Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Bất bình đẳng phân phối thu nhập trong sự phát triển kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.37 KB, 40 trang )

MỤC LỤC
1. Lý luận chung về bất bình đẳng phân phối thu nhập trong sự phát triển kinh
tế 5
1.1. Các khái niệm chung 5
1.1.1. Khái niệm phát triển kinh tế 5
1.1.2. Khái niệm bất bình đẳng trong phân phối thu nhập 5
1.2. Thước đo đánh giá sự phát triển kinh tế 5
1.2.1. Sự tăng trưởng kinh tế 5
1.2.2. Cơ cấu kinh tế 6
1.2.3. Sự phát triển xã hội 9
1.3. Thước đo đánh giá bất bình đẳng trong phân phối thu nhập 10
1.3.1. Đường cong Lorenz 10
1.3.2. Hệ số Gini 12
1.4. Hệ quả 14
1.4.1. Đối với sự tăng trưởng kinh tế 14
1.4.2. Đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế 15
1.4.3. Đối với sự phát triển xã hội 16
2. Thực trạng bất bình đẳng phân phối trong sự phát triển kinh tế tại Việt Nam17
2.1. Thực trạng bất bình đẳng phân phối thu nhập trong sự phát triển kinh tế
tại Việt Nam (sử dụng hệ số GINI làm thước đo) 17
2.1.1. Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập chung của cả nước 17
2.1.2. Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập theo khu vực thành thị,
nông thôn 18
2.1.3. Bất bình đẳng theo khu vực địa lý 19
2.1.4. Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập theo giới tính 21
1
2.2. Mối quan hệ giữa bất bình đẳng phân phối thu nhập và phát triển kinh tế
2.2.1. Mối quan hệ giữa bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và tăng
trưởng kinh tế
2.2.2. Mối quan hệ giữa bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế


2.2.3. Mối quan hệ giữa bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và sự phát
triển xã hội
2.3. Các nhân tố tác động đến bất bình đẳng phân phối thu nhập tại Việt Nam
2.3.1. Đặc tính người lao động
2.3.2. Lao động và việc làm
2.3.3. Giáo dục - đào tạo
2.3.4. Vùng địa lý
2.3.5. Môi trường chính sách
2.3.6. Các nhân tố khác
3. Các giải pháp và kiến nghị giải quyết tình trạng bất bình đẳng phân phối
thu nhập tại Việt Nam
3.1. Yêu cầu và mục tiêu đặt ra về bất bình đẳng kinh tế trong chiến lược
phát triển toàn diện ở Việt Nam.
3.2. Giải pháp và kiến nghị
3.2.1. Giải pháp
3.2.2. Kiến nghị
2
MỤC LỤC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 1 Cơ cấu ngành theo GDP cho một số nhóm nước năm 2010 7
Bảng 2 Cơ cấu GDP theo ngành của một số nước trong khu vực (1980-2011)
(%) 7
Bảng 3 Tốc độ tăng trưởng dân số theo nhóm nước (%) 8
Bảng 4 Một số chỉ tiêu phản ánh một số nhu cầu của con người 10
Bảng 5 Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng phân theo 5 nhóm thu nhập của
cả nước giai đoạn 2002 – 2010 18
Bảng 6 Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng phân theo 5 nhóm thu nhập
khu vực thành thị, nông thôn giai đoạn 2002 – 2010 19
Nguồn: Tổng cục thống kê 20
Bảng 7 Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng phân theo 5 nhóm thu nhập
ứng với 8 vùng trên cả nước năm 2010 20

Bảng 8 Hệ số Gini của 8 vùng địa lý trên cả nước giai đoạn 2002 – 2010 21
Bảng 9 Thu nhập bình quân đầu người trong 1 tháng phân theo 5 nhóm thu
nhập giai đoạn 2002 – 2010 với chủ hộ giới tính nam 22
Bảng 10 Thu nhập bình quân đầu người trong 1 tháng phân theo 5 nhóm thu
nhập giai đoạn 2002 – 2010 với chủ hộ giới tính nữ 22
Bảng 11 Hệ số GINI theo giới tính giai đoạn 2002 – 2010 22
Bảng 12 Mối quan hệ giữa GDP bình quân và Hệ số Gini giai đoạn 2002 –
2010 24
3
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đã chứng kiến những chuyển biến rất tích cực trong
những năm vừa qua với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, thu hút ngày càng nhiều vốn
đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, cũng cần phải
thấy rõ nền kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức như tỷ lệ lạm phát
luôn ở mức cao, nhập siêu lớn, năng lực cạnh tranh còn hạn chế,… và đặc biệt là sự
bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa người giàu và người nghèo đang có xu
hướng gia tăng, gây nhiều tác động tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam.
Vì vậy, nhóm chúng em quyết định chọn đề tài “Bất bình đẳng phân phối thu nhập
trong sự phát triển kinh tế Việt Nam” để nghiên cứu.
Trong bài nghiên cứu này, nhóm chúng em sẽ nêu ra những lý luận chung
về bất bình đẳng phân phối thu nhập trong sự phát triển kinh tế, thực trạng bất
bình đẳng phân phối thu nhập tại Việt Nam đồng thời đề xuất một số giải pháp,
kiến nghị nhằm hạn chế sự bất bình đẳng phân phối thu nhập.
Chúng em xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Nguyễn Thị Hải Yến đã giúp đỡ nhóm
chúng em hoàn thành bài nghiên cứu này.
4
1. Lý luận chung về bất bình đẳng phân phối thu nhập trong sự phát triển
kinh tế
1.1.Các khái niệm chung
1.1.1. Khái niệm phát triển kinh tế

Phát triển kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả về lượng và về
chất; nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề về
kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia.
Theo cách hiểu như vậy, nội dung của phát triển kinh tế được khái quát
theo ba tiêu thức:
Một là, sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu nhập
bình quân trên một đầu người.
Hai là, sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế.
Ba là, sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội.
1.1.2. Khái niệm bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
Bất bình đẳng xã hội là sự không ngang bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích
đối với những cá nhân khác nhau trong nhóm hoặc nhiều nhóm xã hội.
Phân phối theo nghĩa chung nhất có thể được hiểu là hoạt động chia các yếu
tố sản xuất, các nguồn lực đầu vào trong một quá trình sản xuất và chia các kết
quả sản xuất, các sản phẩm đầu ra trong quá trình tái sản xuất xã hội. Phân phối
thu nhập là một bộ phận của phân phối, gắn liền với sự phân phối sản phẩm đầu
ra được biểu hiện dưới các hình thái thu nhập.
Từ đó ta có thể hiểu Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập là sự không ngang
bằng nhau về phân chia thu nhập, của cải của những cá nhân khác nhau trong xã
hội.
1.2.Thước đo đánh giá sự phát triển kinh tế
1.2.1. Sự tăng trưởng kinh tế
Tổng giá trị sản xuất (GO- Gross output)
Là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo nên trên phạm vi lãnh
thổ của một quốc gia trong một thời kì nhất định (thường là một năm).
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP – Gross domestic product )
5
Là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do kết quả hoạt động
kinh té trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia tạo nên trong một thời kỳ nhất
định.

Tổng thu nhập quốc dân (GNI – Gross national income)
GNI là tổng thu nhập từ sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do công dân
một nước tạo nên trong một khoảng thời gian nhất định
GNI= GDP + chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài.
Thu nhập quốc dân ( NI – National income)
Là phần giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ mwois sáng tạo ra trong một
khoảng thời gian nhất định
NI= GNI - D
p
Thu nhập quốc dân sử dụng ( NDI- National disposable income)
Là phần thu nhập của quốc gia dành cho tiêu dùng cuối cùng và tích lũy thuần
trong một thời kì nhất định
NDI= NI + chênh lệch về chuển nhượng hiện hành với nước ngoài
Thu nhập bình quân đầu người ( GDP/người, GNI/người)
Chỉ tiêu này phản ánh tăng trưởng kinh tế có tính đến sự thay đổi của dân số.
Giá để tính các chỉ tiêu tăng trưởng
Giá sử dụng để tính các chỉ tiêu tăng trưởng gồm ba loại khác nhau: giá so
sánh, giá hiện hành, giá sưc mua tương đương
Giá so sánh (giá cố định) là giá được xác định theo mặt bằng của một năm gốc.
Giá hiện hành là giá được xác định theo mặt bằng của năm tính toán.
Giá sức mua tương đương phản ánh thu nhập được điều chỉnh theo mặt bằng
quốc tế và dùng để so sánh theo không gian
1.2.2. Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế được hiểu là tương quan giữa các bộ phận trong tổng thể
nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và
chất lượng giữa các bộ phận với nhau.
Cơ cấu ngành kinh tế
6
Các nước đang phát triển có xuất phát điểm thấp, nền kinh tế chủ yếu dựa vào
nông nghiệp, tỷ trọng nông nghiệp của các nước này thường chiếm từ 20-30%

GDP. Trong khi đó, ở các nước phát triển, tỷ trọng thu nhập từ nông nghiệp chỉ
chiếm từ 1-7%. Bảng sau đây sẽ minh họa cơ cấu ngành kinh tế năm 2010 theo
từng nhóm nước với các mức độ thu nhập khác nhau.
Đơn vị tính: %
Nhóm nước Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ
Các nước thu nhập cao
( thuộc OECD)
1 24 75
Các nước thu nhập cao
( không thuộc OECD)
2 41 57
Các nước thu nhập thấp 25 25 50
Đông Á & Thái Bình Dương 11 45 44
Nam Á 18 26 56
Châu Mỹ La Tinh 6 30 64
Châu Phi 11 43 46
Nguồn: The World Bank Group
Bảng 1 Cơ cấu ngành theo GDP cho một số nhóm nước năm 2010
Trong quá trình phát triển, cơ cấu ngành kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự
chuyển đổi theo một xu hướng chung là tỷ trọng nông nghiệp có xu hướng giảm
đi, trong khi đó tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên
Tên nước Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ
1990 2005 2011 1990 2005 2011 1990 2005 2011
Trung Quốc 27 12 10 41 47 47 32 41 43
Indonesia 19 13 17 39 47 45 41 40 38
Malaysia 15 8 11 42 50 44(201
0)
43 42 45(2010
)
Thái Lan 12 10 12 37 44 44 50 46 44

Việt Nam 39 21 20 23 41 41 39 38 40
Nguồn: World Bank Group
Bảng 2 Cơ cấu GDP theo ngành của một số nước trong khu vực (1980-2011)
(%)
Cơ cấu vùng kinh tế
7
Sự phát triển kinh tế được thể hiện ở cơ cấu vùng kinh tế theo góc độ thành thị
và nông thôn. ở các nước đang phát triển, kinh tế nông thôn chiếm rất cao
Nhóm nước Tốc độ tăng
trưởng dân số
tự nhiên
Tốc độ tăng
trưởng dân số
nông thôn
Tốc độ tăng
trưởng dân số
thành thị
Nhóm nước thu
nhập thấp
2,1 1,6 3,6
Nhóm nước thu
nhập trung bình
thấp
1,6 0,9 2,6
Nhóm nước thu
nhập cao (thuộc
OECD)
0,5 -0,8 0,9
Nguồn: Báo cáo phát triển thế giới, WB
Bảng 3 Tốc độ tăng trưởng dân số theo nhóm nước (%)

Như vậy ở các nước đang phát triển có mức thu nhập thấp và trung bình thấp,
tỷ lệ tăng dân số thành thị gấp 1,5 đến 2 lần so với tốc độ tăng dân số tự nhiên
trong khi ở các nước phát triển thì hai tỷ lệ này tương đương nhau
Cơ cấu thành phần kinh tế
Xét về nguồn gốc thì có 2 loại hình sở hữu là sở hữu công cộng và sở hữu tư
nhân. Ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại 6 thành phần kinh tế: thành phần kinh tế
nhà nước, thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, thành
phần kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế tư bản nhà nước và thành phần
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Cơ cấu khu vực thể chế
Các đơn vị thể ché trong nền kinh tế chia thành 5 khu vực:
+
Khu vực chính phủ
+
Khu vực phi tài chính
+
Khu vực tài chính
+
Các hộ gia đình
+
Các tổ chức vô vị lợi phục vụ hộ gia đình
Cơ cấu tái sản xuất
Đây là cơ cấu kinh tế hiểu theo góc độ phân chia tổng thu nhập của nền kinh
tế theo tích lũy – tiêu dùng. Phần thu nhập dành cho tích lũy tăng lên và chiếm tỷ
8
trọng cao là điều kiện cung cấp vốn lớn cho quá trình tái sản xuất mở rộng của
nền kinh tế. Tỷ trọng thu nhập dành cho tích lũy ngày càng cao chính là xu thế phù
hợp trong quá trình phát triển, tuy vậy việc gia tăng tỷ trọng thu nhập dành cho
tích lũy tái đầu tư phải có tác dụng dẫn đến gia tăng mức thu nhập dành cho tiêu
dùng cuối cùng trong tương lai vì đó là kết quả của quá trình tích lũy.

Cơ cấu thương mại quốc tế
Nhìn chung tất cả các nước giàu hay nghèo đều tham gia một cách đáng kể vào
nền kinh tế.
Các nước đang phát triển thường xuất khẩu những sản phẩm thô như: nguyên
liệu, nông sản, thực phẩm hay những sản phẩm thuộc các ngành dệt, may, công
nghiệp nhẹ
Các nước phát triển thì xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm chế biến, các hàng
hóa vốn hay những hàng hóa lâu bền
1.2.3. Sự phát triển xã hội
Một số chỉ tiêu phản ánh nhu cầu của con người
Đơn vị: %
Tên nước Tốc độ
tăng
GDP
đầu
người
(2010-
2011)
Tuổi thọ
bình quân
(Nam/Nữ)
(2010)
Tỷ lệ tử
vong của
trẻ em
dưới 5
tuổi trên
1000 ca
(2010)
Tỷ lệ người

lớn biết
chữ (2010)
1. Theo nhóm
nước
- Thu nhập cao 0,8 77/83 5 -
- Thu nhập trung
bình thấp
3,9 64/67 62 71
- Thu nhập trung
bình cao
5,8 70/75 20 94
- Thu nhập thấp 3,8 58/60 95 63
2. Một số nước
- Mỹ 1 76/81 8 -
- Nhật Bản -1 80/86 3 -
- Trung Quốc 8,8 72/75 16 94(2009)
9
- Ấn Độ 5,4 64/67 63 -
- Braxin 1,8 70/77 17 90 (2008)
- Hàn Quốc 2,9 77/84 5 -
- Thái Lan -0,5 71/77 13 -
- Việt Nam 4,8 73/77 23 93(2009)
- Lào 6,5 66/68 44 -
- Campuchia 5,7 61/64 46 78(2008)
- Bangladet 5,4 68/69 49 56(2009)
Nguồn: Báo cáo phát triển thế giới, WB
Bảng 4 Một số chỉ tiêu phản ánh một số nhu cầu của con người
Qua bảng nhìn chung các nước phát triển như Mỹ, Nhật bản đã đạt được
các chỉ tiêu xã hội rất tốt, trong khi đó các chỉ tiêu này ở các nước có mức thu
nhập thấp như : Bangladet, Lào, lại không được khả quan. Việt Nam, Trung Quốc

là đại diện cho nững nước có thu nhập thấp được LHQ đánh giá cao về những
thành tựu đạt được về những chỉ tiêu phát triển con người so với các nước có
cùng mức thu nhập.
Các chỉ tiêu trên chỉ phản ánh từng lĩnh vực khác nhau của phát triển xã
hội. Để đánh giá tổng hợp và xếp loại trình độ phát triển kinh tế - xã hội chung
giữa các quốc gia hay giữa các địa phương LHQ đã đưa ra một chỉ tiêu tổng hợp
họi là chỉ số phát triển con người: HDI. HDI chứa đựng 3 yếu tố cơ bản:
Tuổi thọ bình quân phản ánh bằng số năm sống
Trình độ giáo dục đo bằng cách kết hợp tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ đi
học đúng độ tuổi
Mức thu nhập bình quân trên đầu người tính theo sức mua tương đương
Chỉ tiêu nghèo đói và bất bình đẳng
Các chỉ tiêu thường sử dụng trong đánh gái nghèo đói và bất bình đẳng về kinh
tế bao gồm: tỷ lệ hộ nghèo trong xã hội, có sự phân chia theo từng vùng, giới tính,
dân tộc khác nhau và theo các tiêu chuẩn quy định hiện hành quốc tế hoặc quốc
gia
1.3.Thước đo đánh giá bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
1.3.1. Đường cong Lorenz
10
Phương pháp tính
Trục hoành trong đồ thị biểu thị phần trăm cộng dồn dân số và được sắp xếp
theo thứ tự thu nhập tăng dần. Ví dụ điểm 20% trong hình cho biết 20% nghèo
nhất trong dân số. Trục tung là tỷ lệ trong tổng thu nhập mà mỗi phần trăm trong
dân số nhận được.
Đường kẻ chéo ( đường 45
o
) trong hình cho thấy ở bất kỳ điểm nào trên
đường này đều phản ánh tỷ lệ phần trăm thu nhập nhận được bằng tỷ lệ phần
trăm của số người có thu nhập Ví dụ, điểm giữa của đường chéo cho thấy 50%
thu nhập được phân phối cho đúng 50% dân số. Ở điểm ¾ của đường chéo, 75%

thu nhập sẽ được phân phối cho 75% dân số. Nói cách khác, đường chéo là đại
diện cho sự phân phối thu nhập hoàn toàn công bằng.
Khoảng cách giữa đường chéo (45
0
) và đường Lorenz là một dấu hiệu cho biết
mức độ bất bình đẳng. Đường Lorenz càng cách xa đường 45
o
thì mức độ bất bình
đẳng càng lớn. Điều đó cũng có nghĩa là phần trăm thu nhập người nghèo nhận
được sẽ giảm đi.
Ưu nhược điểm của đường cong Lorenz
Phương pháp tính bất bình đẳng phân phối thu nhập bằng đường cong Lorenz
có một số ưu điểm sau:
+
Phương pháp đơn giản, dễ tiếp cận
+
Thể hiện một cách trực quan phân phối thu nhập và bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập
Tuy nhiên phương pháp này cũng có một số hạn chế:
11
+
Đây chỉ là một sự so sánh mang tính định tính vì chưa lượng hóa được sự
bất bình đẳng bằng một chỉ số
+
Không thể kết luận chính xác khi các đường Lorenz giao nhau và rất phức
tạp khi phải so sánh quá nhiều nước cùng lúc.
1.3.2. Hệ số Gini
Đây là một phương pháp mang tính định lượng nhằm xác đinh một xã hội cách
xa với mức bình đẳng xã hội như thế nào.
Phương pháp tính:

Tính diện tích khu vực nằm giữa đường bình đẳng tuyệt đối và đường Lorenz
(diện tích hình A)
Lấy diện tích này chia cho phần tổng diện tích nằm dưới đường bình đẳng
tuyệt đối (diện tích hình A + B)
GINI =
Vì A+B = 0,5 (do đường bình đẳng tuyệt đối hợp với trục hoành một góc
45°), nên hệ số Gini: G = A/(0,5) = 2A = 1-2B.
Để hiểu rõ cách tính hệ số GINI chúng ta cùng xét một ví dụ: Một quốc gia
có 10 người có mức thu nhập hàng năm (triệu VNĐ) lần lượt là: 3,6,2,8,4,9,1,7,10
và 5. Vẽ đường cong Lorenz và tính hệ số GINI.
Ta có bảng
Thu nhập Phần trăm dân
số cộng dồn
Phần trăm thu
nhập cộng dồn
1
2 20% 5,5%
3
4 40% 18,2%
5
12
6 60% 38,2%
7
8 80% 65,5%
9
10 100% 100%
Ở đây hệ số GINI = =2 diện tích (A) = 1 – 2 diện tích (B)
Diện tích (B) = Diện tích (1+2+3+4+5)
Diện tích (B) =
Diện tích (B)= 0,3548

Hệ số GINI= 1- 2x0,3548=0,29
Về lý thuyết, hệ số GINI nhân giá trị biến thiên từ 0 đến 1. Song về thực tế,
GINI nhận giá trị trong khoảng lớn hơn 0 và nhỏ hơn 1
Dựa vào những số liệu thu thập được, Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng
trong thực tế giá trị hệ số GINI thay đổi trong phạm vi hẹp hơn: từ 0,2 đến 0,6. Với
những nước có thu nhập thấp, hệ số GINI biến động từ 0,3 đến 0,5; thu nhập cao
từ 0,2 đến 0,4.
Ưu nhược điểm của hệ số GINI
13
Hệ số GINI khá tiện lợi vì:
+
Tính chất vô danh: nó không đối xử với một số người tốt hơn những người
khác, nó chỉ thông báo thu nhập của họ.
+
Tính chất độc lập về mức độ: đo lường thu nhập bằng USD hay VND thì
không làm thay đổi kết quả.
+
Tính chất độc lập liên quan đến dân số: thay đổi tổng số người nhưng giữ
nguyên sự phân bổ thu nhập thì không làm thay đổi hệ số.
Tuy nhiên, hệ số GINI cũng có một số hạn chế:
+
Có thể cùng một hệ số GINI nhưng hình dạng đường cong Lorenz khác nhau
do độ phân bổ các nhóm dân cư có mức thu nhập khác nhau là không giống
nhau
1.4.Hệ quả
1.4.1. Đối với sự tăng trưởng kinh tế
Với góc nhìn hiện đại, từ việc bất bình đẳng và phát triển kinh tế là hai lĩnh
vực không liên quan theo tư tưởng của trường phái kinh tế trước, các nhà kinh
tế đã đưa ra một giả thuyết thống nhất và khoa học dưới sự tiếp cận của phương
pháp hiện đại đó là: “Tích lũy vốn con người là động lực của tăng trưởng”. Lý

thuyết này cho thấy sự thay thế của tích lũy vốn vật chất của vốn con người, tích
lũy như là động cơ chính của tăng trưởng kinh tế đã thay đổi ảnh hưởng đến chất
lượng của sự bất bình đẳng về quá trình phát triển. Trong giai đoạn đầu công
nghiệp hoá, như vốn vật chất tích lũy là một nguồn chính của tăng trưởng kinh tế,
bất bình đẳng tăng cường quá trình phát triển bởi các nguồn lực đối với cá nhân
có xu hướng biên để tiết kiệm cao hơn. Trong giai đoạn sau của sự phát triển, tuy
nhiên, như vốn vật chất tích lũy, nhu cầu về tăng vốn con người (do kỹ năng vốn
bổ sung) và vốn con người trở thành nguyên tố động cơ của tăng trưởng kinh tế.
Khi lợi thế trước mắt từ việc đầu tư vào khai thác các nguồn lực tự
nhiên dần mất đi thì lợi thế lâu dài từ việc đầu tư vào nguồn lực con người cũng lộ
rõ. Đặc biệt khi cuộc cách mạng khoa học,công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, khi
mà nền kinh tế thế giới đã và đang chuyển sang nền kinh tế tri thức, nguồn lực
con người, nguồn lực trí tuệ càng được thừa nhận vai trò trung tâm trong quá
trình phát triến. Cụ thể như Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapo là những quốc gia
không được ông trời ưu ái về tài nguyên thiên nhiên, tuy nhiên họ lại là những
người cần cù sáng tạo, có tri thức và được giáo dục hợp lí. Vì lẽ đó mà các quốc gia
này trở nên là những trung tâm kinh tế của châu Á. Về mặt kinh tế, nguồn lực con
người xem xét chủ yếu dưới góc độ là lực lượng lao động cơ bản của xã hội, cả
14
trong hiện tại và tương lai. Nó chủ yếu cần được quan tâm về mặt chất lượng con
người bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất
tức là toàn bộ năng lực sáng tạo, năng lực hoạt động thực tiễn của con người. Vai
trò của người lao động được V.I.Lênin nhấn mạnh là lực lượng sản xuất hàng đầu
của nhân loại. Con người là một đầu vào trực tiếp của quá trình sản xuất. Nếu
người lao động có kỹ năng lao động, trình độ khoa học - kĩ thuật thì hiển nhiên là
năng suất lao động sẽ cao hơn. Người lao động cần được trang bị kỹ năng lao
động, sự hiểu biết, trình độ về khoa học công nghệ. Đó là điều kiện thiết yếu nhằm
đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển công nghệ tiên tiến. Con người là chủ thể khai
thác, sử dụng các nguồn lực khác, chỉ khi kết hợp với con người, các nguồn lực
khác mới phát huy tác dụng. Mặt khác, con người lại là khách thể, là đối tượng

khai thác các năng lực thể chất và trí tuệ cho sự phát triển. Vậy con người vừa là
chủ thể vừa là khách thể của các quá trình kinh tế-xã hội, là nguồn lực của mọi
nguồn lực. Sự kết hợp thống nhất biện chứng giữa con người với công nghệ tiên
tiến sẽ là động lực cơ bản của tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư cho phát triển nguồn lực con người mang lại hiệu quả kinh tế cao,
tiết kiệm được việc khai thác sử dụng các nguồn lực khác. Kinh nghiệm từ nhiều
quốc gia trên thế giới cho thấy đầu tư cho phát triển nguồn lực con người mang
lại tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định hơn. Mặt khác hiệu quả đầu tư cho
phát triển con người có độ lan toả đồng đều, nó mang lại sự công bằng hơn về cơ
hội phát triển cũng như việc hưởng thụ các lợi ích của sự phát triển.
1.4.2. Đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Một nền kinh tế mà đối mặt với vấn đề bất bình đẳng cao thì tỉ trọng người
nghèo sẽ lớn, điều này đồng nghĩa với việc là số lượng lao động với trình độ kém
và số lượng lớn tập trung vào nông nghiệp. Hay một cách tiếp cận khác đó là nền
cơ cấu kinh tế sẽ không hợp lí và không có một cách phát triển toàn diện trong cơ
cấu kinh tế. Tỉ trọng GDP trong các ngành của các nước này sẽ sắp xếp theo thứ tự
nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ.
Nếu các thước đo tăng trưởng phản ánh sự thay đổi về lượng thì xu thế
chuyển dịch cơ cấu kinh tế là thể hiện mặt chất kinh tế trong quá trình phát triển.
Như đã phân tích ở trên, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập thể hiện rõ ở cơ
cấu vùng kinh tế theo góc độ nông thôn, thành thị và các nhóm ngành nghề. Với
các nước kém phát triển và đang phát triển này tỉ lệ tăng trưởng dân số cao hơn
trung bình khoảng 1,5 đến 2 lần, đây là một con số lớn và cung cấp một nguồn lao
động dồi dào cho quốc gia. Tuy nhiên trong thực tế thì số lao động quá nhiều này
dẫn tới tình trạng thất nghiệp, lang thang, bởi vì người ta ra thành phố tìm việc
ngày càng đông nhằm cải thiện tài chính. Sự phân bố lại lao động giữa các khu vực
này có vẻ như là dấu hiệu tích cực nhằm chuyển dịch sự cân bằng giữa các khu
15
vực kinh tế. Tuy nhiên với trình độ quản lí và kinh tế của các nước này thì sự di cư
tràn lan của dân cư ra thành phố đã và đang trở thành gánh nặng cho nền kinh tế

về nhà ở, trợ cấp, bảo hiểm, phúc lợi và rất nhiều tệ nạn xã hội có thể xảy ra.
Thêm nữa các nước này tình trạng nghèo đói và bất bình đẳng cao cũng
bởi vì cơ chế quản lí kém và hầu hết là dưới sự chỉ đạo của nhà nước. Điều này
trái với sự phát triển của sự phân bố cơ cấu thành phần kinh tế. Xét về nguồn gốc
thì có 2 loại hình sở hữu là sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân, nhìn chung các
nước phát triển và xu hướng ở các nước đang phát triển, khu vực kinh tế tư nhân
thường chiếm tỷ trọng cao và nền kinh tế phát triển theo con đường tư nhân hóa.
Qua đó chúng ta thấy được sự liên quan giữa sự bất bình đẳng xã hội và thể
chế kinh tế, qua đó nó đã điều tiết một cách không tích cực đối với cơ cấu kinh tế
ở những nước này.
1.4.3. Đối với sự phát triển xã hội
Sự phát triển của xã hội được đo bởi chỉ số phát triển con người HDI gồm
GDP đầu người trên năm, tỉ lệ người lớn biết chữ và tuổi thọ bình quân đầu người,
ngoài ra chúng còn được nhìn nhận bởi sự ổn định chính trị và thể chế.
Các khảo sát, thống kê hàng năm có thể cho thấy sự chênh lệch ở một
mức độ nào đó của các nhóm dân cư, ở nhiều góc độ: thu nhập, chi tiêu, giáo dục,
y tế Tuy nhiên, vẫn chưa có những nghiên cứu khảo sát cho thấy rõ hơn một bức
tranh thật sự về các tầng lớp xã hội. Ví dụ, các tầng lớp thu nhập cao nhất, hay
thấp nhất, hay trung bình, họ là ai? Cái gì đã dẫn đến sự phân tầng đó? Uy tín và
quyền lực trong xã hội của họ khác nhau như thế nào? Cơ hội tham gia sử dụng và
hưởng lợi từ các nguồn lực của đất nước có công bằng giữa các tầng lớp xã hội
không? Chỉ khi nào làm rõ được những vấn đề đó, mới biết điều gì thực sự tạo ra
bất bình đẳng cơ hội, mới có thể tìm ra cách thu hẹp khoảng cách bất bình đẳng
đó, đưa đến một xã hội phát triển tiến bộ và bền vững hơn. Sự bất bình đẳng dẫn
tới phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, ngành nghề và giới tính một cách rõ rệt và
vì sự chênh lệch giàu nghèo này khiến đại bộ phận đa số đều trở thành nghèo đói.
Tuy nghèo đói là một nguyên nhân của sự kém phát triển tuy nhiên nghèo đói còn
là một cái bẫy khiến cho các nước nghèo càng nghèo thêm và các gia đình nghèo
càng ngày càng kiệt quệ. Tất cả các thế hệ đều cùng nhau chịu ảnh hưởng của sự
nghèo đói chi phối đó là trẻ em, thanh niên người già. Những lứa tuổi chịu nhiều

tác động của ngoại cảnh nhất và là lứa tuổi cần được quan tâm nhất.
Nghèo đói có một ảnh hưởng rất nghiêm trọng đối với trẻ em. Nhiều bọn
trẻ cha mẹ hoặc bị bệnh hoặc đã chết vì AIDS hoặc các nguyên nhân khác. Ngay cả
trong gia đình mà cha mẹ vẫn còn hiện diện, trẻ em bị ảnh hưởng rất nặng bởi suy
dinh dưỡng và nó có ảnh hưởng nghiêm trọng nhất đối với trẻ em trong độ tuổi
16
từ sáu tháng đến hai năm. Suy dinh dưỡng cũng có nghĩa rằng những đứa trẻ có
thể dễ dàng mắc bệnh và hoặc là chết trẻ hoặc có người nghèo phát triển thể chất
và tinh thần như một kết quả. Nghèo hạn chế trẻ em truy cập có cơ hội giáo dục,
đặc biệt là phát triển trẻ thơ. Nhiều trẻ em nghèo cũng rời khỏi trường học trước
khi hoàn tất bậc tiểu học. Nghèo đói và thiếu giáo dục hạn chế cơ hội việc làm cho
những người trẻ tuổi. Với tỷ lệ thất nghiệp cao của những nước kém phát triển,
nhiều người trẻ tuổi không có hy vọng tìm kiếm việc làm trong khu vực chính
thức. Đô thị thanh niên cũng rất dễ bị tổn thương để nhận được liên quan đến, các
băng nhóm tội phạm và lạm dụng ma túy hoặc rượu.
Người lớn tuổi thường không làm việc nữa và có được chăm sóc bởi phần
còn lại của xã hội. Người già sống trên lương hưu hàng tháng ít ỏi do nhà nước chi
trả sau khi đã có những cống hiến nhất định. Họ cũng có quyền truy cập vào dịch
vụ chăm sóc y tế miễn phí. Bởi vì tỷ lệ thất nghiệp cao, nhiều gia đình chia sẻ tiền
lương hưu, tuy nhiên nó vẫn không đáp ứng được nhu cầu của họ. Người lớn tuổi
cũng thường chăm sóc cháu và tiếp tục thực hiện công việc chưa thanh toán trong
nước cho các gia đình của họ. Điều này đặc biệt áp dụng đối với phụ nữ lớn tuổi.
Thêm nữa là trẻ em và người già đều không được chăm sóc tiêu chuẩn tối thiểu để
đúng với được mức mà một đất nước phát triển cần phải có.
Có một liên kết chặt chẽ giữa các hoàn cảnh xã hội sự nghèo đói và sức
khỏe, ở các nước kém phát triển thì việc nước không an toàn, vệ sinh kém, ô
nhiễm khói trong nhà, kẽm, sắt và thiếu vitamin A, sử dụng thuốc lá, cao huyết áp,
và cholesterol cao. Tất cả những yếu tố nguy cơ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố xã,
các yếu tố quan trọng hơn là đói nghèo và mù chữ. Để rồi nó lại dẫn các hộ dân và
các quốc gia này vào bẫy nghèo đói, rào cản văn hóa, thiếu sáng tạo và tiết kiệm,

sự vắng mặt của thương mại, kinh doanh, tỷ lệ thất nghiệp, sự đảo ngược công
nghệ, sốc suất bất lợi, các vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ, và các vấn đề xã hội
thanh thiếu niên.
2. Thực trạng bất bình đẳng phân phối trong sự phát triển kinh tế tại Việt
Nam
2.1.Thực trạng bất bình đẳng phân phối thu nhập trong sự phát triển kinh
tế tại Việt Nam (sử dụng hệ số GINI làm thước đo)
2.1.1. Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập chung của cả nước
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5
Chênh lệch
giữa nhóm 5 và
nhóm 1 (lần)
2002 107,7 178,3 251,0 370,5 872,9 8,1
2004 141,8 240,7 347,0 514,2 1182,3 8,3
17
2006 184,3 318,9 458,9 678,6 1541,7 8,4
2008 275,0 477,2 699,9 1067,4 2458,2 8,9
2010 369,4 668,8 1000,4 1490,1 3410,2 9,2
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Bảng 5 Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng phân theo 5 nhóm thu nhập
của cả nước giai đoạn 2002 – 2010
Dựa vào bảng số liệu trên, ta tính được số liệu hệ số GINI của cả nước giai
đoạn 2002 – 2010 theo như cách tính đã trình bày ở mục như sau
Biểu đồ sự thay đổi hệ số GINI của cả nước giai đoạn 2002 - 2010
Trong giai đoạn 2002 - 2010, hệ số GINI chung của Việt Nam có xu hướng
tăng lên, từ 0,387 (2002) đến 0,398 (2010). Dù giá trị hệ số GINI vẫn đang trong
giới hạn an toàn của bất bình đẳng thu nhập nhưng việc tình trạng bất bình đẳng
thu nhập của Việt Nam thực sự đáng lưu ý.
2.1.2. Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập theo khu vực thành thị, nông
thôn

Tương tự với cách tính như trên cùng với số liệu từ Kết quả Khảo sát mức
sống dân cư 2010 của Tổng cục thống kê về thu nhập bình quân đầu người 1
tháng phân theo 5 nhóm thu nhập ở thành thị, nông thôn, ta có được bảng sau:
Khu vực
Năm
Thành thị Nông thôn
2002 0,377 0,327
2004 0,372 0,340
18
2002 2004 2006 2008 2010
Năm
0
0.05
0.1
0.15
0.2
0.25
0.3
0.35
0.4
Giá trị GINI
0.387
0.388
0.386
0.398 0.398
2006 0,371 0,343
2008 0,371 0,354
2010 0,369 0,364
Bảng 6 Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng phân theo 5 nhóm thu nhập
khu vực thành thị, nông thôn giai đoạn 2002 – 2010

Biểu đồ sự thay đổi của hệ số GINI khu vực thành thị, nông thôn
giai đoạn 2002 - 2010
Từ bảng số liệu và đồ thị ta có thể thấy thực trạng bất bình đẳng ở hai khu
vực thành thị và nông thôn đang có diễn biến rất khác nhau. Tại khu vực thành
thị, hệ số GINI có xu hướng giảm, từ 0,377 vào năm 2002 xuống còn 0,369 vào
năm 2010. Mặt khác, tình trạng bất bình đẳng phân phối thu nhập ở khu vực nông
thôn lại gia tăng nhanh chóng, hệ số GINI tăng từ 0,327 (2002) lên đến 0,364
(2010).
2.1.3. Bất bình đẳng theo khu vực địa lý
Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập theo 8 vùng địa lý được thể hiện
qua hai khía cạnh: Sự khác biệt về mức thu nhập giữa các nhóm thu nhập tại mỗi
vùng địa lý và tương quan bất bình đẳng giữa các vùng địa lý thông qua hệ số Gini.
Mức thu nhập bình quân tại mỗi khu vực địa lý của Việt Nam có thể được
phân loại thành 5 nhóm: Nghèo nhất, gần nghèo nhất, trung bình, gần giàu nhất
19
2002 2004 2006 2008 2010
Năm
0
0.05
0.1
0.15
0.2
0.25
0.3
0.35
0.4
Giá trị GINI
Thành thị
Nông thôn
và giàu nhất. Tỷ lệ nghèo luôn ở mức cao đối với nhóm đầu tiên bao gồm Tây Bắc,

Tây Nguyên và Bắc Trung bộ. Tại khu vực Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam
Bộ thuộc nhóm vùng phát triển, tỷ lệ nghèo đói là khá thấp. Các vùng ở Đông Bắc,
Nam Trung Bộ và Đồng bằng song Cửu Long thuộc nhóm giữa
1
. Bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập ở 8 vùng địa lý được thể hiện rõ rệt qua sự chênh lệch
giữa các nhóm thu nhập trong chính những vùng địa lý đó.
Đơn vị tính: 1000VNĐ
Nhóm
1
Nhóm
2
Nhóm
3
Nhóm
4
Nhóm
5
Chênh lệch
giữa nhóm 5
và 1 (lần)
ĐB Sông Hồng 468.0 817.7 1158.7 1663.4 3732.8 8.0
Đông Bắc 308.0 506.6 748.4 1182.7 2531.1 8.2
Tây Bắc 239.4 367.5 536.0 825.5 1736.3 7.3
Bắc Trung Bộ 287.3 494.6 722.3 1054.2 1958.5 6.8
Duyên hải NTB 370.8 627.1 875.9 1256.3 2682.3 7.2
Tây Nguyên 305.4 533.7 798.7 1276.3 2525.8 8.3
Đông Nam Bộ 628.5 1106.0 1582.2 2220.4 5292.9 8.4
ĐB Sông Cửu Long 395.5 661.5 936.6 1336.3 2908.3 7.4
Nguồn: Tổng cục thống kê

Bảng 7 Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng phân theo 5 nhóm thu nhập
ứng với 8 vùng trên cả nước năm 2010
2
Bất bình đẳng không chỉ xuất hiện trong chính mỗi khu vực địa lý, mà nó còn
thể hiện rõ rệt thông qua sự tương quan giữa các khu vực địa lý qua hệ số Gini.
Đơn vị tính: 1000VNĐ
Năm
2002
Năm
2004
Năm
2006
Năm
2008
Năm
2010
ĐB Sông Hồng 0.3606 0.361
6
0.3616 0.3785 0.3761
Đông Bắc 0.3367 0.360
3
0.3692 0.3847 0.3880
Tây Bắc 0.3407 0.349
4
0.3599 0.3722 0.3727
Bắc Trung Bộ 0.3308 0.330
4
0.3433 0.3439 0.3451
1
Nhữ Thị Mai Nhu, “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ở Việt

Nam”, Trường Đại học Ngoại Thương, T6/2008
2
Tổng cục Thống Kê, “Kết quả khảo sát mức sống dân cư 2010”, NXB Thống kê, Trang 260, Mục 5.6
20
Duyên hải NTB 0.3241 0.341
1
0.3451 0.3510 0.3612
Tây Nguyên 0.3420 0.368
9
0.3782 0.3775 0.3811
Đông Nam Bộ 0.3921 0.389
2
0.3903 0.3867 0.3854
ĐB Sông Cửu
Long
0.3561 0.349
1
0.3510 0.3633 0.3653
Bảng 8 Hệ số Gini của 8 vùng địa lý trên cả nước giai đoạn 2002 – 2010
3
Phân tích bảng hệ số Gini cho thấy trong giai đoạn 2002 – 2010, nhìn
chung tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập có xu hướng gia tăng
qua các năm, trong đó, tốc độ tăng nhanh nhất là ở khu vực Đông Bắc (1.15 lần),
Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên (1.11 lần). Mức độ bất bình đẳng diễn
ra nghiêm trọng nhất ở Khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Hồng do tại 2
khu vực này có nền kinh tế phát triển, sự phân chia nhóm ngành nghề và mức thu
nhập phong phú nên có sự đa dạng trong việc phân phối thu nhập; tuy nhiên, ở
khu vực Đông Nam Bộ, thu nhập có xu hướng được phân phối công bằng hơn do
hệ số Gini có xu hướng giảm dần.
Tuy nhiên, hệ số Gini ở 8 vùng địa lý nhìn chung dao động ở mức 0.3 – 0.4

cho thấy bất bình đẳng ở 8 vùng này ở mức chấp nhận được, phù hợp với quy
định về bất bình đẳng của World Bank giành cho những nước đang phát triển là
từ 0.3 – 0.5.
Tóm lại, những phân tích trên đây đã cho thấy thực trạng bất bình đẳng thu
nhập của các nhóm dân cư theo vùng địa lý vẫn đang diễn ra và có xu hướng ngày
càng nới rộng.
2.1.4. Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập theo giới tính
Theo Kết quả khảo sát mức sống dân cư 2010 của Tổng cục thống kê, ta có
được số liệu thu nhập bình quân đầu người trong 1 tháng phân theo 5 nhóm thu
nhập giai đoạn 2002 – 2010 với chủ hộ là nam và chủ hộ là nữ.
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5
Chênh lệch
giữa nhóm 5 và
nhóm 1 (lần)
2002 104,9 171,4 237,9 345,4 803,4 7,7
2004 138,1 231,3 329,2 482,2 1098,3 8,0
3
Tổng hợp tại: Tổng cục Thống Kê, “Kết quả khảo sát mức sống dân cư 2010”, NXB Thống kê, Trang 260,
Mục 5.6
21
2006 177,7 306 434,5 634 1431,6 8,1
2008 269,7 462,6 668,6 1009,7 2278 8,5
2010 359,5 642,8 953,3 1410,8 3243,4 9,0
Bảng 9 Thu nhập bình quân đầu người trong 1 tháng phân theo 5 nhóm thu
nhập giai đoạn 2002 – 2010 với chủ hộ giới tính nam
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5
Chênh lệch
giữa nhóm 5 và
nhóm 1 (lần)
2002 123,3 215,8 317 473,9 1101,5 8,9

2004 158,8 284,6 429,1 634,6 1440,2 9,1
2006 206,8 380,5 571,9 841,1 1893,8 9,2
2008 298,1 540,7 840,9 1281,5 3048,6 10,2
2010 414,8 784,2 1196 1771,4 3922,8 9,5
Bảng 10 Thu nhập bình quân đầu người trong 1 tháng phân theo 5 nhóm thu
nhập giai đoạn 2002 – 2010 với chủ hộ giới tính nữ
Từ đó, ta có bảng số liệu hệ số GINI theo giới tính chủ hộ và biểu đồ sự thay
đổi hệ số GINI giai đoạn 2002 - 2010
Giới tính
Năm
Nam Nữ
2002 0,378 0,397
2004 0,381 0,395
2006 0,380 0,394
2008 0,389 0,415
2010 0,396 0,396
Bảng 11 Hệ số GINI theo giới tính giai đoạn 2002 – 2010
22
Biểu đồ sự thay đổi hệ số GINI theo giới tính giai đoạn 2002 - 2010
Từ năm 2002 đến 2010, hệ số GINI đối với nam giới luôn thấp hơn so với GINI
đối với nữ giới. Tuy nhiên, tình trạng bất bình đẳng trong nam giới có xu hướng
tăng còn tình trạng này trong nữ giới lại có xu hướng giảm. Vì vậy, đến năm 2010,
hệ số GINI đối với nam giới và nữ giới đã xấp xỉ nhau tại mức khoảng 0,396.
2.2.Mối quan hệ giữa bất bình đẳng phân phối thu nhập và phát triển kinh
tế
2.2.1. Mối quan hệ giữa bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và tăng
trưởng kinh tế
Hiện nay, mức tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam được xếp ở mức độ trung
bình khá so với các nước trên thế giới. Tình trạng bất bình đẳng trong phân phối
thu nhập có quan hệ mật thiết với việc tăng trưởng kinh tế.


m
GDP bình
quân
4
(Tỷ USD)
Hệ số
Gini
5
200
2
32.7 0.3870
200 38.9 0.3872
4
The World Bank: />5
Tổng hợp tại: Tổng cục Thống Kê, “Kết quả khảo sát mức sống dân cư 2010”, NXB Thống kê, Trang 260,
Mục 5.6
23
2002 2004 2006 2008 2010
Năm
0
0.05
0.1
0.15
0.2
0.25
0.3
0.35
0.4
0.45

Giá trị
Nam
Nữ
4
200
6
52.4 0.3865
200
8
71.111 0.3980
201
0
97.146 0.3976
Bảng 12 Mối quan hệ giữa GDP bình quân và Hệ số Gini giai đoạn 2002 – 2010
Qua bảng số liệu trên, có thể thấy rằng, tại Việt Nam, sự bất công về phân
phối thu nhập tăng lên khi GDP bình quân đầu người tăng lên. Milton Friedman
biện luận rằng bất bình đẳng càng lớn thì càng khích lệ mọi người làm việc chăm
chỉ hơn và đẩy mạnh năng suất lao động. Gary Becker từ trường Đại học Chicago
nghĩ rằng bất bình đẳng khuyến khích người ta đầu tư vào giáo dục
6
. Bởi vậy, có
thể hiểu rằng, bất bình đẳng gây ra động lực phấn đấu ở con người, khiến tăng
trưởng kinh tế cao hơn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng, những nước bình đẳng
hơn lại là những nước bình đẳng hơn.
2.2.2. Mối quan hệ giữa bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế
Nếu các thước đo tăng trưởng phản ánh sự thay đổi về lượng thì xu thế
chuyển dịch cơ cấu kinh tế là thể hiện mặt chất kinh tế trong quá trình phát triển.
Như đã phân tích ở trên, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập thể hiện rõ ở cơ
cấu vùng kinh tế theo góc độ nông thôn, thành thị và các nhóm ngành nghề.

Tại Việt Nam, kinh tế nông thôn vẫn còn chiếm một bộ phận khá lớn. Theo
số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2011, tỷ trọng dân số thành thị chỉ chiếm
30,57%, còn tỷ trọng dân số nông thôn chiếm 69,43%. Do sự bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập giữa nông thôn và thành thị, dòng di dân từ nông thôn ra
thành thị ngày càng tăng. Bởi vậy, chính phủ tăng cường thực hiện chính sách
công nghiệp hóa nông thôn, đô thị hóa, phát triển hệ thống công nghiệp, dịch vụ
nông thôn, làm cho tỷ trọng kinh tế thành thị tăng, dấn đến chuyển dịch cơ cấu
vùng kinh tế.
Không những vậy, với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, tỷ
trọng nông nghiệp chiếm 22.02% tổng GDP của cả nước
7
, hiện nay, nền kinh tế
Việt Nam đang có xu hướng chuyển đổi theo xu hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp,
6
Trần Thùy, “Bất bình đẳng và tăng trưởng – Sự đánh đổi đắt giá? (P1)”, />binh-dang-va-tang-truong-su-danh-doi-dat-gia-p1-20121031082545114ca32.chn, dữ liệu cập nhật ngày 13/11/
2012.
7
Tổng cục Thống kê, dữ liệu cập
nhật ngày 13/11/2012
24
tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ. Nền kinh tế chuyển dịch theo xu
hướng trên một phần là do sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa các
nhóm ngành nghề, khiến người lao động có xu hướng tìm đến nhóm ngành nghề
có mức thu nhập cao hơn và ít bất bình đẳng hơn.
2.2.3. Mối quan hệ giữa bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và sự phát
triển xã hội
Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập khiến những nhu cầu xã hội cơ bản
hay chất lượng cao trên các lĩnh vực chủ yếu không giống nhau giữa cư dân trong
một nước. Những lợi ích từ tăng trưởng kinh tế không được phân phối đều trong
xã hội mà tập trung nhiều vào nhóm người giàu. Thống kê cho thấy, nhóm người

nghèo chỉ nhận được khoảng 75% mức bình quân lợi ích tăng trưởng kinh tế.
Ngược lại, nhóm giàu nhận được đến 115% mức bình quân
8
.
2.3.Các nhân tố tác động đến bất bình đẳng phân phối thu nhập tại Việt
Nam
2.3.1. Đặc tính người lao động
Nhóm yếu tố đặc tính người lao động bao gồm các yếu tố sau: tuổi, tình
trạng hôn nhân, tình trạng sức khoẻ.
Tỷ lệ giới tính (tỷ lệ số nam/100 nữ) của Việt Nam theo số liệu thống kê
năm 2003 là 96,6% và dao động theo các nhóm tuổi. Tỷ lệ giới tính là cao nhất ở
nhóm dưới 19 tuổi, tỷ lệ 2 giới cân bằng nhất trong độ tuổi 20 - 34. Sau độ tuổi 34,
tỷ lệ giới tính giảm dần và thấp nhất ở nhóm tuổi trên 70.
Về tình trạng hôn nhân, tỷ lệ kết hôn ở Việt Nam ở mức cao nhưng có sự
khác biệt nhất định về tỷ lệ kết hôn của dân số đối với nam và nữ. Tỷ lệ cao nhất
đối với nữ là 87,1% vào độ tuổi 35 -39, còn ở nam tỷ lệ cao nhất là 96,5% ở độ
tuổi 45 - 49 theo sau.
Vẫn còn những thách thức lớn trong công tác giáo dục và phát triển nguồn
nhân lực. Mặc dù tỷ lệ học sinh tiểu học đến trường trên toàn quốc chiếm tới 90%,
tỷ lệ này thấp hơn một cách đáng kể ở miền núi, miền trung và vùng đồng bằng
sông Cửu long. Tại những vùng này, sự chệnh lệch về giới trong tỷ lệ học sinh đến
trường cao hơn, đặc biệt đối với các dân tộc thiểu số. Mặc dù đã có nhiều cố gắng
lớn về đào tạo cho dân số nông thôn, trình độ chuyên môn và trình độ kỹ thuật
của họ vẫn còn ở mức thấp. Phụ nữ chiếm số đông đảo và đóng một vai trò quan
trọng trong nông nghiệp, tuy vậy sự tiếp cận của họ tới khuyến nông vẫn còn thấp
và không đầy đủ.
8
TS Lê Quốc Hội, “Vấn đề phát triển kinh tế và bất bình đẳng tại Việt Nam”, />in_depth/Economic-growth-and-inequality-in-vietnam-KhAn-04092010103533.html, dữ liệu cập nhật ngày 13/
11/2012.
25

×