Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận cơ sở khoa học và kỹ thuật nâng cao năng suất và phẩm chất sắn bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.56 KB, 15 trang )

PHẦN I :
MỞ ĐẦU
Cây sắn (Manihot esculenta Crantz) có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới của
châu Mỹ La Tinh (Crantz, 1976) và được trồng cách đây khoảng 5.000 năm
(CIAT, 1993). Trung tâm phát sinh cây sắn được giả thiết tại vùng đông bắc của
nước Brazin thuộc lưu vực sông Amazon, nơi có nhiều chủng loại sắn trồng và
hoang dại (De Candolle 1886; Rogers, 1965). Trung tâm phân hóa phụ có thể tại
Mexico ở Trung Mỹ và vùng ven biển phía bắc của Nam Mỹ. Bằng chứng về
nguồn gốc sắn trồng là những di tích khảo cổ ở Venezuela niên đại 2.700 năm
trước Công nguyên, di vật thể hiện củ sắn ở cùng ven biển Peru khoảng 2000
năm trước Công nguyên, những lò nướng bánh sắn trong phức hệ Malabo ở phía
Bắc Colombia niên đại khoảng 1.200 năm trước Công nguyên, những hạt tinh
bột trong phân hóa thạch được phát hiện tại Mexico có tuổi từ năm 900 đến năm
200 trước Công nguyên (Rogers 1963, 1965).
Hiện tại, sắn được trồng trên 100 nước của vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới,
tập trung nhiều ở châu Phi, châu Á và Nam Mỹ (CIAT, 1993).
Sắn là cây lương thực, thực phẩm chính của hơn 500 triệu người trên thế
giới, đặc biệt là các nước châu Phi, nơi cây sắn được coi là giải pháp an toàn
lương thực hàng đầu để chống tình trạng suy dinh dưỡng. Sắn đồng thời cũng là
cây dùng làm thức ăn gia súc quan trọng tại nhiều nước trên toàn thế giới, sắn
cũng là cây hàng hóa xuất khẩu có giá trị để chế biến thức ăn gia súc, bột ngọt,
rượu cồn, bánh kẹo, mì ăn liền, ván ép, bao bì, màng phủ sinh học và phụ gia
dược phẩm. Năm 2005, toàn thế giới có 100 nước trồng sắn với tổng diện tích
sắn đạt 18,69 triệu ha, năng suất củ tươi bình quân 10,87 tấn/ ha, sản lượng
203,34 triệu tấn. Tiêu thụ sắn trên thế giới năm 2006 ước đạt 6,9 triệu tấn sản
phẩm, tăng 11% so với năm 2005 (6,2 triệu tấn), giảm 14,81% so với năm 2004
(8,1 triệu tấn). (FAO, 2007).
Ở Việt Nam, cây sắn đã và đang chuyển đổi nhanh chóng vai trò từ cây
lương thực thành cây công nghiệp với tốc độ phát triển cao ở những năm đầu thế
kỷ XXI. Việt Nam hiện đã trở thành nước xuất khẩu tinh bột sắn đứng thứ hai
trên thế giới sau Thái Lan. Tinh bột sắn Việt Nam đã trở thành một trong bảy


mặt hàng xuất khẩu mới có triển vọng, được Chính phủ và các địa phương quan
tâm phát triển. Cả nước hiện có 53 nhà máy chế biến tinh bột sắn đã đi vào hoạt
động với tổng công suất chế biến 2,2 - 3,8 triệu tấn sắn củ tươi/ năm và 7 nhà
máy đang được xây dựng. Hướng sử dụng nguyên liệu sắn để làm cồn sinh học
(bio ethanol) đang được quan tâm. Năm 2006, diện tích sắn toàn quốc đạt 474,8
ngàn ha, năng suất củ tươi bình quân 16,25 tấn/ha, sản lượng 7,7 triệu tấn (Tổng
cục Thống kê, 2007).
Sắn không chỉ là một loại cây lương thực, thực phẩm mà còn là cây công
nghiệp để tạo ra các sản phẩm như: cồn, đường, bột ngọt, tinh bột, xi rô, nước
giải khát, bánh kẹo, mì, miến, chất hồ vải, phụ gia dược phẩm, màng phủ sinh
học (bioplastic).…Thích hợp trồng trên nhiều loại chân đất. Nhưng trái lại cây
sắn là cây trồng khai thác tối đa dinh dưỡng ở trong đất và giá trị dinh dưỡng
không cao, củ và lá sắn có độc tố HCN, chế biến sắn thì gây ô nhiễm môi
trường. Nên trong thời gian qua cây sắn ít được chú ý để mở rộng diện tích.
Mặc dù cây sắn trồng khá phổ biến từ Bắc đến Nam, từ đồng bằng đến
miền núi. Nhưng trong sản xuất nông nghiệp cây sắn chỉ trồng rải rát không tập
trung và nông dân chỉ xác định để dùng trong chăn nuôi, nên cây sắn trong nông
nghiệp chỉ là cây trồng thứ yếu. Trong những năm trở lại đây với sự phát triển
vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã tạo ra nhiều giống sắn cho năng suất cao,
phẩm chất tốt, thích nghi trên nhiều chân đất và sắn có thể xem là cây trồng chủ
lực ở một số vùng nhằm làm nguyên liệu cho các nhà máy tinh bột sắn và đã
đem lại lợi ích đáng kể cho nông dân và có thể xem đây là cây trồng xoá đói
giảm nghèo cho một số vùng.
Vì vậy, trong khuôn khổ cuốn tiểu luận nay chúng tôi tìm hiểu: "Cơ sở
khoa học và kỹ thuật nâng cao năng suất và phẩm chất sắn bền vững"
PHÂN II
NỘI DUNG
2.1. Một số nguyên nhân trồng sắn có năng suất thấp và hiệu quả kinh
tế không cao.
2.1.1. Trồng các giống địa phương đã bị thoái hoá và cho năng suất

thấp.
Trong những năm trước đây các vùng trồng sắn ở nước ta chỉ trồng các
giống địa phương: Canh nông, sắn chuối, sắn xanh, nghệ, sắn quảng, sắn Đồng
Nai, sắn mán….Các giống này đã trồng từ rất lâu nên đã bị thoái hoá, năng suất
không cao, tinh bột ít và không chịu trình độ thâm canh cao. Vì vậy, người dân
chỉ sử dụng sắn phục vụ cho chăn nuôi trong gia đình. Khi sắn được dùng làm
nguyên liệu trong công nghiệp để chế biến cồn, đường, bột ngọt, tinh bột, xi rô,
nước giải khát, bánh kẹo, mì, miến, chất hồ vải, phụ gia dược phẩm, màng phủ
sinh học (bioplastic) thì các giống này không còn phù hợp nữa.
2.1.2. Trồng rải rát, manh mún và không có quy hoạch.
Trước thời kỳ cây sắn trở thành cây công nghiệp, thì cây sắn chỉ được trồng
rãi rác ở các vùng và chủ yếu nông dân dùng để phục vụ chăn nuôi trong gia
đình. Với việc phát triển không đồng bộ và không tập trung nên nông dân không
thống kê giá trị kinh tế mà cây sắn mang lại do đó sắn chỉ là cây trồng thứ yếu
và ít được đầu tư thâm canh cũng như ít được chú ý đến.
Nhưng thói quen canh tác manh mún, dựa vào tự nhiên đã khiến một số
diện tích qua những năm vắt sức nuôi cây sắn sớm trở nên nghèo kiệt đang có
nguy cơ bạc màu.
2.1.3. Bón phân không cân đối và không đầy đủ
Sắn là cây dễ trồng thích hợp với nhiều chân đất (kể cả giàu và nghèo dinh
dưỡng), điều kiện thời tiết khác nhau như khô hạn, là cây trồng cuối cùng
trong hệ thống sản xuất trước khi bỏ hóa.
Nhưng cây sắn có khả năng huy động rất mạnh các dinh dưỡng có ở trong
đất để tạo ra sản phẩm. Tính trung bình, để tạo được 1 tấn sắn củ tươi, cây sắn
hút tới 4,5 kg N + 2,5 kg P
2
O
5
+ 7,5 kg K
2

O + 1 kg Ca + 5 kg MgO . Nhiều nơi
khi thấy sắn sinh trưởng kém, nông dân mới chú ý đến bón phân đạm cho sắn,
mà chưa thấy vai trò bón cân đối các chất dinh dưỡng đặc biệt là phân Kali đối
với sắn [1,7]
Ví dụ: Tại vùng trồng sắn của HTX Câu Nhi - xã Hải Tân - huyện Hải
Lăng - tỉnh Quảng Trị, nông dân trồng sắn chỉ bón lót 300 - 450kg phân
chuồng/500m
2
, đến sắn 30 ngày tiến hành làm cỏ và bón thêm 2 kg đạm urê,
ngoài ra không bón thêm một loại phân nào nữa cả.
2.1.4. Trồng sắn trên đất dốc không có biện pháp chống xói mòn
Sắn thường là cây trồng một năm, có khoảng cách hàng x hàng rất rộng và
độ khép táng nhỏ, nên việc xói mòn trên đất trồng sắn là lớn hơn nhiều so với
các loại cây trồng khác. Mặt khác, đặc thù trồng sắn ở nước ta chủ yếu trồng trên
đất dốc và đất nghèo dinh dưỡng, mà lượng mưa phân bố không đồng đều giữa
các mùa chủ yếu tập trung vào mùa mưa (80 - 90% lượng mưa cả năm). Vì vậy,
việc xói mòn làm cạn kiệt dinh dưỡng trên đất trồng sắn là điều tất nhiên.
Tính trung bình lượng đất bị xói mòn hàng năm ở các điểm nghiên cứu từ
40 tấn đất khô/ha đến 100 tấn/ha ( Tùy theo độ dốc và thành phần cơ giới ) [1,6]
2.2. Cơ sở khoa học và kỹ thuật nâng cao năng suất và phẩm chất sắn
bền vững
Để nâng cao năng suất và phẩm chất săn một cách bền vững thì cần phải
thực hiện đồng bộ một nhóm các giải pháp sau:
2.2.1. Áp dụng giống sắn mới và kỹ thuật canh tác bền vững để đạt
năng suất lợi nhuận cao và duy trì độ phì nhiêu của đất.
2.2.1.1. Sử dụng giống mới.
Ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới để lai tạo và chọn lọc ra các
giống sắn mới có năng suất cao, phẩm chất tốt, thích nghi trên nhiều chân đất và
các điều kiện thời tiết bất thường, để đưa vào sản xuất nhằm thay thế các
giống đã bị thoái hoá là việc làm trước tiên và cả nay mai. Không ngừng thay

đổi cơ cấu bộ giống, chọn các giống có năng suất cao và hàm lượng tinh bột cao
để đáp ứng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và nâng cao hiệu quả kinh tế
trên đơn vị diện tích.
Thời gian qua nước ta đã du nhập nhiều giống sắn mới của Trung Quốc,
Thái Lan như: HL23, HL24, KM94, KM95, KM60, SM937-26, HN124,…Các
giống này có thời gian sinh trưởng ngắn (210-300 ngày), năng suất cao (35-40
tấn/ha, thâm canh cao có thể đạt năng suất 80-120 tấn) và đặc biệt có hàm lượng
tinh bột cao (25,5-28,6%).
Trong các giống sắn trên thì giống KM94 là giống chủ lực được nông dân
ưa chuộng cho năng suất bột cao ổn định và phạm vi thích ứng rộng. Nhưng có
nhược điểm tán lá không gọn và hơi dài ngày. Hiện nay các nhà chọn tạo đang
tuyển chọn và giới thiệu các giống sắn mới đa dụng ngắn ngày, có năng củ tươi
và hàm lượng tinh bột cao, vừa thích hợp chế biến công nghiệp vừa có thể ăn
tươi và làm thức ăn gia súc nhằm bổ sung cho giống sắn chủ lực KM94 [2,37]
Quá trình áp dụng các giống sắn mới vào sản xuất được thể hiện ở bảng 1.
Bảng 1: Diện tích, năng suất và sản lượng sắn Việt Nam (1999–2006)
Chỉ tiêu ĐVT
Năm
1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Diện tích
1000 ha
227 235 250 337 372 384 426 475
Năng suất
tấn/ ha
7,9 8,6 8,3 13,2 14,3 14,5 15,8 16,2
Sản lượng
triệu tấn
1,8 2,0 2,0 4,4 5,3 5,6 6,7 7,7
Nguồn: Niên giám Thống kê, 2007.
Qua bảng 1 nhận thấy: Một trong những yếu tố chính góp phần hiệu qủa

trong việc nâng cao năng suất và sản lượng sắn là sự tăng cường nghiên cứu,
nhập nội, lai tạo, ứng dụng công nghệ mới trong chọn tạo và nhân giống sắn lai
(Hoàng Kim và ctv, 2006). Trước năm 1985, Gòn, H34 và Xanh Vĩnh Phú là
những giống sắn phổ biến ở Việt Nam. Từ năm 1986 đến năm 1993, Trung tâm
Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc (HARC) đã thu thập, tuyển
chọn và giới thiệu cho sản xuất ba giống sắn HL20, HL23 và HL24 được canh
tác mỗi năm ở các tỉnh phía Nam khoảng 70.000 - 80.000 ha (Hoàng Kim, Trần
Ngọc Quyền, Nguyễn Thị Thủy 1990). Giai đoạn 1988 -2000, Viện Khoa học
Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (IAS) phối hợp với Chương trình Sắn Việt
Nam (VNCP), Trung tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới (CIAT) và Công ty
Vedan - Việt Nam (VEDAN) đã nhập nội, tuyển chọn và giới thiệu cho sản xuất
năm giống sắn tốt: KM60; KM94, KM95; SM937-26 (Trần Ngọc Quyền, Hoàng
Kim, Võ Văn Tuấn, Kazuo Kawano 1995); KM98-1 (Hoàng Kim, Kazuo
Kawano, Trần Hồng Uy, Trần Ngọc Quyền, Võ Văn Tuấn, Trần Công Khanh
1999); Giai đoạn 2001-2005, song song với việc nhập nội hạt giống sắn lai,
Chương trình Sắn Việt Nam đã thực hiện việc lai tạo và ứng dụng các công nghệ
mới trong chọn tạo và nhân giống sắn lai (Hoàng Kim, 2003), đã chọn tạo và
giới thiệu bổ sung hai giống sắn mới vào cơ cấu giống là KM98-5 và KM140
(Trần Công Khanh, Hoàng Kim và ctv, 2005;Trần Công Khanh, Hoàng Kim và
ctv, 2006).
Việc canh tác các giống sắn mới và kỹ thuật thâm canh sắn đã mang lại
năng suất và lợi nhuận kinh tế cao cho nhiều nông hộ trồng sắn. Năng suất và
sản lượng sắn của nhiều tỉnh đã tăng lên gấp đôi . Tổng diện tích trồng các giống
sắn mới ở Việt Nam năm 2005 ước đạt 270.000 ha, chiếm 69,2% tổng diện tích
sắn của cả nước. Giá trị bội thu do những giống sắn mới và kỹ thuật thâm canh
sắn mang lại ước đạt hơn 120 triệu USD/ năm (270 ngàn ha x 8,9 tấn bội thu/ha
x 50 USD/ tấn), tương đương 2.000 tỷ đồng VN mỗi năm (Hoang Kim, Pham
Van Bien, Reinhardt Howeler, Joel J. Wang, Tran Ngoc Ngoan, Kazuo Kawano,
Hernan Ceballos 2005).
2.2.1.2. Các kỹ thuật canh tác.

Bên cạnh sử dụng các giống mới vào sản xuất thì các kỹ thuật canh tác
cũng cần bàn đến như:
- Các biện pháp canh tác chống xói mòn bảo vệ đất
Đặc thù nghề trồng sắn ở nước ta chủ yếu trồng trên đất dốc và đất nghèo
dinh dưỡng, mà nước ta lượng mưa phân bố không đồng đều giữa các mùa chủ
yếu tập trung vào mùa mưa (80 - 90% lượng mưa cả năm). Vì vậy, việc xói mòn
làm cạn kiệt dinh dưỡng trên đất trồng sắn là điều tất nhiên. Do đó khi trồng sắn
trên dất dốc nhất thiết phải chống được xói mòn. Hàng rào chống xói mòn trên
đường đồng mức Các cây dùng làm hàng rào xanh: có thể là cây cốt khí, cỏ
vetiver, cỏ paspalum, dứa tùy thuộc vào khả năng thích ứng của cây làm hàng
rào đối với từng vùng sản xuất. Hàng rào xanh vừa có tác dụng cản dòng chảy,
cung cấp chất xanh làm phân bón tại chổ cho cây sắn và hiệu quả kinh tế cao
nhất 15,0-17,2 triệu đ/ha so với không chống xói mòn. Lượng đất xói mòn giảm
và độ cao chênh lệch giữa 2 băng sắn tăng lên theo thời gian. Lý và hoá tính đất
ở băng cốt khí với dứa được cải thiện rõ rệt, đảm bảo sản xuất sắn bền vững [4].
- Thiết kế và trồng các hàng rào xanh theo đường đồng mức trên đất dốc :
+ Đất dốc < 15
0
khoảng các giữa các băng cây xanh từ 8 – 10 m
+ Đất dốc 15 – 20
0
khoảng các giữa các băng cây xanh 4 – 6 m.
Phủ đất là biện pháp hữu hiệu chống xói mòn đất thông qua việc tránh tiếp
xúc trực tiếp của hạt mưa với mặt đất và hạn chế dòng chảy bề mặt. Ngoài ra
còn làm tăng hàm lượng hữu cơ cho đất qua sự phân huỷ lớp vật liệu phủ đất.
Độ xốp của đất được cải thiện nhanh từ đó làm tăng khả năng hấp thụ và giữ
nước của đất, tăng cường hoạt tính sinh học của đất, tạo điều kiện cho bộ rễ cây
trồng phát triển tốt. Che phủ đất cũng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng phân
bón thông qua việc chống xói mòn rửa trôi đất, tăng dung tích hấp thụ của đất.
Một tác dụng quan trọng nữa là hạn chế gần như tuyệt đối cỏ dại cạnh tranh với

cây trồng, từ đó giảm công lao động làm cỏ và góp phần tăng năng suất cây
trồng. Vật liệu dùng để che phủ rất đơn giản và dễ kiếm: Sản phẩm phụ sau thu
hoạch (rơm, rạ, thân cây…), các loại cỏ, cây hoang dại, ưu tiên các loại cây
hoang dại, bán hoang dại và các loại cây đã thích nghi cao.
- Trồng xen với các loại cây họ đậu
Sắn là cây trồng hàng năm, khoảng cách trồng rộng, giai đoạn sinh trưởng
của sắn lúc đầu rất chậm, vì vậy để nâng cao hiệu quả kinh tế vừa để bảo vệ đất,
ở những vùng có điều kiện nên xen sắn với cây họ đậu : đậu xanh, đậu đen , đậu
tương. Trồng xen tăng được thu nhập lên từ 1,5 – 2 lần so với trồng thuần. Thân
lá cây họ đậu làm phân bón cho sắn rất tốt , bên cạnh đó cây họ đậu còn có khả
năng cải tạo đất rất có hiệu quả. Trồng xen lạc trong sắn KM98-1 trên đất cát
pha, vùng gò thấp cho lãi cao nhất: 16,8 triệu đ/ha cao hơn một số loại đậu khác
và trồng thuần, hệ số sử dụng đất cao đạt 1,79; 3 hàng lạc trồng xen là thích hợp
nhất. Đậu đen và đậu đỏ vượt trội về năng suất và lãi thu được trên đất đồi; chất
xanh trả lại cho đất khá lớn 9,5 tấn thân lá lạc/ha. Đậu đen tại huyện Lệ Thuỷ và
lạc ở Bố Trạch, Quảng Bình xác định trồng xen thích hợp nhất với sắn. Các
phương thức trồng xen trên góp phần đa dạng hoá sản phẩm giảm rủi ro, tăng hệ
số sử dụng đất, cải thiện lượng mùn, kali dễ tiêu, limon, độ xốp, giữ ẩm đất giúp
sản xuất sắn bền vững [4].
Lạc hoặc đậu tương được trồng 1 - 2 hàng vào giữa 2 hàng sắn và được
trồng cùng với sắn, thường vào tháng 2. Lạc và đậu tương sẽ thu hoạch vào
tháng 6, còn sắn thu cuối tháng 11 hoặc đầu tháng 12. Trồng xen như vậy có rất
nhiều tác dụng: Sau trồng lạc và đậu tương phát triển nhanh, cùng với cây sắn
non tạo thành lớp thực vật che phủ dày đặc trên bề mặt đất, chống được xói mòn
trong đầu mùa mưa. Cây họ đậu cũng cạnh tranh và hạn chế được cỏ dại. Khi
thu hoạch lạc, đậu tương, toàn bộ thân lá, rễ phủ lại bề mặt nương sắn vừa có tác
dụng che phủ chống xói mòn, vừa là nguồn hữu cơ giàu đạm cải tạo đất. Ngoài
ra, nông dân lại có thêm một vụ thu hoạch vào giữa năm (Khoa học và phát
triển, số 15/2004).
2.2.2. Áp dụng kỹ thuật chế biến sắn và phối hợp thực phẩm để nâng

cao giá trị dinh dưỡng của các sản phẩm sắn.
2.2.3. Ứng dụng dây chuyền công nghệ chế biến sắn hiện đại, tận dụng
phế phụ phẩm sắn để làm thức ăn gia súc, phân bón, thường xuyên đánh
giá tác động môi trường.
2.2.4. Quy hoạch sản xuất, chế biến và tiêu thụ sắn.
Cần có quy hoạch vùng trồng sắn tập trung, gần các tuyến giao thông hoặc
có các tuyến giao thông đi vào vùng trồng sắn để khi thu hoạch sắn một cách dễ
dàng tránh tình trạng gom góp nguyên liệu lại một vị trí rồi mấy ngày sau mới
chở làm giảm chất lượng của sắn. Hơn nữa, việc quy hoạch tập trung thành vùng
nguyên liệu thuận lợi cho việc đầu tư thâm canh.
Song song với việc quy hoạch vùng sản xuất thì việc hợp đồng thu mua sản
phẩm cho người sản xuất sắn củng phải tính đến, phải có chính sách thu mua
thoả đáng, hay hợp đồng bao tiêu sản phẩm với phương châm đôi bên đều có lợi
nhằm động viện cho người trồng sắn.
2.2.5. Mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm sắn.
Luôn luôn coi trọng việc cái tiến bộ giống, các biện pháp kỹ thuật trong
sản xuất và công nghệ chế biến để tạo ra các sản phẩm từ sắn thật đa dạng về
chủng loại, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải thiện giá cả để đủ sức cạnh tranh
với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Không ngừng khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào việc thu mua,
chế biến và xuất khẩu các sản phẩm từ cây sắn để có tính cạnh tranh mạnh mẻ,
tránh tình trạng độc quyền về thu mua và xuất khẩu.
2.2.6. Hình thành và phát triển chương trình sắn quốc gia để liên kết
mạng lưới hợp tác nghiên cứu, giảng dạy, khuyến nông, quản lý, đầu tư, sản
xuất, kinh doanh, chế biến và tiêu thụ sắn.
Có chiến lược phát triển toàn diện về cây sắn và chế biến các sản phẩm từ
sắn có mục tiêu rỏ ràng, có hệ thống, xem đây là một chiến lược phát triển kinh
tế để cùng nhau thực hiện không chỉ riêng của một riêng ai mà là của toàn xã
hội.
Khuyến khích các nhà khoa học, các tổ chức chính trị trong và ngoài nước,

các tổ chức cá nhân và các doanh nghiệp tham gia để cùng nhau hợp tác nghiên
cứu và phát triển cây sắn một cách toàn diện
2.2.7. Năm vững các yêu cầu về sinh thái.
2.2.7.1. Khí hậu
- Nhiệt độ
Cây sắn có nguồn gốc phát sinh từ vùng khí hậu nhiệt đới, cho nên sinh
trưởng và phát triển thuận lợi ở điều kiện nhiệt độ tương đối cao. Nhiệt độ thích
hợp nhất đối với sinh trưởng và phát triển của sắn là 23 – 27
0
C. Sắn không sống
được ở những vùng có tuyết và sương muối, nên không trồng được ở những
vùng cao nước ta có mùa Đông rét đậm. Sắn trồng ở vùng nhiệt độ cao có thời
gian sinh trưởng ngắn hơn so với khi trồng ở vùng có nhiệt độ thấp.
Các thời kỳ sinh trưởng khác nhau của cây sắn yêu cầu nhiệt độ khác nhau,
thời kỳ phát triển của mầm yêu cầu nhiệt độ 20 – 27
0
C. Ở thời kỳ cây lớn yêu
cầu nhiệt độ 20 – 30
0
C. Thời kỳ củ chín 25– 35
0
C. Sắn sinh trưởng và phát triển
chậm khi nhiệt độ vượt quá 40
0
C. Ở nhiệt độ dưới 10
0
C sắn ngừng sinh trưởng.
- Ánh sáng
Sắn là cây ưa sáng. Khi có đầy đủ ánh sáng cây sắn có khả năng tạo ra
đường bột và tích lũy chúng về củ mạnh hơn so với nhiều loại cây trồng khác.

Trong điều kiện ánh sáng mạnh, sắn phát triển củ tốt. Khi bị che khuất ánh sáng,
thân lá sắn có hiện tượng bị vống, lá bị rụng sớm, tuổi thọ cúa lá bị giảm sút.
Thiếu ánh sáng cây phân hóa chậm, năng suất giảm rỏ rệt. Cường độ ánh sáng là
một trong những nhân tố quyết định mật độ trồng sắn. Khi lượng chiếu sáng
giảm đi ½ thì việc tạo ra và tích kũy chất khô trong cây sắn giảm đi 30% [2,56]
- Nước
Sắn có khả năng chịu hạn cao, nhưng chỉ sinh trưởng và phát triển tốt trong
điều kiện khí hậu nóng và ẩm. Lượng mưa trung bình năm thích hợp đối với cây
sắn 1000 – 2000 mm.
Ở các thời kỳ sinh trưởng khác nhau, cây sắn yêu cầu lượng nước khác nhau.
Hom sắn ở thời kỳ đầy mới trồng cần độ ẩm đất 70 – 80 %. Cây sắn non khi có 5 – 20
lá nhu cầu nước có tăng lên, nhưng ở thời kỳ này sức chịu hạn của cây sắn khá cao.
Khi sắn bước vào thời kỳ sinh trưởng thân lá nhu cầu nước tương đối cao 75 – 85 %
lúc này cần nước để vận chuyển vật chất từ bộ phận này sang bộ phận khác trong cây.
Thời kỳ phình to củ lúc này cây sắn tập trung vào việc tích lũy tinh bột vào củ, nhu cầu
về nước giảm, độ ẩm đất ở thời kỳ này là 60 – 70%.
2.2.7.2. Đất đai
Sắn có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau: Đất phù sa, đất cát, đất than
bùn, đất bạc màu, sắn rất kém chịu các loại đất đọng nước, có thể chịu được
đất chua đến pH = 4 và có thể phát triển tốt trên đất trung tính, với đất kiềm.
Thích hợp nhất đối với sắn là pH = 5,5.
Tuy sắn có thể trồng được trên nhiều loại đất khác nhau, nhưng muốn có
năng suất cao, chất lượng tốt và phát triển sắn bền vững cần tiến hành các biện
pháp cải tạo đất. Đồng thời cần áp dụng chế độ canh tác hợp lý, chế độ chăm sóc
bón phân đầy đủ để vừa nâng cao hiệu quả của việc trồng sắn vừa bảo vệ đất đai,
vừa không ngừng nâng cao độ phì nhiêu của đất, tạo điều kiện cho sự phát triển
bền vững của toàn bộ nền nông nghiệp.
2.2.8. Nắm vững các biện pháp kỹ thuật chủ yếu.
2.2.8.1. Làm đất trồng sắn và bảo vệ đất.
Làm đất trồng sắn để hạn chế sự phát triển của cỏ dại, cải tiến các tính chất

vật lý - hóa học của đất. Đối với vùng đất mới khai hoang, dọn sạch cỏ dại, cày
bừa theo đường đồng mức, áp dụng đầy đủ các biện pháp kỹ thuật canh tác trên
đất dốc để chống xói mòn rữa trôi đất. Không nên khai hoang trắng, nên giữ lại
các cây tự nhiên để hạn chế các dòng chảy khi gặp mưa to.
Làm đất trồng sắn tùy thuộc vào loại đất và điều kiện địa hình. Ở những
nơi đất quá dốc có thể không cày bừa mà chỉ bổ hốc rồi đặt hom sắn, đất có độ
dốc thấp thì nên làm luống theo đường đồng mức. Vùng đất cát ven biển không
nên cày sâu mà chỉ cần lên luống to rồi đặt hom. Những vùng đất bằng cần cày
bừa để đất ải rồi mới lên luống trồng. Công việc làm đất trồng sắn cần thực hiện
vào đầu mùa mưa, khi đất có độ ẩm.
* Bảo vệ đất
Việc chống sói mòn trên đất dốc trồng sắn là rất cần thiết, vì vậy khi trồng
sắn trên đất dốc cần thực hiện các biện pháp sau:
- Trồng theo đường đồng mức, lên luống vuông góc với độ dốc.
- Trồng các băng cây chống sói mòn theo đường đồng mức: cỏ vetiver, cây
cốt khí hoặc các cây phân xanh khác.
- Trồng xen các cây họ đậu: lạc, đậu xanh, đậu đen…cũng có tác dụng
chống sói mòn, đồng thời làm tăng dinh dưỡng đất, giúp đất phục hồi độ phì sau
khi trồng sắn, đây là việc cần phải làm lâu dài đối với các khu vực canh tác sắn.
- Phủ bằng rơm rạ hoặc các nguồn phụ liệu khác sẳn có từ địa phương.
2.2.8.2. Thời vụ trồng sắn
Trong cơ cấu cây trồng của nhiều vùng, sắn không được xem là cây trồng
chính, vì vậy thời vụ trồng sắn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố: Thời vụ gieo
trồng của các cây trồng chính, khả năng và điều kiện lao động, điều kiện vật tư
kỹ thuật. Về thời vụ trồng sắn, các nhà khoa học đã đi đến kết luận “ Trong
những hệ thống canh tác hiện đại, khi cây sắn trở thành một loại cây công
nghiệp mà không còn là cây thức phẩm như trước đây, khi trình độ cơ giới của
nền nông nghiệp được nâng lên, cần rãi vụ sắn để có thể thu hoạch sắn quanh
năm’’. Cho đến nay các vùng trồng sắn nước ta thời vụ trồng sắn như sau:
* Ở các tỉnh phía Bắc : Vụ sắn chính là vụ Xuân – Hè trồng vào tháng 2 –

4. Vụ trái là vụ Thu trồng vào tháng 9 - 10
* Ở miền Trung : vụ sắn chính trồng trong tháng 1. không nên trồng sớm
vì có thể gặp các trận mưa lớn vào cuối mùa mưa làm thối hom. Đối với các
vùng cát không nên trồng muộn vào các tháng 2 – 3 vì vào thời kỳ cây con phát
triển dễ gặp gió tây nam nóng làm xoăn lá.
* Ở niềm Nam :
- Đất đỏ trồng vào mùa mưa (tháng 4 – tháng 5)
- Đối với đất xám, nên chia thành hai thời vụ trồng để rải vụ thu hoạch và
giảm áp lực về công lao động.
* Vụ 1: Trồng từ tháng 4 – tháng 5 và thu hoạch và tháng 1 – tháng 3
năm sau. Ở vụ này nên tranh thủ sớm khi đất đủ độ ẩm, khô hạn làm giảm khả
năng mọc mầm của hom sắn.
* Vụ 2: Trồng vào tháng 10 – tháng 11; thu hoạch vào tháng 9 – 10
năm sau.
2.2.8.3. Phương pháp và mật độ trồng.
Phương pháp trồng;
- Trồng hom nằm ngang trên những diện tích đất tương đối bằng phẳng, ở
những diện tích đất có mưa nhiều thoát nước kém có thể kéo luống hoặc lên líp
để trồng với các phương pháp hom đứng và hom xiên. Ngoài ra, nếu trồng vào
vụ cuối mưa, ẩm độ đất thấp thì nên trồng hom đứng.
Khoảng cách và mật độ trồng
- Đất tốt và trung bình trồng với khoảng cách 1,0 x 1,0m, tương đương
với 10.000 cây/ha, đất xấu trồng với khoảng cách 1,0 x 0,8m và 0,8 x 0,8m
(tương đương với 12500 cây/ha và 16.000 cây/ha)
- Ở các diện tích trồng xen có thể trồng với các khoảng cách giữa các hàng
và cây sắn là 1,2 x 0,6m/cây hoặc 1,2 x 0,8m (tương đương với 11.000 cây và
14.000 cây/ha)
2.2.8.4. Chăm sóc
2.2.8.4.1. Dặm hom
Từ 10 – 13 ngày sau khi trồng sắn, hom nảy mầm. Cần kiểm tra đồng

ruộng. Khoảng 20 ngày nếu đất còn độ ẩm thì dặm lại các hom không nảy mầm
hoặc hom yếu.
2.2.8.4.2. Bón phân
- Cây sắn là một trong những loại cây hút nhiều dinh dưỡng, để có năng
suất cao cần phải bón phân đầy đủ và cân đối.
Lượng phân sử dụng cho 1ha:
- Phân hữu cơ: (phân chuồng, phân xanh) 5 – 7 tấn/ha hoặc phân vi sinh
500kg/ha. Bón phân hữu cơ, vi sinh cung cấp một lượng dinh dưỡng đồng thời
giúp đất xốp, giữ nước, giữ phân tốt hơn.
- Phân hóa học:
* Trồng bình thường: Bón theo công thức 80kg N + 40kg P
2
O
5
+ 80kg K
2
O
tương đương với 170kg Urea + 250 Super lân + 270kg Clorua kali
- Thời gian bón: bón lót phân chuồng + phân lân; hón thúc lần 1 từ 25 – 30
ngày sau trồng (1/2 phâm đạm + ½ phân Kali); bón thúc lần 2 từ 50 – 60 ngày
sau trồng (1/2 phân đạm + ½ Kali còn lại).
- Thời điểm bón: bón khi đất đủ độ ẩm, tránh bón phân vào lúc trời nắng
hoặc mưa lớn.
- Kỹ thuật bón: Phân lân + phân chuồng bón lót khi cày bừa hoặc bón theo
hốc trước khi trồng; phân đạm và phân kali bón theo hốc (cách gốc hoặc hom
sắn 15 – 20cm).
2.2.8.4.3. Trừ cỏ dại
- Phun thuốc diệt cỏ tiền nảy mầm Dual, Dipstar, với liều lượng dùng
như hướng dẫn trên nhãn chai, phun ngay sau khi trồng, đảm bảo lượng nước
phun và độ ẩm đất đủ cho thuốc có thể ngấm xuống đất từ 2 – 3cm.

- Kết hợp giữa làm cỏ bằng tay và phun thuốc: làm cỏ bằng tay 1 lần sau
khi trồng từ 20 – 30 ngày, sau khi làm cỏ xong phun thuốc diệt cỏ tiền nảy mầm
Dual với lượng dùng 1,2 lít/ha.
- Phủ bề mặt ruộng bằng PE
2.2.8.4.4. Trừ sâu bệnh hại:
- Bọ cánh cứng: phun các thuốc thông thường điều trị như: Oncol,
Lamte…
- Nhện đỏ: thường xuất hiện ở mùa khô gây cho sắn cháy khô từng vùng,
dùng Supracide, Admire, Comite…
- Bệnh thối đọt, cháy lá: dùng Benlate, Benlate-C, Copper-B, Bavistin…
Lưu ý: Nên sử dụng thuốc theo hướng dẫn trong nhãn thuốc để tránh thiệt hại và
áp dụng theo phương châm 4 đúng: đúng thuốc, đúng thời điểm, đúng liều
lượng, đúng cách.
2.2.8.5. Trồng xen và luân canh.
- Sắn là loại cây sử dụng nhiều dinh dưỡng. Vì vậy, việc trồng nhiều vụ sắn
liên tiếp trên một mảnh đất thì phải đầu tư phân bón nhiều, nhất là phân hữu cơ.
- Đất bằng và đất có độ dốc thấp (độ dốc < 8%) trồng xen lạc và đậu xanh,
giữa hai hàng sắn xen 2 hàng lạc và đậu xanh, khoảng cách giữa 2 hàng sắn là
1,0 – 1,2m, giữa 2 hàng lạc và đậu xanh là 0,25 – 0,30m và giữa 2 cây lạc và đậu
xanh là 0,15 – 0,20m.
- Luân canh: Nên luân canh với cây họ đậu, lúa và các cây ngắn ngày khác.
2.2.8.6. Thu hoạch và bảo quản
- Tùy theo thời gian sinh trưởng của từng giống sắn mà định thời gian thu
hoạch cho hợp lý, để đãm bảo năng suất và tỷ lệ bột cao như: giống sắn KM 94
có thể thu hoạch ở thời gian 7 – 11 tháng sau khi trồng, giống sắn KM 60 thu
hoạch khoảng 6 – 8 tháng sau khi trồng sẽ cho chất lượng bột cao và chất lượng
bột tốt.
- Thu hoạch đúng thời điểm (thường tùy theo chu kỳ sinh trưởng của tường
giống sắn), khi hàm lượng tinh bột trong củ đạt từ 27 – 30%, hoặc khi cây đã
rụng gần hết lá ngọn (còn lại khoảng 6 – 9 lá) và lá chuyển từ màu xanh sang

vàng nhạt.
- Thu hoạch đến đâu chế biến hoặc vận chuyển đến các cơ sỡ chế biến,
tránh để lâu hoặc phơi nắng ngoài đồng quá 24 giờ làm giảm hàm lượng tinh
bột trong củ.
PHẦN III :
KẾT LUẬN
Khi cây sắn đã trở thành cây trồng chính trên nhiều chân đất, các vùng sinh thái
khác nhau và trở thành cây công nghiệp có tiềm năng để phát triển. Cùng với chủ
trương phát triển của ngành công nghiệp, từ nay cho đến năm 2010, sản lượng
sắn bình quân hàng năm ở nước ta đạt 2,5 – 3,0 triệu tấn, có khoảng 30 – 50
nghìn tấn sắn lát xuất khẩu sang thị trường EU [2,28] và Việt Nam là nước đang
có nhiều tiềm năng về đất đai để phát triển cây sắn. Cùng với chủ trương chuyển
dịch cơ cấu cây trồng, đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp, ở nhiều vung đất đai, nhất
là những vùng trung du và miền núi. Thì việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
để nâng cao năng suất, phẩm chất sắn là việc làm cần thiết, dần dần chuyển dịch cây
sắn trở thành cây trồng chính trong hệ thống cây trồng sản xuất nông nghiệp.
Nhưng để phát triển cây sắn một cách bền vững trong thời gian tới thì mổi một
người dân, các ban ngành có liên quan và các nhà khoa học không ngừng thực hiện
các bịên pháp tối thiểu nhằm giúp cho cây sắn phát triển toàn diện cho năng suất
cao, phẩm chất tốt, bảo vệ hệ sinh thái đất, trong chế biến thì phải chú ý bảo vệ môi
trường và không ngừng cải tiến các dây chuyền chế biến sắn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Trần Ngọc Ngoạn. Kỹ thuật canh tác sắn bền vững trên đất dốc, Nhà
xuất bản nông nghiệp.
2/ Gs.Ts Đường Hồng Dật. Cây sắn từ cây lương thực chuyển thành cây
công nghiệp, Nhà xuất bản lao động xã hội
3/ Sắn Việt Nam hiện trạng định hướng và giải pháp phát triển những năm
đầu thế kỷ XXI, Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền nam trung tâm
nghiên cứu thực nghiệm nông nghiệp Hưng Lộc, năm 2001
4/ Trích yếu luận án, nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật sản xuất sắn

vùng gò đồi tỉnh Thừa Thiên Huế , TS Nguyễn Thị Cách
5/
6/

×