Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Khảo sát bệnh viêm vú ở bò sữa nuôi tại công ty cổ phần thực phẩm sữa TH theo quan sát lâm sàng và CMT”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 46 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
Hiện nay ngành chăn nuôi đang được phát triển mạnh và chiếm tỉ trọng
cao trong nền nông nghiệp nước ta. Trong những năm qua, ngành chăn nuôi bò
sữa đã có những bước tiến khởi sắc. Đây là ngành sản xuất hàng hóa mang lại
nhiều lợi nhuận, khai thác tối ưu đồng bằng bãi chăn thả, tận dụng nguồn phế
phụ phẩm nông nghiệp và công nghiệp chế biến để tạo ra sản phẩm có giá trị
dinh dưỡng và giá trị hàng hóa cao, đồng thời góp phần giải quyết công ăn việc
làm cho nhiều lao động ở nông thôn. Tuy nhiên, việc phát triển đàn bò sữa còn
gặp nhiều khó khăn do đây là ngành chăn nuôi còn khá mới mẻ với người dân,
hơn nữa tình trạng dịch bệnh xảy ra luôn là mối quan tâm, lo lắng hàng đầu của
người chăn nuôi bò sữa.
Các dịch bệnh xảy ra rất phức tạp và thường gây thiệt hại cho người chăn
nuôi như: Tụ huyết trùng, Lở mồm long móng. Trong các bệnh thường xảy ra
trên bò sữa thì bệnh viêm vú là bệnh phổ biến, dễ lây lan và gây thiệt hại về kinh
tế rất lớn vì nó làm giảm sản lượng và chất lượng sữa. Tại Việt Nam, trong thời
gian gần đây, bệnh viêm vú trên đàn bò sữa bắt đầu được quan tâm. Nhiều khảo
sát cho thấy tỷ lệ bệnh viêm vú trên đàn bò sữa là vào khoảng 30 -50%, đặc biệt
là bệnh viêm vú ở thể tiềm ẩn. Việc chuẩn đoán bệnh viêm vú thường được nhận
biết rất rõ qua các triệu chứng lâm sàng. Nhưng đối với viêm vú tiềm ẩn, thường
việc chuẩn đoán rất khó khăn và thường thì người ta dựa vào số lượng tế bào thể
(tế bào soma) trong sữa để chuẩn đoán. Chuẩn đoán bệnh viêm vú có rất nhiều
phương pháp như dùng giấy cồn để thử, thử bằng dung dịch Blue Methylen,
phương pháp California Mastitis Test (CMT). Trong đó phương pháp CMT
được ứng dụng nhiều nhất trong các trang trại chăn nuôi bò sữa tập trung.
Bệnh viêm vú thường xuất hiện ngay trong khi bò cái đang cho sữa và cả
trong giai đoạn cạn sữa. Những nguyên nhân chủ yếu gây bệnh viêm vú ở bò
sữa là do vi khuẩn xâm nhập, khi điều kiện chăm sóc vệ sinh và nuôi dưỡng
kém, sức đề kháng của vật chủ giảm tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập và
gây bệnh. Vi khuẩn xâm nhập vào bầu vú qua các vết thương ở đầu núm vú, ống
dẫn sữa, dụng cụ chăn nuôi, đặc biệt là dụng cụ vắt sữa không được khử trùng


tốt. Vi khuẩn gây bệnh trong tuyến vú gây tổn thương tổ chức, ảnh hưởng đến

1
khả năng tiết sữa dẫn đến những tổn thất không nhỏ về kinh tế. Vì vậy, để tìm
hiểu nguyên nhân, phát hiện sớm bệnh viêm vú tiềm ẩn và viêm vú lâm sàng, từ
đó có biện pháp điều trị kịp thời, có hiệu quả, hạn chế thiệt hại kinh tế do bệnh
viêm vú ở bò sữa gây ra. Được sự đồng ý của trại bò sữa số 1 của Công ty cổ
phần thực phẩm TH, chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài "Khảo sát bệnh
viêm vú ở bò sữa nuôi tại Công ty cổ phần thực phẩm sữa TH theo quan sát
lâm sàng và CMT”
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Xác định tỷ lệ viêm vú trên đàn bò sữa theo quan sát lâm sàng và CMT.
- Tìm hiểu hiệu quả điều trị bệnh viêm vú theo phác đồ điều trị của
công ty TH.

2
PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2. Bệnh viêm vú
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước và trên thế giới
2.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Các yếu tố hình thái bầu vú và núm vú ảnh hưởng đến khả năng mắc bệnh
viêm vú ở bò [16].
Nhiệt độ môi trường có quan hệ với bệnh viêm vú do nó tác động đến vật
chủ cũng như liên quan đến số lượng vi khuẩn trong môi trường [18].
Bệnh viêm vú là bệnh phổ biến nhất, gây tổn thất và chi phí tốn kém nhất
trong số các bệnh của bò sữa trên thế giới. Tổn thất của bệnh lớn gấp hai lần so
với bệnh vô sinh và các bệnh sản khoa [15].
Ngoài ra còn phụ thuộc vào điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng không tốt
cũng làm giảm sức đề kháng và nguy cơ mắc bệnh cao hơn.

2.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Chăn nuôi bò sữa là một ngành khá mới đối với nước ta nên cũng chưa có
nhiều nghiên cứu về bò sữa.
Đảm bảo cho bò môi trường sạch sẽ, không có các yếu tố Stress sẽ làm
giảm nguy cơ mắc các bệnh ở bò sữa [2].
Đối với viêm vú thể lâm sàng dễ phát hiện hơn thể phi lâm sàng. Viêm
vú thường xẩy ra ở bò sữa cao sản, viêm vú có thể xẩy ra ở thể cấp tính 40%,
mãn tính 60% [11].
Tình trạng sinh sản và năng suất sữa phụ thuộc vào tuổi và chu kỳ tiết sữa
của bò cái [13].
Vấn đề cần thiết phòng bệnh viêm vú là cần vệ sinh sạch sẽ bầu vú, kiểm
tra bầu vú và vắt thật kiệt sữa [7].
Đặc trưng của bệnh viêm vú là tuyến vú bị viêm, sữa bị biến đổi về hoá
tính, lý tính. Sản lượng sữa và phẩm chất sữa bị giảm sút [8].
2.2. Giới thiệu về tuyến vú
2.2.1. Cấu tạo của tuyến vú
Cấu tạo của tuyến vú gồm bao tuyến và hệ thống ống dẫn. Bao tuyến là
nơi sinh sữa được cấu tạo từ tế bào biểu mô, mỗi bao tuyến giống như một cái
túi nhỏ thông với ống dẫn sữa. Ống dẫn sữa khởi đầu bằng ống dẫn nhỏ thông

3
với xoang bao tuyến, nhiều ống dẫn nhỏ tập trung lại đổ vào ống dẫn trung bình
rồi đổ vào ống dẫn lớn hơn để đổ vào bể sữa. Có thể hình dung cấu tạo tuyến vú
giống như hình cành cây [14].
Tuyến vú, có thân của tuyến vú là khối lượng chính của tuyến tiết sữa và
núm vú là thành phần tiết sữa ra ngoài. Tuyến vú là tuyến ngoại tiết, có một hay
nhiều hệ hốc để chứa sữa, đầu vú được hình thành bằng rãnh của núm vú, bên
trong được phủ một lớp tế bào tiết ra chất keratin. Đây là chất ngăn không cho vi
khuẩn đi qua, phần ngoài của rãnh núm vú được đóng bởi một cơ trơn nhỏ và
đàn hồi gọi là Sphineter [4].

Các thùy được cách nhau bằng mô liên kết và mô cơ, đó là các dây treo.
Người ta thấy chúng ở bên cạnh vú, giữa núm vú, phía trước vú và phía sau. Dây
treo sau có tầm quan trong hơn cả để nâng đỡ giữ cho vú được khõe mạnh, cho
tuyến vú được bền lâu và tạo tư thế cho bò [4].
Bốn thùy vú độc lập với nhau về mặt giải phẫu và sinh lý, màng ngăn các
thùy trước và sau rất mỏng khó nhìn thấy, còn màng ngăn cách giữa các thùy hai
bên dầy hơn nhiều so với khối lượng tuyến vú [4].
Tuyến vú là dạng túi nhỏ phân nhánh, chứa nhiều chùm túi nhỏ mỗi túi
nhỏ là một tuyến sinh tí hon phía trong được bao bọc bằng các tế bào biểu mô,
chịu trách nhiệm sản sinh ra sữa [4].
Bể sữa là một xoang rộng, nó được thông với ống đầu vú để đưa sữa ra
ngoài. Số lượng bể sữa và ống đầu vú cũng khác nhau tùy theo loài.
Xung quanh ống dẫn sữa và bể sữa được bao bọc bởi các sợi cơ trơn và có
tác dụng trong việc thải sữa khi co bóp. Ống thông đầu vú có sợi cơ trơn sắp xếp
theo hình vòng, hình thành nên cơ vòng đầu vú, bình thường cơ này ở trạng thái
co khi không thải sữa. Toàn bộ tuyến vú được bao bọc bởi mô liên kết và mô
mỡ. Mỗi bao tuyến được bao bọc bởi các lưới mao mạch dày đặc, nó cung cấp
nguyên liệu tạo sữa từ máu của cơ thể. Hệ tĩnh mạch trong tuyến vú phát triển
mạnh hơn hệ động mạch, đặc biệt đối với gia súc nhai lại vì đối với loài này, các
axit béo bay hơi được hình thành trong dạ cỏ, phần lớn hấp thu qua thành dạ cỏ
vào máu và được vận chuyển tới tuyến vú [14].
Tuyến vú là tuyến lớn nhất của cơ thể gia súc cái. Đối với bò có 4 ngăn
độc lập với nhau và ngăn cách bởi tổ chức xơ. Vì vậy khi tiết sữa bên đầu này vú
có thể hết nhưng đầu kia vú vẫn còn nguyên, các tuyến vú phân thành chùm và
nhiều thùy, mỗi thùy lại phân thành thùy hình túi nhỏ. Các túi nhỏ tập trung vào
ống dẫn sữa và cuối cùng đổ vào bể sữa, đây là cơ quan sản xuất đặc biệt của bò

4
cái, nó hoạt động có tính chất giai đoạn dưới sự chỉ đạo của hệ thống thần kinh
thể dịch [2].

2.2.2. Sinh trưởng và phát dục của tuyến vú
Tuyến vú có nguồn gốc từ ngoại bì, tất cả các động vật có vú, không kể
đực hay cái đều có tuyến vú. Song chỉ ở con cái cùng với sự sinh trưởng và phát
triển của cơ thể dưới sự ảnh hưởng điều hòa của hoocmon sinh sản mới được
phát dục và hoàn thiện trước khi đẻ lần đầu tiên [14].
Sau khi sinh, mô vú phát triển ít, nó tăng trưởng cùng với cơ thể. Sự tăng
trưởng đó bao gồm cả sự tăng trưởng ống dẫn sữa, của mô liên kết và mô mỡ.
Cho đến khi bò thành thục về tính thì bầu vú tăng về thể tích, sự tăng trưởng này
do sự phát triển của ống dẫn làm chúng phân hóa và phân nhánh. Lúc này chất
lượng thức ăn đóng vai trò quan trọng, nếu thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao thì
hàm lượng mỡ trong vú tăng lên giảm sự phát triển của các ống dẫn.[4]
Vú hoàn toàn phát triển vào lúc mang thai lần đầu tiên dưới ảnh hưởng
kéo dài của hoocmon giới tính sản sinh ra rất nhiều. Các Oestrogen gây ra sự
phân hóa các ống dẫn, các ống này chia làm nhiều nhánh dưới ảnh hưởng của
Progesterone, các mầm cuối của ống dẫn sữa mọng lên và trở thành ống tuyến
sữa. Các acinin hình thành và phân hóa thành hai loại tế bào, phía trong là các tế
bào biểu mô phía ngoài là các biểu mô cơ [4].
Vào lúc sinh, các tuyến tiết sữa bắt đầu hoạt động và quá trình tiết sữa bắt
đầu, lúc đó hoocmon prolactin của tuyến yên phát động và duy trì tiết sữa. Túi
nhỏ được bao bọc ở ngoài bởi các cơ trơn nhỏ, các cơ trơn nhỏ này chịu sự điều
khiển của oxytocin. Hoocmon này sinh ra bởi hàng loạt các phản xạ như bê con
bú, các thao tác ở núm vú như khi ta vắt sữa bằng tay hay máy [4].
2.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của tuyến vú
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát dục của tuyến vú.
Các nhân tố đó bao gồm nhân tố bên ngoài và nhân tố bên trong.
- Nhân tố bên ngoài
Quan trọng nhất là chế độ dinh dưỡng có tác dụng nhanh trong việc thúc
đẩy nhanh sự sinh trưởng và phát dục của tuyến vú vì nó là nguồn nhiên liệu
cung cấp cho sự sinh trưởng, phát dục và trao đổi chất. Chế độ chăm sóc và điều
kiện khí hậu, sự hưng phấn khi gặp đực giống, pheromon của con đực, đều có

thể ảnh hưởng đến sự phát dục của tuyến vú [14].
- Nhân tố bên trong
Quan trọng nhất là yếu tố thể dịch hormon Ostrogen của buồng trứng và
Progesteron của thể vàng, tham gia vào sự sinh trưởng và phát dục của tuyến vú

5
cho tới khi hình thành ống dẫn sữa và bao tuyến, cuối thời kì chữa và thời kì tiết
sữa nuôi con thì tuyến yên tiết prolactin, hormon này có vai trò kích thích bao
tuyến phát triển và tiết sữa. Ngoài ra các hormon STH, FSH, LH, của thùy trước
tuyến yên đều ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát dục của tuyến vú [14].
Yếu tố thần kinh cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình sinh trưởng
và phát dục của tuyến vú. Khi kích thích vào tuyến vú làm hưng phấn cơ quan
cảm giác ở da bầu vú, xung động thần kinh được gửi tới vùng dưới đồi và trung
khu điều hòa sinh dục ở vỏ não. Thông qua hệ nội tiết sinh sản tiết các hormon
thúc đẩy sự phát dục của tuyến vú và tiết sữa [14].
2.3. Giới thiệu về bệnh viêm vú
Viêm vú là một trong những bệnh được quan tâm nhất của ngành chăn
nuôi bò sữa, đặc biệt là các nước nuôi bò sữa theo hình thức công nghiệp.
Ở Việt nam, bệnh viêm vú còn ít được quan tâm nghiên cứu bệnh viêm vú
gây tổn thất kinh tế rất lớn cho ngành chăn nuôi bò sữa. Các thiệt hại liên quan
đến nhiều khía cạnh khác nhau như:
- Làm giảm khoảng 10% sản lượng sữa do tuyến sữa bị tổn thương
- Sữa bị giảm chất lượng hoặc bị hỏng, chỉ bán được giá thấp hoặc phải
đổ sữa.
- Sau khi dùng kháng sinh điều trị cục bộ, trực tiếp vào tuyến vú phải chờ
đợi một thời gian, trước khi có thể vắt sữa đem bán.
Thường để lại di chứng sau khi điều trị như các khoang vú bị xơ cứng, bị
teo. Nhiều bò cái phải loại thải sớm, trước khi đạt tới năng suất sữa tối đa.
2.3.1. Khái niệm về bệnh viêm vú
Bệnh viêm vú là phản ứng của tuyến vú. Chữ Mastitis theo nghĩa Hi lạp

là Mastor có nghĩa là vú và Itis có nghĩa là viêm là sự đáp ứng của các mô tiết
sữa trong từng núm vú đối với sự tổn thương hoặc sự có mặt của vi khuẩn gây
bệnh, trong trường hợp này bệnh do vi khuẩn gây ra.
Mục đích của phản ứng viêm là:[15]
- Loại bỏ hay trung hòa vi khuẩn xâm nhập.
- Hỗ trợ, khôi phục mô bào hư hại để tuyến vú hoạt động trở lại bình thường.
2.3.2. Nguyên nhân gây bệnh
Viêm vú ở bò sữa có rất nhiều nguyên nhân như khi bú con cắn lóc
đầu vú của bò mẹ. Chuồng trại bẩn, con vật kéo lê trên sàn chuồng. Do vắt

6
sữa không đúng kỷ thuật. Do vi trùng xâm nhập qua lỗ đầu vú, ống lâm ba
hoặc huyết quản.
Có 3 nguyên nhân gây ra bệnh viêm vú sau
- Do bản thân của bò
Nguyên nhân xuất phát do chính bản thân bò sữa tuỳ thuộc vào cá thể của
bò như bò có bầu vú quá to và dài dễ gây xây xát, lổ thông đầu vú to dễ rò rỉ, bò
cao sản là những điều kiện để bộc phát bệnh.
- Do vi sinh vật
Vi sinh vật là một vật thể rất nhỏ chỉ nhìn được qua kính hiển vi, chúng
sống trong các tổ chức, tế bào, cơ thể của động vật, một số ở dạng thực vật như
nấm mốc, dạng động vật như vi trùng, siêu vi trùng. Ở giữa 2 dạng trên là
nguyên sinh vật nguyên sinh vật.
Vi sinh vật có ảnh hưởng rất lớn trên sức khỏe con người và động vật qua
khả năng lây nhiễm, chúng có nhiều loại (type) phát triển và gây bệnh. Chúng
hiện diện trong không khí, thức ăn, chuồng trại, người vắt sữa, đất, phân, nước
tiểu. Chúng có thể xâm nhập vào cơ thể động vật qua đường hô hấp, uống, ăn,
vết thương, lỗ núm vú.
Các vi sinh vật này sẽ phát triển nhanh chóng hấp thụ dinh dưỡng bằng
cách hại máu, hại tế bào. Nhưng bên cạnh đó, nguy hiểm hơn là chúng sẽ tiết ra

các độc tố. Các độc tố sẽ làm ảnh hưởng đến cơ thể, và giảm chức năng hoạt
động của các cơ quan trong cơ thể. Khi vi trùng xâm nhập vào tuyến sữa, chúng
sẽ tấn công các tế bào tiết sữa để lấy dưỡng chất và từ đó làm ảnh hưởng đến
khả năng tiết sữa của tuyến sữa [21].
Có nhiều loại vi trùng gây bệnh viêm vú như liên cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn
và vi khuẩn môi trường.
Trong các loại vi khuẩn gây bệnh viêm vú thì liên cầu khuẩn Streotococus
chiếm 86%, tụ cầu khuẩn Staphyloccus chiếm 5,4%, trực trùng sinh mủ 2,7%, E.
coli chiếm 1,2%, các loại vi trùng khác chiếm 3,7% [3].
+ Liên cầu khuẩn (Streptococcus)
Chủ yếu là S. agalactiae,S. dysgalactiae và S. uberis. S. agalactiae là vi
khuẩn Gram(+) và chỉ phát triển được trên mô tuyến vú nhưng dễ bị khống chế
và tiêu diệt. Trong khi đó S. dysgalactiae và S. uberis có thể phát triển bên ngoài

7
mô tuyến vú và khó loại trừ. Ba loại này chủ yếu phát triển trong sữa và tấn
công lớp tế bào bề mặt của các ống dẫn sữa [9].
+ Tụ cầu khuẩn (Staphyloccus)
Trong đó S.aureus là vi khuẩn Gram+ gây bệnh mạnh và thường ở dạng
cấp tính. Vi khuẩn này xâm nhập và tấn công vào các tế bào nang và có tính
kháng penicilline. Có những chủng vi khuẩn có khả năng hình thành
penicillinaza phân huỷ penicilline, vì vậy nó rất khó xử lý. Bên cạnh đó, nó còn
sản sinh ra các độc tố như coagulaza, hemolysine gây co thắt mạch máu và hoại
tử mô tế bào.
+ Trực trùng sinh mủ
Các vi khuẩn này sống chủ yếu trong môi trường như phân, chất độn,
nguồn nước bị ô nhiễm [9].
Vi khuẩn dạng Coli (Colifrorm) bao gồm: E. coli, Klebsiella pneumoniae
có nguồn gốc từ phân, nền chuồng và đất, sự phơi nhiễm bệnh viêm vú dạng này
thường ít hơn 50% [5].

Nguồn vi khuẩn này tồn tại xung quanh chuồng trại bò sữa và xâm nhập
vào bầu vú qua các lần vắt sữa và qua các vết thương ở đầu núm vú.
Hai nguyên nhân này quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng một loài vi trùng
gây bệnh nhưng sức đề kháng của cơ thể và tuyến vú con vật khác nhau nên có
thể gây ra bệnh viêm vú khác nhau. Ngược lại, những vi trùng khác nhau khi tác
động lên bầu vú cũng có thể gây ra những triệu chứng giống nhau.
+ Một số mầm bệnh khác
Đó là Pasteurella, Nocardia, các bệnh nấm, các men. Bệnh viêm vú do
Mycoplasma, Leptospira và Brucella chiếm vị trí đặc biệt trong nhóm này.
- Mycoplasma
Mycoplasma có kích thước trung gian giữa vi khuẩn và siêu vi trùng.
Bệnh viêm vú do các Mycoplasma ít khi gặp nhưng có tính chất trầm trọng. Bởi
vì ở bò cái, nó gây ra hiện tượng phá huỷ mô tuyến vú mà không hồi phục lại
được [1].
- Leptospira
Leptospira gây ra bệnh viêm vú chẳng những ở người mà cả ở gia súc. Ở
bò sữa thấy xuất hiện những trường hợp sẩy thai và những ca viêm vú. Tác nhân

8
gây bệnh này được đưa vào trong đàn, do mua phải những gia súc bị nhiễm bệnh
hoặc do gia súc gặm cỏ tại những nơi có nước tiểu chứa mầm bệnh.
Tại Việt Nam, đã phân lập được trong số 771 mẫu dương tính qua việc sử
dụng CMT: [9]
+ Streptococcus spp. ở 294 mẫu chiếm 38,13%
+ Staphylococcus spp. ở 205 mẫu chiếm 26,85%
+ E. coli ở 263 mẫu chiếm 34,10%
+ Các vi khuẩn khác: chiếm 3,16 - 7,18% số mẫu
- Do môi trường
Tác nhân từ môi trường bao gồm nhiều yếu tố như thời tiết khí hậu,
chuồng trại, chăm sóc vắt sữa.

+ Thời tiết khí hậu
Các tác nhân của bầu tiểu khí hậu chuồng nuôi bò sữa như nhiệt độ, ẩm
độ đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp lên tỷ lệ mắc bệnh viêm vú của bò
sữa. Mặt khác nhiệt độ cao, ẩm độ cao cũng là điều kiện thuận lợi cho các vi
sinh vật gây bệnh, các côn trùng mang tác nhân gây bệnh phát triển và từ đó
gián tiếp gây bệnh.
Các loại stress tác động trên bò sữa như tiếng ồn, thái độ chăm sóc bò, mật
độ nuôi quá cao cũng ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch của bò sữa, làm cho bò từ
từ suy yếu và từ đó cũng làm gia tăng tỷ lệ mắc bệnh viêm vú. Đặc biệt nhiệt độ,
ẩm độ cao gây ra stress nhiệt trên bò sữa là cần được quan tâm nhiều nhất.
+ Chuồng trại
Chuồng trại không thông thoáng, thiếu ánh sáng, dơ bẩn, ẩm ướt tạo điều
kiện cho vi khuẩn xâm nhập và gây nên viêm vú ở bò sữa.
+ Chăm sóc, vắt sữa
Phương pháp vắt sữa, kỷ thuật vắt sữa không đúng, thời gian vắt sữa quá
lâu và số lần vắt trong ngày, không đảm bảo thì nhất định dễ gây ảnh hưởng đến
bầu vú.
Người vắt sữa có trách nhiệm, lau các núm vú gia súc, dọn nơi vắt sữa,
rửa dụng cụ vắt sữa và tay rửa trước khi bắt đầu vắt sữa. Người vắt sữa phải
khỏe mạnh không mang vi trùng hay bệnh tật có khả năng truyền vi trùng hoặc
lây lan sang gia súc. Nên có quy định người vắt sữa phải có giấy phép hành
nghề, và kiểm tra sức khỏe định kỳ. Chú ý có ngăn sát trùng ở cửa chuồng vì

9
người vắt sữa có thể đi từ chuồng này qua chuồng khác hoặc nhà này sang nhà
khác [21].
2.3.3. Triệu chứng của bệnh viêm vú
+ Thay đổi hình thái bầu vú và dấu hiệu lâm sàng
- Thay đổi trạng thái đặc chắc của mô bầu vú, sự gắn kết của da với mô tuyến.
- Thay đổi nhiệt độ và màu da của bầu vú.

- Thay đổi hình dạng của cả bầu vú hay của một khoang vú.
- Cảm giác đau khi sờ vào bầu vú.
- Tấy sưng các hạch lâm ba ở phía trên tuyến vú.
- Triệu chứng bệnh toàn thân như sốt.
+ Thay đổi thành phần và trạng thái của sữa
- Tăng số lượng tế bào thân thể.
- Thay đổi độ axít của sữa.
- Tăng tỷ lệ albumin.
- Thay đổi hàm lượng các chất điện giải trong sữa.
- Trong sữa có các hạt lổn nhổn hoặc các vết máu, đôi khi có các vết mủ.
Về mặt lâm sàng, có thể chia bệnh viêm vú thành những dạng sau
+ Viêm vú quá cấp tính
Thể bệnh này ít thấy và cũng có những biểu hiện như cấp tính, nhưng
cũng có thể có những biểu hiện như suy nhược, tăng nhịp tim và tần số hô hấp,
vận động kém, chân lạnh, phản xạ mắt giảm, mất nước và tiêu chảy [20].
+ Viêm vú cấp tính
Các trường hợp cấp tính được đặc trưng bởi sự xuất hiện đột ngột của các
biểu hiện sưng, tấy đỏ, bầu sữa rắn, con vật đau, sữa không bình thường và sản
lượng sữa giảm. Những biểu hiện toàn thân như sốt, kém ăn [20].
+ Viêm vú mãn tính
Viêm vú mãn tính là hậu quả của các dạng viêm vú khác. Các triệu chứng
bệnh không rõ ràng. Thấy có sự tăng số lượng tế bào thân thể trong sữa lên một
chút. Sờ bầu vú thấy có hiện tượng xơ cứng phát tán rộng trong khoang vú, cùng
với các cục cứng trong các bể chứa sữa và những biến đổi của thành phần sữa.
Các gia súc này là nguồn lây nhiễm cho các gia súc khác.[20]
+ Viêm vú không có triệu chứng
Thông thường thì ở những gia súc mắc bệnh, không phát hiện ra một dấu
hiệu nào. Các liên cầu khuẩn như S. uberis, S. agalactiae, S. dysgalactiae và các

10

tụ cầu khuẩn thường là các tác nhân gây ra dạng viêm vú này. Khi sờ nắn bầu
vú, đôi khi thấy cảm giác cứng trong mô tuyến, cũng như trong các bể chứa sữa.
Sữa trông bình thường và cũng không chứa các vết máu. Tuy nhiên, người ta
thấy có hiện tượng gia tăng số lượng tế bào thân thể (somatic cells) và giảm sản
lượng sữa. Dạng viêm vú không có triệu chứng có thể chuyển thành dạng viêm
vú cấp hoặc có thể tiến triển thành dạng viêm vú mãn tính. Chính dạng bệnh này
gây thiệt hại lớn nhất cho ngành công nghiệp sữa và thiệt hại kinh tế cho người
sản xuất sữa.
2.4. Phân loại viêm vú
2.4.1. Phân loại theo sự biểu hiện của triệu chứng
- Thể lâm sàng (có biểu hiện ra bên ngoài)
Bệnh viêm vú thể lâm sàng là bệnh có biểu hiện ra bằng những triệu
chứng cụ thể như sưng, nóng, đỏ, đau. Sữa có bã đậu, máu, sữa đặc như sữa
chua, hay sữa loãng giống nước. Mức độ nghiêm trọng của bệnh cũng như hậu
quả của bệnh biểu hiện rõ rệt nên người ta dễ dàng xử lý điều trị và đánh giá
mức độ nguy hiểm cũng như thiệt hại do bệnh gây ra là không lớn so với bệnh
viêm vú tiềm ẩn.
Viêm vú thể lâm sàng chia thành 4 loại sau
+ Viêm vú thể tương mạc
Đặc trưng con vật có hiện tượng sốt toàn thân (39,5
o
C – 40
o
C), ít hoạt
động, kém ăn và lượng sữa giảm. Bầu vú bị xung huyết, sưng ở một thùy hay
toàn bộ bầu vú. Con vật có phản ứng đau khi ấn mạnh vào bầu vú. Lượng sữa sẽ
giảm rõ rệt ở thùy vú sưng. Lúc đầu, sự biến đổi trên không rõ rệt nhưng khi
bệnh lan rộng sẽ thấy sữa loãng, có những hạt lợn cợn [21].
+ Viêm vú cata
Đặc trưng của bệnh viêm vú thể cata là tế bào thượng bì biến dạng bị

bong tróc ra, ở chỗ viêm có dịch thẩm xuất. Dịch này cùng với tế bào bạch cầu
tạo ra một màng phủ trên niêm mạc đường tiết sữa. Khi vắt sữa, màng này tróc
ra lẫn vào sữa tạo thành cặn sữa và đôi khi cặn sữa này làm tắc nghẽn ống dẫn
sữa. Nếu tiếp tục vắt sữa, thời gian sau có thể sữa trở lại bình thường nhưng
lượng sữa sẽ giảm đi. Kiểm tra bằng mắt thường thấy bầu vú gần như trở lại
bình thường nhưng thành vú dầy lên và mềm, kiểm tra bằng tay thấy bên trong
đầu vú có những cục mềm [21].

11
+ Viêm vú có mủ
Đặc trưng của dạng này là vi khuẩn gây mủ tạo ra các ổ viêm lan tràn
trong tuyến vú làm cho mủ và dịch thẩm xuất chảy xuống ống dẫn vào bể sữa.
Thể viêm này thường kế phát từ thể viêm cata [21].
+ Viêm vú có máu
Đặc trưng của bệnh này là các thùy vú có nhiều bọc mủ to nhỏ khác nhau,
thường do tái phát thể viêm cata có mủ. Khi đường tiết sữa bị tắc thì bọc mủ
hình thành, các tổ chức của ống tiết sữa bị xuất huyết và tụ huyết. Bình thường ở
thể cấp tính, con vật sốt cao 40
0
C – 41
0
C kéo dài hàng tuần, thú mệt mỏi, kém
ăn, có thể sưng một bên hay toàn bầu vú. Trên bầu vú có từng đám tụ huyết đỏ
sẫm, con vật có biểu hiện đau đớn khi ta ấn tay vào bầu vú. Lượng sữa giảm hẳn
hay ngưng tiết sữa, sữa loãng có màu hồng hay đỏ như máu, có những mảng sữa
vón lại. Bệnh tiến triển nhanh, biến chứng thường xảy ra nhiễm trùng huyết, con
vật sẽ chết sau 7 - 9 ngày [21].
- Thể tiềm ẩn
Bệnh viêm vú thể tiềm ẩn rất phổ biến và gây những thiệt hại kinh tế rất
lớn vì nó làm giảm sản lượng sữa và chất lượng sữa. Bệnh này nguy hiểm ở chỗ

là nó duy trì mầm bệnh, lây lan cho những bò khỏe mạnh khác mà người chăn
nuôi vẫn không hay biết. Bò ít có triệu chứng bên ngoài, nhưng thường thì kém
ăn, thỉnh thoảng sữa bò bị kết tủa và không có biểu hiện triệu chứng ở bầu vú.
2.4.2. Phân loại theo tính chất gây bệnh
Dựa vào cơ chế gây bệnh, người ta cũng chia bệnh viêm vú làm 2 loại là
viêm vú do việc lây truyền từ các vi sinh vật và viêm vú do môi trường nuôi dưỡng.
- Viêm vú do lây nhiễm
Bệnh gây ra do các vi sinh vật như S. agalactiae, S. dysgalactiae, và S.
aureus là nguồn lây nhiễm chủ yếu từ vú các bò bị bệnh.
- Viêm vú do tác nhân môi trường
Bệnh gây ra bởi các vi sinh vật cơ hội nằm trong môi trường xung quanh
như từ chuồng trại, thiết bị, chất độn chuồng, phân, nguồn nước. Các nhóm vi
sinh vật chủ yếu là nhóm Coliform (Escherichia coli, Klebsiella pneumoniae,
Klebsiella oxytoca, Enterobacter aerogenes), nhóm Streptococcus (S. uberis, S
bovis, Enterococcus faecium, Enterococcus faecalis)
2.5. Biến chứng của bệnh viêm vú
2.5.1. Teo bầu vú

12
Trong bệnh viêm vú, phần lớn tế bào vú bị tổn thương, cơ năng tiết sữa
không phục hồi. Thể tích thùy vú mắc bệnh nhỏ hơn bình thường, khả năng tiết sữa
của tuyến vú giảm hoặc mất hẳn.
2.5.2. Xơ cứng bầu vú
Các chức năng sinh lý bị ảnh hưởng và bầu vú bị cứng lại, còn tổ chức
tuyến vú bị teo đi. Sờ vào thấy cứng hoặc ấn mạnh tuyến vú thấy những cục
cứng hoặc cứng toàn bộ. Sau khi vắt sữa thể tích thùy vú không giảm. Lượng
sữa giảm, nếu xơ cứng một phần tuyến vú thì sữa loãng màu xám và có cục vón
lợn cợn.
2.5.3. Bầu vú hoại tử
Bầu vú thối loét và phân hủy do vi khuẩn gây hoại tử xâm nhập vào tuyến

vú qua đường tiết sữa, vết thương hoặc mạch máu. Lúc đầu bề mặt bầu vú có
những đám màu hồng tím, cứng, đau, về sau loét và hoại tử có mủ. Toàn bộ thùy
vú sưng to, ấn vào thấy nước hồng chảy ra. Hạch lâm ba vú sưng to, đau, có
triệu chứng bại huyết.
2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự xuất hiện bệnh
Có một số yếu tố tạo điều kiện cho bệnh viêm vú phát triển. Các yếu tố đó
bao gồm nhiệt độ, yếu tố di truyền, cấu tạo bầu vú và núm vú, chuồng trại.
- Nhiệt độ môi trường
Nhiệt độ môi trường có quan hệ với bệnh viêm vú do nó tác động đến vật
chủ cũng như liên quan đến số lượng vi khuẩn trong môi trường [19].
- Yếu tố di truyền
Có những giống bò mẫn cảm hơn đối với bệnh viêm vú, ví dụ như giống
bò Pie đỏ mẫn cảm với bệnh viêm vú hơn giống bò Pie đen.
- Cấu tạo bầu vú và núm vú
Những dây chằng nâng đỡ bầu vú không vững chắc, các núm vú phình
căng, gây khó khăn cho việc vắt sữa, lỗ mở của núm vú bị đẩy vào trong là
những yếu tố làm cho bầu vú dễ bị viêm [20].
- Chuồng trại
Chuồng trại kém vệ sinh, chăm sóc quản lý không đúng kỹ thuật. Vi trùng gây
bệnh thường ở trên cơ thể bò sữa, đặc biệt là bầu vú và trong chuồng trại, dụng cụ
vắt sữa. Các nguyên nhân gây bệnh thường lồng ghép vào nhau, ít khi bệnh viêm vú
xảy ra chỉ do một nguyên nhân, thường do nhiều nguyên nhân cùng tác động [19]
-Các vết thương

13
Nguyên nhân dẫn đến tổn thương thường là do các thao tác thô bạo lên
núm vú như vắt sữa không đúng kỹ thuật, kẹt núm vú khi bò đứng dậy, vắt sữa
khi bầu vú trống rỗng, không lau khô bầu vú cẩn thận sau khi rửa và dẫn đến nứt
nẻ da bầu vú hoặc do bị côn trùng đốt.
- Tuổi của gia súc

Với tuổi càng cao, sức đề kháng tự nhiên của gia súc càng giảm và bò sữa
càng có nguy cơ bị viêm vú.
- Thời kỳ tiết sữa
Trong thời gian hai tuần đầu tiên sau khi đẻ, bầu vú rất mẫn cảm với
viêm nhiễm. Trong thời kỳ cạn sữa, bầu vú cũng mẫn cảm với vi khuẩn hơn so
với trong thời kỳ tiết sữa. Bởi vì trong thời kỳ cạn sữa, có sự giảm tiết một số
protein như lactesnine, thêm vào đó các mầm bệnh không còn bị đào thải ra
ngoài qua vắt sữa.
- Sức đề kháng của bản thân bầu vú
Bao gồm toàn bộ các thành phần, yếu tố ngăn cản việc xâm nhập và phát
triển của các mầm bệnh trong tuyến vú. Đó là sự đổi mới liên tục của các tế bào
biểu mô trong ống núm vú. Sự có mặt của các axit amin trong niêm mạc ống
núm vú.
- Miễn dịch tế bào
Khi có hiện tượng nhiễm khuẩn, số lượng các bạch cầu trung tính nhân
lên một cách nhanh chóng. Do bị thu hút bởi các chất từ tế bào tuyến vú tổn
thương giải phóng ra, chúng di chuyển trong sữa và bắt đầu nuốt các vi khuẩn.
Các bạch cầu trung tính cũng sinh ra các chất như interleukine và interferon, có
tác dụng làm tăng tính thấm của các thành mạch và bằng cách này, làm tăng
cường tiết sữa, kết quả là làm loãng các độc tố do vi khuẩn sản sinh ra.
Người ta cũng thấy trong sữa có các chất khác như lactoferrine, lacternine
và lactoperoxidase. Mỗi chất này có cơ chế tác động riêng, nhưng đều tiêu diệt
hoặc ngăn cản sự phát triển của vi khuẩn. Ví dụ, lactoferrine chẳng hạn, nó được
gắn với các phân tử sắt và như vậy ngăn cản sự phát triển của E.Coli, là loại vi
khuẩn cần đến sắt để nhân lên.
2.7. Chẩn đoán bệnh viêm vú

14
2.7.1. Chẩn đoán qua các triệu chứng lâm sàng
Chẩn đoán bệnh viêm vú là giai đoạn quyết định để khống chế nhiễm

trùng bầu vú. Chẩn đoán sớm giúp điều trị nhanh chóng, bò mau khỏi và ngăn
cản chuyển sang thể bệnh khác. Có nhiều phương pháp để chẩn đoán và xác
định viêm vú.
2.7.1.1. Kiểm tra bầu vú
Kiểm tra trên lâm sàng bầu vú và trạng thái sữa là một trong các yếu tố để
chẩn đoán viêm vú. Đây là biện pháp đơn giản và ít tốn kém mà người chăn nuôi
có thể thực hiện được. Bằng biện pháp kiểm tra đơn giản, người chăn nuôi có
thể phát hiện ra sớm bệnh viêm vú, nhằm giúp cho điều trị và tiên lượng hiệu
quả trong khi điều trị.
Các bước kiểm tra bầu vú như sau
- Kiểm tra bằng mắt thường
Quan sát sự đối xứng của các lá vú gồm 2 lá vú trước (bên phải, trái), 2 lá
vú sau (phải, trái). Kích thước, hình dạng bầu vú, lá vú, núm vú. Phía mặt ngoài da
của bầu vú như độ căng, đàn hồi, nhăn nheo, chổ sưng chứa bọc mủ, máu, da sừng
hóa và màu sắc của da bầu vú,hình dạng các núm vú, đầu núm vú và lỗ tiết sữa.
Sự phát triển hệ thống mạch máu trên bầu vú như tình trạng và hình dạng
của hạch lâm ba vú, kiểm tra các phần phụ như viêm hạch lâm ba phía sau bầu
vú, nhạy cảm ánh nắng. Phần trước bầu vú như phù, da có mủ, hay các bọc máu.
kiểm tra bên hông bầu vú như phần sát đùi nóng, sưng, da đỏ hay có mủ.
- Kiểm tra bằng biện pháp sờ nắn bầu vú
Sờ nắn bầu vú được thực hiện khi đã vắt hết sữa trong bầu vú ra, xác định
được tình trạng của bầu vú như trạng thái, kích thước đều đặn và độ rắn chắc
của bầu vú. Tình trạng bên trong ống dẫn sữa của núm vú, xoang sữa dưới gốc
núm vú. Di động giữa da vú với các phần mềm dưới da vú, xem độ đàn hồi, chắc
chắn của da vú. Kiểm tra các chùm mô tuyến vú và các nang, khối u trong bầu
vú, các vùng thú bị đau hay vùng có nhiệt độ cục bộ cao. Sự thay đổi về hình
dáng và kích thước hạch sau vú.
Bảng 2.1. Các phát hiện bệnh lý khi kiểm tra sờ nắn bầu vú

15

Số thứ
tự
Triệu chứng Bệnh lý
1
Giảm khả năng di động da vú
Bầu vú bị phù, viêm vú cấp tính,
bầu vú có mô hóa sẹo
2 Khi ấn ngón tay còn để dấu
lại trên da vú
Bầu vú bị phù, viêm cấp hay có các
vùng có các ổ mủ áp xe
3
Lòng trong ống dẫn sữa dầy cứng
Viêm núm vú, sự tăng sinh tế
bào,viêm vú mãn tính
4
Các lá vú trên bầu vú không
đối xứng
Teo bầu vú, viêm cấp tính vài lá vú,
bọc mủ
5
Khối u có hình dạng ở bên
trong bầu vú
Bệnh viêm cũ, áp xe hay bọc mủ, máu
6
Mô tuyến vú bị xơ hóa rất cứng Viêm vú mãn tính
7
Hạch lâm ba bầu vú sưng to
Viêm vú nặng, áp xe tạo nang, bệnh
lao hay bệnh về bạch cầu

Nguồn Nguyễn Văn Thành (2004) [12]
2.7.1.2. Kiểm tra sữa và dịch tiết trong sữa
Kiểm tra trạng thái của sữa bằng cảm quan
- Màu sắc: sữa bình thường có màu trắng, sữa có màu hồng hay đỏ, màu
xanh của mủ khi viêm vú.
- Mùi: sữa bình thường có mùi đặc trưng dễ chịu, sữa của bò bị viêm vú
có mùi trứng thối, mùi chua, mùi chua của trái cây.
- Độ nhớt: độ nhớt tăng ở giai đoạn tiết sữa non hay cuối thời kỳ cho sữa.
- Kiểm tra lượng sữa: lượng sữa giảm từ nhẹ đến mạnh tùy theo mức độ
viêm vú lâm sàng hay tiềm ẩn ở thời điểm cho sữa. Khi lượng sữa trở lại bình
thường là biểu hiện sự hồi phục bệnh.
2.7.2. Chẩn đoán dựa vào số lượng tế bào thân
Chẩn đoán viêm vú không có triệu chứng lâm sàng và viêm vú mãn tính
rất khó khăn và chủ yếu dựa vào số lượng tế bào thân thể trong sữa.
Sữa bình thường chứa các tế bào biểu mô và các bạch cầu (gọi chung là tế
bào thân thể - somatic cells), trong đó bạch cầu trung tính chiếm 98% – 99%

16
tổng số. Các bạch cầu trung tính có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ bầu
vú chống lại sự viêm nhiễm. Số lượng bạch cầu trung tính và tế bào lympho
trong sữa tăng lên là đáp ứng của cơ thể đối với tổn thương hoặc chứng viêm,
trong khi sự gia tăng số lượng tế bào biểu mô là hậu quả của chính tổn thương
hoặc chứng viêm đó [15].
Số lượng tế bào thân thể tăng sinh lý vào hai tuần đầu cũng như vào cuối
thời kỳ tiết sữa. Vào giai đoạn đầu tiết sữa, việc tăng lên là do các tế bào biểu
mô tăng, còn về cuối giai đoạn tiết sữa là do tăng các bạch cầu. Số lượng tế bào
thân thể trong sữa cũng tăng tuỳ thuộc vào số lần tiết sữa. Ở đây không phải là
hiện tượng tăng sinh lý nữa mà là do tăng mức độ nhiễm khuẩn do số lứa đẻ
tăng. Những tia sữa đầu tiên cũng chứa nhiều tế bào hơn bình thường [15].
Sữa bình thường, vào giữa thời gian vắt sữa chứa trong khoảng từ 100.000

đến 300.000 tế bào thân thể trong 1 ml. Trên thế giới, khi số lượng tế bào thân
thể trong 1 ml sữa vượt trên 500.000 thì được xem là tăng bệnh lý. Trên con số
này thì sữa có những biến đổi. Tuy nhiên, có thể tồn tại hiện tượng viêm tuyến
vú trong khi sữa chứa ít hơn 500.000 tế bào /1 ml.
Như vậy, số lượng tế bào thân thể trong sữa là một chỉ tiêu và dựa vào đó
chúng ta có thể chuẩn đoán bệnh viêm vú. Có thể xác định số lượng tế bào thân
thể bằng những cách sau.
+ Đếm số lượng tế bào: Dùng máy đếm tự động hoặc đếm trực tiếp dưới
kính hiển vi huỳnh quang.
+ Xét nghiệm định tính: Xét nghiệm được sử dụng nhiều nhất để xác
định số lượng tế bào thân thể là CMT. Nguyên lý của xét nghiệm này dựa trên
tác động phá huỷ màng tế bào của các loại thuốc tẩy, sau đó thuốc tẩy gắn với
axit deroxyribonucleic được giải phóng ra và làm biến đổi trạng thái ban đầu
của sữa, sữa trở thành một hỗn hợp nhớt (khi trong sữa có trên 500.000 tế
bào/ml). Như vậy, xét nghiệm được xem là dương tính khi trong 1 ml sữa có
trên 500.000 tế bào.
Bảng 2.2. Cường độ CMT

17
Trạng thái và màu sắc
của hỗn hợp sữa -
thuốc thử
Kết luận mức độ
phản ứng
Số lượng tế bào
trong 1 ml
Kết luận
Trạng thái của sữa
không đổi, giữ nguyên
màu thuốc thử

- (Âm tính) < 300.000 Không viêm
Có vết nhớt khi
nghiêng đĩa, màu hỗn
hợp không đổi
1+ (Nghi ngờ) 300.000 - 500.000
Nghi ngờ
viêm
Sữa hơi dính nhớt, thuốc
thử hơi chuyển màu
2+ (Dương tính) 500.000 - 1.000.000 Viêm
Sữa quánh lại nhưng khi
nghiêng đĩa vẫn trôi,
thuốc có mầu đậm hơn
3+ (Dương tính) 1.000.000 - 5.000.000 Viêm
Sữa đông quánh lại, khi
nghiêng đĩa không bị trôi
4+ (Dương tính) > 5.000.000 Viêm
Nguồn Nguyễn Văn Thành (2004) [12]
Bảng 2.3. Số bạch cầu theo kết quả thử CMT
Độ đồng nhất
Màu sắc
Kết quả
Số lượng tế bào
bạch cầu/
1ml sữa
Kết luận
- Hỗn hợp đồng nhất.
Màu xám 0 0 - 200.000 Không viêm
- Hỗn hợp lợn cợn
Màu xám

hơi ngã tím
± 200.000 Nghi ngờ
viêm
- Sự đóng ván nhìn
thấy.
Màu
xám tím
+ 400.000
Viêm
- Sự đóng ván dày
thành từng đám nhớt
Màu tím
+ + 800.000 Viêm
- Sự đóng ván dày
giống lòng trắng trứng
Màu
tím đậm
+ + +
5.000.000
Viêm nặng

Nguồn Đinh Văn Cải (2002) [3]
+ Thử bằng cồn

18
Phương pháp này dựa vào nguyên tắc chất đạm trong môi trường acid sẽ
bị kết tủa bởi cồn. Cồn được sử dụng là cồn 70
0
C-75
0

C. Tỷ lệ cồn và sữalà 1:1
- Tiến hành: cho 2 ml sữa vào 2 ml cồn 70
0
C chứa trong ống nghiệm,
quan sát trên thành ống nghiệm.
- Kết quả: Dung dịch đồng nhất là âm tính nếu có mảng bám lợn cợn trên
thành ống nghiệm có thể bị viêm vú.
+ Thử bằng Blue Methylen (Blue Methylen Test)
Phần lớn các vi sinh vật gây ô nhiễm sữa khi phát triển làm thay đổi hiệu
thế oxy hoá khử. Nếu cho chất màu vào sữa chất màu sẽ thay đổi, tuỳ theo thời
gian đổi màu có thể ước tính độ nhiễm vi sinh của sữa.
- Nếu mất màu trước 15 phút: sữa nhiễm vi sinh rất nặng.
- Nếu mất màu sau 15 phút đến 1 giờ: sữa bị nhiễm nhiều.
- Nếu mất màu sau 1 giờ đến 3 giờ: sữa bị nhiễm nhẹ.
- Nếu mất màu sau hơn 3 giờ: sữa được coi như đạt tiêu chuẩn.
2.8. Phòng bệnh và trị bệnh
2.8.1. Phòng bệnh
Vấn đề cần thiết phòng bệnh viêm vú là cần vệ sinh sạch sẽ bầu vú, vấn
đề cần thiết phải làm là kiểm tra bầu vú và vắt thật kiệt sữa [7].
- Khi mua bò cần chọn những con có hình dạng bầu vú và núm vú đẹp, cân
đối. Không chọn những con vú quá xệ, núm vú nhỏ và thụt sâu vào bên trong.
- Mỗi khi vắt sữa, chú ý kiểm tra các tia sữa đầu tiên xem có gì bất thường
không như có máu, có mủ, sữa vón cục, sữa bã đậu, sữa nước. Tốt nhất là thu
những tia sữa đầu tiên vào trong một dụng cụ riêng để không làm phát tán mầm
bệnh trong chuồng nuôi.
- Tuân thủ vệ sinh nghiêm ngặt việc vắt sữa như tay người vắt sữa, dụng
cụ vắt sữa, các vật tư liên quan, cần được tẩy rửa sạch sẽ, cẩn thận.
- Nền chuồng phải sạch sẽ và khô ráo.
- Khi bầu vú hoặc núm vú bị tổn thương phải điều trị kịp thời.
- Nếu bầu vú và núm vú bị bẩn thì phải rửa với nhiều nước, sau đó dùng

mảnh vải mềm sạch hoặc tốt nhất là dùng khăn lau bằng giấy lau khô toàn bộ.
Nếu bầu vú không quá bẩn thì tốt nhất chỉ cần rửa núm vú mà không cần phải
rửa cả bầu vú.
- Trong đàn có những con bị bệnh và mắc bệnh viêm vú thì vắt sữa sau cùng.

19
- Ngay sau khi vắt sữa, cần sát trùng núm vú bằng cách nhúng núm vú
vào một cốc nhựa có dung dịch sát trùng. Tốt nhất là dùng dung dịch Iodamam,
vì dung dịch này có khả năng kết bám trên bề mặt da núm vú và lỗ ống núm vú
rất tốt, tạo thành lớp màng có khả năng bảo vệ núm vú. Cũng có thể dùng dung
dịch hypochlorid, chlorhexidine, iodophore.
- Chuồng nuôi cần phải thông thoáng tốt, đảm bảo đủ diện tích. Điều đó
tránh cho bầu vú không bị xây sát và núm vú không bị kẹt.
- Trong khả năng có thể, cần tránh nhốt cùng một nơi những bò cái đã cạn
sữa và những con đang tiết sữa.
- Có các biện pháp chống côn trùng hữu hiệu.
- Bảo đảm chế độ dinh dưỡng hợp lý, tránh cho bầu vú bị nhơ bẩn do
phân quá lỏng.
- Hàng tháng tiến hành kiểm tra bằng CMT
- Điều trị các bệnh viêm vú lâm sàng theo các quy tắc và các bệnh viêm
vú không có triệu chứng lâm sàng vào thời điểm cạn sữa.
- Sau khi cho bò cạn sữa, bơm thuốc mỡ kháng sinh trực tiếp vào tất cả
các ống núm vú.
2.8.2. Trị bệnh
Điều trị bệnh viêm vú bằng cách: 2-3 ngày đầu mỗi ngày tiêm tĩnh mạch
cổ 200ml dung dịch Glucose 40% và 100 ml dung dịch Canci - clorua 10% kết
hợp thụt bầu vú ngày một lần bằng 100.000 đơn vị Penicillin hòa tan trong
100ml nước sinh lý 37
0
C-38

0
C. Tiêm bắp Penicillin 5000 UI/kg thể trọng cách
nhau 10 giờ [16].
Trường hợp nhẹ có thể chỉ tiến hành vắt, thải sữa bằng cách dùng kim
thông vú để thải sữa hoặc dùng tay vắt sữa ra. Vắt, thải sữa giúp loại bỏ được
mủ và những mảnh mô tế bào lẫn trong sữa. Tuy nhiên, cần chú ý tiến hành thao
tác nhẹ nhàng, để tránh làm tổn thương thêm các mô.

20
PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đàn bò sữa thuộc giống HF (Holstein
Friesian) nuôi tại trại bò sữa số 1 của công ty TH.
3.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu đề tài
Đề tài đựơc tiến hành trong thời gian là từ ngày 10/1/2012 đến 6/5/2012.
- Địa điểm nghiên cứu
Đề tài được thực hiện tại trại bò sữa số 1 xã Nghĩa Lâm, Huyện Nghĩa
Đàn, Tỉnh Nghệ An.
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Xác định tỷ lệ bò sữa mắc bệnh viêm vú trong tháng 1, 2, 3, 4 năm 2012.
- Tỷ lệ viêm vú tiềm ẩn theo mức độ CMT trong tháng 1/2012.
- Tỷ lệ viêm vú theo triệu chứng lâm sàng.
- Tỷ lệ viêm vú theo lứa đẻ.
- Tỷ lệ vú viêm theo số lượng vú.
- Xác định hiệu quả điều trị theo các phác đồ của công ty TH.
3.4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Chúng tôi tiến hành khảo sát tất cả bò ở 2 dãy chuồng C1 (dãy chuồng
C1A và C1B) về khả năng mắc bệnh viêm vú.Số lượng bò ở hai dãy chuồng là

420 con bò HF, mỗi dãy có 210 con.
Đầu mỗi ngày tiến hành kiểm tra bò ở tất cả các dãy chuồng. Những con
có triệu chứng tách đàn;khi khám thấy có các triệu chứng như bầu vú sưng,
nóng, đỏ, khi nặn sữa ra thấy tia sữa hơi nhớt, có khi có bã đậu, dịch rỉ viêm lẫn
máu, nghi mắc bệnh viêm vú thì tiến hành ghi số tai, buộc dây vàng để đánh dấu
sau đó cho đi vắt sữa. Kiểm tra trên dàn vắt sữa bằng phương pháp CMT và
kiểm tra lâm sàng. Tiến hành đưa về bệnh viện để điều trị. Ngoài ra tiến hành
ghi lại thông tin ô chuồng, và đưa ra dự định điều trị tùy theo mức độ nặng nhẹ
của thể viêm.

21
3.4.1. Phương pháp phát hiện bò viêm vú bằng khám lâm sàng
Những triệu chứng thường gặp của bò bị viêm vú qua quan sát lâm sàng là:
+ Bầu vú không cân đối.
+ Sưng, đỏ có thể là một phần của bầu vú.
+ Sờ vào thấy cứng, nóng.
+ Tổn thương ở núm vú như đứt, rách.
+ Sữa bị biến đổi trạng thái: sữa có bã đậu, sữa có máu, sữa không có màu
sữa, hoặc sữa nước.
3.4.2. Phương pháp thử CMT
- Đối tượng kiểm tra CMT:
Chúng tôi chỉ thực hiện phương pháp dùng thuốc thử CMT để kiểm tra
những trường hợp cá thể bị hiển thị mã số 6 trên bảng theo giõi Afimilk nhằm
kết luận chính xác hơn cá thể đó có mắc bệnh hay không và mắc bệnh ở mức độ
nào để đưa ra phương pháp và liệu trình điều trị thích hợp.
- Nguyên lý của phương pháp CMT
Nguyên lý của xét nghiệm này dựa trên tác động phá huỷ màng tế bào của các
loại thuốc tẩy, sau đó thuốc tẩy gắn với axit deroxyribonucleic được giải phóng ra và
làm biến đổi trạng thái ban đầu của sữa, sữa trở thành một hỗn hợp nhớt.
- Các bước tiến hành:

+ Chuẩn bị khay và thuốc thử
+ Vắt bỏ từ 3 đến 5 tia sữa đầu
+ Lấy vào khay thử tương đương với 4 vú 4 ô lượng sữa vừa đủ là 2 ml/ô thử.
( tỷ lệ thuốc thử và sữa là 1:1)
+ Cho thuốc thử CMT vào trong khay tương đương với 4 ô sau đó xoay đều.
- Đọc kết quả:
+ Kết quả là âm tính nếu như trạng thái của sữa và thuốc thử không đổi. Hỗn
hợp giữa thuốc thử CMT với sữa đồng nhất có màu của sữa và thuốc thử.
+ Kết quả là dương tính khi hỗn hợp sữa và thuốc thử đổi màu, đặc quánh lại và
màu tím đậm.
- Quy định về các mức độ CMT
Nếu hỗn hợp thuốc thử và sữa hơi ngã màu hồng nhạt (vẫn đục), sữa hơi
quánh hơn nhưng vẫn chảy thành từng giọt thì quy định là CMT +.

22
Nếu hỗn hợp thuốc thử và sữa có màu đậm hơn giống màu cà phê và sữa
quánh lại chảy thành từng sợi dài hoặc có lổn nhổn bã đậu thì quy định là CMT ++.
Nếu hỗn hợp thuốc thử và sữa đặc lại, khi nghiêng đĩa thử thì sữa không
chảy ra được thì quy định là CMT +++.
3.4.3. Phác đồ điều trị bệnh viêm vú
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng 4 phác đồ điều trị do công ty TH đưa
ra. Chi tiết về phác đồ điều trị này được trình bày ở bảng Căn cứ vào triệu chứng lâm
sàng của bệnh viêm vú chúng tôi đưa ra 4 phác đồ điều trị sau đây.
Bảng 3.1. Các phác đồ điều trị viêm vú do công ty TH đề xuất
Phá
c đồ
Số
con
điề
u

trị
Thuốc điều
trị
Liều lượng Cách dùng
Đối tượng
điều trị
Số
ngày
điều
trị
1
Vắt kiệt sữa
bằng tay 3
lần/ngày
Theo dõi
trong 3
ngày
CMT dương
tính, sữa có ít
bã đậu
3 ngày
theo
dõi
2
Maniform 1 tuyt/1 núm vú Bơm trực
tiếp vào
núm vú
Sữa nhiều bã
đậu, bầu vú và
thể trạng của

bò bình
thường
3 - 5
ngày
liên
tiếp
3
- Maniform
- Finadyne
- Pen - strep
- 1tuyt/1 núm vú
- 1ml/45kg trọng
lượng
- 1 ml/20kg
- Bơm vào
núm vú
- Finadyne
và Pen -
strep tiêm
bắp cổ
Những con bò
viêm vú lâm
sàng cấp tính
3 –5
ngày
liên
tiếp
4
-Maniform
- Finadyne

- Cobactan
- 1 tuyt/1 núm vú
- 1ml/45kg trọng
lượng
- 1 ml/25kg thể
trọng
- Bơm vào
núm vú
- Finadyne

Cobactan
tiêm bắp cổ
Viêm vú lâm
sàng thể nặng
3 –5
ngày
liên
tiếp

23
Thành phần của các thuốc:
- Manifort
Thành phần là Ampicillin và Cloxacillin được chứa trong một tuýt dạng gell
trọng lượng là 275 mg.
- Finadyne
Thành phần của thuốc Finadyne bao gồm Flunixine và excipent.
- Cobactan
Thành phần là Cefquinome Sulphate.
- Pen – Strep
Thành phần của Pen – Strep bao gồm procaine penicillin và streptomicill.

3.5. Xử lý số liệu
Sử dụng phương pháp thống kê sinh vật học bằng phần mềm Microsoft Excell
trên máy vi tính [6].
Tỷ lệ bò có CMT dương tính (%) =
Tổng số con có CMT dương tính
x 100
Tổng số bò khảo sát CMT
Tỷ Lệ bò mắc bệnh (%) = Tổng số bò mắc bệnh
Tổng số bò khảo sát
Tỷ lệ bò mắc bệnh theo tháng (%) =
Tổng số bò mắc bệnh trong tháng
x 100
Tổng số bò khảo sát ở tháng đó
Tỷ lệ viêm vú theo triệu chứng
=
Tổng số bò viêm vú cùng
triệu chứng lâm sàng
x 100
Tổng số bò bị viêm lâm sàng
Tỷ lệ bò mắc bệnh theo lứa đẻ (%) =
Tổng số bò bị bệnh ở cùng lứa đẻ
Tổng số bò khảo sát ở cùng lứa đẻ
Tỷ lệ viêm vú theo mức độ CMT (%) =
Tổng số núm vú viêm cùng cường độ
Tổng số vú khảo sát
Tỷ lệ bò khỏi bệnh (%) = Tổng số bò khỏi bệnh
Tổng số bò điều trị

24
PHẦN 4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA BỆNH VIÊM VÚ CHUNG CHO TOÀN TRẠI 1
4.1.1. Kết quả điều tra bệnh viêm vú theo các tháng
Để biết được tình hình bò viêm vú chung của toàn trại và so sánh đối
chiếu với nhóm bò khảo sát chúng tôi tiến hành điều tra về số bò bị viêm vú
trong tháng 1, tháng 2, tháng 3 và tháng 4.
Qua thời gian điều tra từ ngày 10/1/2012 đến ngày 30/4/2012 chúng tôi
thu được kết quả như sau: số bò bị viêm trong 4 tháng là 522 con trong tổng số
là 4620 bò cho sữa. Kết quả của các tháng được thể hiện qua bảng dưới đây.
Bảng 4.1. Kết quả điều tra bò bị bệnh viêm vú theo các tháng
Bò toàn
trại
Tháng điều tra Số con bị bệnh Tỷ kệ (%)
Tháng 1 137 2,96 %
Tháng 2 130 2,81 %
Tháng 3 120 2,59 %
Tháng 4 135 2,92 %
Tổng 522 11,28 %
Trung bình 131 2,82 %
Qua bảng số liệu trên chúng tôi thấy rằng tỷ lệ trung bình của các tháng
điều tra là 2,82%. Đồng thời qua bảng trên cho thấy thì tỷ lệ bò viêm vú cao
nhất là tháng 1 chiếm 2,96%. Sau đó tháng 2 và tháng 3 có giảm so với tháng 1.
Nhưng tới tháng 4 lại tăng lên là 2,92%. Qua điều tra thực tế thì chúng tôi thấy
rằng nguyên nhân của điều này là do tháng 1 thời tiết không thuận lợi như mưa
nhiều. Tuy các chuồng đã có mái che mưa nhưng mà vẫn bị tạt phía hai bên dãy
chuồng. Hơn nữa lượng phân của bò ở các lối đi không được gạt thường xuyên
nên bò đi lại nhiều cộng thêm máng nước nằm gần lối đi, mỗi lần bò uống nước
làm cho nền chuồng xung quanh đó bị ướt. Do máy gạt phân ít hoạt động hơn,
các hố phân bị đầy mà không có xe tới chở làm cho lối đi của bò bị ngập phân
trong một thời gian dài. Sỡ dĩ không có xe tới chở phân về các hố xử lý phân


25

×