Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

Nghiên cứu trường hợp phụ nữ di cư hành khất của làng đồn điền, xã quảng thái, huyện quảng xương, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.39 KB, 66 trang )

“Ăn mày (cho) tương lai”: Nghiên cứu Trường hợp Phụ nữ Di cư
Hành khất của làng Đồn Điền, xã Quảng Thái, huyện Quảng Xương, tỉnh
Thanh Hóa.
1.Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới đất nước đã mang lại cho bộ mặt văn hóa, kinh tế, xã hội
những khởi sắc to lớn. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã dẫn tới những
biến đổi mạnh mẽ làm thay đổi bộ mặt nông thôn và đô thị ở Việt Nam. Cùng
với quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa đang tiếp diễn ở nước ta việc xuất
hiện các dòng di cư lao động lớn từ nông thôn ra thành thị là điều không thể
tránh khỏi. Di dân nội địa ở nước ta ngày càng diễn ra mạnh mẽ dưới các dạng
thức di chuyển khác nhau, vì vậy đây không chỉ là vấn đề quan tâm riêng của
các nhà hoạch định chính sách mà còn là một vấn đề thu hút được sự chú ý của
toàn xã hội. Sự thiếu hụt các cơ hội phát triển kinh tế, cải thiện cuộc sống đã
khiến di dân trở thành một trong những lựa chọn chiến lược để sinh tồn của
nhiều hộ gia đình nông dân ở nhiều vùng miền trên cả nước, dưới nhiều dạng
thức khác nhau.
“Tha phương cầu thực là một dạng thức của di dân tự do”
1
. Và hơn nữa,
tha phương cầu thực là hiện tượng xã hội, diễn ra trên phạm vi toàn cầu và xuất
hiện trong suốt chiều dài lịch sử phát triển xã hội loài người.
Sẽ là bình thường nếu một số người nào đó vì lâm vào hoàn cảnh khó
khăn, không còn các cơ hội khác để mưu sinh, phải tồn tại bằng cách tha phương
cầu thực. Nhưng khi hành vi tha phương cầu thực ấy trở thành phong trào mang
tính cộng đồng, với sự tham gia đông đảo không phân biệt giới tính, tuổi tác,
thực trạng kinh tế… của một bộ phận cư dân, thì nó đã trở thành một hiện tượng
xã hội và đưa đến nhiều hệ quả.
Trong chiều hướng gia tăng của các dòng di dân trên địa bàn cả nước, có
một thời gian dài phong trào rời làng đi kiếm sống ở làng Đồn Điền, xã Quảng
Thái, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa diễn ra một cách mạnh mẽ và cho
1


1
1
đến gần đây hiện tượng này vẫn còn ít nhiều biến tướng dưới các dạng thức khác
nhau. Trong dòng di dân của cư dân Quảng Thái thì nghiên cứu về hiện tượng
tha phương cầu thực mang tính cộng đồng sẽ cho ta thấy thêm một khía cạnh
nữa trong bức tranh chung chuyển cư tự do trong nội địa ở Việt Nam.
Nói đến nơi xuất cư của những người tha phương cầu thực, không có ai
trong chúng ta không nghĩ đến tỉnh Thanh Hóa, trong đó có huyện Quảng
Xương. Quảng Thái - một xã ven biển Quảng Xương từ lâu đã được biết đến là
vùng đất của những người ăn mày, bởi phong trào rời làng đi. Không những thế,
cái tên Quảng Thái còn rất nổi tiếng với những cụm từ gắn liền sau nó như:
Quảng Thái – đói nghèo, khó khăn, tha phương cầu thực, mảnh đất sản sinh ra
người ăn mày, làng ăn mày, dân ăn mày… nhiều tờ báo và trên các phương tiện
thông tin đại chúng đã không ít lần đưa tin về xã ven biển xấu số này. Các tổ
chức xã hội đã từng đến thăm, đi liền với đó là những cuộc hội thảo, luận bàn và
tìm các giải pháp cứu trợ nhằm ổn định cuộc sống cho người dân nơi đây như
hội thảo văn hóa làng Thanh Hóa năm 1990, Chương trình CAM.
Thực tế, đã có một khoảng thời gian rất dài, người lớn, trẻ em, ở Quảng
Thái tập trung về các đô thị, các đầu mối kinh tế, tỏ ra khắp mọi miền để tìm kế
sinh nhai. Có lực lượng đông đảo như vậy không chỉ do dân số xã phát triển
nhanh mà còn do không ít đối tượng hành nghề trên đã mạo danh Quảng Thái.
Chính vì thế Quảng Thái đã trở thành vấn đề không chỉ riêng của mảnh đất này.
Đặc điểm của trào lưu di dân tự do của cư dân Đồn Điền, Quảng Thái là tính chủ
động và quyết định của cá nhân hoặc gia đình người di chuyển trong một khoảng
thời gian nhất định. Trong điều kiện như vậy, mối liên hệ giữa người tham gia di
chuyển và cộng đồng nơi xuất cư diễn ra khá thường xuyên, chặt chẽ.
Đã có nhiều bài báo từng đề cập đến vùng đất nghèo ven biển này nhưng
luôn nhìn nhận vấn đề dưới góc độ của việc đi ăn xin, lý giải vấn đề người dân
rời làng đi khất thực (đi xin), dựa trên những câu chuyện không rõ thực hư về vị
thành hoàng làng, hay nhìn nhận việc phát triển kinh tế của một vùng đất cũng

được xem xét trên cơ sở đi ăn xin để làm giàu.
2
2
Ngày nay, cùng với sự phát triển đi lên của nền kinh tế đất nước, cái “làng
ăn xin” ấy đã và đang có một cuộc chuyển mình, biến đổi không ngừng trên mọi
phương diện. Chính vì thế tôi muốn thông qua nghiên cứu của mình để lý giải
những nguyên nhân khiến người dân nơi đây rời làng đi mưu sinh bằng một
phương thức “đặc biệt”, tìm hiểu thực trạng tha phương cầu thực trong những
năm gần đây so với trước đây nhằm so sánh, đánh giá những tác động, những
biến đổi mạnh mẽ đã và đang diễn ra ở xã Quảng Thái trong công cuộc đổi mới
đất nước. Đồng thời, thông qua tìm hiểu về thực trạng này chúng ta sẽ có một
cách nhìn nhận đầy đủ hơn về thực trạng việc làm, lao động, các chính sách về
tạo việc làm tại chỗ ổn định đời sống người dân cũng như quản lý nhân lực có
liên quan tới quyết định di chuyển cũng như hạn chế chuyển cư của người dân.
2. Tổng quan nghiên cứu
Di dân không phải là vấn đề của riêng một quốc gia nào, chính sự khác nhau về
điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội giữa các vùng, miền đã tạo điều kiện
thúc đẩy quá trình chuyển cư. Di dân là một hiện tượng xã hội luôn diễn ra ở
mọi thời đại, mỗi quốc gia và toàn châu lục trên thế giới. Di dân ở Việt Nam
cũng diễn ra phổ biến trong các giai đoạn lịch sử trước đây và hiện nay. Đã có
nhiều nghiên cứu về di dân, trên thế giới và khu vực.
Ở Việt Nam cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về di dân, tuy nhiên
những công trình từ năm 1975 trở về trước còn có những hạn chế nhất định nó
chỉ đề cập đến một khía cạnh và mức độ nhất định của di dân trong từng thời kỳ
của một số dân tộc nhất định. Nhìn chung trên bình diện chung của cả nước quá
trình di dân của Việt Nam sau 1975 bao gồm di dân có tổ chức được thực hiện từ
năm 1976 đến nay và di dân tự do trong giai đoạn đầu xây dựng, phát triển đất
nước. Có thể nói di dân ở Việt Nam từ sau năm 1975 đến nay đặc biệt trong thời
kỳ mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã có tác động 2 mặt. Tuy vậy, di dân tự
do ở nước ta cũng đã làm thay đổi cấu trúc không gian vật thể, không gian xã

hội ở cả nơi xuất cư và nơi

nhập cư.
Từ những năm 90 của thế kỷ XX, nước ta đã chứng kiến các dòng di
dân đặc biệt là di dân nông thôn – đô thị diễn ra hết sức mạnh mẽ và phức
3
3
tạp. Sự chuyển đổi về cơ cấu kinh tế cùng với quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa cũng như sức ép dân số, việc làm, đất đai, nghề nghiệp làm
cho luồng di dân nông thôn – đô thị có chiều hướng gia tăng, đặc biệt tập
trung vào các trung tâm kinh tế như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Thực
tiễn này đặt ra những vấn đề bức xúc về di dân cần được giải đáp, chính vì
thế nó thu hút được sự chú ý của toàn xã hội đặc biệt là giới nghiên cứu.
Trong những năm qua Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về di dân
nội địa ở cấp độ lý thuyết và thực nghiệm, phần lớn các nghiên cứu về di
dân ở Việt Nam thời gian qua là những nghiên cứu định hướng, chính sách
tuy nhiên những công trình này đã góp phần mang lại những hiểu biết đáng
kể về di dân ở Việt Nam nói chung cũng như ở từng khu vực nói riêng.
Các nghiên cứu đã có về di dân ở Việt Nam, thường lấy các hình thức di
dân để làm cơ sở tiếp cận, do vậy các nghiên cứu về di dân thường được phân
làm các loại thức như: Nghiên cứu về di dân theo phương thức tổ chức (có kế
hoạch), di dân tự do và di dân bất hợp pháp; Nghiên cứu theo dòng di chuyển cư
như: Nghiên cứu di dân theo thời gian lưu trú của người di chuyển, trong đó có
di cư lâu dài, di cư tạm thời và di cư theo mùa vụ của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn (1998);
2
“Nghiên cứu di dân ở Việt Nam” của Đỗ văn Hòa,
Trịnh Khắc Thẩm (1999).
3
Nổi bật trong các nghiên cứu di dân có tổ chức là

những nghiên cứu về di dân do Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Viện
Kinh tế, Bộ lao động Thương binh và xã hội (Cục di dân) tiến hành trong những
năm 1996, 1997, 1998, 2004, 2009. Các động lực thúc đẩy di dân ở Việt Nam
được biết đến trong tác phẩm “Động lực di dân nội địa ở Việt Nam” Guest Philip
(1998);
4
“Ra đi để cải thiện cuộc sống và tình cảm gắn bó quê hương” Papin,
Philippe và Oliver tesiveer (2002).
5
2 Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (1998), Kết quả di dân nội địa, dự án VIE/95/2004, Hà Nội, tháng
6/1998
3 Đỗ Văn Hòa, Trịnh Khắc Thẩm (1999), Nghiên cứu di dân ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, HN.
4 Guest Philip (1998), Động lực di dân nội địa ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp Hà Nội.
4
4
Bên cạnh dòng di cư có kế hoạch của nhà nước nhằm phân bố lại dân cư,
các nghiên cứu tập trung vào phân tích tìm hiểu các nguyên nhân của di cư tự
phát. Các quan sát dựa trên thống kê cũng chỉ ra hướng di cư chủ đạo là những
nơi kém phát triển hoặc thiếu nguồn sản xuất tới nơi phát triển cao hơn hoặc tới
nơi có tốc độ đô thị hóa cao. Một số tác phẩm đã phản ánh thực trạng này như
“Động lực di dân nội địa ở Việt Nam” Guest Philip.
6
Các nghiên cứu hiện nay về di dân tự phát có khuynh hướng tập trung vào
cơ cấu lứa tuổi, giới tính, lý do di cư, các loại hình di cư, các loại nghề nghiệp
của người nhập cư, khả năng tìm kiếm việc làm, sự tác động và ảnh hưởng của
nơi xuất cư cũng như nhập cư, mô tả, phân tích điều kiện sống, công việc ở nơi
nhập cư của người di chuyển. Một vài phân tích đã cố gắng chỉ ra vai trò của các
mạng lưới xã hội trong quá trình di cư. Di cư của phụ nữ và trẻ em trong một
chừng mực nhất định, cũng được chú ý phân tích. Tác động của di dân tự phát
thường được xem xét từ các khía cạnh tiêu cực, đối với khu vực nhập cư, có rất

ít nghiên cứu về việc tìm hiểu tác động của cư di dân lên sản xuất, đời sống, các
quan hệ gia đình và làng xã, cũng như biến đổi cơ cấu nghề nghiệp và hoạt động
kinh tế ở làng quê, chưa có nhiều nghiên cứu tập trung vào đặc trưng nghề
nghiệp và mối liên hệ xã hội của những người lao động di cư có cùng quê.
Chính sách di dân ở Việt Nam cũng là một trong những trọng tâm của các nhà
nghiên cứu, các phân tích về chính sách thường gắn với vai trò của nhà nước và
tính duy lý trong phân bố dân cư theo vùng lãnh thổ.
Nhiều nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng quá trình di cư không chỉ bị thúc
đẩy bởi những chính sách di dân trực tiếp mà cả những chính sách kinh tế xã hội
trong quá trình đổi mới như: Đặng Nguyên Anh (1998);
7
Dự án VIET 95/2004;
8

5 Papin, Philippe và oliver tesiveer (2002 ) Ra đi để cải thiện cuộc sống và tình cảm gắn bó quê hương (in trong
Làng ở Vùng Châu thổ Sông Hồng vấn đề còn bỏ ngỏ” Nxb lao động xã hội, HN.
6 Guest Philip, Động lực di dân nội địa ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, 1998.
7 Đặng Nguyên Anh, Nguyễn Bình Minh, Vai trò của mạng lưới xã hội trong quá trình di cư, tạp chí xã hội học
số 2 (1998), tr 16-23
8 Viện kinh tế TPHCM. Tháng 9.1997. Báo cáo kết quả điều tra di dân tự do vào TPHCM. Dự án VIE/95/004
Tác động của di dân tới các vùng nông thôn ở Việt Nam. Báo cáo khảo sát. Hà Nội 10.1997. Dự án VIE/95/004
5
5
Báo cáo khảo sát ở Thành phố Hồ Chí Minh (1998); Báo cáo khảo sát ở Hà Nội
(1997); Báo cáo của Viện kinh tế nông nghiệp (1998); “Di dân nông thôn đô thị
ở Việt Nam, bản chất quan hệ và chính sách quản lý” Doãn Mậu Diệp, Trịnh
Khắc Thẩm.

9
Sự tăng trưởng nhanh của kinh tế, sự phát triển nhanh chóng của các khu

đô thị là một trong những nguyên nhân tạo ra luồng di dân nông thôn, đô thị….
Để phản ánh tình hình này, tìm hiểu những vấn đề liên quan đến di dân, việc làm
đô thị hóa… một số cơ quan chủ quản của Việt Nam đã phối hợp với các tổ chức
nước ngoài triển khai những dự án nghiên cứu ở tầm vĩ mô về tình trạng di dân
tự do vào Thành phố Hồ Chí Minh (Viện kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh năm
1997).
10
Ngoài những công trình trên, nhiều đề tài nghiên cứu chuyên sâu về một
số cộng đồng cư dân cũng được công bố, trong đó các tác giả đã chú ý tới ảnh
hưởng di dân cộng đồng gốc và nơi đến của người nhập cư. Các nghiên cứu đã
tập trung mô tả, phân tích điều kiện sống, công việc của người nhập cư, người di
chuyển. Đồng thời một số vấn đề cụ thể có liên quan tới cư dân cũng được đặt ra
như “Chiến lược sinh tồn của người nhập cư, những khuôn mẫu đang thay đổi”
Nguyễn Văn Chính (2002);
11
Nguyễn Thị Hòa (1999);
12
“Vai trò của mạng lưới
xã hội trong quá trình di cư” Đặng Nguyên Anh (1998).
13
Trong luồng di cư nông thôn – đô thị hiện nay xuất hiện xu hướng nữ hóa
trong di dân, đây là một xu thế tất yếu do cấu trúc của cơ cấu kinh tế quyết định.
Trong số các công trình nghiên cứu về phụ nữ di cư ở cấp độ lý thuyết đáng chú
ý có công trình phụ nữ di cư ở nông thôn – đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh
Lao động nữ di cư tự do nông thôn, thành thị” Hà Thị Phương Tiến, Nguyễn
9Doãn Mậu Diệp, Trịnh Khắc Thẩm, Di dân nông thôn đô thị ở Việt Nam, bản chất quan hệ và chính sách quản
lý”; in trong sách Chính sách di dân ở Châu á, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr 103 -115).
10
11 Nguyễn Văn Chính (2002) Di dân nội địa ở Việt Nam - các chiến lược sinh tồn và những khuôn mẫu đang
thay đổi, trong Phát triển đô thị bền vững, Nxb. KHXH.H. tr.115-151

12
13 Đặng Nguyên Anh( 1998), Vai trò của mạng lưới xã hội trong quá trình di cư, tạp chí xã hội học số 2/1998, tr
16-223.
6
6
Quang Ngọc (2000)
14
, Nguyễn Thị Thanh Tâm (2003);
15
“Có nhiều chuyên đề về
dân di cư và đánh giá tác động của nó như di dân với sức khỏe….
Ngoài những công trình trên, có nhiều đề tài luận văn, luận án đã tập
trung tìm hiểu chuyên sâu về một số cộng đồng cư dân, đó là những công trình
nghiên cứu về di cư của các dân tộc ít người cũng được quan tâm như: “Di dân
tự do của các dân tộc Tày, Nùng, Hmông từ vùng Cao Bằng, Lạng Sơn vào Đắc
Lắc giai đoạn 1986 – 2000” của Nguyễn Bá Thủy (2003);
16
“Di dân tự do của
người Hmông ở Miền Tây Thanh Hóa và Nghệ An” của Đậu Tuấn Nam (2009).
17
Những nghiên cứu về di dân
Làng Đồn Điền, xã Quảng Thái, huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa vốn
là một vùng đất được hình thành trên cơ sở chính sách ngụ binh ư nông dưới
thời Lê Thánh Tông vào năm 1473. Có thể nói so với các vùng đất khác của
huyện Quảng Xương thì đây là một địa danh đã thu hút được sự quan tâm
nghiên cứu từ lâu và tập trung vào hai vấn đề chính là: quá trình hình thành làng
và lý giải về tình trạng rời làm đi mưu sinh bằng phương thức “đi xin” của làng.
Đã có một số tác phẩm đề cập đến vùng đất này như: “Le Thanh Hoa” của
Ch.Robequain – Chánh sứ Thanh Hóa; “Địa chí tỉnh Thanh Hóa” của Ủy ban nhân
dân tỉnh Thanh Hóa, đã đề cập về quá trình hình thành vùng đất, việc hình thành

làng Đồn Điền cũng được đề cập đến trong các công trình như “Lịch sử đền Đồn
Điền” của sở văn hóa Thanh Hóa, “Địa chí Quảng Thái” – xã Quảng Thái. Nội
dung được đề cập trong các tác phẩm này phần lớn điều phản ánh về quá trình hình
thành vùng đất này như là cơ sở của chính sách ngụ binh ư nông.
14 Hà Thị Phương Tiến – Hà Quang Ngọc, Lao động nữ di cư tự do nông thôn – thành thị, Nxb Phụ nữ, HN,
2000
15 . Nguyễn Thanh Tâm. ,Một số quan điểm lý thuyết về di dân và phụ nữ di cư. Tạp chí khoa học về phụ nữ số
6/2003
16 Nguyễn Bá Thủy, Di cư tự do của các dân tộc Tày, Nùng, Hmông từ vùng Cao Bằng, Lạng Sơn vào Đắc Lắc
giai đoạn 1986 – 2000, luận án tiến sỹ lịch sử, 2003
17 Đậu Tuấn Nam, Di dân tự do của người Hmông ở Miền Tây Thanh Hóa và Nghệ An, Luận án tiến sỹ lịch sử,
2009.
7
7
Có tác giả lại quan tâm đến vùng đất này dưới cái nhìn của văn hóa, tín
ngưỡng như của Nguyễn Phương Thảo trong “Tìm hiểu tín ngưỡng thành hoàng
ở làng Đồn Điền - Quảng Thái - Quảng Xương - Thanh Hóa”. Mặt khác, khi
vấn đề Quảng Thái trở thành tâm điểm của sự chú ý đã có nhiều đề án nghiên
cứu về nguyên nhân, hình thức, thực trạng, cũng như tìm giải pháp nhằm khắc
phục tình trạng tha phương cầu thực ở Quảng Thái. Trong đó, đáng chú ý là
công trình nghiên cứu về thực trạng “Tha phương cầu thực mang tính cộng
đồng ở xã Quảng Thái, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp khắc phục” của tổ
chức Việt Nam – Hà Lan (1997). Trong khóa luận tốt nghiệp đại học của mình
tôi cũng đã chọn Đồn Điền, Quảng Thái, Quảng Xương, Thanh Hóa làm vấn đề
nghiên cứu khi đi tìm hiểu về “Thực trạng và biến đổi của nghề ăn xin ở làng
Đồn Điền, xã Quảng Thái, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa”, trong đó tôi tập
trung vào làm sáng rõ vấn đề nguồn gốc thành hoàng làng đồn điền, chỉ ra thực
trạng và lý giải một số nguyên nhân ban đầu của phương thức kiếm sống đặc
biệt của người Đồn Điền, tuy nhiên do sự hạn chế về thời gian và khả năng nên
tôi chưa có điều kiện lý giải, phân tích sâu rộng và đánh giá hệ thống vấn đề một

cách khoa học hơn.
Nhìn chung, việc phân tích, nghiên cứu về vấn đề tha phương cầu thực ở
làng Đồn Điền, xã Quảng Thái, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa đã được
đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng vẫn còn chưa thật đầy đủ. Vì vậy,
thông qua nghiên cứu này, tôi sẽ tiếp cận vùng đất này để tìm hiểu thực tế đã
diễn ra tình trạng tha phương cầu thực trong một thời gian dài tại Đồn Điền và
tìm hiểu những đổi thay từ một vùng đất đang dần thay da đổi thịt bằng chính
sức lực của con người nơi đây, qua đó chỉ ra những biến đổi của tình trạng tha
phương cầu thực để tìm hiểu một cách đầy đủ hơn về nguyên nhân, thực trạng
và những tác động của phương thức kiếm sống này tới đời sống người dân Đồn
Điền, nhằm góp một cái nhìn đầy đủ hơn về một vùng đất đã từng mang dấu ấn
sâu đậm một thời.
4. Mục đích nghiên cứu
8
8
Đặc điểm của trào lưu di dân tự do - đi tha phương cầu thực tại Đồn Điền đến
các khu vực xung quanh, đến các tỉnh khác, các khu đô thị là mang tính chủ
động và tự quyết định của cá nhân hoặc hộ gia đình di chuyển. Tuy nhiên, mối
liên hệ giữa người di cư với cộng đồng gốc của họ diễn ra một cách thường
xuyên và chặt chẽ, những nguồn thông tin về nơi đến thường có được thông qua
mạng lưới xã hội riêng của cộng đồng nơi họ sinh sống. Các nghiên cứu về quá
trình di dân tự phát thường chỉ tập trung vào công việc và cuộc sống của họ do
vậy nên thường không nhìn nhận được một cách toàn diện trong cấu trúc dân số,
việc làm, những ràng buộc văn hóa xã hội của nơi có dân di cư cũng như không
đặt việc xem xét các quyết định của cá nhân người di chuyển trong bối cảnh thay
đổi của xã hội và hệ thống kinh tế để xem xét những quyết định của người dân
có liên quan gì tới những biến đổi của xã hội để xem xét và trả lời cho câu hỏi
có phải chăng sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội đã tạo điều kiện thúc đẩy dòng
di dân hay chính dòng di dân đã và đang làm thay đổi cấu trúc của xã hội.
Trên thực tế vấn đề Quảng Thái đã từng thu chút sự quan tâm của nhiều tổ

chức và cá nhân. Đã diễn ra nhiều công trình nghiên cứu, điều tra, nhận xét và bàn
luận, cũng đã có nhiều chương trình, dự án giúp đỡ về vật chất và tinh thần cho
nhân dân Quảng Thái nhằm khắc phục tình trạng đói nghèo, tha phương cầu thực.
Đã có một số công trình nghiên cứu về “hiện tượng xã Quảng Thái”,
nhiều bài báo viết về hiện tượng “ăn xin” của Quảng Thái (đưa ví dụ)… Tuy
nhiên tất cả mới chỉ nhìn nhận ở góc độ hiện tượng tiêu cực của xã hội ngày nay
đang bị nhiều người dùng và lạm dụng như một nghề kiếm sống. Nhưng có một
“sự thật” khác đang được thực tế chứng minh là ở vùng quê “tai tiếng” ấy giờ
đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ trên mọi phương diện bằng chính
sức lực của con người Quảng Thái. Do vậy cũng cần nhìn nhận lại thực tế những
gì đã và đang diễn ra ở vùng đất ấy để có một cái nhìn toàn diện hơn.
Chính vì thế, nghiên cứu này của tôi nhằm mục đích:
Tìm hiểu toàn diện về tình hình kinh tế - xã hội trong lịch sử và hiện tại
nhằm thu thập, hệ thống, phân tích các thông tin làm sáng tỏ hệ thống các
nguyên nhân tạo ra, duy trì thúc đẩy và các yếu tố đã hạn chế người dân làng
9
9
Đồn Điền, xã Quảng Thái, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa rời làng tha
phương cầu thực trước đây và trong thời gian gần đây. Nhìn nhận, đánh giá các
tác động của mạng xã hội (các mối quan hệ gia đình, thân tộc, xóm làng, các
phường hội) ẩn sau động thái di chuyển mang tính cộng đồng. Đi sâu tìm hiểu
các nhân tố như mối quan hệ cố kết cộng đồng làng xã, họ hàng, quan hệ giới đã
tác động như thế nào đến tình trạng di cư mang tính cộng đồng ở Quảng Thái
không chỉ trong quá trình thúc đẩy quyết định của người dân mà cả trong việc
giúp đỡ nhau khi làm ăn xã quê, các hình thức giúp đỡ nhau về kinh tế (động
thái gửi tiền hay sau khi quay về làng).
Qua các dẫn chứng lịch sử nhận diện một cách chính xác hơn về thành
hoàng làng Đồn Điền, nhận diện lại một vùng đất. Chỉ ra thực trạng đi tha phương
cầu thực và lý giải nguyên nhân vẫn còn sự tiếp diễn của tình trạng người dân
Đồn Điền rời làng đi làm ăn xa ở những vùng quê khác. Mặt khác, thông qua số

liệu để phân tích, so sánh và đánh giá những chuyển biến của tình trạng tha
phương cầu thực so với trước đây, đánh giá vai trò của các đối tượng chính tham
gia vào dòng người tha phương từ đó rút ra kết luận về những chuyển biến tích
cực trong quá trình nhằm ổn định quê hương.
Đánh giá những tác động và biến đổi từ quá trình đi tha phương cầu thực
tới đời sống kinh tế, xã hội, tâm lý của cư dân Đồn Điền.
Mặt khác, thông qua vấn đề nghiên cứu tôi muốn tiếp cận và tìm hiểu
những đối tượng khuất thực nhằm lật ngược các khuôn mẫu định kiến cố hữu về
hình tượng những người ăn mày trong quan niệm xưa nay đó là những người đói
rét, vô gia cư, lêu lổng và hư hỏng, lang thang. Đồng thời thông qua các nhóm
đối tượng nghiên cứu hướng tới sẽ chứng tỏ ăn mày không đơn thuần là những
gì phản ảnh trong các định kiến xã hội xưa nay mà sẽ có nhiều lớp, tầng ý nghĩa
văn hóa xã hội và chính trị khác nhau.
5. Khái niệm
5.1.Khái niệm di dân:
Hiện tại không có một định nghĩa chính xác và cũng không có một mô hình cụ
thể nào về di dân trên thế giới. Di dân là một quá trình phân bố lại lực lượng lao
10
10
động, dân cư và là nhân tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội. Có nhiều
cách hiểu khác nhau về di dân. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu thừa nhận rằng:
Theo nghĩa rộng: di dân là sự chuyển dịch bất kỳ của con người trong một
khoảng không gian và thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm
thời hay vĩnh viễn. Với định nghĩa này di dân đồng nhất với sự di dộng dân cư.
Theo nghĩa hẹp: Di dân là sự chuyển dịch dân cư từ một vùng lãnh thổ
này đến một đơn vị lãnh thổ khác, nhằm thiết lập một nơi cư trú mới trong một
khoảng thời gian nhất định. Định nghĩa này khẳng định mối liên hệ giữa sự di
chuyển với sự thiết lập nơi cư trú mới.
Có nhiều cách phân loại di dân theo các góc độ khác nhau, tùy thuộc vào
mục đích nghiên cứu và những người làm nghiên cứu khác nhau như phân theo

khoảng cách di chuyển, theo tính chất di dân, theo độ dài thời gian cư trú và theo
đặc trưng di dân.
Di dân là sự di chuyển dân cư từ nơi này tới nơi khác, tuy nhiên không
phải sự di chuyển dân cư nào cũng được coi là di dân.
Di dân tự do là hình thức di chuyển của cư dân do nhà nước hoặc một tổ
chức xã hội nào đó bảo trợ hay đầu tư. Người di dân tự quy định nơi đến, tự lo
chi phí đi lại, làm việc sinh sống tại nơi định cư mới. Di dân tự do cũng có 2
loại: di dân được sự đồng ý của chính quyền nơi đi, nơi đến và di dân bất hợp
pháp của một bộ phận dân cư bỏ qua sự kiểm soát của chính quyền nơi đến.
Tha phương cầu thực (đi xin) được xem như là một phương tiện để duy trì
cuộc sống khi gặp hoàn cảnh éo le ở quê hương, để tồn tại bắt buộc phải ra đi.
Người ta không thể xin ăn một cách lâu dài và rộng rãi ở quê hương mình, vì
vậy những người cầu thực phải “tha phương” ở cộng đồng cư dân khác. Những
người đi khất thực họ ly nông bất ly hương, những người này thường đi sau khi
kết thúc công việc sản xuất tại quê nhà và đi trong những tháng nông nhàn, khốn
khó. Họ rời quê hương đi kiếm ăn trong khoảng thời gian ngắn từ 10 – 15 ngày,
dài từ 2 – 3 tháng, trở về quê nghỉ rồi sau đó lại đi cầu thực tiếp đợt khác. Bên
cạnh đó, người khất thực thường đi xin ăn và xin những thứ khác như tiền, ở các
11
11
nhà hàng, quán trọ các tụ điểm kinh tế…của các khu dân cư trù phú hơn quê
mình.
Áp dụng định nghĩa này cho thực trạng rời làng đi tha phương cầu thực
một cách “đông đảo” của người dân làng Đồn Điền, xã Quảng Thái, ta có thể
định nghĩa tình trạng “tha phương cầu thực mang tính cộng đồng ở xã Quảng
Thái như sau: tha phương cầu thực là hình thức di chuyển địa bàn kiếm sống
một cách bất thường nhưng không thay đổi nơi cư trú chính thức ở quê hương.
Để kiếm sống người ta có thể đi xin theo nhiều cách khác nhau như xin lương
thực, xin tiền và nhiều thứ khác, bằng những cách thức khác nhau. Tha phương
cầu thực ở xã Quảng Thái là hành vi đi kiếm sống ở ngoài xã, ngoài huyện và

ngoài tỉnh, tập trung đến các khu đô thị, các khu kinh tế phát triển hơn quê
hương mình.
5.2. Khái niệm Tha phương câu thực.
Theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt thì “cầu thực là xin ăn”. Do đó, ta có
thể hiểu khái niệm tha phương cầu thực tương đương với nghĩa ăn mày, ăn xin.
Cũng theo Từ điển tiếng Việt, ăn mày, ăn xin được định nghĩa như sau:
“ăn mày là xin của bố thí để sống”.
18
5.3. Khái niệm mạng lưới xã hội
Xác định được các yếu tố cấu thành nên mạng lưới các quan hệ xã hội giữa các
cộng đồng nơi đến và nơi đi, giữa người không di cư và người di cư, lý thuyết
nhấn mạnh vai trò của mạng lưới xã hội này trong việc thúc đẩy quá trình di cư
chi phối động lực và thúc đẩy di cư, đặc biệt nơi đến (hướng di chuyển).
Thừa nhận tầm quan trọng của các yếu tố kinh tế trong di cư song theo lý
thuyết mạng lưới xã hội thì động lực kinh tế không còn mạnh mẽ và sự chênh
lệch về mức sống giữa các khu vực không nhiều, di dân sẽ diễn ra với tốc độ
ngày càng lớn. Điều này là do quá trình di dân được duy trì và thúc đẩy cùng với
sự phát triển của mạng lưới xã hội đã được hình thành theo thời gian. Do đó mọi
nỗ lực nhằm can thiệp trực tiếp vào quá trình di cư sẽ không đem lại hiệu quả
18 Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – trung tâm từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng, tr
13.
12
12
dưới ảnh hưởng của mạng lưới xã hội này. Các mạng lưới xã hội được hình
thành là bởi vốn xã hội cho phép các cá nhân liên kết với nhau để bảo vệ mục
đích của mình và tổ chức lại để củng cố những nhu cầu tập thể. Bối cảnh nông
thôn chứa đựng các mạng lưới xã hội khác nhau như quan hệ họ hàng, bạn đồng
niên, bạn làm ăn buôn bán và nhiều mối quan hệ khác
Vì vậy có thể hiểu mạng lưới xã hội “là một cấu trúc xã hội hình thành
bởi những cá nhân (hay những tổ chức), các cá nhân được gắn kết bởi sự phụ

thuộc lẫn nhau thông qua những nút thắt như tình bạn, quan hệ họ hàng, sở thích
chung, trao đổi tài chính, quan hệ tình dục,những mối quan hệ về niềm tin, kiến
thức, uy tín.
Đơn giản hơn mạng lưới xã hội là những mối quan hệ xác định, các nút
thắt gắn kết cá nhân với xã hội của các nhân đó. Mạng lưới xã hội có thể dùng
để kiểm tra vốn xã hội, giá trị mà cá nhân có được từ mạng lưới xã hội”.
19
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6.1. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu này của chúng tôi tập trung đi sâu vào tìm hiểu vấn đề người dân,
đặc biệt chú trọng là người phụ nữ rời làng đi di dân – tha phương cầu thực, tìm
hiểu những nhân tố góp phần thúc đẩy và hạn chế tình trạng tha phương cầu
thực tại làng Đồn Điền; mối quan hệ của cộng đồng cư dân nơi đây. Do vậy, đối
tượng nghiên cứu chính của tôi là người dân làng Đồn Điền, xã Quảng Thái nói
chung và người phụ nữ nói riêng với tất cả những biểu hiện phong phú, đa dạng
và phức tạp. Trong đó, chúng tôi sẽ tập trung đi sâu lý giải thực trạng, cũng như
sự tác động, biến đổi về kinh tế, xã hội, văn hóa từ một phương thức mưu sinh
đặc biệt, trong hoàn cảnh trước đây và biến đổi phương thức mưu sinh trong
hoàn cảnh hiện nay của địa phương.
6.2. Phạm vi nghiên cứu
* Về địa bàn nghiên cứu: tại làng Đồn Điền, xã Quảng Thái, huyện Quảng
Xương, tỉnh Thanh Hóa.
19 Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
13
13
7. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp nghiên cứu tư liệu: tôi tìm hiểu các nguồn tư liệu còn được
lưu giữ ở xã, huyện, thư viện tỉnh Thanh Hóa có đề cập đến vùng đất Đồn Điền
– Quảng Thái nhằm tiếp cận lịch sử để tìm hiểu những vấn đề có liên quan đến

tình trạng tha phương cầu thực, những sự kiện nổi bật và tác động của chúng tới
ảnh hưởng tới việc hình thành và phát triển của tình trạng tha phương cầu thực
mang tính cộng đồng của Quảng Thái. Các nguồn tư liệu thứ cấp sẽ được thu
thập, phân tích nhằm góp phần kiểm chứng cho nguồn tư liệu sơ cấp đã thu được
từ điều tra trực tiếp.
* Phương pháp nghiên cứu được nhấn mạnh trong đề tài này là sự kết hợp
giữa thu thập tài liệu định lượng (thiết lập bảng hỏi để thu thập tình hình di dân
đi làm ăn xa (tha phương cầu thực) ở quy mô làng và hộ gia đình kết hợp với tìm
kiếm số lượng thống kê và số liệu điều tra từ các nguồn sẵn có) và phân tích
định tính (quan sát tham dự trực tiếp trên địa bàn nghiên cứu, phỏng vấn sâu,
phỏng vấn mở trên địa bàn nghiên cứu. Đặc biệt chú trọng tiếng nói của người
trong cuộc. Các tư liệu thu thập được sẽ được đặt trong bối cảnh kinh tế - xã hội
và thay đổi chung của địa bàn nghiên cứu với thay đổi của cả nước trong từng
thời kỳ để tìm hiểu và phân tích.
* Áp dụng lý thuyết lực hút và lực đẩy:
Các nhà xã hội học người Anh vào thế kỳ XIX đã bàn luận và đưa ra lý
thuyết này, việc ra đời lý thuyết gắn với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
nhất diễn ra tại Anh. Họ cho rằng di cư để tìm kiếm cơ hội mới và để gạt bỏ rủi
ro nơi họ đang sống, lực hút bao giờ cũng lớn hơn lực đẩy đối với người di cư.
Thông thường người di cư sẽ lựa chọn giữa lực hút và lực đẩy và cuối cùng họ
thường lựa chọn lực hút bởi con người thường bị ước muốn tốt đẹp hơn thôi
thúc di cư thay vì chạy khỏi tình thế không thỏa mãn hiện thời.
Everetts lee (1966) đã xây dựng lý thuyết này trên cơ sở tóm tắt các quy
luật di dân và phân loại các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình di chuyển. Đó là
những nhân tố cơ bản liên quan đến nơi đi (lực đẩy) và nơi đến (lực hút).
14
14
Lực đẩy: là những yếu tố điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, chính trị, văn
hóa ở vùng xuất phát không đáp ứng được các nhu cầu sống (nhu cầu về vật
chất, tinh thần, nhu cầu về lao động ) đã đẩy họ ra ngoài nơi sinh sống, khiến

họ phải đi tìm vùng đất mới thỏa mãn các nhu cầu của họ.
Trong quá trình di cư hành khất lực đẩy được xác định tập trung là do sự
khan hiếm về đất sản xuất, thiếu việc làm, thừa lao động, nghề biển bấp bênh
mong muốn tìm đến vùng đất có khả năng kiếm được việc làm, tăng thu nhập
phụ giúp cuộc sống gia đình, có điều kiện lo cho con cái học hành với mong
muốn cải thiện tương lai bên cạnh đó còn có thể kể đến các yếu tố khác về mặt
tâm linh, điều kiện kinh tế cũng như các yếu tố chính bản thân thúc đẩy quá
trình di cư.
Trong đề tài này vận dụng lý thuyết lực hút, lực đẩy để phân tích yếu tố
thúc đẩy sự gia tăng của tình trạng tha phương cầu thực mang tính cộng đồng ở
Quảng Thái và vận dụng các lý thuyết kinh tế vào phân tích các động lực giúp
người dân ổn định cuộc sống tại quê hương trong những năm gần đây.
* Áp dụng lý thuyết truyền thống, lịch sử: để phân tích các yếu tố truyền
thống, các điều kiện về lịch sử, địa lý của làng Đồn Điền, để tìm ra các nhân tố,
hoàn cảnh tác động đến các đời sống của người dân, hình thành các thói quen,
gắn kết các mối quan hệ tạo nên các mạng xã hội vững chắc đặc trưng của vùng
đất này so với các vùng đất khác.
* Áp dụng lý thuyết tâm lý để phân tích những yếu tố thúc đẩy người dân
nơi đây rời làng đi mưu sinh, tâm lý thúc đẩy dòng người ra đi, tâm lý của
những người ở lại quê hương.
Sau khi sử dụng phương pháp điền dã để thu thập tư liệu, chúng tôi tiến
hành thống kê tư liệu. Qua việc thống kê đó sẽ đưa ra những nhận xét đánh giá
ban đầu về thực trạng và những biến đổi của xu hướng rời làng đi tha phương
cầu thực ở vùng đất Đồn Điền – Quảng Thái.
9. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của
chúng tôi được thể hiện trong 4 chương sau:
15
15
Chương 1: Tổng quan về làng Đồn Điền và sự xuất hiện của dòng di cư tự

phát– tha phương cầu thực
Chương 2: Thực trạng rời làng đi tha phương cầu thực của người dân Đồn
Điền
Chương 3. Hệ thống các nguyên nhân thúc đẩy tình trạng tha phương cầu
thực
Chương 4: Những biến đổi ở làng Đồn Điền, Quảng Thái dưới tác động
của quá trình tha phương cầu thực.
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ LÀNG ĐỒN ĐIỀN VÀ SỰ XUẤT HIỆN DÒNG DI DÂN
TỰ PHÁT – THA PHƯƠNG CẦU THỰC Ở ĐỒN ĐIỀN, QUẢNG THÁI,
QUẢNG XƯƠNG, THANH HÓA.
1.1. Tổng quan về làng Đồn Điền
Thanh Hóa là một tỉnh đất rộng, người đông, nằm ở vị trí giao hòa trên
nhiều phương diện giữa đồng bằng Bắc Bộ và khúc ruột Miền Trung, là tỉnh
giàu tiềm năng nhưng cũng phải gánh chịu nhiều thiên tai địch họa so với các
tỉnh khác ở Miền Bắc nước ta.
Từ trước tới nay ở Thanh Hóa và vùng khu IV cũ trở ra vẫn lưu truyền
câu châm ngôn “Nhất Xương, nhì Gia, thứ ba Hậu Lộc”. Câu nói ấy không chỉ
khái quát đặc trưng của những vùng đất một thời mà phần nào khái quát được
đặc điểm của một vùng đất khó khăn nhất tỉnh Thanh một thời đấy chính là
Quảng Xương. Đó là một vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách
mạng.
Quảng Xương là một huyện đồng bằng ven biển, phía bắc giáp với thành
phố Thanh Hóa và huyện Hoằng Hóa; phía nam giáp huyện Tĩnh Gia, Nông
Cống; phía tây giáp huyện Đông Sơn – Nông Cống; phía đông giáp biển.
Quảng Xương có 41 xã, thị trấn, mỗi vùng đất lại mang trong mình những
đặc trưng riêng biệt. Quảng Thái là một xã ven biển của huyện Quảng Xương,
cách trung tâm huyện 12km về phía đông nam, được hình thành từ tháng 1 năm
16
16

1954, trên cơ sở tách xã Quảng Lộc thành 4 xã là: Quảng Lưu, Quảng Lợi,
Quảng Lộc, Quảng Thái.
Quảng Thái có diện tích đất tự nhiên là 404,20 ha.
Phía bắc giáp xã Quảng Lưu – Quảng Hải.
Phía nam giáp xã Quảng Lợi.
Phía tây giáp xã Quảng Lưu, Quảng Lộc, Quảng Lợi.
Phía đông giáp biển với chiều dài 4.8km.
Địa hình Quảng Thái kéo dài gần 5km theo hướng Bắc Nam, chiều ngang
chỉ hơn 1km, lại bị cắt dọc bởi con sông là sông Rào, ngăn cắt phía đông và phía
tây, đồng thời chia mỗi thôn thành mạn đồng và mạn bể.
Tổng diện tích đất canh tác 180,2 ha. Đất thổ cư là 132,2 ha; đất chuyên
dùng 40,3 ha; đất lâm nghiệp 118,87 ha; đất chưa sử dụng 18,25 ha; diện tích bãi
tha ma 17,5 ha.
Diện tích đất canh tác theo bình quân đầu người của xã là 178,53
m²/người. Thành phần chủ yếu là đất cát, độ phì nhiêu kém, độ thẩm thấu cao.
Từ một vùng đất nghèo khó trước đây, hiện nay xã đã vươn lên phát triển
về mọi mặt, hệ thống cơ sở hạ tầng trong xã ngày càng được chú trọng đầu tư,
nâng cấp khang trang, đời sống người dân đã được cải thiện rõ rệt.
Xã Quảng Thái ngày nay được chia làm 10 thôn, được hình thành trên cơ
sở của hai làng Đồn Điền, làng Hà Đông và xóm Vượng Hải trước đây, tuy
nhiên mỗi làng lại mang trong mình những đặc trưng rất riêng và trong những
nét nổi trội ấy cái tên làng Đồn Điền luôn được đề cập đến một cách rộng rãi.
* Làng Đồn Điền.
Làng Đồn Điền thuộc xã Quảng Thái là một làng nằm về phía đông, thuộc
vùng duyên hải Quảng Xương, chiếm 2/3 diện tích của xã Quảng Thái (trải dài
từ thôn 1 đến thôn 7). Phía bắc giáp làng Yên Nam xã Quảng Hải; phía tây giáp
làng Lưu Huyền, Lịch Giang, Mậu Xương xã Quảng Lưu; phía nam giáp làng
Hà Đông thuộc bản xã; phía đông giáp biển.
Qua các công trình nghiên cứu của nhiều học giả và các cứ liệu lịch sử
còn lưu lại thì làng Đồn Điền được thành lập dưới triều vua Lê Thánh Tông lúc

17
17
đầu mang tên Đồn Điền Sở thuộc tổng Thủ Chính, huyện Quảng Xương, Phủ
Tĩnh Gia, Trấn Thanh Hóa. Dưới triều Nguyễn Đồn Điền Sở được đổi thành xã
Đồn Điền thuộc Tổng Thủ Chính huyện Quảng Xương.
Đây là một vùng đồng bằng ven biển, địa hình, đất đai tương đối bằng
phẳng, hệ thống đường giao thông thuận tiện. Giữa làng có một con sông chạy
qua phục vụ cho việc tưới tiêu của làng con sông ấy gọi là sông Rào, chảy
hướng Nam – Bắc qua các xã từ Quảng Lợi đổ ra cống Trường Lệ theo nguồn
nước sông Mã, con sông này vẫn thường được gọi là con sông nhà Lê .
Là một ngôi làng có lịch sử lâu đời, Đồn Điền được hình thành từ thế kỷ
15 – 16, là tổ chức “ngụ binh ư nông” vừa sản xuất, vừa chiến đấu của nhà Lê
dưới thời Lê Thánh Tông. Trong lời chiếu năm Tân Sửu (1481) có ghi: “Đặt cho
sở Đồn Điền là để hết sức làm ruộng, ruộng nguồn tích trữ cho nhà nước.Vậy
hạ lệnh đồn điền các xứ định làm thượng, trung, hạ ba bậc”.
20
Sở Đồn Điền ở tổng Thủ Chính, huyện Quảng Xương theo các tư liệu như
sách “Le Thanh Hoa” của học giả pháp Ch.Robequai in năm 1929 và “Chế độ
ruộng đất Việt Nam” của giáo sư Trương Hữu Quýnh thì sở Đồn Điền ở tổng
Thủ Hộ, Quảng Xương do chánh sứ Tô Chính Đạo và phó sứ Uông Ngọc Châu
về khai phá, lập ra vùng đất này vào 1473 niên hiệu Hồng Đức thứ tư.
Sau khi đánh thắng giặc Chiêm Thành trở về Lê Thánh Tông có ngụ binh ở
trấn Thanh Hóa vào cuối năm 1472. Để tạo nên nguồn lương thực dồi dào, tăng
thêm ruộng đất cho quan, dân, nhà vua đã lệnh cho hai ông Tô Chính Đạo và
Uông Ngọc Châu về khai phá vùng đất ven biển này lập nên Đồn Điền sở vào
năm 1473, thực hiện chính sách ngụ binh ư nông, làng Đồn Điền được lập trên
cơ sở thuộc loại “Binh điền” chủ thể của nó trước hết là một đội quân. Ở giai
đoạn này, dải đất đang còn hoang sơ, đa phần là cồn cát, đầm lầy, khe lạch. Đến
cuối thời Nguyễn sở Đồn Điền được đổi tên thành làng Đồn Điền.
20 Viện KHXH Việt Nam, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tập 2, tr 487, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

18
18
Nguồn gốc dân chúng ở làng Đồn Điền rất đa dạng từ binh lính, dân lưu
vong, tù binh, người không nghề nghiệp hợp thành. Đến nay đã có gần hơn 30
dòng họ hội tụ nơi đây.
Ruộng đất Đồn Điền ban đầu được xác lập là 132 mẫu, 6 sào, 5 thước, 5 tấc
do khâm sai nội giám tổng tham tri giám sát Vũ Trung Kiên sai đại thần đo đạc.
Ngoài việc khai phá ở Đồn Điền Sở, quân đội ngụ binh ư nông còn khai phá
nhiều vùng đất mới trong huyện nên số ruộng được xác lập trên cơ sở điền bạ
với diện tích 2432 mẫu, 5 sào, 9 thước, 8 tấc. Đến tháng 7 năm 1954 làng Đồn
Điền cùng với làng Hà Đông được tách ra từ xã Quảng Lộc thành lập xã Quảng
Thái ngày nay. Dân số xã Quảng Thái được phân bố trên địa bàn 10 thôn thuộc 2
làng Việt cổ là làng Đồn Điền nằm về phía Bắc và làng Hà Đông nằm về phía
Nam.
Về mặt dân cư:
Từ thế kỷ 15 Lê Thánh Tông đã ban chiếu lập các đồn điền, một mặt
nhằm giảm gánh nặng cho nhà nước phong kiến trong việc nuôi quân, mặt
khác góp phần phát triển kinh tế đất nước, tạo điều kiện ổn định đời sống
người dân.
Lúc đầu vốn là một binh điền nên thành phần dân cư rất phức tạp,
nơi đây tập trung phần lớn là quân lính, dân tự do, tội đồ… từ nhiều nơi về
đây sinh sống. Theo dòng chảy của thời gian, dân số ở đây tăng lên nhanh,
từ một binh điền đã trở thành một vùng quê thu hút đông đảo dân cư tới
sinh sống, theo số liệu điều tra tính đến năm 2009 thì ở đây có tới 8499
người với 1684 hộ đang sinh sống trên mảnh đất này.(thêm số liệu mới)
Ban đầu cư dân nơi đây là dân góp “tứ chiếng”, với những dòng họ
lớn đã đến đây sinh cơ lập nghiệp từ đầu như: họ Tô, họ Uông, họ Trịnh, họ
Tào, họ Nguyễn, họ Lê, họ Phạm… sau đó nhiều dòng họ khác đã tới đây
ngụ cư. Có thể thấy nơi đây trong một không gian làng không rộng lớn lắm,
đã tập trung một sự đa dạng về dòng họ, có tới 24 dòng họ cùng nhau chung

19
19
sống nên Đồn Điền là một làng biển nghèo mang đặc trưng ở “dạng mở”
chứ không khép kín như các làng khác ở Xứ Thanh.
Từ thành phần ban đầu rất phức tạp, lại từ nhiều nơi khác nhau tới
đây sinh sống - dân bản thổ, người Nghệ An, Hà Tĩnh,… song trong quá
trình cộng cư, hầu hết các dòng họ, chi họ đều xem nhau như những con
người có cùng một nơi “chôn rau cắt rốn”, ranh giới quan – binh, dòng tộc,
giai cấp đã không còn tồn tại mà thay vào đó là cuộc sống tình làng nghĩa
xóm, cùng nhau xây dựng xóm làng yên vui.
Hoạt động kinh tế của người dân Đồn Điền cũng rất đa dạng, phong
phú. Trong hoạt động kinh tế, người dân Đồn Điền ở mạn đồng chủ yếu làm
nông nghiệp trồng lúa nước và hoa màu, ở mạn biển chủ yếu là ra khơi
đánh cá và các hoạt động kinh tế khác. Điểm nổi bật trong hoạt động kinh
tế ở đây là nông nghiệp xen lẫn ngư nghiệp. Ngày nay, với việc áp dụng
khoa học kỹ thuật vào sản xuất, công cụ đánh bắt ven bờ, xa bờ đã được cải
tiến nên hoạt động khai thác biển trong vùng không còn là hoạt động nhỏ
lẻ, manh mún mà đã mang lại một nguồn thu đáng kể cho người dân Đồn
Điền. Trong ngư nghiệp, tăng cường đầu tư vốn, thuyền máy nâng từ công
suất nhỏ lên lớn, cải tiến các phương tiện đi biển, hiện nay toàn xã có 300
thuyền, bè phục vụ không chỉ cho đánh bắt ven bờ mà vươn ra khai thác
trên các ngư trường lớn điều này đã tạo việc làm cho nhiều ngư dân, cũng
như nguồn lương thực cho các cơ sở chế biến hải sản ngày càng mở rộng,
thu hút và giải quyết việc làm cho nhiều bà con trong xã.
Bên cạnh các nhu cầu về vật chất, cũng như bất cứ con người Việt
Nam nào người dân nơi đây cũng luôn tìm cho mình những nơi tĩnh lặng
của tâm hồn, tìm nơi chia sẻ những buồn vui trong cuộc sống thường nhật
và hy vọng về cuộc sống mới nơi các vị thần linh ngự trị.
Chính vì thế người dân Đồn Điền rất chú trọng thờ cúng tổ tiên, bên
cạnh thờ cúng tổ tiên, người dân còn thờ các vị danh nhân, anh hùng dân

tộc (thờ Bác Hồ, thờ Đức Thánh Trần), thờ mẫu (tứ vị thánh nương), thờ
nhiên thần (Ngư ông) và thờ thổ công, thổ địa.
20
20
Ngoài việc thờ cúng tại mỗi gia đình ở Đồn Điền, đình làng thành một
không gian sinh hoạt tâm linh chung cho mọi người dân trong làng. Đình
làng là không gian thiêng, tại đây mọi người thờ ông tổ của làng là nhị vị
tiền tổ Tô Chính Đạo và Uông Ngọc Châu, thờ Đại càn quốc gia Nam Hải
Ngư ông, thờ mẫu (Tứ vị Thánh Nương), thờ Bác Hồ, thờ Đức Thánh Trần.
Việc hương khói tại đình thường diễn ra vào các ngày sóc (mùng một), ngày
vọng (ngày rằm), dân làng thường mang lễ vật tới tế thần, những người thủ
từ tại đền sẽ nhận lễ và vào lễ, trong những ngày này có tới 200 – 300 lễ của
dân chúng dâng cúng. Ngoài hai ngày sóc, vọng, dân làng còn cúng tế thành
hoàng vào các dịp như tết Đoan ngọ (5/5 âm lịch), ngày Thượng điền, Hạ
điền, ngày sinh, ngày hóa của thần… Đặc biệt, ở Đồn Điền, có một ngày lễ
cố kết cộng đồng thường được diễn ra vào dịp đầu tháng Hai âm lịch – dân
làng còn quen gọi đây là những ngày “ăn tết lại” hàng năm. Vào thời gian
này, các gia đình trong làng phân công nhau chuẩn bị các công việc cúng tế
cho ngày hội làng được chuẩn bị linh đình, ngày ăn tết lại này còn là một
nét đẹp được lưu giữ từ phong tục được bắt nguồn dưới thời Tô Chính Đạo.
Hệ thống cơ sở vật chất ngày càng được tu bổ, nâng cấp, trụ sở ủy
ban, trường học, trạm y tế ngày càng khang trang, hệ thống đường giao
thông trong xã ngày càng được hoàn thiện, hầu khắp các tuyến đường lớn,
đường xương cá đều đã được bê tông hóa với tổng chiều dài trên 20km.
Cùng với sự phát triển đi lên của đời sống thì trình độ dân trí ngày
càng được nâng cao lên, tỷ lệ người được xóa mù chữ tăng, trẻ em trong độ
tuổi đều được đến trường, ngày càng có nhiều người có trình độ trung cấp,
đại học. Đây là một nhân tố góp phần chuyển tải một cách nhanh chóng các
chủ trương, chính sách góp phần ổn định đời sống của một vùng quê.
Tóm lại, làng Đồn Điền – Quảng Thái – Quảng Xương – Thanh Hóa,

được hình thành từ rất sớm trong tiến trình lịch sử, trước đây là một vùng
đất nghèo, cát bụi, đất đai cằn cỗi… Ngày nay, làng Đồn Điền đang có
những đổi thay tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế nông – ngư
21
21
nghiệp. Hiện nay, Đồn Điền đã và đang vươn lên trở thành một vùng đất có
tiềm năng kinh tế.
Cùng tồn tại và phát triển trong tiến trình lịch sử, từ sắc thái văn hóa
riêng của từng nhóm người trong cái thủa ban đầu tới sinh cơ lập nghiệp,
nhưng trải qua quá trình lịch sử hàng trăm năm dung hòa làng Đồn Điền
đã quần tụ mọi lớp người trong một khuôn viên làng xã theo một kiểu rất
riêng của “xứ Đồn Điền”.
1.2. Sự xuất hiện dòng di dân tự phát – tha phương cầu thực ở làng Đồn
Điền, xã Quảng Thái, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa
1.2.1. Nguồn gốc thành hoàng làng và vấn đề thờ thần ăn xin.
Nhân dân cả nước dường như ai cũng biết đến cái tên làng ăn mày tiếng
tăm – làng Đồn Điền. Đình làng thờ thành hoàng làng cũng được người ta gắn
với chức năng “thờ thần ăn mày” và người ta vẫn thường truyền tai nhau rằng
“thế đình làng chỉ vào thế bị gậy nên cả làng phải đi ăn xin”. Vậy thực hư của
những “mĩ từ” này ra sao lại là điều cần phải lý giải.
Qua quá trình tìm hiểu thực tế tại địa phương, cùng với các nguồn tư liệu
còn lưu lại cho ta thấy một sự thật khác không như “sự thật” mà người đời vẫn
đồn thổi, truyền tai nhau về vị thành hoàng làng.
Dưới triều Lý – Trần, chính sách “ngụ binh ư nông” đã được thực hiện
nhưng phải tới khi Lê Thánh Tông lên ngôi chính sách này mới được thi hành
một cách rộng rãi.
Sau khi đem quân chinh phạt Chiêm Thành thắng lợi, Lê Thánh Tông đã lệnh
cho hai tướng là Chánh sứ Tô Văn Bảo (Tô Chính Đạo) và Phó sứ Uông Ngọc
Châu về khai hoang lập ra vùng Đồn Điền Sở vào năm 1473.
Tô Chính Đạo là người làng Bao Hàm, tổng Hể Đội, huyện Thụy An,

phủ Thái Bình, tỉnh Sơn Nam (nay là Nam Định). Vốn xuất thân trong một gia
đình có truyền thống thi thư, quan chức kế thế, thuộc dòng dõi Tô Đại Liêu (Tô
Hiến Thành) là một danh thần dưới triều Lý. Sinh thời, ông là người có tài văn
võ, trí đức hơn người, được triều đình trọng dụng. Ông đỗ giải nguyên dưới triều
Lê Thánh Tông và được vua cử đi bình định giặc Chiêm Thành vào năm 1473,
22
22
sau khi thắng trận được vua ban làm chánh sứ, cùng phó sứ Uông Ngọc Châu và
một số binh lính trở về Đồn Điền sở khai phá lập nên vùng đất tồn tại cho đến
ngày nay.
Với nhiệm vụ vừa khai khẩn mở mang ruộng đất, giữ yên bờ cõi, chống
bọn đạo tặc, cuồng khấu, phòng chống xâm lược từ phía nam. Ngoài cơ sở chính
tại làng Đồn Điền, các ngài còn góp công khai phá các vùng khác như: Tào Lâm
(Nông Cống), Biên Linh – Cá Nổ (Ngọc Sơn), Mai Xuyên (Đông Sơn) và lập
thêm nhiều vùng ở Quảng Xương như: Lưu Vệ, Thái Lai (Quảng Phong, Quảng
Trạch, Quảng Tân ngày nay), Cô Đồng, Cô Bái (Quảng Khuê), Thủ Phú (Quảng
Hùng), Ngọc Giáp (Quảng Chính), Bể Thôn (làng Hà Đông – Quảng Thái).
Bằng công trạng dẹp giặc giúp nước, thực hiện chính sách kiến ấp trấn
an quốc nội, chủ trương dùng lực lượng tù binh, binh lính, tội đồ, kẻ lưu vong để
tăng gia sản xuất, bảo vệ biên cương khi mất hai ông được triều đình phong kiến
phong cho là “Đẳng Phúc Thần”, ban cho thôn Đồn Điền thờ phụng, hiện vẫn
còn sắc phong. Bản sắc phong có nội dung như sau:
Sắc phong:
Thanh Hóa tỉnh, Quảng Xương huyện, Thủ Chính tổng, Đồn Điền thôn
phụng sự: Lê triều Đồn Điền quan Tô Văn Bảo tự Chính Đạo chi tôn thần. Lê
triều Đồn Điền quan Uông Ngọc Châu chi tôn thần. Hộ quốc tý dân niệm trước
linh ứng tứ kim chính trị, trẫm tứ tuần đại khánh tiết, kinh ban bảo chiếu đàm
ân, lễ long đăng trật tứ phong vi tiên ý: dụ bảo trung hưng linh thần phúc thần
chuẩn kỳ phụng sự bảo ngã lê dân khâm tai.
Khải Định cửu niên thất nguyệt nhị thập tứ nhật.

Dịch nghĩa:
Sắc ban: cho thôn Đồn Điền, tổng Thủ Chính, huyện Quảng Xương, tỉnh
Thanh Hóa phụng thờ: quan Đồn Điền Lê triều Tô Văn Bảo tự Chính Đạo, quan
Đồn Điền Uông Ngọc Châu bậc tôn thần, có công giúp nước cứu dân, nhân dịp
đại khánh tròn 40 tuổi của trẫm, trẫm ban chiếu đáp ơn, phong đăng lên trật
“phúc thần” bảo vệ sự nghiệp trung hưng đất nước ta, cho phép toàn dân thờ
phụng, hãy kính vâng theo chiếu.
23
23
Khải Định năm thứ 9, ngày 24 tháng 07.
Như vậy thành hoàng làng Đồn Điền không phải là sơn thần, thủy thần
hay nhiên thần, mà là hai vị nhân thần, người có công khai tạo xóm làng, có
công trạng rõ ràng, có đầy đủ danh tính, quê quán, được nhà nước phong kiến
công nhận và cho phép thờ phụng. Trong đình làng không có bóng dáng của một
vị thần ăn mày nào mà đình làng thờ nhị vị thành hoàng là Tô Văn Bảo và Uông
Ngọc Châu, thờ Tứ vị Thánh Nương, thờ Đức Thánh Trần, thờ Ngư ông.
Một nhân tố khác cũng luôn được nhắc đến là hướng đình. Đình làng đã
được di chuyển tới 04 lần, do những cuộc tranh giành đất đai và quan niệm tâm
linh của người dân. Đình xưa đặt ở xứ Bờ Chay sau đó chuyển sang Mã Ướng
(xóm Bắc), sau đó sang Rọc Bắc và cuối cùng chuyển về Mã Ướng (xóm Bắc).
Đến thời Pháp thuộc một tên lý trưởng muốn chiếm đất đình làm của riêng, y đã
nhờ thầy địa lý chuyển hướng đình, lấy cớ “hướng bút nghiên” để dân làng học
hành đỗ đạt, có người hài hước chế giễu là “hướng bị gậy” nhằm phản ứng
trước cảnh cường hào, địa chủ cậy thế ức hiếp của dân.
Đây chỉ là câu chuyện từ một hào lý tên là Lý Trịnh (ở thời Pháp thuộc)
chứ không phải chuyện từ xa xưa và đây cũng chỉ là dư luận đấu tranh trong nội
bộ làng chứ không phải thành tục để bắt dân làng đi xin ăn “lấy khước” như một
định mệnh.
Có thể khẳng định chắc chắn rằng không có yếu tố tín ngưỡng nào chi
phối hành vi tha phương cầu thực mang tính cộng đồng ở xã Quảng Thái. Những

câu chuyện về “thờ thần ăn mày” hay “thế đình chỉ vào hướng bị gậy” mới chỉ
được thêu dệt gần đây nhằm mục đích ly kỳ, thần bí hóa, che đậy cho hành vi
tha phương cầu thực vốn bị ác cảm, định kiến của xã hội vì họ đã có một lá chắn
tâm lý nên họ “phải” hành nghề khất thực như một định mệnh không thể tránh.
Điều này cũng tạo điều kiện cho những người tha phương cầu thực không riêng
ở Quảng Thái mà địa phương khác cũng dễ bề ra đi và khất thực một cách thuận
lợi hơn.
1.2.2. Các nhân tố về kinh tế, tâm lý - xã hội thúc đẩy tình trạng tha
phương cầu thực ở xã Quảng Thái.
24
24
1.2.2.1. Nhân tố về mặt kinh tế
Ca dao ta xưa có câu:
“Ăn mày là ai?
Ăn mày là ta
Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày”.
Không biết câu ca dao ấy đã xuất hiện từ bao giờ mà vẫn lưu truyền đến
tận ngày nay như một quy luật lôgic không cần phải tranh luận. Ai cũng có quê
hương, chẳng ai nỡ lòng vứt bỏ cái vùng đất “chôn nhau cắt rốn” của mình để
tìm đến một miền xa lạ, trừ khi mảnh đất nặng ân tình, nhiều ân nghĩa ấy không
còn đủ sức níu giữ và nuôi dưỡng con người.
Song có phải cái đói, cái rách ở Quảng Thái đến mức thực sự mảnh đất
này không thể nuôi sống được những con người được sinh ra từ đó hay không?
Hay đất vẫn nặng tình mà người vẫn hờ hững ra đi. Trước và sau đổi mới những
yếu tố nào đã tạo điều kiện dung dưỡng, nâng bước cho thực trạng tha phương
cầu thực một cách đông đảo ở làng Đồn Điền.
Đồn Điền là làng nằm ngay cạnh biển, điều kiện kinh tế khó khăn hơn
các vùng khác, lại thường xuyên phải hứng chịu những trận càn quét từ thiên
nhiên nên đời sống kinh tế vốn đã khó khăn lại chồng chất khó khăn. Là một
trong những nơi có diện tích đất canh tác nông nghiệp bình quân đầu người rất

thấp. Trong bài viết “Đồn Điền ngày ấy bây giờ” của tác giả Tô Hoài Chương
có đoạn viết “ruộng đất ít, cồn cát nhiều, đất chật người đông, lại ở bãi ngang,
thiên nhiên khắc nghiệt, bão lũ thường xuyên đe dọa, không có nguồn sinh
thủy… Câu ngạn ngữ “Lấy chồng kẻ bể chớ nể nồi khoai”, còn nghề biển thì:
“Tháng ba trong nước em đi
Tiền riêng dấu mẹ mà nuôi anh cùng”
Khả dĩ toát lên cảnh đói nghèo triền miên từ năm này sang năm khác.
Thời ấy có một số người phải lần mò tay bị tay gậy xin ăn nhưng chỉ quanh quẩn
trong vùng lân cận nhất là trong ngày 3 tháng 8”.
… “Cách mạng Tháng tám thành công chung theo phong trào của đất
nước thành lập các hợp tác xã chuyên môn hóa nông riêng, ngư riêng. Trong
25
25

×