Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

bắc thuộc và chống bắc thuộc những dấu tích văn hóa vật chất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.11 KB, 42 trang )

BẮC THUỘC VÀ CHỐNG BẮC THUỘC: NHỮNG DẤU TÍCH
VĂN HÓA VẬT CHẤT

GS.TS Nguyễn Quang Ngọc
I. KHÁI QUÁT 10 THẾ KỶ BẮC THUỘC VÀ CHỐNG BẮC
THUỘC
Năm 179 TCN, thành Cổ Loa thất thủ trước cuộc tiến công
xâm lược của Triệu Đà, Âu Lạc bước vào đêm trường Bắc
thuộc kéo dài hơn 1000 năm.
Triệu Đà chia Âu Lạc ra làm hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân và
sát nhập vào nước Nam Việt. Quận Giao Chỉ tương đương
với khu vực Bắc Bộ và quận Cửu Chân tương đương với các
tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh. Tại đây, chính quyền
Nam Việt cắt đặt 2 viên sứ thần coi giữ và trong thực tế mới
chỉ cai trị một cách lỏng lẻo thông qua hình thức thu nộp
cống vật.
Năm 111 TCN, Nam Việt bị Tây Hán thôn tính. Trên lãnh thổ
Nam Việt cũ, Tây Hán chia ra làm 9 quận là Đam Nhĩ, Châu
Nhai (thuộc đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm,
Thương Ngô (đều thuộc các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây,
Trung Quốc), Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam (tương
đương với vùng từ Quảng Bình đến Quảng Nam). Đến năm
106 TCN, nhà Tây Hán đặt châu Giao Chỉ thống suất 7 quận
lục địa (trừ Châu Nhai và Đam Nhĩ) và đặt Châu trị tại quận
Giao Chỉ. Bộ máy cai trị của nhà Tây Hán tại Giao Chỉ được
thiết lập chặt chẽ hơn so với nhà Triệu. Thứ sử đứng đầu
châu và đóng trị sở tại Mê Linh (Hạ Lôi, Mê Linh, Hà Nội),
dưới cấp quận có Thái thú coi quản việc dân sự và Đô uý coi
việc quân sự. Bên dưới cấp huyện, Tây Hán vẫn tiếp tục cho
Lạc tướng được trị dân theo chế độ cha truyền con nối.
Từ thế kỷ II TCN cho đến đầu Công nguyên, dưới chính sách


cai trị lỏng lẻo của nhà Triệu và nhà Hán, cơ cấu tổ chức
truyền thống của Âu Lạc mặc dù chịu sự kiềm chế, kiểm soát
của chính quyền đô hộ, song về cơ bản không bị xáo trộn
nhiều. Nền văn minh Việt cổ dựa trên mô hình kinh tế văn
hoá nông nghiệp lúa nước vẫn tiếp tục được duy trì, phát
triển. Đây là nền tảng quan trọng, là sức sống nội tại để
người Việt vượt qua những thử thách của các chính sách nô
dịch và đồng hoá ngày càng có quy mô, hệ thống của các
chính quyền đô hộ trong những giai đoạn sau.
Năm 43, sau khi dẹp tan cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nhà
Đông Hán đã thắt chặt chính sách cai trị tại Giao Chỉ. Về tổ
chức bộ máy đô hộ, nhà Đông Hán vẫn đặt chức Thứ sử
đứng đầu châu Giao Chỉ (sau đổi thành Giao Châu). Dưới
cấp quận, viên quan đứng đầu vẫn là Thái thú. Tuy nhiên,
lúc này Thái thú kiêm coi cả việc dân sự và việc quân sự của
một quận. Chức Đô uý chuyên trách việc quân sự trước đây
không còn nữa. Ngoài ra, để giúp việc cho Thái thú, một số
chức quan chuyên trách các phần việc cụ thể cũng được đặt
ra.
Đặc biệt, chính quyền Đông Hán là chính quyền đô hộ đầu
tiên đã cố sức vươn xuống cai quản cấp huyện. Danh hiệu
Lạc tướng bị xoá bỏ, thay vào đó, mỗi huyện do một viên
Lệnh trưởng được chính quyền Đông Hán bổ nhiệm trực
tiếp cai quản. Để thuận lợi hơn cho Lệnh trưởng cai trị các
huyện đồng thời triệt tiêu dần quyền lực của các Lạc tướng
cũ của người Việt trên đất bản bộ của mình, nhà Đông Hán
đã tiến hành điều chỉnh lại địa giới hành chính, chia tách và
đặt thêm một số huyện mới. Mã Viện sau khi đánh bại Trưng
Vương đã quyết định chia cắt huyện Tây Vu cũ thành 3
huyện mới là Tây Vu, Phong Khê, Vọng Hải và cắt bớt diện

tích huyện Mê Linh
Ách cai trị thắt chặt của nhà Đông Hán còn thể hiện rõ qua
việc tăng cường các chính sách bóc lột, nô dịch và đẩy mạnh
hàng loạt biện pháp đồng hoá có hệ thống với quy mô ngày
càng lớn. Bên cạnh việc vơ vét tài nguyên, của ngon vật lạ để
cống nạp về triều đình trung ương, các quan lại tại Giao
Châu còn ra sức bóc lột người dân bằng nhiều loại tô thuế
và lao dịch. Nhiều diện tích đất đai của công xã người Việt ở
Giao Chỉ đã bị các nhóm địa chủ, quan lại, sĩ phu từ phương
Bắc di cư xuống chiếm đoạt để lập trang trại, đồn điền.
Chính quyền cai trị nắm độc quyền nhiều ngành sản xuất
như rèn sắt, mua bán muối Nhà Đông Hán cũng ra sức áp
dụng luật Hán trên đất Việt, bắt nhân dân ta phải tuân theo
lễ giáo phong kiến Hán, đồng thời cố gắng xóa bỏ tận gốc
truyền thống “dùng tục cũ mà cai trị” của người Việt.
Cuối thế kỷ II - đầu thế kỷ III, nhà Đông Hán suy yếu rồi sụp
đổ, Trung Quốc liên tục trong tình trạng hỗn chiến, loạn lạc.
Nhiều triều đại được lập lên, tồn tại trong một thời gian
ngắn rồi lại sụp đổ. Chịu tác động của những biến động đó,
từ đầu thế kỷ III đến giữa thế kỷ VI, Giao Châu lần lượt phụ
thuộc một cách lỏng lẻo vào các thế lực phong kiến Ngô,
Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần (giai đoạn nội thuộc Lục triều).
Năm 264, nhà Ngô cũng tiến hành chia cắt lại địa giới hành
chính tại Giao Châu. Ba quận Nam Hải, Thương Ngô và Uất
Lâm đặt làm Quảng Châu, tách hẳn khỏi Giao Châu trở
thành Trung Quốc nội địa. Tại Giao Châu, nhà Ngô lại tiến
hành chia đặt nhiều quận, huyện nhỏ. Quận Giao Chỉ được
tách ra thành 3 quận nhỏ là Giao Chỉ, Tân Xương, Vũ Bình;
quận Cửu Chân được chia thành 2 quận là Cửu Đức và Cửu
Chân. Lúc này, trên địa bàn 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật

Nam trước đây đã bao gồm 6 quận nhỏ và 45 huyện. Các
huyện cũng được chia lại với diện tích nhỏ hơn so với quy
mô huyện dưới thời Đông Hán. Các chính quyền đô hộ Lục
triều về sau vẫn cơ bản giữ nguyên cách chia đặt quận,
huyện như dưới triều Ngô, chỉ tiến hành điều chỉnh nhỏ tại
các huyện, như bỏ hoặc đặt thêm một số huyện mới, đổi tên
huyện…
Chính sách cai trị thực thi từ thời Đông Hán tiếp tục được
các chính quyền đô hộ Lục triều đẩy mạnh. Sản vật quý, của
ngon vật lạ từ khắp mọi miền đất nước đều bị vơ vét, thu
gom về phương Bắc. Việc thu gom cống phẩm không theo
quy định mà được tiến hành hết sức tùy tiện, vô hạn độ càng
làm dân ta khốn khổ. Dưới thời Ngô, hàng vạn người Việt
còn bị bắt bổ sung vào quân đội để tham gia vào các cuộc
hỗn chiến phong kiến, hàng nghìn thợ thủ công tài hoa cũng
bị bắt sang xây dựng các công trình tại Trung Quốc.
Hoạt động chiếm đất lập trang trại đồn điền của địa chủ,
quan lại gốc Hán ngày càng phổ biến khiến nhiều thành viên
công xã người Việt phá sản, không còn tư liệu sản xuất và
trở thành nô tì, nông dân lệ thuộc của giới địa chủ quan lại.
Chính sách di dân, đồng hoá cũng được đẩy mạnh thông qua
biện pháp thâm độc là di dân người Hán sang ở lẫn với
người Việt. Quân lính trong các đội quân chinh phạt Giao
Châu, tù binh khổ sai người Hán hay đội ngũ quan lại, địa
chủ vì loạn lạc đã chạy sang định cư lập nghiệp tại Giao
Châu, họ ở lẫn với người Việt, góp phần đẩy mạnh thêm xu
hướng Hán hoá đang gia tăng trong lòng cơ cấu kinh tế xã
hội cổ truyền của người Việt.
Nhìn chung, từ cuối thời Đông Hán đến Lục triều, mặc dù
các chính quyền đô hộ đã ra sức đẩy mạnh hàng loạt chính

sách bóc lột, nô dịch và đồng hoá nhân dân ta, song trên
thực tế các chính sách này chỉ được thực thi tại các khu vực
trung tâm - trị sở cai trị hay những địa điểm đóng quân đồn
trú của chính quyền đô hộ. Còn tại các miền xa xôi, các vùng
nông thôn, chúng chỉ mới dừng lại ở mức độ “ràng buộc”
lỏng lẻo.
Đầu thế kỷ thứ VII, Giao Châu bị nhà Tuỳ cai trị trong một
thời gian ngắn và sau đó rơi vào ách thống trị của nhà
Đường cho đến đầu thế kỷ thứ X. Bộ máy cai trị nhà Đường
có nhiều khác biệt so với các chính quyền đô hộ trước đó.
Nhà Đường đặt Giao Châu đại tổng quản phủ để thống suất
10 châu là Giao Châu, Phong Châu, Ái Châu, Tiên Châu, Diên
Châu, Tống Châu, Từ Châu, Hiểm Châu, Đạo Châu và Long
Châu - tức bao gồm toàn bộ Bắc Bộ hiện nay cho đến Đèo
Ngang. Năm 622, Giao Châu đại tổng quản phủ được đổi
thành Giao Châu đô hộ phủ, rồi An Nam đô hộ phủ vào năm
679. Đứng đầu An Nam đô hộ phủ là một viên Đô hộ hoặc
Kinh lược sứ; đứng đầu các châu là chức quan Thứ sử.
Tiến xa hơn một bước so với các chính quyền đô hộ trước
đó, nhà Đường đã tìm mọi cách thiết lập hệ thống cai trị
xuống tận các xóm làng của người Việt. Giao Châu đại tổng
quản đầu tiên của nhà Đường là Khâu Hoà đã tiến hành cải
cách chia đặt các vùng nông thôn thành các tiểu hương, đại
hương, tiểu xã, đại xã với quy định cụ thể về số hộ cho từng
cấp nhằm phục vụ cho công việc tổ chức quản lý hành chính
cấp cơ sở. Đối với miền núi, nhà Đường đặt các châu ki mi
do tù trưởng cai quản. Tổng cộng An Nam đô hộ phủ cai
quản 41 châu.
Chính quyền đô hộ nhà Đường đã thực thi tại An Nam các
hình thức và thủ đoạn cai trị hà khắc, thâm độc. Nhân dân

An Nam phải chịu thuế má, lao dịch rất nặng nề. Phương
thức bóc lột chủ yếu của nhà Đường tại đây là bóc lột thông
qua các hình thức tô thuế. Bên cạnh đó, phương thức bóc lột
bằng cống nạp vẫn được duy trì. Các châu quận tại An Nam
hàng năm phải tiến cống những sản vật địa phương, lâm
thổ sản quý, sản phẩm thủ công… Ngoài việc bị bóc lột tô
thuế, chịu lao dịch để khai thác sản vật làm cống phẩm cho
triều đình, người dân An Nam còn phải đóng rất nhiều phú
liễm khác… khiến tình cảnh của họ đã khốn khổ lại càng
cùng quẫn hơn. Hiện tượng bần cùng hoá gia tăng nhanh
chóng với quy mô ngày càng lớn. Mâu thuẫn giữa người
Việt và chính quyền đô hộ ngày càng gay gắt và đã bùng lên
thành nhiều phong trào đấu tranh lớn của dân chúng vào
thế kỷ VIII-IX, làm cơ sở đi đến công cuộc đấu tranh giành
lại nền độc lập hoàn toàn vào đầu thế kỷ X.
Trong hơn 1000 năm Bắc thuộc, chính sách cai trị của các
triều đại phong kiến và quá trình giao lưu tiếp xúc Việt -
Hoa theo cả hai hình thức cưỡng bức và ôn hoà đã tạo nên
những chuyển biến lớn trong cơ cấu kinh tế, xã hội, văn hoá
của người Việt.
Khu vực hạ châu thổ sông Hồng đã mở rộng vươn xa về phía
biển. Người Việt đã không ngừng khai hoang lập ấp, biến
hầu như toàn bộ vùng châu thổ thành đồng ruộng và xóm
làng. Diện tích đất canh tác được mở rộng, hệ thống đê điều
ngăn lụt đã xuất hiện tại nhiều nơi. Toàn bộ vùng châu thổ
đã trở thành những cánh đồng chuyên canh trồng lúa và
hoa màu. Từ đầu Công nguyên, đồ sắt đã bắt đầu được sử
dụng phổ biến, cày cuốc đã trở thành phương thức canh tác
chủ yếu thay cho phương thức “hoả canh”, “thủy nậu”. Kỹ
thuật dùng cày và bón phân, thâm canh tăng vụ đã thúc đẩy

năng suất cây trồng tăng lên nhanh chóng. Bên cạnh trồng
lúa nước truyền thống, người Việt đã đa dạng hoá cơ cấu
cây trồng. Nghề trồng dâu nuôi tằm phát triển. Cây đay,
bông, gai cũng được trồng phổ biến để làm nguyên liệu dệt
vải. Nghề làm vườn cũng không ngừng được đẩy mạnh.
Chăn nuôi cũng phát triển với nhiều giống gia súc, gia cầm
như trâu, bò, lợn, gà, ngỗng, vịt, chim bồ câu…
Quá trình tiếp xúc văn hoá Hoa - Việt lâu dài đã đem đến
những thay đổi quan trọng trong ngành thủ công nghiệp.
Bên cạnh những nghề truyền thống, người Việt đã phát
triển những nghề thủ công học từ người Hán như rèn sắt,
làm gốm, làm gạch ngói, làm đường, làm giấy, chế tạo thủy
tinh, sản xuất đồ mỹ nghệ, thuộc da, sơn then… Trong từng
nghề, người Việt tiếp thu không chỉ kỹ thuật mà cả phong
cách nghệ thuật Hán. Đồ gốm làm ra trong thời kỳ này đã
thấy xuất hiện nhiều loại hoa văn Hán rất đặc thù. Người
Việt từ sản xuất các loại gốm thô đã tiến tới làm ra các sản
phẩm gốm tráng men. Nghề làm vật liệu xây dựng đặc biệt
phát triển nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng các công trình
kiến trúc thành quách, chùa tháp, mộ táng… của chính
quyền cai trị. Nghề làm giấy học được từ Trung Quốc cũng
có những tiến bộ đáng kể; nghề chế tạo thủy tinh cũng đạt
nhiều thành tựu quan trọng với nhiều loại sản phẩm thuỷ
tinh có nhiều màu, tinh xảo.
Trong thời kỳ này, chủ yếu có hai luồng giao thương buôn
bán là hàng hoá, tiền đồng từ Trung Quốc đổ vào Việt Nam
và nguồn nông, lâm, thổ, hải sản, sản phẩm thủ công từ Việt
Nam chuyển sang Trung Quốc. Hệ thống thuyền buôn Trung
Quốc hoạt động mạnh đã nối kết Việt Nam với nhiều quốc
gia Đông Nam Á. Hệ thống giao thông, giao thương đã phát

triển, nối liền các địa phương trong một huyện, quận và nối
thông cả 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.
Về văn hoá xã hội, dưới tác động của chính sách đồng hoá,
các yếu tố văn hóa Hán ngày càng ảnh hưởng sâu đậm tại
nước ta. Xen kẽ và hoà cùng với các xóm làng người Việt ở
châu thổ sông Hồng, lúc này cũng bắt đầu xuất hiện một số
thị trấn, xóm làng của người Hoa và đồn điền, trại ấp của
quan lại, địa chủ gốc Hán. Trải qua quá trình cộng sinh lâu
đời, nhiều người Hoa đã dần dần Việt hoá và trở thành một
bộ phận trong cộng đồng người Việt.
Với việc xoá bỏ chế độ Lạc tướng và cơ cấu bộ lạc, nhiều
truyền thống của công xã, bộ lạc người Việt đã bị phá vỡ,
phân hoá xã hội ngày càng sâu sắc hơn với những mối quan
hệ xã hội mới ra đời. Tầng lớp hào trưởng người Việt ngày
càng có vai trò to lớn trong xã hội, trong khi đó họ lại bị
quan lại đô hộ chèn ép và phân biệt đối xử về cả kinh tế và
chính trị nên mâu thuẫn giữa họ với chính quyền đô hộ càng
ngày càng trở nên sâu sắc. Họ dần trở thành thủ lĩnh đại
diện cho phong trào đấu tranh chống lại ách nô dịch và
đồng hoá của chính quyền đô hộ.
Văn hoá, luật tục và thiết chế cổ truyền của người Việt dần
dần bị xoá bỏ và bị cải tổ theo phong hoá Hán. Thậm chí tên
họ người Việt đến đây cũng đã được thống nhất đặt theo
cách gọi chung của người Hán. Tuy nhiên nhiều truyền
thống vẫn được bảo tồn bền bỉ như tục thờ cúng tổ tiên, anh
hùng có công với cộng đồng, tục xăm mình, nhuộm răng đen
hay các hình thức tín ngưỡng dân gian khác của cộng đồng
cư dân nông nghiệp trồng lúa nước.
Quá trình giao lưu tiếp xúc văn hoá mạnh mẽ đã đưa đến sự
du nhập của các luồng tư tưởng, tôn giáo lớn như Nho giáo,

Phật giáo, Đạo giáo… Nho giáo vào Việt Nam cùng với chính
sách nô dịch, đồng hoá của chính quyền cai trị nên ít có điều
kiện đi sâu vào đời sống dân chúng, mà dường như mới chỉ
dừng lại ảnh hưởng ở những tầng lớp trên trong xã hội.
Trái lại, Phật giáo ngay khi mới vào Việt Nam đã có sự kết
hợp với tín ngưỡng dân gian bản địa một cách tự nhiên. Đây
là tôn giáo phát triển nhanh nhất và có ảnh hưởng mạnh
mẽ nhất tại nước ta trong thời Bắc thuộc. Sự phát triển
mạnh của tôn giáo này đã dẫn đến sự hình thành trung tâm
Phật giáo Dâu - Luy Lâu phồn thịnh ngay từ những thế kỷ
đầu Công nguyên. Một tôn giáo khác cũng theo bước chân
người Hán du nhập vào nước ta là Đạo giáo. Khoảng cuối
thế kỷ II, Đạo giáo đã chính thức được truyền bá và vượt xa
Nho giáo về mức độ ảnh hưởng trong dân chúng. Với tinh
thần xuất thế, vô vi, thoát tục, thuận theo tự nhiên, Đạo giáo
đã được người Việt đón nhận nhanh chóng. Sự xuất hiện và
phát triển đồng thời của nhiều tư tưởng, tôn giáo đã tạo
nên sắc thái đa nguyên hỗn hợp trong đời sống văn hoá tín
ngưỡng của người Việt.
Như vậy, mặc dù phải chịu đựng ách cai trị tàn bạo và chính
sách đồng hoá khốc liệt của các triều đại phong kiến
phương Bắc, nhưng người Việt đã biết tiếp thu, học hỏi
những yếu tố tiến bộ trong văn hoá Hán, tạo nên những
chuyển biến to lớn trong nền kinh tế, xã hội, văn hoá. Lối
sống và văn hoá Việt tiếp xúc lâu dài và trực tiếp với văn
hoá Hán, đã diễn tiến dưới ảnh hưởng của văn hoá Hán và
dần dần biến đổi từ mô hình Đông Sơn cổ truyền sang mô
thức mới: Việt - Hán.
Các chính quyền phong kiến phương Bắc, mặc dù đã cố gắng
tìm mọi cách để đồng hoá người Việt, song về căn bản trong

suốt thời Bắc thuộc vẫn không thể nào trực tiếp với tay tới
và can thiệp làm biến đổi được cơ cấu xóm làng cổ truyền
của người Việt. Các xóm làng dựa trên cơ sở công xã nông
thôn vẫn tồn tại như thế giới riêng của người Việt, là nơi
nuôi dưỡng và phát huy những tinh hoa của văn hoá truyền
thống làm cơ sở cho cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, chống
đồng hoá.
Trong dọc dài 1000 năm Bắc thuộc, hầu hết các vùng miền
của lãnh thổ Âu Lạc cũ đều có những chuyển biến sâu sắc,
trong đó khu vực nội thành Hà Nội trở thành trung tâm
chính trị lớn nhất, sào huyệt của các chính quyền đô hộ Tuỳ -
Đường, và vì thế cũng là địa bàn tập hợp, quy tụ sức quật
khởi của cả nước, chứng kiến đầy đủ và tiêu biểu nhất các
cuộc đấu tranh chống nô dịch, chống đồng hoá, không
ngừng không nghỉ, lúc âm thầm, sâu lắng, lúc bùng lên dữ
dội như các cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan (713-722), khởi
nghĩa Phùng Hưng (791), khởi nghĩa Dương Thanh (819-
820), các cuộc đấu tranh giành khôi phục quyền tự chủ của
họ Khúc, họ Dương… và cuối cùng là cuộc trung hưng vĩ đại
của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền năm 938.

2. DẤU TÍCH VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA 10 THẾ KỶ CHUYỂN
ĐỔI
Chúng tôi vẫn theo quan niệm truyền thống chia toàn bộ
thời kỳ Bắc thuộc ra thành 3 giai đoạn là Bắc thuộc lần thứ
nhất (từ sau thất bại của An Dương Vương đến khởi nghĩa
Hai Bà Trưng và chính quyền Trưng Vương); Bắc thuộc lần
thứ hai (từ sau thất bại của Trưng Vương đến khởi nghĩa Lý
Bí và nhà nước Vạn Xuân) và Bắc thuộc lần thứ ba (từ sau
thất bại của nhà nước Vạn Xuân đến chiến thắng Bạch Đằng

của Ngô Quyền). Sự phân chia giai đoạn như thế này này là
hết sức tương đối và còn phải tiếp tục nghiên cứu, tuy nhiên
nó vẫn phản ánh được diễn trình lịch sử - văn hóa của hơn
mười thế kỷ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc. Trong mỗi thời
kỳ, chúng tôi chỉ chọn giới thiệu một vài dấu tích văn hóa
vật chất tiêu biểu và được xem là đặc trưng cho diễn trình
văn hóa của giai đoạn lịch sử đó.

2.1. Bắc thuộc lần thứ nhất: Vai trò chủ đạo của văn hóa
Đông Sơn cổ truyền
Âu Lạc rơi vào ách thống trị của Nam Việt trong bối cảnh
hóa Đông Sơn đang phát triển đến đỉnh cao, tiêu biểu là
trống đồng Cổ Loa (loại I) bên trong có gần 200 hiện vật
đồng gồm vũ khí (giáo, lao, mũi tên đồng, rìu xéo), công cụ
sản xuất (lưỡi cày đồng, dao nhỏ); khuôn đúc mũi tên 3 cạnh
và hàng vạn mũi tên đồng tìm được trong lòng đất Cổ Loa.
Thời kỳ này văn hóa Đông Sơn vẫn phát triển và giữ vai trò
chủ đạo trong dòng chẩy văn hóa trên địa bàn Âu Lạc cũ, tuy
nhiên cũng đã có sự tiếp xúc với văn hóa Hán và cũng bắt
đầu có sự dung hợp văn hóa Hán - Việt.
Trong một số ngôi mộ Đông Sơn, các nhà khảo cổ học đã
nhận ra bên cạnh đồ đồng “kiểu Đông Sơn” đã có một ít đồ
đồng kiểu Hán. Mộ thuyền Việt Khê (Thủy Nguyên, Hải
Phòng) ngoài những đồ đồng dáng vẻ Đông Sơn như trống
đồng loại I, rìu lưỡi xéo… là một số đồ đồng Trung Quốc như
đỉnh đồng, chuông đồng nhỏ có chữ triện. Đáng chú ý là ở
Thiệu Dương, Đông Sơn (Thanh Hóa), Châu Can (Phú Xuyên,
Hà Nội) có nhiều ngôi mộ cổ thuộc thời kỳ cuối Tây Hán, đầu
Đông Hán được khai quật có nhiều công cụ và vũ khí bằng
đồng, gương đồng, tiền Ngũ Thù… về hình loại có nhiều nét

tương tự như các đồ đồng phát hiện được trong các mộ cổ
quách gỗ tại Quảng Châu (Trung Quốc). Bên cạnh đồ đồng ở
các di chỉ Đông Sơn và Thiệu Dương, khảo cổ học còn tìm
được một số đồ sắt như rìu, dao, kiếm. Những đồ sắt này có
thể do người Trung Quốc mang sang, do mua bán, trao đổi,
nhưng chắc chắn không ít trong đó là được chế tạo tại chỗ
mà chứng tích còn có thể tìm thấy ở các địa điểm thuộc văn
hóa Đường Cồ như Gò Chiền Vậy, Cổ Loa… Kỹ thuật rèn đúc
sắt bắt đầu phát triển đánh dấu một bước chuyển biến rất
quan trọng của nền văn hóa vật chất và kinh tế vùng Giao
Chỉ, Cửu Chân.
Tư liệu khảo cổ học cho phép hình dung trong hơn hai thế kỷ
Bắc thuộc lần thứ nhất trên đất Âu Lạc cũ, bên cạnh những
xóm làng của người Việt là những nhà sàn dựng dọc theo bờ
một con sông hay cụm lại ở khu vực ngã ba sông cổ còn có
thành quách với nhà cửa, giếng nước, bếp lò, chuồng trại
của người Hán. Bên cạnh những mộ đất, mộ quan tài hình
thuyền với những đồ tùy táng thuộc loại hình văn hóa Đông
Sơn và những mộ đất, mộ quách gỗ với những hiện vật chôn
theo thuộc văn hóa Hán hoặc mang những nét đặc trưng
của văn hóa phương Bắc. Các công cụ sản xuất, đồ dùng
sinh hoạt, vũ khí trong các mộ Việt như đồ gốm Đường Cồ,
Đông Sơn, rìu lưỡi xéo, trống đồng và trong các mộ Hán như
đỉnh, bình miệng vuông, kiếm, dao, sắt, cốc đốt trầm, móc
đai lưng, gương đồng, các hiện vật thuộc văn hóa Hán được
chôn cùng với các hiện vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn
trong mộ Việt và các hiện vật Đông Sơn hay mang kiểu dáng
đặc trưng Đông Sơn trong mộ Hán… không chỉ xác nhận sự
tồn tại song song của hai lối sống, hai phương thức sinh
hoạt, mà bước đầu đã có sự thâm nhập và chuyển hóa lẫn

nhau giữa hai khu vực Việt - Hán. Như thế lúc này trên cơ
tầng văn hóa Việt đã vận hành một cơ chế Hán, trong đó lối
sống và văn hóa Việt do tiếp xúc lâu dài và trực tiếp với văn
hóa Hán đã diễn tiến dưới ảnh hưởng của văn hóa Hán và
đang biến đổi từ mô hình Đông Sơn cổ truyền sang mô thức
mới Việt - Hán.
Trong khi đó trên địa bàn duyên hải miền Trung từ Quảng
Bình kéo vào đến Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, khảo
cổ học cũng phát hiện được một số hiện vật như đồ sắt mô
phỏng đồ sắt, đồ đồng Tây Hán, tiền Ngũ Thù ở Hội An, Duy
Xuyên, gương đồng và bộ đồ nghi lễ bằng đồng Tây Hán ở
Quế Sơn, Duy Xuyên Đây là chính là hình ảnh của sự tiếp
xúc, giao lưu, ảnh hưởng văn hóa Sa Huỳnh - Hán trong
những thế kỷ trước, sau Công nguyên[1]. Tuy nhiên sự ảnh
hưởng này còn hết sức mờ nhạt, thậm chí còn mờ nhạt hơn
khu vực phía Bắc, vì trong thực tế từ sau năm 111 trước
Công nguyên cả 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam đều
bị đặt dưới ách đô hộ của nhà Tây Hán, nhưng Nhật Nam xa
xôi và cách trở hơn nên mức độ ảnh hưởng của văn hóa Hán
không ngang bằng khu vực các quận Giao Chỉ và Cửu
Chân[2].
Nhìn một cách tổng thể thời kỳ từ thế kỷ thứ II trước Công
nguyên cho đến đầu Công nguyên vẫn là thời kỳ tồn tại của
cơ cấu văn minh Đông Sơn với mô thức kinh tế-văn hóa
nông nghiệp lúa nước cổ truyền sơ kỳ thời đại đồ Sắt Việt
Nam. Nền văn minh Việt cổ vẫn thể hiện đầy đủ sức sống
mãnh liệt của nó và là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ
yếu của cuộc đồng khởi toàn dân do Hai Bà Trưng lãnh đạo
vào mùa xuân năm 40, kết thúc 2 thế kỷ đô hộ của phương
Bắc, “rửa sạch nước thù”, “nối lại nghiệp xưa họ Hùng”.

Tuy nhiên, không đầy 3 năm sau, năm 43, trước sức tấn
công của quân đội nhà Hán do Mã Viện chỉ huy, Hai Bà
Trưng thất thủ, đất nước lại rơi vào ách cai trị của Đông
Hán, mở đầu giai đọan Bắc thuộc lần thứ hai.

×