Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát trong hoạt động tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.77 KB, 13 trang )

RỦI RO TIỀM TÀNG, RỦI RO KIỂM SOÁT TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
Nhóm Eximbank
I. RỦI RO TIỀM TÀNG
1. Khái niệm
• Theo kinh tế học:
+ những sai sót vượt quá giới hạn cho phép, tồn tại ngay trong chức năng hoạt
động sản xuất kinh doanh và môi trường quản lí của doanh nghiệp, cũng như
trong các số dư tài khoản. RRTT tồn tại độc lập với các thông tin tài chính, bất
kể doanh nghiệp có tiến hành kiểm toán hay không. Kiểm toán viên có thể nhận
thức và áp dụng phương pháp kiểm tra chi tiết khoa học để hạn chế RRTT đến
mức có thể chấp nhận được, nhưng không thể loại trừ hoàn toàn RRTT.
• Hay có thể hiểu:
+ Rủi ro tiềm tàng là khả năng các thông tin được kiểm toán có chứa đựng những
sai phạm (trọng yếu) khi tính riêng biệt hoặc khi tính gộp với các sai phạm
khác, dù rằng có hay không có kiểm soát nội bộ.
2. Nhân tố ảnh hưởng
• Lĩnh vực hoạt động kinh doanh
• Bản chất công việc kinh doanh và đặc điểm của đơn vị
• Các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên
• Qui mô tổng thể, cơ cấu tổ chức doanh nghiệp
• Qui mô số dư TK
3. Rủi ro tiềm tàng trong hoạt động tín dụng:
• Rủi ro tiền tàng do các nhân tố bên ngoài
+ Luật pháp:
Hoạt động tín dụng hiện nay còn chịu sự điều chỉnh chi phối của nhiều luật, văn
bản dưới luật chồng chéo, không rõ ràng. Hành lang pháp lý cho hoạt động tín
dụng cần phải chấp nhận những rủi ro tín dụng thông thường phát sinh trong
quá trình hoạt động bình thường theo cơ chế thị trường của NH, để lại trách
nhiệm quản trị rủi ro cho bản thân tổ chức tín dụng và vai trò giám sát cho NH
nhà nước. Có như vậy mới làm yên lòng các nhà làm NH, tránh tình trạng làm
việc theo lối quan liêu, sợ trách nhiệm.


Chính sách thu nhập theo qui định của Bộ tài chính và bản thân các NH tính
lương theo quy mô hoạt động của NH, lợi nhuận…mà không tính đến mức độ
rủi ro của các hoạt động NH đang tiến hành. Điều này gián tiếp khuyến khích
1
các NH chỉ chú trọng đến tăng trưởng, dẫn đến nguy cơ rủi ro cao và không
khuyến khích quản trị rủi ro chuyên nghiệp.
Việc xử lý tài sản thế chấp vẫn gặp nhiều khó khăn do các qui định chồng chéo,
không rõ ràng, thái độ làm việc quan liêu của các ban ngành.
+ Về bản chất công việc kinh doanh:
Hoạt động ngân hàng luôn song hành với các rủi ro. Mức lợi nhuận luôn tỉ lệ
thuận với độ rủi ro. Có rất nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng,
nhưng rủi ro tín dụng, thanh khoản và tác nghiệp đang là những rủi ro chính mà
các ngân hàng Việt Nam đối mặt.
+ Các rủi ro biến động thị trường , thiên tai, khách hàng cố ý lừa đảo…
+ Sự cạnh tranh không lành mạnh với các ngân hàng khác để mong muốn có tỷ
trọng cho vay nhiều hơn. Cạnh tranh không lành mạnh ở đây có thể hiểu rằng
ngân hàng đã bỏ qua một số bước kiểm định các khoản cho vay, hạ thấp tiêu
chuẩn tín dụng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng nhằm lôi kéo khách hàng.
+ Ngoài ra, nếu doanh nghiệp bị lừa đảo trong kinh doanh hoặc bạn hàng của
doanh nghiệp gặp rủi ro thì ngân hàng cũng gặp khó khăn trong việc thu nợ
đúng hạn.
• Rủi ro tiềm tàng do các nhân tố bên trong: theo qui trình tín dụng:
Tìm kiếm khách hàng:
Lập hồ sơ vay vốn:
+ Hồ sơ khách hàng chưa đầy đủ, bị mất tài liệu, hồ sơ không có giá trị về mặt
pháp lý
+ Hồ sơ không được cất giữ một cách độc lập và khoa học
Phân tích tín dụng
+ Thời gian xem xét hồ sơ vượt quá thời gian quy định
+ Hồ sơ tín dụng bị lập khống: có thể do khách hàng cố ý lừa đảo hoặc do sự

thông đồng giữa cán bộ tín dụng và khách hàng nhắm rút vốn của ngân hàng.
+ Các thông tin thẩm định về khách hàng và khoản vay chưa đầy đủ và chính xác
+ Tính khả thi của phương án vay vốn không được đánh giá chính xác do cán bộ
thiếu năng lực
Quyết định
+ Doanh mục cho vay không hợp lí:
Danh mục cho vay hiện tại tiềm ẩn mức độ rủi ro rất cao.
2
Xuất phát từ danh mục cho vay có kì hạn không cân xứng, tập trung quá nhiều vào cho
vay trung dài hạn hoặc cho vay ngắn hạn dẫn đến nhiều rủi ro sau:
Thứ nhất, rủi ro của danh mục cho vay phụ thuộc nhiều vào chu kỳ kinh tế. Khi nền kinh
tế tăng trưởng, tiêu dùng và đầu tư tăng nhanh, tín dụng tăng lên đáng kể. Tuy nhiên khi gặp
phải dấu hiệu chững lại hoặc đi xuống của chu kì kinh tế, các khoản rủi rot rung và dài hạn
sẽ gặp rủi ro rất lớn.
Thứ hai, tín dụng trung, dài hạn tăng trưởng rất nhanh, tập trung vào các dự án với quy
mô rất lớn, phức tạp mà việc thẩm định đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, theo các tiêu chuẩn
thị trường thực sự, vượt quá năng lực, kinh nghiệm, khả năng giám sát của các cán bộ tín
dụng.
Thứ ba, rất nhiều các khoản vay cho các dự án trung, dài hạn (thời hạn thậm chí đến hơn
10 năm) lại được thực hiện bằng USD mà không xem xét đầy đủ đến rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ
giá hay tác động của việc phá bỏ các hàng rào thuế quan, phi thuế quan khi chúng ta gia
nhập AFTA, WTO khi nguyên liệu đầu vào của các dự án đó là phải nhập khẩu….
Ngay cả tín dụng ngắn hạn cũng tăng trưởng mạnh, một số NH có biểu hiện khá dễ dãi
trong cho vay, không chấp hành đầy đủ quy trình, quy chế cho vay, gia hạn nợ sai quy định,
che dấu nợ quá hạn. Các khoản vay được cơ cấu không phù hợp với tính chất của phương án
vay, kế hoạch trả nợ không căn cứ dòng tiền của dự án, phương án sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, Danh mục cho vay của NH chưa chú trọng đa dạng hoá. Việc cơ cấu tập trung
tín dụng vào một nhóm ngành nghề, khu vực, khách hàng hoặc nhóm khách hàng cũng mang
lại rủi ro cho ngân hàng
Trong theo đuổi chiến lược phát triển tín dụng phù hợp với thị trường mục tiêu, cần chú

trọng đa dạng hoá danh mục cho vay của từng NH. Các doanh nghiệp thuộc cùng ngành
hàng, cùng quy mô, vùng lãnh thổ…có thể có tương quan rủi ro tín dụng cao. Rủi ro tín
dụng xảy đến cùng lúc với nhiều khách hàng là một việc NH cần hết sức tránh. Quản trị
danh mục cho vay cần chỉ ra được với tỷ suất sinh lời chấp nhận được thì tỷ trọng đầu tư tối
3
ưu vào mỗi ngành, vùng, quy mô… để rủi ro thấp nhất là bao nhiêu. Tuy nhiên vấn đề này
hiện chưa thực sự được quan tâm.
+ Thông tin trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp, cầm cố không khớp
đúng với quyết định phê duyệt khoản vay và thông tin trên hệ thống lưu trữ điện
tử
+ xuất phát từ kiểu "tín dụng quan hệ" . Theo đó, "tín dụng quan hệ" có hai loại,
một là nể nang cho vay, và hai là cho vay hạ chuẩn tín dụng (du di hạ thấp, bỏ
qua các điều kiện theo quy định
+ Mức cấp tín dụng vượt quá mức cho phép:
Mỗi chi nhánh, phòng giao dịch hay mỗi cán bộ tín dụng sẽ được cấp một hạn
mức tín dụng, nếu vượt qua hạn mức này thì phải trình lên cấp trên.
+ Lãi suất cho vay không được xác định khoa học dựa trên chi phí vốn, mức độ
rủi ro và mức lợi nhuận hợp lý của NH.
Các NH không định giá khoản vay trên cơ sở đảm bảo lãi cho vay đủ bù đắp chi phí biên
của vốn, chi phí quản lý khoản vay, phần bù rủi ro và lợi nhuận hợp lý cho NH.
Việc định giá khoản vay được thực hiện một cách cảm tính hoặc cứng nhắc dựa vào mức
lãi suất thông báo áp dụng chung cho tất cả mọi khách hàng; việc lượng hoá độ rủi ro của
khách hàng, dự án vẫn rất khó khăn ở VN khi các NH không có phần mềm và đầy đủ thông
tin để định giá. Các thông số của thị trường dùng trong đo lường (như hệ số bêta, xếp hạng
tín dụng …) chưa có cơ quan chuyên nghiệp để xác định.
Thêm vào đó, một số NH vì cạnh tranh đã thậm chí cho vay khách hàng dưới mức giá
vốn cộng chi phí và phần bù rủi ro ngay cả khi đã tham gia vào các thoả thuận về lãi suất.
Việc các NH cùng bằng mọi cách đổ vốn vào cùng một doanh nghiệp, một dự án mà không
có phần bù rủi ro, ngoài kết quả thu hẹp lợi nhuận của NH còn đồng thời làm cho tính rủi ro
của dự án cao hơn do sự dễ dãi của NH.

Giải ngân
+ Căn cứ giải ngân chưa đầy đủ và đúng qui định: Tài liệu để giải ngân không đầy
đủ, khế ước nhận nợ không được phê duyệt bởi người có đầy đủ thẩm quyền
+ Khoản cho vay được giải ngân nhưng không được ghi nhận và ngược lại.
Thu hồi vốn và lãi
+ việc sử dụng vốn vay không đúng mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh,
không đúng phương án đã nêu nên không trả được nợ đúng hạn hoặc không trả
được nợ
4
+ Việc quản lí thu nợ và thu lãi chưa chặt chẽ
+ Công tác kiểm tra khách hàng sau cho vay chưa kịp thời, chưa bảo đảm chất
lượng
Nhân viên tín dụng không nắm bắt được tình hình tín dụng của khách hàng cũng như môi
trường tín dụng của nền kinh tế. Do vậy, hoạt động sai sót, không nắm bắt kịp thời các
khoản cho vay có vấn đề.
+ Việc cơ cấu nợ ( gia hạn và điều chỉnh kì hạn nợ) chưa đầy đủ căn cứ
+ Việc phân loại nợ chưa đúng quy định đẫn đến trích lập dự phòng rủi ro chưa
đầy đủ, chưa tương xứng với rủi ro
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn.
Nợ xấu (NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 quy định tại Khoản 1 Điều 4 Thông
tư này.
Điều 4. Phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể
1. Căn cứ vào thực trạng tài chính của khách hàng và/hoặc thời hạn thanh toán nợ gốc và
lãi vay, tổ chức tài chính quy mô nhỏ thực hiện phân loại nợ theo năm (05) nhóm như sau:
a) Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ trong hạn;
- Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày.
b) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến dưới 30 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu.

c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 30 ngày đến dưới 90 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 30 ngày theo thời hạn trả
nợ đã được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ
theo hợp đồng tín dụng.
d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày đến dưới 180 ngày;
5
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 30 ngày đến dưới 90 ngày
theo thời hạn trả nợ đã được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 180 ngày trở lên;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn
trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ
cấu lại lần thứ hai;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã
quá hạn.
+ Tỉ lệ trích lập dự phòng thấp:
Theo quy định hiện nay, các NH thương mại trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trên cơ sở
nợ quá hạn.
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn.
2. Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ quy định tại Khoản 1 Điều này như
sau:
a) Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn): 0%;
b) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý): 2%;
c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): 25%;
d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ mất vốn): 50%;

đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn): 100%.
Số tiền dự phòng cụ thể đối với từng khoản nợ được tính theo công thức sau (hướng dẫn cụ
thể tại Phụ lục A kèm theo Thông tư này):
R = (A – C) x r
Trong đó:
R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: số dư nợ gốc của khoản nợ
C: giá trị khấu trừ của tài sản bảo đảm
6
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
Trường hợp giá trị khấu trừ của tài sản bảo đảm (C) lớn hơn số dư nợ gốc của khoản nợ (A),
khoản nợ không phải trích lập dự phòng cụ thể.
Điều 5. Dự phòng chung
1. Tổ chức tài chính quy mô nhỏ thực hiện trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0,5% dư
nợ gốc của toàn bộ các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 quy định tại Khoản 1 Điều 4 Thông
tư này.
2. Trong thời hạn tối đa ba (03) năm kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành, tổ chức
tài chính quy mô nhỏ phải thực hiện trích lập đủ số tiền dự phòng chung theo quy định tại
Khoản 1 Điều này.
Điều này là không hợp lý vì có những khoản vay mặc dù chưa tới hạn nhưng đã tiềm ẩn
khả năng mất vốn rất cao, cần được dự phòng rủi ro song lại không được trích lập. Số nợ quá
hạn hiện nay của các NH thương mại nhà nước tương đối thấp sau khi đã xử lý một lượng
lớn nợ tồn đọng.
+ Công tác đánh giá khách hàng định kì chưa được thực hiện kịp thời và đầy đủ
+ Gốc và lãi không được ghi nhận kịp thời vào hệ thống hoặc ghi nhầm tài khoản.
+ Không phân loại và báo cáo kịp thời các khoản cho vay hiệu quả hay không
hiệu quả từ đó không có biện pháp ngăn chặn ngay từ đầu
+ Việc giám sát, theo dõi giá trị TS ĐB không sát sao gây khó khăn cho việc xiết
nợ bằng tài sản đảm bảo
+ Các số liệu thống kê cơ bản và thông tin cung cấp cho ban lãnh đạo phục vụ

việc giám sát tình hình các khoản vay không đầy đủ không thể hiện được tình
hình thực tế về các khoản vay và các vấn đề khác có liên quan
Do thông tin tín dụng không đầy đủ. Ngân hàng có một cái nhìn không toàn diện về bản
thân khách hàng cũng như tình hình tài chính của họ. Điều đó dẫn đến sự sai lệch trong việc
đánh giá hiệu quả của các khoản vay, cho vay quá khả năng chi trả của khách hàng
Thanh toán hợp đồng
+ TSĐB không được quản lý chặt chẽ dấn đến khả năng bị sử dụng không
đúng mục đích đã thỏa thuận ban đầu, bị hư hỏng, giảm giá trị.
+ Lạm dụng tài sản thế chấp, giám sát theo dõi giá trị TSDB ko sát sao gây
khó khăn cho việc xiết nợ bằng TS đảm bảo.
Kinh tế tăng trưởng cao trong vài năm trở lại đây cùng với giá bất động sản bị đẩy lên
cao ở hầu hết các thành phố lớn đã làm nảy sinh tư tưởng dựa dẫm thái quá vào tài sản thế
7
chấp. Số lượng các khoản vay để mua bất động sản (nhà, đất) cũng tăng. Tuy nhiên sẽ rất
nguy hiểm nếu cán bộ tín dụng quên đi rằng khoản vay cần được trả bằng dòng tiền tạo ra
bởi dự án sản xuất kinh doanh chứ không phải bằng tiền bán tài sản thế chấp. Tài sản thế
chấp chỉ là sự đảm bảo cuối cùng khi phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài
dự kiến mà thôi.
Đây cũng là tâm lý thường thấy ở các NH các nước đang phát triển. Kinh tế tăng trưởng
nóng, lãi suất thấp, giá bất động sản thường bị đẩy lên quá cao do đầu cơ và vượt quá xa giá
trị thực.
II. RỦI RO KIỂM SOÁT
1. Khái niệm
Là rủi ro mà sai phạm (trọng yếu) trong các thông tin được kiểm toán khi tính riêng lẻ
hay gộp với các sai phạm khác đã không được hệ thống kiểm soát nội bộ ngăn ngừa
hoặc phát hiện và sửa chữa.
2. Nhân tố ảnh hưởng
• Môi trường kiểm soát
• Hệ thống kế toán
• Vấn đề nhân sự

• Vấn đề tổ chức: tổ chức chồng chéo, không khoa học
• Các nghiệp vụ mới
• Tính thích hợp, đầy đủ của các thủ tục, trình tự kiểm soát
3. Rủi ro kiểm soát trong hoạt động tín dụng
• Về góc độ quản trị
Do chính sách vay của ngân hàng không hợp lý, quá chú trọng về mục tiêu lợi
nhuận nên bỏ qua những khoản cho vay lành mạnh.
Các ngân hàng chưa xây dựng được một chính sách tín dụng khoa học, phù hợp.
Các chính sách, thủ tục chi tiết về cơ chế, chính sách, chế độ tín dụng không được
cập nhật thường xuyên và định kỳ
Ngoài các hướng dẫn quy chế cho vay của NH nhà nước, hầu hết các NH thương mại đều
chưa có chính sách tín dụng đầy đủ, bằng văn bản của riêng chính mình mà chỉ là những chỉ
đạo rời rạc, không hệ thống, mang tính tình thế. Một chính sách tín dụng được hoạch định
tốt phù hợp quy luật khách quan là điều kiện tiên quyết để quản trị tốt rủi ro tín dụng của
NH. Chính sách tín dụng phải thể hiện quan điểm và chiến lược của NH, trên cơ sở quy chế
cho vay của NH nhà nước, là kim chỉ nam cho hoạt động của tất cả nhân viên và lãnh đạo
NH trong từng thời kỳ.
8
Trong giai đoạn hiện nay, chính sách tín dụng càng đặc biệt quan trọng bởi các NH phải
thích ứng với sự phức tạp về môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh đầy mới mẻ, đối
mặt với nhiều thách thức, thậm chí có những rủi ro trước nay chưa hề lường hoặc quan tâm
đến. Chính sách tín dụng phải làm sao vừa đem lại sự thoả mãn cao nhất cho khách hàng vừa
đảm bảo 2 mục tiêu: Tỷ suất sinh lời cao nhất và mức độ rủi ro chấp nhận được cho NH.
Ban lãnh đạo chưa nhận thức đầy đủ về những nhân tố quan trọng có thể mang lại
rủi ro và do vậy không thể kiểm soát tốt những yếu tố này.
Ban lãnh đạo chưa nhận thức tốt về trách nhiệm của mình đối với những yếu kém
và khắc phục yếu kém.
Không có chiến lược phát triển rõ nét
Những năm trước tái cơ cấu, đã hình thành một phân đoạn thị trường giữa các NH thương
mại nhà nước đúng như tên gọi. NH đầu tư và phát triển tập trung cho vay các dự án lớn,

trung dài hạn cho đầu tư và phát triển. NH nông nghiệp chuyên cho nông nghiệp. Và NH
ngoại thương có thế mạnh trong lĩnh vực tài trợ ngoại thương, kinh doanh ngoại hối.
Tuy nhiên, giai đoạn gần đây cả 4 NH thương mại nhà nước lại có những hướng đi na ná
nhau, bỏ qua những thế mạnh về kinh nghiệm, kỹ năng trong lĩnh vực sở trường. Không chỉ
cung tăng lãi suất, cùng mở rộng mạng lưới, lắp đặt hệ thống ATM ( mà chỉ có hệ thống
ATM của NH ngoại thương là có tính ứng dụng cao nhất), trong nhiều hoạt động mà không
đánh giá đầy đủ về hiệu quả của sản phẩm, dịch vụ mới…, trong lĩnh vực tín dụng cả 4 NH
còn đều đồng loạt tập trung cạnh tranh để cho vay đồng tài trợ đối với các dự án lớn của các
doanh nghiệp nhà nước lớn, các tổng công ty độc quyền.
Trong cuộc cạnh tranh này, nhiều NH đã tăng lãi suất đầu vào, hạ lãi suất đầu ra, bằng
mọi cách để có được các dự án theo họ là có mức độ rủi ro rất thấp. Song thực tế cạnh tranh
về giá không phải là chiến lược tốt, dài hạn và nó sẽ thu hẹp khoảng cách lợi nhuận, ảnh
hưởng đến khả năng sinh lời đồng thời làm tăng mức độ rủi ro tín dụng của cả 4 NH.
Không có sự độc lập giữa chức năng bán hàng, tác nghiệp và quản trị rủi ro trong
mô hình tổ chức tín dụng ở hầu hết các NH.
Để giảm rủi ro xuống mức thấp nhất, cần thiết có sự độc lập giữa các chức năng mà một
cán bộ tín dụng NH hiện nay thường thực hiện, đó là: chức năng bán hàng (tiếp xúc khách
hàng, đàm phán, tiếp thị…), chức năng quản trị rủi ro (phân tích, thẩm định, dự báo, đo
9
lường, đánh giá lại theo định kỳ…) và chức năng tác nghiệp (xử lý hồ sơ, theo dõi, giám sát
khoản vay, thu nợ, thu lãi…).
Việc quản lý phân quyền truy cập vào phân hệ tín dụng trong hệ thống lưu trữ điện
tử không đúng quy định.
Việc phân cấp, ủy quyền trong quy trình cho vay đối với khách hàng không hợp lý,
không hiệu quả và không được tuân thủ.
Có thay đổi trong cơ cấu tổ chức mà không được quản lý một cách hiệu quả.
Các NH chưa xây dựng được mô hình lượng hoá rủi ro và xác định mức cho vay
tối đa, tối ưu đối với khách hàng.
Như trên đã nêu, hầu hết NH thương mại nhà nước đều chưa xây dựng được cho mình
một mô hình thích hợp để lượng hoá mức độ rủi ro của khách hàng, từ đó xác định phần bù

rủi ro và giới hạn tín dụng an toàn tối đa đối với một khách hàng cũng như để trích lập dự
phòng rủi ro. Bản thân hệ thống tính điểm tín dụng hiện đang áp dụng ở một số NH cũng
chưa có hệ thống phương pháp luận cơ sở. Đo lường rủi ro tín dụng ở Việt Nam hiện đang
rất khó, chưa kể đến thông tin ít chính xác và còn quá nghèo nàn.
Thêm vào đó, thông tin _ đầu vào vô cùng cần thiết phục vụ việc ra quyết định của NH
chưa được lưu trữ, thu thập và xử lý hiệu quả. Trung tâm thông tin tín dụng NH nhà nước
hầu như mới chỉ cung cấp được số liệu dư nợ vay của các doanh nghiệp, chưa có thông tin
phi tài chính, khả năng quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp. Thông tin của các NH nhiều phải
lấy đến từ các nguồn phi chính thức.
• Về góc độ nhân sự
Chất lượng nguồn nhân lực ở hầu hết các NH thương mại nhà nước còn yếu kém
so với đòi hỏi của thời kỳ mới. Lãnh đạo quản trị NH theo cảm tính, không chuyên
nghiệp, mang tính kinh nghiệm. Cán bộ tín dụng thiếu khả năng, kỹ năng dự báo
kinh tế, thị trường, phân tích tình hình tài chính, phi tài chính của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, do tác động của quá trình cạnh tranh, rất nhiều cán bộ giỏi của NH thương
mại nhà nước đã được các NH cổ phần, NH có vốn đầu tư nước ngoài chiêu mộ, đặc biệt ở
hai thành phố lớn Hà Nội và TP.HCM. Nguồn nhân lực của các NH thương mại nhà nước đã
mỏng do quá trình mở rộng mạng lưới, yếu về kỹ năng lại ngày càng bị hao hụt do chính
sách sử dụng, đãi ngộ con người vẫn còn quá lạc hậu, quan liêu.
10
Các cán bộ tham gia vào nghiệp vụ cấp tín dụng không nhận thức được đầy đủ về
mục tiêu hoạt động của đơn vị mình.
Chương trình đào tạo nhân viên về chuyên môn, về văn hóa chưa được chú trọng.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA RỦI RO TIỀM TÀNG VÀ RỦI RO KIỂM SOÁT
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát là 2 loại rủi ro gắn liền với quá trình hoạt đông của
doanh nghiệp. Kiểm toán viên không tạo ra và cũng không thể kiểm soát được chúng. Rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát có mức độ lớn hay nhỏ tùy thuộc rất lớn vào ngành nghề kinh
doanh cũng như môi trường pháp lí mà doanh nghiệp đang hoạt động, không những thế, 2
loại rủi ro này còn phụ thuộc vào bản chất của các số dư tai khoản và nghiệp vụ kinh tế đặc
thù tương ứng với ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp.

Mối quan hệ của 2 laoij rủi ro này được thể hiện thông qua mô hình rủi ro kiểm toán và
ma trận rủi ro phát hiện
Mô hình rủi ro kiểm toán:
AR = IR * CR * DR
IV. LIÊN HỆ THỰC TẾ
1. rủi ro từ việc sở hữu chéo
• Lách luật bằng “mạng nhện”
Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định một cổ đông cá nhân không được sở hữu
quá 5% và một tổ chức không quá 15% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, trước đó tỷ lệ này
lần lượt là 10% và 20%. Tại Thông tư 13/2010/TT-NHNN, quy định “Tổng mức góp vốn,
mua cổ phần của tổ chức tín dụng và các công ty con, công ty liên doanh, công ty liên kết
của tổ chức tín dụng trong cùng một doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu tư, tổ chức tín
dụng khác không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp, quỹ đầu tư, dự án đầu
tư, tổ chức tín dụng khác đó”.
Sở dĩ Luật các tổ chức tín dụng và thông tư quy định giảm tỷ lệ sở hữu cá nhân và tổ
chức xuống là nhằm làm cho ngân hàng có tính đại chúng hơn. Ngoài ra, các nhà quản lý lo
ngại sự mất an toàn của hệ thống do tình trạng sở hữu chéo hoặc khi một cá nhân hoặc tổ
chức sở hữu tỷ lệ lớn có thể lũng đoạn ngân hàng.
11
Tuy nhiên, thực tế những người muốn sở hữu tỷ lệ lớn hơn quy định không khó. Người
chủ sở hữu thực sự có thể không cần đứng tên mà vẫn chi phối ngân hàng thông qua một
người thứ ba. Bên cạnh đó, tình trạng đầu tư “lòng vòng” giữa các ngân hàng với nhau tạo
thành một “mạng nhện” cũng khá phổ biến. Chẳng hạn một ngân hàng A nào đó đầu tư vào
ngân hàng B, B đầu tư cho ngân hàng C, rồi C lại đầu tư vào A. Việc đầu tư chéo này có thể
công khai trên sổ sách nhưng cũng có thể là không.
Thực tế, việc tìm thông tin về các tổ chức tín dụng mua cổ phần của các tổ chức tín dụng
khác là điều hết sức khó. Rất ít ngân hàng công khai tỷ lệ đầu tư vào các tổ chức tín dụng
khác. Những trường hợp công bố chính thức như Vietcombank, Vietinbank không nhiều.
Không những vậy, những con số cũng có thể chưa phản ánh hết thực tế việc sở hữu giữa các
ngân hàng.

Thuyết minh báo cáo tài chính của ACB cho thấy số tiền đầu tư vào tổ chức tín dụng
khác của ngân hàng này lên tới 950 tỉ đồng, tuy nhiên không ghi rõ đây là những tổ
chức nào. Ngoài ra, ACB còn có số tiền đầu tư dài hạn là 3.144 tỉ nhưng không cho biết
có bao nhiêu tiền đầu tư vào các tổ chức tín dụng. Có lần một lãnh đạo cao cấp của ACB
tuyên bố là “cổ đông chính của Eximbank” song số liệu chính thức được biết đến thì ACB
chỉ sở hữu 1,04% vốn điều lệ của Eximbank. Ngoài ra, trong giới tài chính còn cho rằng
ACB đang nắm một lượng khá lớn cổ phần các ngân hàng khác như Đại Á, Việt Á, Kiên
Long, Sacombank, Techcombank
Năm 2010, vốn điều lệ của Ngân hàng Phương Nam chỉ khoảng 2.500 tỉ đồng, nhưng có
con số đầu tư vào tổ chức tín dụng khác đến thời điểm 31-12-2010 lên tới 595,63 tỉ đồng
(theo thuyết minh báo cáo tài chính 2010). Tuy nhiên, không có chi tiết là Phương Nam
đang đầu tư vào những tổ chức tín dụng nào.
Như vậy, giữa quy định trong luật và thực tế là một khoảng cách khá xa. Dù có bị giới hạn
về tỷ lệ sở hữu thì cá nhân và tổ chức tín dụng vẫn có trăm ngàn cách để lách.
• Những rủi ro từ việc sở hữu chéo
Giữa năm 2010, ước tính số vốn để các ngân hàng tăng vốn điều lệ lên mức tối thiểu
3.000 tỉ đồng theo quy định của pháp luật vào khoảng hơn 30.000 tỉ đồng. Bất chấp sự khó
12
khăn của thị trường tài chính, cuối cùng tất cả các ngân hàng cũng đạt được mục tiêu. Tuy
nhiên, nhiều chuyên gia đánh giá số vốn này “không thực chất” do các ngân hàng sở hữu
chéo lẫn nhau hoặc các “ông chủ” dùng tiền vay để tăng vốn. Hệ quả là vốn điều lệ và vốn
chủ sở hữu của toàn hệ thống tăng mạnh nhưng vốn thực góp lại không tăng tương
ứng. Điều này đồng nghĩa với các hệ số đo lường độ an toàn của các ngân hàng như
CAR, vốn chủ sở hữu/tổng tài sản không còn chính xác.
Bên cạnh đó, một rủi ro cần được tính đến là tình trạng cho vay thiếu kiểm soát có thể
tăng mạnh. Chẳng hạn khi một tổ chức tín dụng lớn chiếm cổ phần chi phối ngân hàng khác
và biến ngân hàng này thành “sân sau” của mình, họ có thể buộc ngân hàng bị chi phối cấp
tín dụng cho những dự án rủi ro hoặc cho doanh nghiệp có quan hệ thân thiết. Ngoài ra,
không loại trừ trường hợp lãnh đạo của ngân hàng chi phối lạm dụng quyền lực buộc ngân
hàng mà mình có thể chi phối cấp tín dụng để phục vụ lợi ích cá nhân.

Một rủi ro khá lớn khác là khi các ngân hàng hình thành một “mạng nhện” thì sẽ nảy
sinh độc quyền nhóm. Liên minh ngân hàng này có thể đủ sức mạnh để chi phối lãi suất, tỷ
giá và kể cả chính sách. Điều này có thể gây xáo trộn trên thị trường và thiệt hại cho nền
kinh tế.
Tuy nhiên ở một góc nhìn khác, công bằng mà nói, những ngân hàng nhỏ cũng được
hưởng lợi khi ngân hàng lớn đầu tư vào, tuy nhiên trong những trường hợp như vậy cần phải
có quy định, giám sát chặt chẽ, minh bạch thông tin để hạn chế những tiêu cực phát sinh.
13

×