Tải bản đầy đủ (.docx) (182 trang)

giải quyết tranh chấp về hợp đồng trong luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.63 KB, 182 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT TƯ PHÁP
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2004-2008
TÊN ĐỀ TÀI :
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ
HỢP ĐỒNG TRONG LUẬT VIỆT
NAM
GIẢNG VIÊN HƯỚNG
DẪN:
TRƯƠNG THANH HÙNG
SINH VIÊN THỰC HIỆN
PHAN MINH GIỚI
MSSV: 5044030
LỚP LUẬT THƯƠNG
MẠI K30
Cần Thơ, 5/2008
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Trương Thanh Hùng
L

I

M


Đ

U
1. Sự cần thiết hình thành đề


tài
Tính cho đến nay, nước ta
đã trãi qua hơn mười năm
chuyển đổi từ nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung sang
nền kinh tế thị trường có sự quản
lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Sự chuyển đổi này tạo
điều kiện cho tất cả các
thành phần kinh tế tham gia vào
cạnh tranh và phát triển sôi động;
các loại hình
doanh nghiệp như công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài…được
thành lập và đi vào hoạt động
ngày càng nhiều, thu
hút được nhiều lao động, góp
phần giải quyết việc làm cho
người dân, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Cùng với sự đa dạng của các
thành phần kinh tế
và sự phát triển của xã hội, các
quan hệ kinh doanh thương mại
cũng ngày càng đa
dạng, như một tất yếu khách
quan, những tranh chấp kinh

doanh thương mại phát
sinh ngày một nhiều với tính chất
ngày càng phức tạp hơn. Trong đó, những tranh
chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng, một công cụ chủ
yếu và quan trọng nhất trong
việc xác lập các quan hệ thương mại là điển hình nhất
cho loại tranh chấp trong
quan hệ kinh doanh thương mại. Những tranh chấp về
hợp đồng có thể đề cập đến
là những tranh chấp phát sinh do sự không thống nhất
trong cách hiểu và giải thích
hợp đồng, do sự cố tình không thực hiện hợp đồng của
một chủ thể gây thiệt hại
cho chủ thể còn lại, do sự hiểu biết về pháp luật về hợp
đồng còn hạn chế…. Khi
phát sinh những vấn đề tranh chấp, điều quan trọng
nhất là phải giải quyết tranh
chấp đó, thiết lập lại sự vận hành bình thường cho các
quan hệ đó. Do đó, việc tìm
hướng giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực kinh
doanh thương mại nói riêng
cũng như cho tất cả các quan hệ xã hội nói chung là
một yêu cầu bức thiết. Trong
đó, việc xác định thẩm quyền để giải quyết tranh chấp
có ý nghĩa quyết định đến
hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp đó. Ở nước ta
hiện nay pháp luật quy định
các tranh chấp về kinh doanh thương mại bằng con
đường tòa án thuộc thẩm
quyền giải quyết của tòa án kinh tế.

Từ thực trạng các tranh chấp phát sinh và các
biện pháp giải quyết hiện nay.
Từ đó ta cần tìm hiểu, phân tích thưc trạng hiện nay về
việc tranh chấp kinh doanh
thương mại nhằm đề xuất hướng giải quyết đi đến hoàn
thiện một cơ chế đủ thẩm
quyền không chỉ giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại đang xảy ra mà
còn định hướng những tranh chấp sẽ diễn ra trong
tương lai. Vì vậy tác giả chọn
đế tài: “ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP
ĐỒNG TRONG LUẬT
VIỆT NAM” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cử nhân
luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, tình hình tranh chấp kinh
doanh, thương mại ngày
càng được báo chí và các phương tiện thông tin đề cập
nhiều hơn. Thu hút sự quan
tâm của nhiều người. Đã có nhiều công trình nghiên
cứu về việc giải quyết các
tranh chấp thương mại như: “Giải quyết tranh chấp
kinh doanh bằng con đường
SVTH: Phan Minh Giới
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Trương Thanh Hùng
Tòa án” của tác giả Đào Văn Hội
năm 1999, “Hợp đồng kinh tế”
vô hiệu của TS
Lê Thị Bích Thọ 2004…Tuy

nhiên nhiên có một số nội dung
của những công trình
nghiên cứu không còn phù hợp
với tình hình thực tế đặc biệt
trong bối cảnh Bộ
Luật Tố tụng Dân sự 2004 và
Luật thương mại 2005 ra đời mà
cơ sở là Pháp lệnh
hợp đồng kinh tế 1989. Từ những
thay đổi về pháp luật sẽ dẫn đến
những thay đổi
về tình hình giải quyết các tranh
chấp trong thực tế mà tác giả sẽ
tìm hiểu và phân
tích trong nội dung của đề tài
luận văn này.
3. Mục đích nghiên cứu và
nhiệm vụ của đề tài
Trên cơ sở kế thừa những
kết quả nghiên cứu của
các nhà khoa học đi trước
cùng với những kiến thức được
học và các tài liệu tham khảo
cùng với việc tìm
hiểu thực tế ở một số nơi, tác giả
mong muốn đánh giá một cách
khách quan thực
trạng giải quyết các vụ việc tranh
chấp trong kinh doanh, thương
mại, phân tích rõ

những ưu, khuyết điểm về vấn đề
này, tác giả muốn đưa ra những
kiến nghị cũng
như những giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về giải quyết
tranh chấp hợp đồng
kinh doanh thương mại trong giai
đoạn hiện nay.
4. Phạm vi của đề tài
Giải quyết các tranh chấp
về hợp đồng là vấn đề bao
quát từ các loại hợp
đồng đến cách thức giải quyết. Vì phạm vi đề tài rất
rộng nên người viết chỉ xem
xét, phân tích việc giải quyết các vụ việc tranh chấp
hợp đồng thương mại bằng
con đường Tòa án. Còn việc giải quyết các tranh chấp
về hợp đồng dân sự và các
biện pháp khác người viết sẽ nghiên cứu khi có điều
kiện. Bên cạnh đó tác giả sẽ
chú trọng tìm hiểu, phân tích đồng thời đưa ra những
ưu khuyết điểm nhằm so
sánh với các biện pháp giải quyết tranh chấp khác, từ
đó đề xuất một số kiến nghị
nhằm phát huy những mặt tích cực, khắc phục những
mặt hạn chế, tồn tại trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp
hợp đồng thương mại của
tòa án, góp vào việc nâng cao chất lượng của toàn bộ
hệ thống tư pháp cũng như

pháp luật xã hội chủ nghĩa.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, người viết vận dụng
phương pháp phân tích
tổng hợp, thống kê một cách khoa học. Dựa trên cơ sở
các quy định của pháp luật
hiện hành về giải quyết tranh chấp về kinh doanh,
thương mại kết hợp với việc tìm
hiểu thực tiển áp dụng của ngành Tòa án, tác giả đưa ra
những so sánh, đối chiếu
giữa lý luận và thực tiễn cùng với những khía cạnh
pháp lý khác để làm rõ những
nét đặc thù trong việc giải quyết vụ án của Tòa án.
Đồng thời đề xuất một số giải
pháp nhằm khắc phục những tồn tại, tăng cường hơn
nữa hiệu quả của công tác xét
xử của ngành Tòa án đối với các vụ án kinh doanh,
thương mại, góp phần hoàn
thiện pháp luật thực định.
6. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài bao gồm 03 chương:
SVTH: Phan Minh Giới
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Trương Thanh Hùng
Chương I: Hợp đồng –
Một số vấn đề cơ bản về
lý luận và pháp lý.
Chương II: Giải quyết các
tranh chấp về hợp đồng
kinh doanh, thương mại

bằng Tòa án.
Chương III: Thực trạng và
một số kiến nghị.
Kết luận
Qua đây, tác giả xin chân
thành cám ơn Thầy
TRƯƠNG THANH
HÙNG –
Cán bộ giảng dạy Bộ môn Luật
Tư Pháp, Khoa Luật Trường Đại
học Cần Thơ –
người đã tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu và tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn
thành luận văn này một cách tốt
nhất. Tác giả xin
chân thành cảm ơn các Thầy, Cô
giáo của Khoa Luật Trường Đại
học Cần Thơ
cùng toàn thể các bạn sinh viên
khóa 30 đã dành cho tôi sự ủng
hộ và giúp đỡ quý
báu trong suốt thời gian của khóa
học cũng như trong quá trình
nghiên cứu luận
văn tốt nghiệp để tôi có thể hoàn
thành luận văn này và hoàn thành
khóa học.
Sinh viên thực hiện

PHAN MINH GIỚI
SVTH: Phan Minh Giới
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Trương Thanh Hùng
MỤC
LỤC
MỤC
LỤC

1
Chương I: LÝ THUYẾT
CHUNG VỀ HỢP
ĐỒNG
3
1. LÝ THUYẾT
CHUNG VỀ HỢP
ĐỒNG
3
1.1 Khái niệm về hợp
đồng:

3
1.2 Phân loại hợp
đồng

4
1.2.1 Hợp đồng
song vụ và hợp
đồng đơn
vụ

4
1.2.2 Hợp đồng có
đền bù và hợp
đồng không có đền

5
1.2.3 Hợp đồng
ưng thuận, hợp
đồng trọng thức và
hợp đồng thực
tại 5
1.2.4 Hợp đồng
thương lượng, hợp
đồng theo
mẫu
5
1.2.5 Hợp đồng
gắn liền với thân
nhân của người
giao
kết
6
1.2.6 Hợp đồng
với người tiêu
dùng

7
1.3 Các điều kiện để hợp đồng có giá trị pháp
lý 7
1.3.1 Điều kiện về nội

dung
8
1.3.1.1 Năng lực giao
kết.
8
1.3.1.2 Nguyên tắc tư do ý
chí
.9
1.3.1.3 Các yếu tố dẫn đến sự vô hiệu của hợp
đồng 10
1.3.2 Đối tượng của hợp
đồng
15
1.3.2.1 Chuyển giao một
quyền
16
1.3.2.2 Làm hoặc không làm một
việc 17
1.3.2.3 Chế
tài
18
1.3.3 Hình thức của hợp
đồng
19
1.3.3.1 Một số quy định đặc biệt về hình
thức 19
1.3.3.2 Một số quy định đặc biệt về thủ
tục 21
1.3.3.3 Các chế
tài

21
Chương
II
24
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH
DOANH - THƯƠNG MẠI BẰNG
TÒA ÁN THEO LUẬT VIỆT
NAM 24
2.1 Khái quát chung về tranh chấp hợp
đồng 24
2.1.1 Tranh chấp thương
mại
24
2.1.2 Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp trong kinh
doanh, thương mại 27
2.2 Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
bằng con đường tòa án 29
2.2.1 Xác định thẩm quyền của tòa kinh
tế 30
2.2.1.1 Thẩm quyền theo vụ
việc 3
0
2.2.1.1.1 Những tranh chấp kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền giải
quyết của tòa
án
30
2.2.1.1.2 Những yêu cầu về kinh doanh,
thương mại
thuộc thẩm

quyền giải
quyết củatòa
án



34
2.2.1.2 Thẩm
quyền theo cấp
xét
xử

36
2.2.1.2.1 Tòa
án nhân cấp
huyện


36
2.2.1.2.2 Tòa
án nhân dân
cấp
tỉnh


36
2.2.1.2.3
Thẩm quyền
của Tòa án
nhân dân tối

cao
37
2.2.1.3 Thẩm
quyền theo lãnh
thổ

37
2.2.1.4 Thẩm
quyền theo sự
lựa chọn của
nguyên
đơn
38
2.3 Thủ tục xét xử sơ
thẩm

40
2.3.1 khởi kiện và
thụ lý vụ
án

40
2.3.1.1 khởi
kiện vụ án kinh
doanh, thương
mại
4
0
SVTH: Phan Minh Giới
Trang 1

Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Trương Thanh Hùng
2.3.1.2 Thời hạn
khởi kiện vụ án
kinh doanh,
thương mại, thời
hạn yêu cầu
giải quyết việc
kinh doanh,
thương
mại

40
2.3.1.3 Đơn
khởi
kiện


41
2.3.1.4 Thụ lý
vụ
án


44
2.3.2 chuẩn bị xét
xử


45

2.3.2.1 Thu thập
chứng
cứ


46
2.3.2.2 Tiến
hành hòa
giải


50
2.4 Phiên tòa sơ
thẩm

52
2.4.1 Thủ tục bắt
đầu phiên
tòa

53
2.4.2 Thủ tục hỏi
tại phiên
tòa

54
2.4.2.1 Hỏi các
đương sự về yêu cầu của
họ 54
2.4.2.2 Nghe lời trình bày của các đương

sự 55
2.4.2.3 Hỏi từng đương sự từng vấn
đề 57
2.4.3 Tranh luận tại phiên
tòa
57
2.4.4 Nghị
án
59
2.4.5 Tuyên
án
60
2.5 Thủ tục phiên tòa phúc
thẩm
61
2.5.1 Khái
niệm
61
2.5.2 Chủ thể của quyền kháng cáo và kháng nghị
61
2.5.3 Trình tự thực hiện quyền kháng cáo, kháng
nghị 63
2.5.4 Phiên tòa phúc
thẩm
65
2.5.5 Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc
thẩm 67
2.5.6 Thủ tục phúc thẩm đối với quyết định của
Toà án cấp sơ thẩm bị kháng
cáo, kháng

nghị
68
2.6 thủ tục giám đốc
thẩm
69
2.6.1 khái
niệm
69
2.6.2 Chủ thể khách thể của quyền kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm
70
2.6.3 Trình tự thực hiện kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm 71
2.6.4 Phiên tòa giám đốc
thẩm
73
2.7 Thủ tục tái
thẩm
75
2.7.1 khái
niệm
75
2.7.2 Chủ thể và khách thể có quyền kháng
nghị 76
2.7.3 Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh có
yếu tố nước ngoài 77
Chương
III


79
THỰC TRẠNG VÀ MỘT
SỐ KIẾN
NGHỊ
79
3.1 Thực trạng việc
giải quyết các vụ án
kinh doanh, thương
mại bằng Tòa
án 79
3.2 Một số kiến
nghị

82
KẾT
LUẬN

84
TÀI LIỆU THAM
KHẢO

86
SVTH: Phan
Minh Giới
Trang 2
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Trương Thanh Hùng
Chương I:

THUYẾT

CHUNG VỀ
HỢP ĐỒNG
1. LÝ THUYẾT
CHUNG VỀ HỢP
ĐỒNG
Hợp đồng là
công cụ chủ yếu
để xác lập quan
hệ giữa người và
người liên
quan đến tài sản trong
một xã hội có tổ chức.
Các quan hệ ấy không
chỉ hình
thành trong lĩnh vực
dân sự mà cả trong các
lĩnh vực thương mại,
lao động,
thậm chí trong lĩnh vực
hành chính. Mỗi loại
hợp đồng trong mỗi
lĩnh vực, có
những đặc điểm rất
riêng và do đó, được
chi phối bởi những quy
định riêng.
Tuy nhiên, là sản
phẩm của sự gặp
gỡ ý chí, tất cả
các hợp đồng đều

hình
thànhvà vận hành trên
cơ sở nguyên tắc tự do
kết ước và những
nguyên tắc cơ
bản khác mà xoay
quanh những nguyên
tắc đó, một hệ thống các quy tắc pháp
lý được xây dựng và tạo thành luật về quan hệ kết
ước hay còn gọi là luật chung
về hợp đồng.
1.1 Khái niệm về hợp đồng:
Hợp đồng kinh tế là sự thỏa thuận bằng văn
bản, tài liệu giao dịch giữa
các bên kí kết về việc thực hiện công việc sản xuất,
trao đổi hàng hóa, dịch vụ,
nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật và các thỏa
thuận khác có mục đích kinh
doanh với sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ
của mỗi bên để xây dựng và
thực hiện kế hoạch của mình.
Sự gặp gỡ của ý chí và hiệu lực tương đối của
hợp đồng. Hợp đồng làm
phát sinh nghĩa vụ theo một cơ chế chung các bên
giao kết thống nhất ý chí về
việc ràng buộc lẫn nhau trong một quan hệ đặc trưng
bằng thái độ xử sự của một
bên nhằm đáp ứng yêu cầu của bên kia hợp đồng chỉ
phát sinh hiệu lực ràng buộc
với các bên giao kết và không tạo ra bất kì một

nghĩa vụ nào đối với người thứ
ba.
Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Hơp đồng
trong luật Việt Nam làm phát
sinh các nghĩa vụ pháp lý dân sự, tức là nghĩa vụ
được bảo đảm thực hiện bằng
sự cưỡng chế của bộ máy nhà nước, chứ không phải
là nghĩa vụ tự nhiên, đạo
đức hay nghĩa vụ của lòng nhân ái, của tâm hồn cao
thượng.
Các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng phải có
tính chất tài sản, nghĩa là định
giá được bằng tiền.
Hợp đồng không trói buộc. Một người lái xe
chấp nhận cho khách lỡ
đường quá giang có thể đưa khách đến tận nơi mà
khách muốn đến, nhưng cũng
SVTH: Phan Minh Giới
Trang 3
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Trương Thanh Hùng
có thể yêu cầu khách
xuống xe ở một nơi nào
đó, giữa chặng đường
ngay cả
trong trường hợp đã hứa
trước là sẽ đưa khách
đến tận nơi. Người lái
xe trong
trường hợp này không

giao kết với khách lỡ
đường bất kì một hợp
đồng vận
chuyển nào: cho khách
lỡ đường đi nhờ xe chỉ
là một cử chỉ của thiện
chí. Cử chỉ
thiện chí còn có thể
được ghi nhận trong
trường hợp một người
cho một người
khác lời tư vấn sức khỏe
( sử dụng thuốc, thực
hiện các bài tập dưỡng
sinh… ).
Về du lịch, giải trí, về
tình yêu, hôn nhân. Tất
nhiên, người có cử chỉ
thiện chí
phải thực hiện cử chỉ đó
với đầy đủ ý thức về
trách nhiệm đạo đức đối
với người
thụ hưởng thiện chí đó,
và cả đối với cộng đồng;
nhưng luật không thể
quy trách
nhiệm pháp lý của
người có cử chỉ thiện
chí.

Có những hợp
đồng chỉ mang tính chất của một cử chỉ lịch
sự: một người
mời một người đi ăn tối, ăn giỗ; người cha hứa
thưởng cho người con một số tiền
lớn, nếu người con vượt qua kì thi tuyển sinh đại
học…không thể dùng luật hợp
đồng để buộc người mời phải bảo đảm chất lượng
bữa ăn, buộc người cha phải
thưởng trong trường hợp người con trúng tuyển.
Hợp đồng trói buộc hạn chế. Có những hợp
đồng không thật sự trói buộc,
nhưng không hẳn không làm phát sinh các hệ quả
pháp lý nhất định. Các cam kết
được đưa ra mang tính chất cam kết danh dự; thế
nhưng do hoàn toàn phù hợp
với lợi ích của mỗi bên và lợi ích công cộng mà
những cam kết này cũng được
Nhà nước bảo đảm thực hiện. Ví dụ điển hình là
việc hai bên thỏa thuận về việc
tự nguyện tôn trọng các chuẩn mực chung ; về việc
sẽ cố gắng giải quyết những
bất đồng bằng cách thương lượng, không đưa nhau
ra tòa án hoặc ra cơ quan
trọng tài.
Tương tự, các thỏa thuận nguyên tắc có thể
ràng buộc các bên vào những
nghĩa vụ nhất định một khi các nghĩa vụ ấy được
xác định một cách rõ ràng trên
cơ sở giải thích các nguyên tắc được ghi nhận trong

thỏa thuận ấy.
1.2 Phân loại hợp đồng
1.2.1 Hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ
Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên
đều có nghĩa vụ đối với nhau,
mỗi bên đồng thời là người có nghĩa vụ và có quyền;
Hợp đồng đơn vụ là hợp
đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ. Hợp đồng mua
bán là hợp đồng song vụ ( bên
bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu, giao vật, bảo
hành….; bên mua có nghĩa
SVTH:
Phan
Minh
Giới
Trang 4
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Trương Thanh Hùng
vụ trả tiền, nhận vật;
….); hợp đồng bảo lãnh
là hợp đồng đơn vụ (chỉ
có người
bảo lãnh có nghĩa vụ).
Trong luật thực
định Việt Nam,
quan hệ giữa các
bên trong hợp
đồng song
vụ chịu sự chi phối của
một số quy tắc không

được áp dụng cho hợp
đồng đơn
vụ; nếu một bên trong
hợp đồng song vụ
không thể thực hiện
nghĩa vụ do lỗi của
bên kia thì có quyền hủy
bỏ hợp đồng và yêu cầu
bồi thường thiệt hại;
trong
trường hợp các bên
trong hợp đồng song vụ
không thỏa thuận bên
nào thực hiện
nghĩa vụ trước, hì các
ben phải đồng thời thực
hiện nghĩa vụ đó đối với
nhau.
1.2.2 Hợp đồng có đền
bù và hợp đồng không
có đền bù.
Gọi là không có
đền bù hợp đồng
theo đó, một bên
chuyển một
quyền,
thực hiện hoặc không
thực hiện một việc vì lợi
ích của bên kia mà
không nhận lại

một lợi ích nào đó có tính chất hoàn trả. Các hợp
đồng không có tính chất đó gọi
là hợp đồng có đền bù.
Tặng cho, cho mượn tài sản là những ví dụ
điển hình của hợp đồng không
thể đền bù.Có những hợp đồng mang tính chất kép:
ủy quyền, cho vay tài sản có
thể là hợp đồng có hoặc không có đền bù tùy theo
việc ủy quyền, cho vay có hay
không có kèm theo các điều kiện về tiền thù lao, về
lãi. Một số hợp đồng do bản
chất luôn là các hợp đồng có đền bù: mua bán, trao
đổi….
1.2.3 Hợp đồng ưng thuận, hợp đồng trọng thức
và hợp đồng thực tại
Hợp đồng ưng thuận được giao kết chỉ do sự
gặp gỡ của ý chí của các bên
mà không cần xúc tiến bất kì một thủ tục nào. Hợp
đồng trọng thức là hợp đồng
được giao kết không chỉ trên cơ sở có sự gặp gỡ của
ý chí của các bên mà còn
phải bằng cách hoàn tất một vài thủ tục do pháp luật
quy định. Các thủ tục được
dự liệu tùy theo trường hợp có những hợp đồng phải
được lập thành văn bản (
hợp đồng cầm cố tài sản, hợp đồng thuê tài sản…);
có hợp đồng phải lập thành
văn bản có chứng thực, chứng nhận ( hợp đồng tặng
cho bất động sản, hợp đồng
mua bán nhà ở…). Hợp đồng thực tại được giao kết

không chỉ bằng sự gặp gỡ
của ý chí của các bên mà còn từ việc giao vật, đối
tượng của hợp đồng, ví du:
hợp đồng giử giữ tài sản, hợp đồng cho mượn tài
sản.
1.2.4 Hợp đồng thương lượng, hợp đồng theo
mẫu
Hợp đồng thương lượng là hợp đồng đạt
được như là kết quả của sự thỏa
thuận bình đẳng và tự nguyện giữa các bên liên
quan: sự hình thành của hợp
SVTH:
Phan
Minh Giới
Trang 5
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Trương Thanh Hùng
đồng phản ánh diễn biến
của quá trình thảo luận.
Đây là loại hợp đồng cổ
điển.
Trong thực tiễn, có
nhiều hợp đồng đuợc
một bên chuẩn bị sẵn,
được công bố
rộng rãi cho mọi người
và đối tác chỉ có thể lựa
chọn giữa chấp nhận và
không
chấp nhận giao kết chứ

hầu như không có cơ
hội thảo luận. Điễn hình
cho loại
hợp đồng thứ hai này là
các hợp đồng vận
chuyển đường sắt,
đường không, hợp
đồng cung ứng điện,
nước, hợp đồng bảo
hiểm, hợp đồng mua
bán hàng hóa
trong siêu thị. Loại hợp
đồng này càng lúc càng
trở nên thông dụng, theo
sự phát
triển của xã hội.
Trong trường
hợp hợp đồng
theo mẫu có điều
khoản không rõ
ràng thì bên
đưa ra hợp đồng theo
mẫu phải chịu bất lợi
khi giải thích điều
khoản đó.
Trong trường
hợp hợp đồng
theo mẫu có điều
khoản miễn trách nhiệm của
bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm

hoặc loại bỏ quyền lợi chính
đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu
lực, trừ trường hợp có thoả
thuận khác.
Hợp đồng cá nhân và hợp đồng tập thể. Hợp
đồng cá nhân là loại hợp
đồng chỉ ràng buộc chủ thể nào ưng thuận giao kết,
bằng cách tự mình bày tỏ ý
chí hoặc thông qua người đại diện bày tỏ ý chí. Hợp
đồng tập thể ràng buộc một
nhóm chủ thể (không có tư cách pháp nhân) mà
không cần sự ưng thuận của từng
chủ thể thành viên của nhóm, ví dụ cho loại hợp
đồng này chính là thỏa ước lao
động tập thể.
Hợp đồng thực hiện trong khoảnh khắc và
hợp đồng thực hiện tiếp liền
trong thời gian. Hợp đồng thực hiện trong khoảnh
khắc là loại hợp đồng phát
sinh nghĩa vụ được thực hiện một lần duy nhất, ví
dụ: hơp đồng mua bán hàng
hóa mà việc giao hàng và thanh toán tiền hàng chỉ
thực hiện một lần duy nhất.
Hợp đồng thực hiện tiếp liền trong thời gian dài là
loại hợp đồng mà nghĩa vụ
được thực hiện thành nhiều lần điển hình cho loại
hợp đồng này là hợp đồng thuê
tài sản.
1.2.5 Hợp đồng gắn liền với thân nhân của người
giao kết

Có những hợp đồng mà hiệu lực chỉ được
duy trì chừng nào người giao
kết và người thực hiện đúng là người đã thỏa thuận
về việc xác lập nghĩa vụ,
nghĩa là người giao kết và người thực hiện không
phải là người đó thì hợp đồng
chấm dứt.Ví dụ: hợp đồng ủy quyền và hợp đồng
bảo lãnh.
SVTH:
Phan
Minh
Giới
Trang 6
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Trương Thanh Hùng
Hợp đồng ủy
quyền là sự thoả
thuận giữa các
bên, theo đó bên
được ủy
quyền có nghĩa vụ thực
hiện công việc nhân
danh bên ủy quyền, còn
bên ủy
quyền chỉ phải trả thù
lao, nếu có thoả thuận
hoặc pháp luật có quy
định.
Bảo lãnh là việc
người thứ ba (sau

đây gọi là bên
bảo lãnh) cam
kết với
bên có quyền (sau đây
gọi là bên nhận bảo
lãnh) sẽ thực hiện nghĩa
vụ thay cho
bên có nghĩa vụ (sau
đây gọi là bên được bảo
lãnh), nếu khi đến thời
hạn mà bên
được bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ.
Các bên
cũng có thể thoả thuận
về việc bên bảo lãnh chỉ
phải thực hiện nghĩa vụ
khi bên
được bảo lãnh không có
khả năng thực hiện
nghĩa vụ của mình.
1.2.6 Hợp đồng với
người tiêu dùng
Từ khi có chính
sách phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, luật
hợp đồng có xu hướng phân biệt hợp đồng giao kết
giữa người hoạt động chuyên
nghiệp trong một lĩnh vực nhất định và người tiêu

dùng sản phẩm hoặc dịch vụ
thuộc lĩnh vực đó với các loại hợp đồng khác. Hợp
đồng với người tiêu dùng chịu
sự chi phối của luật chung bên cạnh một hệ thống
các quy định đặt biệt được xây
dựng nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng. Luật bảo vệ quyền
lợi của người tiêu dùng được đặc trưng bằng một
loạt các biện pháp có tác dụng
ràng buộc người hoạt động chuyên nghiệp, khi giao
kết với người tiêu dùng vào
các nghĩa vụ thông tin, cố vấn, bảo đảm an toàn,…
cho người tiêu dùng.
1.3 Các điều kiện để hợp đồng có giá trị pháp lý
Gồm có điều kiện về nội dung và điều kiện
về hình thức.
Về mặt cấu trúc pháp lý hợp đồng trong luật
Việt Nam được xác lập trên
cơ sở có sự ưng thuận của các bên giao kết và có đối
tượng được xác định rõ.
Về nội dung hợp đồng không được vi phạm
điều cấm của pháp luật và đạo
đức xã hội, phải phản ánh trung thực ý chí nội tâm
của các bên (nghĩa là không
phải được dùng như môt bức màn che dấu nội tâm
đó).
Về hình thức hợp đồng được giao kết, trên
nguyên tắc, bằng sự gặp gở ý
chí của các bên giao kết. Tuy nhiên trong một số
trường hợp cá biệt, do tính chất,

tầm quan trọng của hợp đồng, luật đòi hỏi hình thức
giao kết hợp đồng phải đáp
ứng một số điều kiện đặc biệt.
Nhưng để có thể bày tỏ ý chí một cách hữu
hiệu, các bên phải có đầy đủ
khả năng nhận thức về hành vi của mình nghĩa là
phải có năng lực giao kết.
SVTH:
Phan
Minh Giới
Trang 7
Luận văn tốt nghiệp
GVHD: Trương Thanh Hùng
1.3.1 Điều kiện về nội
dung
1.3.1.1 Năng lực giao
kết.
Để giao kết hợp
đồng, pháp luật
Việt Nam hiện
hành đòi hỏi các
bên trong
quan hệ hợp đồng phải
có năng lực chủ thể một
cách đầy đủ.
Năng lực chủ thể
bao gồm năng
lực pháp luật và
năng lực hành vi.
Năng lực hành vi

dân sự của chủ
thể là khả năng
của chủ thể đó
bằng hành
vi của mình xác lập,
thực hiện giao dịch.
Đúng là chủ thể
không có năng
lực hành vi
không thể bằng
hành vi của
mình xác lập, thực hiện
giao dịch.
Năng lực pháp
luật của chủ thể
là khả năng của
chủ thể có quyền
và nghĩa
vụ pháp lý.
Tuy nhiên, thời
điểm xác định là
một chủ thể có
năng lực pháp luật
và năng lực
hành vi là không giống
nhau. Đối với cá nhân,
năng lực pháp luật và năng
lực hành vi
phát sinh tại những thời điểm khác nhau. Năng lực pháp
luật của cá nhân có từ khi cá

nhân đó sinh ra, còn năng lực hành vi của cá nhân có khi
cá nhân này đạt đến một độ
tuổi nhất định. Còn đối với pháp nhân, năng lực pháp luật
và năng lực hành vi phát sinh
cùng một thời điểm kể từ khi pháp nhân đó được thành
lập với sự chứng nhận của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Khi cá nhân có năng lực pháp luật thì vẫn có
thể xác lập, thực hiện các
quyền và nghĩa vụ mà mình được phép có, thông
qua vai trò của người đại diện.
Tóm lại chỉ có cá nhân không có năng lực pháp luật
mới không có quyền giao kết
hợp đồng nhằm làm phát sinh quyền mà cá nhân này
không được phép có: không
có khả năng hưởng một quyền, cá nhân này không
thể xác lập quyền đó, dù tự
mình hay qua người đại diện.
Người giám hộ không được phép tặng cho tài
sản của người được giám hộ
cho người khác, không phải vì người được giám hộ
không được phép tự mình
tặng cho (năng lực hành vi), mà vì người được giám
hộ không có khả năng
hưởng quyền tặng cho có đối tượng là tài sản của
người được giám hộ (năng lực
pháp luật), trong khi đó người được giám hộ có
quyền bán tài sản của mình (năng
lưc pháp luật), nhưng không có quyền tự mình thực
hiện quyền đó (năng lực

hành vi), mà phải thực hiện thông qua người giám
hộ.
SVTH: Phan Minh Giới
Trang 8

×