 10,970 0.1 5,449 34.4 8,155 40 -2,707 -52.9 1.34 -1.40
aai 11,100 1.2 7,256 33.2 11,143 36.6 -3,887 -53.6 1.32 -1.35
aah 11,175 0.7 9,185 26.6 11,592 04 -2,407 61.5 1.26 -1.03
aab 12,985 16.2 9,360 1.9 11,500 -0.8 -2,139 12.5 0.88 -0.85
aaa 14,004 7.8 11,541 23.3 11,742 2.109 -200 90.65 1.14 -0.94
Bảng 2.3. Xuất-nhập khẩu Việt Nam trong tương quan với tỷ giá
giai đoạn 1992-1999
(Nguồn: Tính toán theo số liệu WB, Tổng Cục thống kê, Vụ ngoại hối-Ngân hàng nhà nước)

Căn cứ vào số liệu ở Bảng 2.3 trên, có thể thấy việc tỷ giá luẩn quẩn quanh biên độ
giao động +/- 0,5% giai đoạn 93-96 đã thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhập
khẩu. Nhập siêu tăng gần gấp đôi trong năm 93, 94. Đặc biệt năm 1996, khi tỷ giá danh nghĩa
bị ấn định so với tỷ giá thực ở mức cao nhất 28% thì nhập siêu cũng đạt mức kỷ lục: 3,8 tỷ đô
la. Trung bình giai đoạn 94-96, cứ 1 đồng tăng giá nội tệ kéo theo hàng nhập khẩu rẻ đi 1,4
đồng trong khi xuất khẩu sụt giảm 1,3 đồng. Điều này cho thấy tác động của tỷ giá hối đoái
lên ngoại thương Việt Nam trong bối cảnh tỷ giá hối đoái nội tệ bị định cao hơn so với giá trị
thực của nó vận động rất đúng theo xu thế lí luận chung. Tỷ giá tăng đã kéo lùi tốc độ tăng
xuất khẩu, đẩy nhanh tốc độ nhập siêu và thực sự gây tổn hại đến sản xuất trong nước.
Đối với cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu, việc tăng tỷ giá dường như ưu ái cho các mặt
hàng nhập khẩu hơn. Tỷ giá danh nghĩa được định cao hơn tỷ giá thực bao nhiêu thì giá hàng
Trang 15
nhập khẩu cũng được rẻ đi bấy nhiêu. Giá đô la hạ xuống 12,5% từ khoảng 12.000 tháng
1/1993 xuống 10.600 cuối năm khiến hàng nhập theo giá đô la cũng được rẻ đi 12,5% . Nếu
lấy năm 1992 làm mốc, đồng Việt Nam đã lên giá 24% trong 3 năm 1993 – 1995 và theo đó
giá hàng xuất khẩu cũng bị đẩy đắt lên 24% trên các thị trường ngoại quốc.
Hìn h 2.1 : Diễn biến tỷ giá USD/VND giai đoạn 1992 - 1999
Ngoài ra, việc đồng Việt Nam tăng giá so với đồng Đô la cũng đã phần nào khiến đồng
Việt Nam tăng giá so với các đồng tiền khác như Nhân dân tệ, Yên Nhật Điều này cũng
khiến công tác mở rộng thị trường trở nên khó khăn. Tuy nhiên do công tác xúc tiến thị
trường giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại thị trường nước ngoài bắt đầu được tiến hành rầm rộ
nên qui mô thị trường không những không bị thu hẹp mà ngày càng được mở rộng hay nói
cách khác, thời kỳ này tỷ giá không ảnh hưởng mấy đến vấn đề thị trường xuất-nhập khẩu.
Khủng hoảng giai đoạn 1997 – 1998 đã thay đổi toàn bộ quan điểm điều hành tỷ giá
của Việt Nam. Xét thấy việc cố định tỷ giá ở mức cao là không thể được, ngân hàng Trung
Ương đã tiến hành điều chỉnh ngay tỷ giá đồng Việt Nam. Cơ chế điều hành tỷ giá tỏ ra hoạt
động có hiệu quả khi chỉ trong vòng 1 năm (1997 so với 1996 ) đồng Việt Nam đã giảm giá
16%, khoảng cách giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa được thu hẹp, tác động tích cực đến
ngoại thương Việt Nam. Rõ nét nhất là kim ngạch nhập khẩu tăng chậm, chỉ dừng ở mức 4%,
đưa mức nhập siêu xuống 2,4 tỷ so với 3,8 tỷ năm 1997 so với 1996. Và đặc biệt năm 1999,

mức nhập siêu chỉ còn khoảng 200 triệu đô la.
Trang 16
Mặc dầu vậy, khi đặt đồng Việt Nam trong tương quan với giá tiền tệ các quốc gia chịu
ảnh hưởng nặng nề bởi khủng hoảng thì giá đồng Việt Nam vẫn còn ở mức cao. Trung bình,
tỷ lệ mất giá so với đô la của các đồng tiền thuộc khu vực khủng hoảng là 30-40%, cao nhất
là đồng Rupiah của Indonesia với độ mất giá đến hơn 80%, ngay cả đồng đô la Singapore
cũng bị sụt giá 16% trong khi đó đồng Việt Nam chỉ được giảm giá trung bình 8,25%. Thực
tế này đã không mang lại điều kiện về giá cho hàng hóa Việt Nam để có thể cạnh tranh được
trên thị trường các nước Đông Nam Á. Đây cũng là nguyên nhân giải thích tại sao lượng xuất
khẩu của Việt Nam không tăng mấy trong năm 1998, kéo theo kim ngạch xuất khẩu, tốc độ
tăng xuất khẩu đứng ở mức thấp 1,9%.
k.B5&, có thể nói vai trò của tỷ giá lên hoạt động ngoại thương thời kỳ này được thể
hiện khá rõ. Lần đầu tiên chúng ta đã dung hòa được mối quan hệ vốn mâu thuẫn giữa xuất
khẩu-tỷ giá-nhập khẩu. Nhập khẩu được kiểm soát còn xuất khẩu trở nên chủ động hơn trên
những thị trường mới và thời kỳ 1997-1999 có thể xem là thời kỳ thành công trong điều hành
tỷ giá ở Việt Nam.
7##j#],`.7gggc,39(>,4&8kNO*&0;1&:18D3,(X,?J8
Hình 2.2. Biến động tỷ giá 2000-2012
Trang 17
Hình 2.3. Biến động tỷ giá 2008-6 tháng đầu năm 2013
Cùng với việc tự do hóa thương mại, kim ngạch hàng hóa trao đổi tăng lên cũng là lúc chính
phủ cần thận trọng hơn trong chính sách quản lý tỷ giá theo hướng không chủ thúc đẩy kim
ngạch xuất nhập khẩu mà còn phải đảm bảo cân bằng cán cân thương mại.
Tổng hợp bảng số liệu về tỷ giá hối đoái của Việt Nam và tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn
2000-6 tháng đầu 2013:
Trang 18
Bảng 2.4. Xuất-nhập khẩu Việt Nam trong tương quan với tỷ giá
giai đoạn 2000-6 tháng đầu 2013
Năm
Tỷ giá chính

thức
(USD/VND)
Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại
Mức
tỷ giá
(đồng
)
%Tăng
, giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Giá trị
(triệu
USD)
% Tăng,
giảm
7ggg
jfhb

7
^#^i jfjbA 7^#ja ^fiAh AA#gi cf^j cihj#aa
2001
14,84
6
0.45 15,029 3.76 16,218 03.71 -1,189 -3.03
2002
15,27
0
2.86 16,706 11.16 19,745 21.75 -3,039 -155.59
2003
15,51
2
1.58 20,149 20.61 25,256 27.91 -5,107 -68.05
2004
15,74
4
1.49 26,504 31.54 31,954 26.52 -5,405 -6.71
2005
15,85
7
0.72 32,442 22.40 36,978 15.72 -4,536 16.08
2006
15,99
4
0.86 39,632 22.16 44,412 20.10 -4,780 -5.38
2007
16,08
0
0.53 48,561 22.53 62,682 41.14 -14,121 -195.42

2008
16,44
8
2.28 62,685 29.08 80,714 28.77 -18,029 -27.68
2009 17,81 8.31 57,096 -8.91 69,949 -13.33 -12,853 28.71
Trang 19
5
2010
19,11
8
7.34 72,192 26.44 84,801 21.23 -12,609 1.90
2011
19,54
6
2.24 96,910 34.24
106,75
0
25.88 -9,840 21.96
2012
19,35
8
-0.96
114,60
0
18.25
114,30
0
7.07 300 103.05
6tháng
đầu/2013

19,52
0
0.84 62,050 16.10 63,450 17.40 -1,400 -566.67
(Nguồn: Tổng hợp trên số liệu của Ngân hàng Á châu và Tổng cục thống kê)
Trong 5 năm từ 2001 đến 2005, khi Việt Nam chưa thành thành viên WTO, tỷ giá
đồng VND được duy trì ở mức tương đối ổn định, theo đó kim ngạch xuất khẩu cũng được
duy trì ở mức tăng đều tuy nhiên cán cân thương mại vẫn bị thâm hụt trong khoảng 4 đến 5 tỷ
đô la Mỹ. Mức thâm hụt này phản ánh đúng nhu cầu và phù hợp với thực trạng phát triển kinh
tế của Việt Nam.
Tuy nhiên, sau năm 2005, đặc biệt là cuối năm 2006 và bước sang năm 2007, kim
ngạch nhập khẩu của Việt Nam tăng nhảy vọt. Điều này được lý giải là do khi mở cửa nền
kinh tế, hàng nhập khẩu ồ ạt vào thị trường Việt Nam trong khi hàng xuất khẩu vẫn loay hoay
chưa tìm tạo ra được bước nhảy. Thâm hụt cán cân thương mại ở mức kỷ lục tăng 195,42% so
với năm 2006. Tình hình này làm cho lượng dự trữ ngoại tệ của Việt Nam bị giảm sút nghiêm
trọng.
Sang năm 2009, chính phủ 2 lần điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng và đến cuối năm
2010. Đồng VND bị giảm giá liên tục 8.3% năm 2009 và 7.3% năm 2010.
Nhìn vào số liệu phản ánh về tỷ lệ tăng giá đồng tiền Việt Nam với sự thay đổi trong
cán cân thương mại có thể nói độ nhạy của những thay đổi trong cán cân đối với thay đổi
trong tỷ giá là rất thấp. Nếu như năm 2009 khi đồng Việt Nam giảm giá 8.3% thì cán cân
được cải thiện 28.7% nhưng với 7.3% giảm giá trong năm 2010 thì cán cân chỉ được cải thiện
1.9%.
Còn năm 2012, đồng VND tăng giá không nhiều 0.96%, và sau đó lại giảm nhưng không
đáng kể 0.84% vào 6 tháng đầu năm 2013.
Trang 20
Chúng ta cũng nhận thấy sự tác động không thống nhất của những thay đổi về tỷ giá lên sự
thay đổi của kim ngach xuất nhập khẩu cũng như cán cân thương mại càng cho thấy những
thay đổi về tỷ giá của ngân hàng nhà nước và thị trường ngoại hối trong thời gian qua chưa hỗ
trợ được cho kim ngạch xuất nhập khẩu cũng như cán cân thương mại của Việt Nam.
Có thể nói, giai đoạn 2000-6 tháng đầu năm 2013 nền kinh tế Việt Nam nói chung và

chính sách tỷ giá hối đoái nói riêng được vận động trong môi trường tự do cạnh tranh. Những
thay đổi của chính sách tỷ giá ít nhiều tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu và cán cân
thương mại tuy nhiên, mức tác động này chưa tương xứng với vai trò của chính sách tỷ giá
trong 1 nền kinh tế mở. Chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam vẫn chưa được điều hành như
một công cụ tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu mà mới chỉ dừng lại ở việc ổn định tình
hình tiền tệ.
Trong thời gian tới, cùng với các công cụ quản lý khác, nhà nước sẽ có những giải
pháp đồng bộ nhằm nâng cao vai trò của tỷ giá hối đoái đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
Việc lên giá thực của VND trong một thời gian dài đã góp phần làm giảm năng lực
cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường thế giới. Điều này được chứng minh bằng một
thực tế là tình trạng thâm hụt thương mại lớn và kéo dài của Việt Nam kể từ đầu thập kỷ 90
đến nay, đặc biệt năm 2008 nhập siêu tăng vọt 18 tỷ USD…
Chính sách tỷ giá hối đoái hiện nay nặng về quản lý tỷ giá hối đoái danh nghĩa, thiếu
các phân tích và đánh giá thường xuyên về tỷ giá hối đoái thựcvà mức độ tác động đến lạm
phát, xuất khẩu… và chưa xây dựng được mục tiêu điều hành tỷ giá trong dài hạn, các quyết
định điều chỉnh tỷ giá đều mang tính đối phó với biến động thị trường. Hệ thống thị trường
tiền tệ, thị trường ngoại hối phát triển không kịp với nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế. Quy
định quản lý ngoại hối còn nhiều bất cập, chế tài xử phạt không nghiêm.
Nhà nước cần thường xuyên phân tích tình hình kinh tế thế giới, khu vực và trong
nước để có chính sách điều chỉnh thích hợp.
7#7#)&/J&NO8(;9R,PQ8(PC,%/),#
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, trên nền tảng cơ chế tỷ giá đã lựa
chọn, việc điều hành chính sách tỷ giá theo hướng ngày càng linh hoạt hơn đã giúp Việt Nam
khơi thông các dòng vốn đầu tư. Dòng vốn vào Việt Nam có tác động thúc đẩy tăng trưởng,
nhưng dòng vốn vào quá lớn cũng gây áp lực làm biến động tỷ giá, bất chấp sự can thiệp của
NHTW, các nhà hoạch định chính sách gặp khó khăn trong việc cân bằng nhu cầu giữa dòng
vốn lớn (nhất là vốn FDI) với việc đảm bảo tính cạnh tranh, ổn định tài chính và duy trì lạm
phát thấp. Việc điều hành CSTT gặp nhiều khó khăn do NHNN phải đồng thời thực hiện mục
Trang 21
tiêu kiểm soát lạm phát, can thiệp trên thị trường ngoại hối để tăng dự trữ ngoại hối và ổn

định tỷ giá tránh để VND mất giá hoặc lên giá quá mức.
Các khoản vay nợ nước ngoài thường được tính theo đơn vị tiền tệ nước đó hoặc những đồng
tiền mạnh nên khi tỷ giá hối đoái tăng lên cũng đồng nghĩa với sự tăng lên của gánh nặng nợ
nước ngoài. Ngày nay khi sự luân chuyển vốn quốc tế ngày càng tự do thì các nước đặc biệt
các nước đang phát triển càng cần phải thận trọng hơn trong chính sách tỷ giá để đảm bảo
tăng trưởng và khả năng trả nợ nước ngoài.
Hình 2.2. Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP
 w;1?12O81&:I
Tỷ giá hối đoái tác động tới giá trị phần vốn mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư hoặc
góp vốn liên doanh. Vốn ngoại tệ hoặc tư liệu sản xuất được đưa vào nước sở tại thường được
chuyển đổi ra đồng nội tệ theo tỷ giá chính thức. Bên cạnh đó tỷ giá còn có tác động tới chi
phí sản xuất và hiệu quả các hoạt động đầu tư nước ngoài. Do đó sự thay đổi tỷ giá hối đoái
có ảnh hưởng nhất định tới hành vi của các nhà đầu tư nước ngoài trong việc quyết định có
đầu tư vào nước sở tại hay không.
Bảng 2.5. Tỷ lệ đầu tư giá thực tế năm 2004 và GDP trong nước qua các năm:
aa^ 7ggg 7gg 7gg7 7ggA 7ggj 7gg^x
GDP năm 1994(
tỷ đồng)
228.892 441.649 481.295 535.762 605.583 651.607 703.736
Trang 22
GDP năm 1994
(tỷ USD)
20,7 39,9 43,5 48,5 54,8 58,9 63,6
Dân số (triệu
người)
71,5 77,6 78,6 79,7 80,0 82,1 83,2
GDP đầu người
theo giá USD
1994
289 514 553 607 684 717 764

Tổng đầu tư % 27,14 29,61 31,17 33,22 35,09 35,4 36,5
A, tài sản cố
định mới %
25,42 27,65 29,15 31,14 32,97 33,28 34,38
B, Gia tăng tồn
kho%
1,72 1,96 2,02 2,08 2,12 2,12 2,12
Tiêu dùng % 81,8 72,88 71,18 71,33 71,79 64,6
A, Nhà nước % 8,19 8,48 8,33 8,23 8,9
B, Tư nhân % 73,61 64,46 62,85 63,1 62,89
Nhập siêu( tỷ
đồng)
-20.819 -10.878 -10.982 -27.684 -45.725
Sai biệt thống kê
(%)
0,18 0,02 0,08 0,62 0,68
(Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2003, Báo cáo tạm ước của Chính phủ tại Quốc hội
tháng 10/ 2004, số liệu 205* là số dự báo)
Theo bảng trên ta thấy, mức tổng đầu tư liên tục tăng. Năm 1995 là 27,1%, năm 2000
là 29,6%; năm 2001 là 31,1%; năm 2002 là 33,2%; năm 2003 là 35%, đến năm 2004 là
35,4%; năm 2005 dự đoán đầu tư sẽ tăng lên 36,5%.
Bảng thống kê cho thấy chính sách tiền tệ ngân hàng là tập trung vốn cho việc tăng
liên tục tổng đầu tư. Năm 2005 cần cố gắng giảm nạn thất thoát trong xây dựng cơ bản, giảm
nợ tồn đọng và tăng hiệu quả đầu tư.
 w;1?%&',1&:I
Trang 23
Là loại hình đầu tư thông qua hoạt động tín dụng quốc tế cũng như việc mua bán các
loại chứng khoán có giá trên thị trường.
Lợi tức khoản cho vay
bằng ngoại tệ

=
Lãi suất ngoại
tệ
+
Giảm giá đồng
nội tệ
Trong một thế giới có sự luân chuyển vốn quốc tế tự do khi tỷ giá hối đoái tăng tổng lợi tức
từ khoản vay bằng ngoại tệ lớn hơn lãi suất trong nước sẽ xảy ra hiện tượng luồng vốn chảy
ra nước ngoài và ngược lại tỷ giá hối đoái giảm luồng vốn sẽ đổ vào trong nước.
Như vậy muốn tạo môi trường đầu tư ổn định nhằm phát triển kinh tế đòi hỏi các quốc
gia xây dựng và điều chỉnh một chính sách tỷ giá ổn định hợp lý giảm mức độ rủi ro trong
lĩnh vực đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Tỷ giá hối đoái của đồng tiền, trong đó một danh mục đầu tư nắm giữ số lượng lớn các
khoản đầu tư quyết định trở lại thực sự của danh mục đầu tư . Một tỷ giá hối đoái giảm rõ
ràng làm giảm sức mua của thu nhập và tăng vốn bắt nguồn từ bất kỳ lợi nhuận nào. Hơn nữa,
tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến các yếu tố thu nhập khác như lãi suất, lạm phát và thậm chí
tăng vốn từ chứng khoán trong nước.
Hình 2.3. Giá trị mua ròng của nhà đầu tư nước ngoài
Giá trị đầu tư gián tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài từ 2007 đến tháng 7 năm 2013 có xu
hướng giảm. Nhất là năm 2008 giảm mạnh so với năm 2007 ( năm 2008 là 405 triệu USD,
năm 2007 là 1582 triệu USD). Tuy nhiên năm 2008 tỷ giá hối đoái tăng không nhiều so với
năm 2007.
Trang 24
Ta còn nhận thấy, tỷ giá hối đoái năm 2010 đột biến so với năm 2009 (2009: 17,815 đồng;
2010: 19,118 đồng), nhưng giá trị đầu tư gián tiếp từ nước ngoài vẫn tăng từ 196 triệu USD
lên đến 623 triệu USD
Từ hai điều này ta thấy rằng, vai trò của tỷ giá hối đoái chưa được thể hiện. Do áp lực lạm
phát gia tăng gây bất ổn trong nền kinh tế. Nguyên nhân do cộng hưởng các yếu tố như thiên
tai, giá cả hàng hóa thế giới tăng Ngoài ra, lạm phát ở Việt Nam còn có nguyên nhân cơ cấu
và khó có thể thay đổi đáng kể trong ngắn hạn. Chính vì thế, dù trong năm 2010, giá trị đầu tư

gián tiếp tăng nhưng tốc độ tăng trưởng GDP lại đạt rất thấp. Điề này đòi hỏi nhà nước cần
tạo điệu kiện để tỷ giá hối đoái nâng cao vai trò của mình đối với việc chuyển dịch dòng vốn
hơn.
7#A#)&/J&8(S,(N'8(1&0,1-#
7#A##L,%8M,%(&-I/M1(Q12?y,%.@12+,%(+51*G,%83,1(&-I*&0;8(z,(1$%&'()&
*+'&(&-,,39
Chính phủ cụ thể là NHTW sử dụng công cụ này để tác động vào tỷ giá hối đoái bằng
cách mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Một nghiệp vụ mua ngoại tệ trên thị trường
của NHTW sẽ làm giảm cung ngoại tệ trên thị trường của NHTW sẽ làm giảm cung ngoại tệ,
từ đó làm tăng tỷ giá hối đoái (ngoại tệ tăng hay nội tệ giảm giá). Ngược lại, một nghiệp vụ
bán ngoại tệ trên thị trường sẽ làm giảm tỷ giá hối đoái.
Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ có ảnh hưởng mạnh đến tỷ giá hối đoái. Tuy
nhiên để thực hiện nghiệp vụ này đòi hỏi quốc gia phải có dự trữ đủ mạnh. Bên cạnh công cụ
này, NHTW có thể tiến hành mua bán các chứng từ có giá như tín phiếu kho bạc để làm thay
đổi cung tiền trong nước vẫn có tác động tỷ giá vì làm thay đổi lãi suất, mức giá cả, … trong
nước. Tuy nhiên cách thức này chỉ có tác dụng gián tiếp đến tỷ giá nhưng lại có tác động trực
tiếp đến các biến số kinh tế vĩ mô khác. Do đó công cụ nghiệp vụ thị trường mở nội tệ thường
không được dùng như một công cụ nhằm can thiệp điều chỉnh tỷ giá hối đoái mà chỉ được
dùng phối hợp với công cụ nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ.
Ngoài hai công cụ cơ bản và thuần tý mang tính kinh tế trên, các quốc gia cũng thường
dùng một số công cụ mang tính hành chính như các quy định quản lý ngoại hối, điều chỉnh
các nghiệp vụ mua bán trên thị trường,… và những điều chỉnh trong chính sách tài chính
(thay đổi chỉ tiêu, thuế khóa của chính phủ) cũng sẽ có tác động làm thay đổi tỷ giá hối đoái.
Tuy nhiên, tỷ giá hối đoái cũng như thị trường ngoại hối chỉ là một phần trong thị trường tiền
tệ nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Vì vậy, phải đặt chính sách tỷ giá hối đoái trong
mối quan hệ với chính sách tài chính tiền tệ quốc gia.
Trang 25

×