Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Tục lệ thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.97 KB, 44 trang )

Lịch sử văn hóa Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hay Đạo Ông bà có lịch sử hình thành
và phát triển lâu đời ở nước ta. Cơ sở hình thành tín ngưỡng này là niềm tin
rằng chết là về với tổ tiên nơi chín suối nhưng ông bà tổ tiên vẫn thường
xuyên đi về thăm nom, phù hộ cho con cháu .Tín ngưỡng này có mặt ở nhiều
dân tộc Đông Nam Á nhưng theo quan sát của nhiều nhà dân tộc học thì nó
phổ biến và phát triển hơn cả ở người Việt, nó gần như trở thành một thứ
tôn giáo, ngay cả những gia đình không tin thần thánh cũng đặt bàn thờ tổ
tiên trong nhà.
Cùng với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, các hình thức nghi lễ thờ cúng và
các dạng sinh hoạt tín ngưỡng khác có liên quan cũng được phát triển và góp
phần tạo nên tính đa dạng của văn hóa Việt Nam. Chính vì thế, nghiên cứu
tín ngưỡng dân gian nói chung, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nói riêng trên tất
cả các mặt biểu hiện của nó không chỉ phác họa nên đời sống tín ngưỡng mà
còn bổ sung tư liệu cho việc nhận thức về bản chất và sắc thái đa dạng của
đời sống tâm linh người Việt.
Từ những ý nghĩa trên, chúng em đã được chọn đề tài “Tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên ở Việt Nam” với mong muốn góp phần làm sáng tỏ vấn đề liên
quan đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong dòng chảy tín ngưỡng dân gian
của Viêt Nam. Đồng thời, bổ sung thêm một số kiến thức cho sinh viên
ngành du lịch
Mặc dù chúng em đã nổ lực và cố gắng để hoàn thiện bài tiểu luận này,
nhưng cũng khó tránh khỏi những thiếu sót về nội dung và hình thức .Do
vậy chúng em rất mong nhận được sự đóng góp của Cô và tất cả các bạn để
bài tiểu luận này được hoàn thiện hơn nữa.
Xin trân trọng cảm ơn!

Nhóm 3
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
1


Lịch sử văn hóa Việt Nam
I.Khái niệm
1.Tín ngưỡng
Hiện nay, khái niệm tín ngưỡng được hiểu theo các hướng khác nhau nhưng
đều thống nhất rằng, tín ngưỡng là sự ngưỡng mộ, tin tưởng của con người
vào các lực lượng siêu nhiên, hư ảo, có tính chất thiêng liêng huyền bí.
Trong tác phẩm Văn hoá Việt Nam đỉnh cao Đại Việt, Nguyễn Đăng Duy
đã viết: “Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào lực
lượng siêu nhiên, thần bí, hoặc do con người tưởng tượng ra những vị thần
linh đến mức họ cho rằng những lực lượng ấy có ảnh hưởng, chi phối đời
sống, số phận của con người và gây thành một nếp sống xã hội theo niềm tin
thiêng liêng ấy” (tr. 351); hoặc tác giả Đặng Nghiêm Vạn cho rằng, “Trong
tín ngưỡng phải có yếu tố thiêng liêng liên quan đến một thế giới vô hình,
đến những siêu linh, mà chính con người tưởng tượng và sáng tạo ra nó” (Lý
luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, tr. 67). Hoặc tác giả M.
Scott viết: “Chúng ta dường như có xu hướng định nghĩa hai chữ tín ngưỡng
một cách quá hạn hẹp. Ta thường chỉ coi rằng tín ngưỡng phải gắn liền
với một niềm tin nào đó vào Thượng đế, hoặc phải gắn liền với một số thực
hành nghi lễ, hoặc phải là thành viên trong một cộng đồng phụng sự” (Con
đường chẳng mấy ai đi, tập 2, 2tr. 5). Theo ông, tín ngưỡng chính là sự cảm
nhận của con người về thế giới mà họ đang sống, về cuộc sống xung quanh
họ và về vị trí của bản thân họ trong thế giới đó.Trong đời sống thường
ngày, khi đề cập đến tín ngưỡng người ta thường liên tưởng đến những hiện
tượng xã hội có tính chất linh thiêng, thần bí, thể hiện niềm tin về một thế
giới vô hình, về cuộc sống sau khi chết, về sự tồn tại của linh hồn người chết
và sự tác động của lực lượng này đối với cuộc sống hiện tại của con người.
Hiện tượng này gắn liền với các phong tục, tập quán, thói quen, truyền thống
của một cộng đồng người hay một dân tộc, nó phản ánh nếp sống, cung cách
ứng xử của con người cũng như phản ánh lịch sử phát triển văn hoá của cộng
đồng dân tộc đó.

Dưới góc độ tâm lý học, cho rằng tín ngưỡng là một hiện tượng tâm lý - xã
hội biểu hiện niềm tin của một cộng đồng người nhất định về thế giới vô
hình, về lực lượng siêu nhiên và năng lực chi phối của lực lượng này đối với
cuộc sống của con người thông qua hệ thống lễ nghi thờ cúng; quá trình hình
thành và phát triển tín ngưỡng gắn liền với lịch sử phát triển của cộng đồng
nên nó phản ánh cuộc sống thực tế của cộng đồng người đó.
Nếu tín ngưỡng được hiểu như vậy thì tín ngưỡng có các đặc điểm sau:
- Tín ngưỡng là một hiện tượng tâm lý, là niềm tin của con người.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
2
Lịch sử văn hóa Việt Nam
- Đối tượng của tín ngưỡng là một lực lượng vô hình mà con người tạo ra
bằng trí tưởng tượng của mình, có tính linh thiêng, huyền bí.
- Tín ngưỡng ảnh hưởng chi phối hành động, ứng xử của cá nhân và cộng
đồng và được hiện thực hoá thành hiện tượng tâm lý xã hội.
Một vấn đề được đặt ra, vậy tôn giáo và tín ngưỡng là đồng nhất hay khác
nhau ?
Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ănghen viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng
qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc con người - của những lực
lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh
trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng
siêu trần thế”.
Dưới góc độ văn hoá học, Nguyễn Hồng Dương định nghĩa: “Tôn giáo
thuộc lĩnh vực tinh thần của văn hoá được hình thành trong lịch sử. Một mặt
nó phản ánh quan niệm và cách ứng xử về chuẩn mực luân lý, đạo đức, lối
sống theo cung cách của nền văn hoá mà nó chụi sự tác động” (Tôn giáo
trong mối quan hệ văn hóa và phát triển, tr. 35). Như vậy, tác giả cho rằng,
tôn giáo là một hiện tượng văn hoá tinh thần phản ánh sự nhận thức của con
người về thế giới xung quanh, về cuộc sống xã hội biểu hiện thông qua
những hành vi ứng xử của họ. Nhận thức và hành vi của cộng đồng tôn giáo

luôn được thể hiện ở 2 mặt: tâm linh và xã hội.
Về mặt tâm linh, thông qua các nghi lễ thực hành tôn giáo con người bày
tỏ nềm tin và tình cảm sâu sắc của mình đối với lực lượng siêu nhiên vô
hình, cũng qua đó con người thoả mãn những nhu cầu và khát vọng của họ
trong cuộc sống trần tục.
Về mặt xã hội, những chuẩn mực đạo đức được quy định trong giáo lý,
giáo luật có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử của các tín đồ trong cuộc
sống.
Như vậy, về bản chất, cả tôn giáo và tín ngưỡng đều là những hiện tượng
tâm lý xã hội phản ánh hiện thực một cách sai lầm, hư ảo; niềm tin của con
người đối với lực lượng siêu nhiên, thế giới vô hình và cuộc sống sau khi
chết là cơ sở của mọi tôn giáo và tín ngưỡng. Bởi vậy, một số tác giả đã
đồng nhất tín ngưỡng với tôn giáo, như: X.A. Tocaret, E.B. Taylo. Hoặc các
công trình nghiên cứu của Đặng Nghiêm Vạn thường sử dụng thuật ngữ tôn
giáo để chỉ các hiện tượng biểu thị niềm tin đối với lực lượng siêu nhiên, kể
cả niềm tin vào linh hồn người chết. Đặng Nghiêm Vạn đã coi hiện tượng
thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam là tôn giáo dân tộc. Đây là quan điểm khá phổ
biến của các học giả hiện nay khi nghiên cứu về thờ cúng tổ tiên của người
Việt. Bên cạnh đó, họ cũng chỉ ra sự khác nhau giữa tôn giáo với tín ngưỡng
về hình thức biểu hiện và trình độ tổ chức còn về bản chất thì không có sự
khác biệt đáng kể.Cho đến nay, hiện tượng thờ cúng tổ tiên còn tồn tại ở
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
3
Lịch sử văn hóa Việt Nam
nhiều quốc gia, dân tộc. Tuy vậy, vị trí và vai trò của nó trong đời sống tinh
thần của con người ở mỗi nơi mỗi khác. Ở một số quốc gia, thờ cúng tổ tiên
có vai trò mờ nhạt trong đời sống tinh thần cộng đồng - nhất là những quốc
gia và dân tộc đưa một tôn giáo thành độctôn, nhất thần. Nhưng ở những
quốc gia đa, phiếm thần như: Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản,… thì thờ
cúng tổ tiên có vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của mỗi cá nhân,

cộng đồng, xã hội. Ở Việt Nam, hầu hết mọi người đều thờ cúng tổ tiên kể
cả những tín đồ của các tôn giáo khác nhau. Mọi người quan niệm tín
ngưỡng này vừa như là một phong tục truyền thống, vừa như một đạo lý làm
người, lại vừa như một hình thức sinh hoạt tâm linh.
Như vậy, tín ngưỡng là một sản phẩm văn hoá do con người quan hệ
với tự nhiên, xã hội và chính bản thân mà hình thành. Tín ngưỡng là niềm tin
về những điều linh thiêng, những sức mạnh huyền bí, vĩ đại mà con người
chỉ cảm nhận được mà khó có thể nhận thức được.
Tín ngưỡng dân gian Việt Nam chủ yếu dựa trên lòng biết ơn và ngưỡng mộ
của các thế hệ sau đối với tiền thần, tiền nhân. Tín ngưỡng dân gian khá
phong phú, nó là tâm thức tôn sùng các lực lượng siêu nhiên như:
- Tôn sùng tự nhiên (mặt trời, mặt trăng, nước, mưa, gió, sấm, chớp…),
các loại cây trồng (bầu bí, lúa, ngô, đậu…), vật nuôi (trâu, bò, lợn…)
- Tôn sùng vật tổ (vật tổ chim, cá, cây, trâu…), tôn sùng tổ tiên (quốc tổ,
thành hoàng, tổ tiên, ông bà)
- Tôn sùng sự sinh sản: sinh thực khí và các hoạt động tính giao
- Tôn sùng Mẫu: các nữ thần, tứ mẫu (thiên phủ, địa phủ, nhạc phủ
(thượng ngàn), thủy phủ (mẫu thoải), Bà chúa xứ và Thiên Yana
- Tôn sùng các anh hùng dân tộc, anh hùng địa phương, người có công lớn
với dân với nước: Thánh Gióng, Đức thánh Trần, Tản Viên Sơn Thánh, Bà
Trưng, Lý Ông Trọng…
2. Khái niệm thờ cúng tổ tiên
Tổ tiên là khái niệm dùng để chỉ những người có cùng huyết thống
nhưng đã mất như cụ, kỵ, ông, bà, cha, mẹ - những người đã có công sinh
thành và nuôi dưỡng, có ảnh hưởng lớn đến đời sống vật chất và tinh thần
của thế hệ những người đang sống.
Tổ tiên trong xã hội nguyên thuỷ có nguồn gốc là tổ tiên tôtem giáo của
thị tộc bộ lạc. Tổ tiên tôtem giáo thời kỳ thị tộc mẫu hệ là những vật trong tự
nhiên, có mối quan hệ mật thiết với con người và khi được thần thánh,
thiêng liêng hoá thì được coi là tôtem (vật tổ) của thị tộc, bộ lạc. Thời kỳ thị

tộc phụ hệ, tổ tiên là những người đứng đầu thị tộc, bộ lạc như tù trưởng, thủ
lĩnh quân sự đầy quyền uy.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
4
Lịch sử văn hóa Việt Nam
Tổ tiên trong xã hội có giai cấp được thể hiện đầy đủ hơn. Họ thường là
những người giữ địa vị chủ gia đình, gia tộc đã mất, có quyền thừa kế và di
chúc tài sản được luật pháp và xã hội thừa nhận.
Trong quá trình phát triển của lịch sử, khái niệm tổ tiên cũng có sự biến
đổi, phát triển. Nó không còn chỉ bó hẹp trong phạm vi huyết thống - gia
đình, họ tộc mà đã mở rộng ra phạm vi cộng đồng, xã hội. Sự hình thành
và phát triển của các quốc gia, dân tộc thường gắn liền với tên tuổi của
những người có công tạo dựng, giữ gìn cuộc sống của cộng đồng. Họ là
những anh hùng, danh nhân mà khi sống được tôn sùng, kính nể, khi mất
được tưởng nhớ, thờ phụng trong các không gian tôn giáo. Ở Việt Nam, họ
là những tổ sư tổ nghề, thành hoàng làng, anh hùng dân tộc, danh nhân văn
hoá
Thờ cúng tổ tiên là hoạt động có ý thức của con người, là tổng thể
phức hợp của ý thức về tổ tiên, biểu tượng về tổ tiên và nghi lễ thờ phụng.
Thờ là yếu tố thuộc ý thức về tổ tiên, là tình cảm biết ơn, tưởng nhớ,
hướng về cội nguồn, quá khứ. Thờ tổ tiên là sự thể hiện lòng thành kính, biết
ơn, tưởng nhớ tổ tiên, đồng thời cũng là sự thể hiện niềm tin vào sự che chở,
bảo hộ, trợ giúp của tổ tiên. Cơ sở của sự hình thành ý thức về tổ tiên là
niềm tin về linh hồn tổ tiên còn sống, có thể che chở, phù hộ độ trì cho con
cháu. Biểu tượng về tổ tiên là hình ảnh về những người tài giỏi, có công, có
đức. Trên bàn thờ tổ tiên thường có bài vị, tượng, ảnh được bày đặt cầu kỳ,
trang trọng.
Cúng là yếu tố mang tính nghi lễ, là sự thực hành một loạt động tác (khấn,
vái, quì, lạy ) của người gia trưởng, tộc trưởng. Đó là hoạt động dưới dạng
hành lễ và được qui định bởi quan niệm, phong tục, tập quán của mỗi cộng

đồng, dân tộc. Thờ và cúng là hai yếu tố có tác động qua lại và tạo nên chỉnh
thể riêng biệt - đó là sự thờ phụng tổ tiên . Sự “thờ”, “tôn thờ” là nội dung,
còn hoạt động cúng” là hình thức biểu đạt của nội dung thờ cúng.Ý thức tôn
thờ, thành kính, biết ơn, tưởng nhớ, hy vọng sự trợ giúp của tổ tiên là nội
dung cốt lõi, là cái chủ yếu khiến sự thờ phụng tổ tiên thành tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên. Nếu không có “nhờ” mà chỉ có “cúng” thì sự thờ phụng tổ tiên
không có “hồn thiêng”, không có sức hấp dẫn nội tại dễ thành nhạt nhẽo và
do vậy, không thể là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Sự “cúng” tuy chỉ là hình
thức biểu đạt, song nó tôn vẻ linh thiêng, huyền bí, mờ ảo và tạo nên sức hấp
dẫn. Nó chính là chất kết dính, tạo nên màu sắc thoả mãn niềm tin của chủ
thể thờ cúng.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt là quan niệm về sự tồn tại
của linh hồn và mối quan hệ giữa người sống và người chết (cùng chung
huyết thống)bằng con đường hồn về chứng kiến, theo dõi hành vi của con
cháu, quở trách hoặc phù hộ cuộc sống của họ .Trong tín ngưỡng này đạo lý
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
5
Lịch sử văn hóa Việt Nam
là nội dung nổi trội .Có thể nói, thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng dân gian
của dân tộc có nguồn gốc từ xa xưa và mang đạo lý nhân ái uống nước nhớ
nguồn trong tiến trình lịch sử, nó đã được các hệ tư tưởng tôn giáo khác bổ
sung , hoàn chỉnh để thể chế hóa thành một thứ đạo:Đạo tổ tiên-Đạo ông bà.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình của tín ngưỡng nói chung
và là hoạt động có ý thức của con người, là tổng thể phức hợp của ý thức về
tổ tiên, biểu tượng về tổ tiên và nghi lễ thờ phụng.
II.Nguồn gốc, cơ sở hình thành và bản chất của tín ngưỡng thờ cung tổ
tiên
1.Nguồn gốc và cơ sở hình thành
1. 1 Cơ sở kinh tế - xã hội.
Có thể nói rằng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cùng huyết thống chỉ

thực sự ra đời và phát triển trong thời kỳ thị tộc phụ hệ. Sự ra đời của thị tộc
phụ hệ là kết quả của sự phân công lao động lần thứ hai giữa trồng trọt, chăn
nuôi và thủ công. Trong chế độ phụ quyền, địa vị của người đàn ông được
đặt lên hàng đầu, quyền thừa kế tài sản theo dòng họ cha và tiếp nối đến thế
hệ sau đã củng cố vững chắc vị trí của người đàn ông trong xã hội. Điều này
đúng như đánh giá của Trịnh Đình Bảy: “Những người này, bằng uy tín của
mình đã củng cố và thiêng liêng hoá sự thờ cúng tổ tiên đã có manh nha
trong thời kỳ thị tộc mẫu quyền” (Niềm tin và xây dựng niềm tin khoa học,
tr. 42). Khi trình độ sản xuất phát triển, của cải xã hội làm ra ngày càng
nhiều làm xuất hiện một lớp tích luỹ được nhiều của cải và dẫn tới có quyền
uy chi phối người khác và là mầm mống cho sự phân chia xã hội thành giai
cấp. Trong xã hội có gia cấp, vị trí của người đàn ông trong gia đình và
ngoài xã hội ngày càng được củng cố - cơ sở đích thực trong quá trình
chuyển đổi từ việc thờ cúng tổ tiên tô tem sang việc thờ cúng tổ tiên là con
người thực cùng chung dòng máu.Nền kinh tế tiểu nông theo kiểu tự cung tự
cấp đã tồn tại lâu dài trong xã hội Việt Nam cũng là một cơ sở cho sự hình
thành và duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. .Trong khía cạnh kinh tế có một
quan điểm quan trọng tạo nên khác biệt trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở
Việt Nam va Trung Hoa. Do đặc trưng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, gió mùa
nên Việt Nam sản suất lúa nước theo tryuên thống tiểu canh kết hợp với nuôi
gia súc. Vì vậy sản xuất không đòi hỏi tập trung nhân công theo quy mô lớn,
công cụ sản suất cũng nhỏ, gọn, nhẹ, mọi thành viên trong gia đình từ phụ
nữ đến trẻ con đều sử dụng dễ dàng.Kết hợp những yếu tố này khiến người
Việt gắn bó với gia đình.Mỗi một gia đình là một cơ sở kinh tế độc lập, sản
xuất và tiêu thụ. Các thành viên trong gia đình gắn bó chặt chẽ với nhau
trong lao động sản xuất và trong đời sống lấy gia đình là trung tâm
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
6
Lịch sử văn hóa Việt Nam
1.2.Cơ sở nhận thức và các yếu tố tâm lý khác

Về nhận thức:
Trong nhận thức dân gian, người Việt quan niệm rằng, con người có 2 phần:
phần xác và phần hồn. Hai phần này vừa gắn bó, vừa tách biệt, chúng gắn bó
với nhau. Khi con người còn sống, hồn nhập vào xác điều khiển hành vi của
con người. Khi con người chết, phần hồn rời khỏi xác, thể xác của họ hoà
vào cát bụi, phần hồn vần tồn tại và chuyển sang sống ở một thế giới khác
(cõi âm). Ở Cõi Âm (được mô phỏng từ Cõi Dương) mọi linh hồn đều có các
nhu cầu như cuộc sống nơi trần thế. Theo quan niệm dân gian, chết cũng là
một dạng “sống“ trong một môi trường khác.Người ta cho rằng nếu người
chết không được cung cấp thức ăn đầy đủ sẽ trở thành “ ma đói“ lang thang,
quấy nhiễu người sống. Các am chúng sinh lập ở cuối làng, hay Lễ Vu Lan
dành cho “thập chúng sinh“ là những biểu hiện mong muốn chia sẽ, an ủi
những linh hồn bơ vơ, thiếu đói không có người cúng tế.Một hiện tượng khá
bí ẩn nhưng rất được nhiều người tin tưởng, đó là âm phủ, người chết phù
trợ cho người sống.
Âm phủ là gì?
Theo học thuyết Âm dương ngũ hành, âm là đất, đối với dương là trời. Âm
còn mang ý nghĩa là tối, lạnh, trái với dương là sáng, nóng. Phủ nghĩa
là nhà rất to, thường là nhà quan lại. Vì từ đời cổ xưa đã có tục lệ chôn
người chết xuống đất nên người ta mới tưởng tượng rằng, dưới đất phải có
một ngôi nhà rất lớn để cho người chết ở.
Tại sao có âm phủ?
Con người sống trên mặt đất, dưới vòm trời, xung quanh là nước (sông, hồ,
ao, biển…), bởi vậy người xưa mới chia thế giới thành bốn cõi, gọi là “Tứ
phủ công đồng”: Thiên phủ (cõi trời), Địa phủ (cõi đất), Thủy phủ (cõi
nước), Nhân phủ (cõi người). Trừ cõi người, ba cõi kia thường xuyên có
những hiện tượng bí hiểm, ghê gớm không hiểu nổi (vì chưa có khoa học)
như: mưa nắng, sấm chớp, gió bão, lũ lụt, động đất, sóng thần… Cho nên,
người ta mới nghĩ rằng, các hiện tượng đó là do những đấng thần linh cai
quản ba cõi sáng tác ra để ban phúc hoặc giáng hoạ cho loài người. Các vị

thần linh ấy là: Ngọc hoàng thượng đế trên trời, Diêm Vương dưới đất,
Long Vương (hoặc Thuỷ Tề, Hà Bá) dưới nước. Không riêng gì người Việt
Nam, nhiều dân tộc khác trên thế giới cũng có quan niệm tương tự. Thí dụ,
trong thần thoại Hi Lạp, La Mã, Ngọc Hoàng Thượng đế tên là Jupiter,
Diêm Vương là Pluton, Long Vương là Neptune. Có điều khác với Việt Nam
là ba ông này là anh em ruột, cháu nội của thần Uranus (Trời) và nữ thần
Gða (đất). Cổ nhân cho rằng, người chết xuống dưới âm phủ cũng sinh hoạt
như người sống trên cõi trần, cũng phải ăn uống, cần phải có đầy đủ quần
áo, nhà cửa và các đồ dùng khác. Vì thế mới sinh ra lệ làm cơm cúng và đốt
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
7
Lịch sử văn hóa Việt Nam
quần áo, chăn chiếu, giường… của người chết để mang xuống âm phủ.
Thậm chí đời xưa ở bên Tàu còn có tục lệ man rợ là chôn cả người sống cho
theo hầu người chết. Đông Chu Liệt quốc có chuyện vua Hạp Lư nước Ngô
chôn sống 3.000 cung nữ cùng với công chúa đã tự sát, hoặc tể tướng Thân
Hợi chôn hai con gái của mình cùng với vua Sở. Về sau, người ta mới phát
minh ra hình nhân thế mạng, ban đầu đẽo bằng gỗ, bện rơm hoặc cỏ, sau
mới làm bằng giấy cùng với các loại quần áo, tiền bạc như ngày nay.
Âm phủ theo quan điểm tôn giáo
Loài người chia ra làm hai hạng: Thiện và ác. Khi còn sống, người thiện
được phúc báo, kẻ ác gặp tai họa. Sau khi chết, người thiện được lên Thiên
đường, tức là cõi Trời, sống sung sướng với các thần tiên. Kẻ ác phải xuống
âm phủ hay địa ngục, bị quỷ sứ đánh đập, tra tấn, hành hạ.
Âm phủ theo quan điểm khoa học
Ngày nay, con người phóng tên lửa và vệ tinh thám hiểm lên bầu trời, thả
tàu ngầm thăm dò đáy biển, biết rõ “thiên phủ”, “thủy phủ” là gì. Tuy
nhiên, đối với địa phủ, khoa học chưa tường tận lắm vì bán kính của trái đất
là 6.371km, mà các mũi khoan địa chất dù sâu hàng trăm mét cũng mới chỉ
là “gãi ghẻ”. Người ta tạm gọi vùng sâu giữa lòng đất là barysphère, tiếng

Hy Lạp, barus nghĩa là “nặng” vì đó là trọng tâm của trái đất. Barysphère
chứa đựng những thứ gì thì chưa biết nhưng chắc chắn không có Diêm
Vương và quỷ sứ. Nếu dưới lòng đất chỉ có nước ngầm, dầu khí, quặng mỏ…
thì sau khi người chết, hồn sẽ đi đâu, ở đâu? Nhiều người chết gây ảnh
hưởng mạnh mẽ về tâm lý đối với người sống xung quanh, khiến cho những
người này bị “ám thị” nhìn thấy những ảo ảnh hoặc nghe thấy những âm
thanh mà họ tưởng là hồn người chết hiện về. Một ông bác sĩ quả quyết với
tôi rằng, sau khi bà cụ thân sinh an táng được ba ngày thì cả hai vợ chồng
ông ta đêm ngủ đều nghe rõ tiếng cụ gọi. Thời chiến tranh, một đơn vị bộ
đội đóng quân gần chùa, có viên thượng uý chết trong vườn chùa, ngay
trước cửa nhà tôi ở hiện nay. Khi đó chùa chưa có sư, tối đến, các tín đồ
trong làng thay phiên nhau ngủ canh chùa. Họ kể rằng, anh ta thường xuyên
hiện hồn về, thậm chí có lần còn túm cổ, nâng đầu họ.Có những nhà ngoại
cảm miêu tả đúng đặc điểm nhận dạng và tính nết người chết mặc dù họ
không hề quen biết người chết. Do đó, có giả thuyết cho rằng, hồn chính là
một dạng “năng lượng sinh học”, na ná như sóng điện từ của radio, TV, và
nhà ngoại cảm đã bắt đúng tần số của nó. Vấn đề này còn đang tranh cãi.
Các yếu tố tâm lý khác
- Sự sợ hãi:
Trong cuộc sống con người còn gặp nhiều khó khăn, rủi ro, bất hạnh,
sa cơ, lỡ vận, bệnh tật hiểm nghèo …luôn đe doạ sự bình an của con người.
Con người còn thiếu tự tin vào chính bản thân khi phải đối mặt giải quyết
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
8
Lịch sử văn hóa Việt Nam
với các vấn đề trên trong cuộc sống của chính bản thân họ. Họ luôn mong
muốn có sự giúp đỡ của các thế lực khác nhau, trong đó họ cần đến sức
mạnh của ông bà tổ tiên ở “thế giới bên kia” che chở, nâng đỡ. Từ quan
niệm dân gian về linh hồn, người ta cho rằng, nếu không cúng tế linh hồn
ông bà tổ tiên đầy đủ thì những linh hồn này trở thành ma đói và sẽ mang lại

rủi ro, quấy nhiễu cuộc sống của những người đang sống. Đồng thời, ở chế
độ phụ hệ quyền lực của người đàn ông, nhất là gia trưởng, tộc trưởng 5 đã
làm nảy sinh ở phụ nữ, con cháu sự quy thuận lẫn cảm giác sợ hãi. Tâm
trạng này không phải chỉ tồn tại ở vợ và con cháu khi họ đang sống mà cả
khi họ đã chết.Trong cuộc sống của mỗi con người, càng về già, cái chết
luôn là nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với mỗi người, con người không muốn nó
diễn ra, ngay cả khi họ có cuộc sống nơi dương thế luôn gặp khó khăn và
trắc trở, nhưng họ lại luôn phải đối mặt với nó. Thực hiện các lễ nghi thờ
cúng tổ tiên trong không gian thiêng đó, mỗi người được trải nghiệm và
cũng như một lần được chuẩn bị tâm thế chấp nhận cái chết một cách thanh
thản, bình tĩnh và nhẹ nhàng hơn.
- Sự kính trọng, biết ơn
Nỗi lo sợ bị trừng phạt của con người không phải là yếu tố duy nhất và
chủ yếu dẫn đến sự hình thành và phát triển tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Việt. Nếu chỉ vì sợ hãi mà con người phải thờ cúng thì tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên đã không thể tồn tại lâu bền và đầy giá trị nhân văn như vậy.
Yếu tố tâm lý có vai trò quyết định trong việc duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên của người Việt là sự tôn kính, biết ơn đối với các thế hệ trước, là tình
yêu và lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà cha mẹ.
1.3 Ảnh hưởng của một số tư tưởng tôn giáo đến tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên ở Việt Nam
- Ảnh hưởng của tư tưởng Khổng giáo (Khổng giáo do Khổng Tử sáng
lập): Tư tưởng của đạo Khổng là đề cao chữ hiếu và coi đó là nền tảng của
đạo làm người. Theo Khổng Tử, sự sống của mỗi con người không phải do
tạo hoá sinh ra, càng không phải do bản thân tự tạo, mà nhờ cha mẹ. Sự sống
của mỗi người gắn liền với sự sống của cha mẹ, sự sống của cha mẹ lại gắn
liền với sự sống của ông bà và cứ như vậy thế hệ sau là sự kế tiếp của thế hệ
trước. Vì thế, con người phải biết ơn không chỉ với cha mẹ mà cả đối với thế
hệ tổ tiên trước đó.
- Ảnh hưởng của tư tưởng Đạo giáo (Đạo giáo do Lão Tử và Trang Tử

khởi xuớng): Trong quan niệm của Lão Tử và Trang Tử, bản chất của “Đạo”
là nguồn gốc của vạn vật trên thế giới, là quy luật vận động của tự nhiên và
được hai ông diễn tả nó như một thứ huyền bí, một nguyên lý tối cao vô
hình. Trong Đạo giáo đã xây dựng nhiều nhân vật thần tiên có dáng dấp của
con người. Thần tiên của Đạo giáo chính là những cá nhân đã được tôn vinh
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
9
Lịch sử văn hóa Việt Nam
thành những nhân vật trường sinh bất tử, ở nơi bồng lai tiên cảnh, sống cảnh
an nhàn tiên cảnh, lại rất thần thông quảng đại có thể cưỡi mây, đạp gió, làm
được những việc phi thường mà con người trần tục không thể làm được.
Viễn cảnh thần tiên ấy đã trở thành niềm mơ ước, khát vọng của rất nhiều
người đang sống ở một thế giới mà Phật giáo cho là “biển khổ”.Nếu như
Khổng giáo đặt nền tảng lý luận về giá trị đạo đức, về trật tự kỷ cương xã
hội cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt, thì Đạo giáo góp phần
củng cố niềm tin vào sự tồn tại và năng lực siêu nhiên của linh hồn những
người đã chết thông qua một số nghi lễ thờ cúng như: gọi hồn, ma chay,
tang lễ, mồ mả và đốt vàng mã.
- Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo: Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn
đến sự giữ gìn và phát triển tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam, trước
hết là quan niệm của Phật giáo về cái chết, về kiếp luân hồi và nghiệp báo,…
Phật giáo cho rằng, sống chết là quy luật tất yếu của thế gian giống như mặt
trời lặn rồi lại mọc, mọc rồi lại lặn mà thôi. Sống và chết chỉ có nghĩa là thay
đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác. Chết là bắt đầu của một chu kỳ
sống mới, một kiếp sống mới. Theo Đạo Phật, không có kiếp sống đầu và
kiếp sống cuối cùng. Sau khi chết, linh hồn con người sẽ được tái sinh, đầu
thai vào một kiếp khác. Kiếp đó là hạnh phúc hay đau khổ, tuỳ thuộc vào
bản thân họ đã sống thiện hay ác trong quá khứ.Những tư tưởng cơ bản của
Phật giáo có ảnh hưởng lớn lao đến sự phát triển của tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên của người Việt, nhưng không vì thế mà nó là sự sao chép y nguyên tư

tưởng của Phật giáo. Người Việt Nam quan niệm rằng, cha mẹ và tổ tiên
luôn lo lắng và quan tâm cho con cái ngay cả khi họ đã chết. Người sống
chăm lo đến linh hồn người chết, vong hồn người chết cũng quan tâm đến
cuộc sống của người đang sống.
2. Bản chất của việc thờ cúng
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng giống như các loại hình tín ngưỡng,
tôn giáo khác là sự phản ánh sai lệch hiện thực, là sự phản ánh hư ảo - vào
trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc
sống hàng ngày của họ . Lực lượng xa lạ bên ngoài, ở đây là tổ tiên trong thế
giới vô hình. Xét về mặt nhận thức luận, chủ thể nhận thức và phản ánh là
người sống, khách thể được nhận thức và phản ánh là tổ tiên đã mất. Xét về
mặt xã hội, đó là sự phản ánh hoang đường quyền hành của người gia
trưởng, là kết quả tất yếu của quá trình phân hoá xã hội, từ chế độ mẫu
quyền sang chế độ phụ quyền. Và chính ý thức đó đã tạo cho ta ảo tưởng…
Cái ảo tưởng tốt lành về sự liên tục đời đời và bất diệt về giá trị của cuộc
sống có ý nghĩa văn hóa nhân loại học. Như vậy, bản chất xã hội của tín
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
10
Lịch sử văn hóa Việt Nam
ngưỡng thờ cúng tổ tiên được thể hiện rõ nét trong nội dung, đối tượng và
hình thức phản ánh, được qui định bởi các nguồn gốc xã hội, nhận thức và
tâm lý của nó.
Thờ cúng tổ tiên là sự phản ánh liên tục của thời gian, là cầu nối giữa
quá khứ, hiện tại và tương lai. Sự sống là bất diệt, chết không phải là hết.
Các thế hệ tiếp nối nhau, chết chỉ là sự bắt đấu của chu kỳ sinh mới. Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một nghi lễ thiêng liêng kết nối quan hệ giữa
người sống và người chết. Đó là sự tưởng tượng, song lại nảy sinh từ cuộc
sống hiện thực.
Tổ tiên được gắn cho sức mạnh siêu nhiên. Đó chính là sự thiêng liêng hoá,
thần thánh hoá bắt nguồn từ quan niệm về sự bất diệt của linh hồn. Người

chết luôn có mặt bên cạnh người sống, bằng cặp mắt vô hình luôn để tâm
theo dõi mọi hành vi của người sống để từ đó có thể dìu dắt, phù hộ theo
đúng đạo lý ông bà dân tộc và cộng đồng xã hội. Tổ tiên khi còn sống thì
“khôn”, đến lúc chết thì “thiêng”, vẫn ngự trên bàn thờ, vừa gần gũi vừa xa
lạ, linh thiêng. Và từ đó người sống phần nào có thể cảm nhận được tương
lai và định mệnh của mình. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hình thành và tồn tại
giúp con người vượt qua cái trần tục, đời thường, thúc đẩy sự tìm tòi, hướng
về những điều ở phía phía trước, giải phóng phần nào tinh thần của con
người khi đang bế tắc. Mặt khác tạo cho con người ta cảm giác yên tâm,
được che chở. Bởi họ tin vào sức mạnh siêu nhiên, những người đã mất sẽ
“phù hộ” và giúp họ có được điều mình mong muốn.
Việc thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam, là một tập tục tín ngưỡng lâu
đời tồn tại trong cộng đồng ở khắp các vùng Bắc,Trung, Nam. Tuy chưa
được quy định thành văn nhưng việc thờ cúng tổ tiên đã trở thành loại giáo
lý có giá trị đạo đức xã hội làm nền tảng của mọi loại hình giáo dục khác
trong đó có giáo dục tín ngưỡng tôn giáo.Ý thức về tổ tiên mang giá trị nhân
văn sâu sắc, nó phát khởi mối thiện tâm trong mỗi con người trong cộng
đồng xã hội. Thờ cúng là cách để tỏ lòng biết ơn đối với tổ tiên. Việc thờ
cúng tổ tiên rõ ràng có giá trị giáo dục về luân lý (ngũ luân), trước hết đó là
lòng hiếu đễ, là căn bản của đạo đức trong mối quan hệ gia đình, dòng tộc và
xã hội. Lòng hiếu đễ khiến ta sùng kính những người đã ban cho ta đời sống
và lương tri. Điều này khiến ta có ý thức bảo tồn và lưu truyền để tưởng nhớ
mãi mãi.
Mặt khác, bản chất việc thờ cúng tổ tiên của người Việt là từ niềm tin người
sống cũng như người chết đều có sự liên hệ mật thiết và hỗ trợ nhau. Con
cháu thì thăm hỏi, khấn cáo tiền nhân. Tổ tiên thì che chở, dẫn dắt hậu thế
nên việc cúng giỗ là thực hiện mối giao lưu giữa cõi dương và cõi âm.
- Niềm tin vào tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã góp phần gắn kết các thành
viên trong gia đình, tộc họ cùng chung huyết thống. Đó là sợi dây vô hình
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt

11
Lịch sử văn hóa Việt Nam
nối liền quá khứ với hiện tại với tương lai cũng như gắn kết giữa các cá
nhân, các thế hệ trong gia đình, dòng tộc với nhau.
Niềm tin vào tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người dân đã góp phần rèn
luyện đạo đức cho con người, trước hết là lòng hiếu thảo, biết ơn của con
cháu với công lao sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, tổ tiên. Để tỏ lòng biết
ơn, lòng hiếu thảo của con cháu với tổ tiên, người ta phụng thờ linh hồn tổ
tiên với lòng tôn kính như họ như khi họ còn sống. Không chỉ vậy, con cháu
còn thể hiện ở sự nỗ lực học tập, lao động tốt để làm rạng danh tiên tổ.
Niềm tin vào sự tồn tại của linh hồn tổ tiên và linh hồn tổ tiên có thể thấu
hiểu những điều thể hiện trong lời cầu khấn được bày tỏ trước vong linh tổ
tiên. Do vậy, niềm tin vào tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã giúp cho người dân
giải toả những căng thẳng tâm lý.
Có thể nói, bản chất và nguồn gốc và ý nghĩa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
gắn quyện vào nhau, tạo thành những nét riêng biệt của loại hình tín ngưỡng
này. nó là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, một hiện tượng lịch sử - xã
hội và văn hoá thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần, là sự phản ảnh tồn tại xã
hội, chịu sự qui định của tồn tại xã hội, có tính độc lập tương đối, được hình
thành rất sớm và còn tồn tại lâu dài trong xã hội. Chính vì lẽ đó mà người
Việt Nam có thể chấp nhận nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau, nhưng
phong tục tốt đẹp này được tồn tại và chấp nhận như một lẽ đương nhiên của
cộng đồng mà không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng. Chúng ta coi việc thờ
cúng tổ tiên cũng chính là việc cầu xin ông bà phù hộ cho gia đình, dòng họ;
cho sự trường tồn của quốc gia, cho “quốc thái dân an”. Pháp luật thừa nhận
quyền tự do tín ngưỡng của công dân; việc thờ cúng tổ tiên là tự nguyện,
không hề có sự áp đặt.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống
tinh thần đối với mỗi người dân Việt Nam. Đó là một tín ngưỡng, một nét
đẹp trong văn hóa và là một trong các thành tố tạo nên bản sắc văn hóa

riêng của người Việt. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không chỉ gói gọn trong
phạm vi gia đình mà còn mở rộng ra cả cộng đồng. Có thể nói đến ví dụ tiêu
biểu là ngày giỗ Tổ Hùng Vương và ngày mùng 10 tháng 3 (âm lịch) hàng
năm. Ngày này trở thành ngày hội tụ con cháu khắp mọi miền đất nước
hướng về đất Tổ. Có thể nói ngày giỗ tổ Hùng Vương là sự phát triển cao có
tính chất trìu tượng hóa ý thức về cội nguồn, bắt rễ sâu xa tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên ở làng xã, trong gia đình và gia tộc.Triết lý cội nguồn trên phạm
vi quốc gia ấy cũng đã đóng góp một phần quan trọng trong việc củng cố về
mặt lý luận cho sự liên kết các quan hệ máu mủ thân tộc. Nhà và nước, nước
và nhà, nước mất thì nhà tan, nước giàu thì dân mạnh.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có nội dung bình dị và giàu tính thực tiễn,
không cực đoan như nhiều tôn giáo khác. Bởi thế nó dễ dàng được thế tục
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
12
Lịch sử văn hóa Việt Nam
hóa trở thành nếp sống, phong tục, bám rễ sâu trong tiềm thức của mỗi
người. Bằng việc thờ cúng tổ tiên, thế hệ trước nêu gương cho thế hệ sau
không chỉ vì trách nhiệm đối với các bậc sinh thành mà còn để giáo dục dạy
dỗ con cháu lưu truyền nòi giống. Giáo sư Đào Duy Anh cho rằng:“Tế tự tổ
tiên là lấy sự duy trì chủng tộc làm mục đích”. Trong khi tế lễ, lời khấn vái
của họ cũng thật giản dị, rất thực tiễn: lời cầu xin che chở, phù trợ cho cuộc
sống hàng ngày của họ được bình yên, suôn sẻ. Không biết sự cầu xin ấy
hiệu quả như thế nào, nhưng trước hết, con người cảm thấy thanh thản về
mặt tâm linh, điểm tựa tinh thần quan trọng cho cuộc sống.
Với những mong muốn bình dị và niềm tin nguyên thủy chất phát, thờ tổ tiên
được coi là thứ tín ngưỡng “vừa tầm” với mọi lớp người cả về mặt nội dung
đạo lý và nghi thức thực hiện. Do đó, khả năng phổ biến trong không gian và
thời gian của tín ngưỡng này cũng là một điều dễ hiểu.
Các tôn giáo ngoại lai, để tồn tại được ở Việt Nam, đã buộc phải dung hòa
với thứ tín ngưỡng bản địa cắm rễ sâu trong tâm thức người Việt – thờ cúng

tổ tiên. Còn các tôn giáo xuất hiện nội sinh trong nước như Cao Đài, Hòa
Hảo ở miền Nam cũng đã biết dựa trên cơ sở của đạo thờ cúng ông bà.
Không chỉ các tôn giáo, mà ngay cả trong các tín ngưỡng dân gian khác như
tín ngưỡng thờ thành hoàng, thờ Mẫu…, ta cũng thấy dấu vết tác động của
tín ngưỡng thờ tổ tiên ở sự biết ơn cội nguồn, biết ơn các đấng sinh thành.
Bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ thần, người dân Việt thờ Mẫu (thờ mẹ) với
mong muốn kéo vị thần này gần với tín ngưỡng gia tộc, từ đó có mối đồng
cảm gắn bó như giữa người mẹ luôn che chở với đàn con của mình.
Trong đời sống xã hội hiện đại, đã có thời kỳ người ta nghĩ đơn giản rằng xã
hội càng phát triển, khoa học kỹ thuật càng tiến bộ thì con người càng bớt đi
niềm tin vào thế giới vô hình, con người sẽ sống tỉnh táo hơn, khoa học hơn.
Có lẽ điều này chỉ đúng một phần, vì thế khi thế giới càng chia nhỏ rành
mạch, con người càng mở rộng tầm nhìn thì những khoảng trống, những
điều chưa thể giải thích càng lớn. Đó là điều bí ẩn của thế giới tâm linh, đặc
biệt là mối liên hệ ràng buộc vô hình nào đó giữa những người cùng dòng
máu.Vì thế càng ngày tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên càng có vai trò quan trọng
trong đời sống tâm linh của mỗi người Việt Nam, nó là một trong những
nhân tố góp phần quan trọng để bảo tồn và duy trì văn hóa truyền thống. Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một tập tục mang đậm nét văn hoá của người
Việt.
III.Nghi thức thờ cúng
1.Trong gia đình, gia tộc
Bàn thờ tổ tiên
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
13
Lịch sử văn hóa Việt Nam
Với người Việt, trong mỗi khuôn viên bao giờ cũng có một ngôi nhà chính
dùng vào những việc quan trọng như thờ phụng, tiếp khách, sinh hoạt, ngủ
và cất chứa tài sản quý. Ngôi nhà ấy thường có số gian lẻ, hay trừ phần làm
buồng thì số gian nhà ngoài là số lẻ, và như thế bao giờ cũng có một

gian giữa. Chính phía trong của gian giữa bao giờ cũng được dành làm nơi
thờ, còn phía ngoài là nơi tiếp khách quý. Đấy là trung tâm của nội
thất, chỗ trang trọng nhất, các sinh hoạt khác có diễn ra ở gian bên cũng
đều hướng về đấy. Gian giữa lại luôn có cửa lớn ra vào, mở cửa là nhìn
thấy trời đất lưu thông, âm dương hoà đồng để rồi cảm hoá lẽ đời.
Bàn thờ tổ tiên của người Việt cũng phần lớn hướng nam, hàm ý con cháu
tôn vinh tổ tiên là những bậc hiền tài theo tinh thần "Thánh nhân nam
diện nhi thính thiên hạ" Tuỳ quy mô ngôi nhà, và cũng tuỳ mức sống chủ
nhà mà bàn thờ có kích thước và hình thức khác nhau. Những gia đình
bần bách, nhà tranh vách đất với những đồ đạc trong nhà cũng đơn sơ, thì
bàn thờ thường chỉ là vạt phên tre giữa hai cột trong của gian giữa,
bên trong có bát hương nhỏ, đến ngày Tết có thể được dán tờ tranh chủ ở
giữa vẽ những thứ như ở một bàn thờ nhà khá giả, hai bên dán câu đối
đỏ, cũng tạo ra một cảnh sắc sang trọng và sáng sủa để khỏi tủi vong
linh ông bà. ở những gia đình thuộc loại "thường thường bậc trung" trở
lên, thì nơi ở là nhà ngói tường gạch. Ăn nhập với khung nhà bằng gỗ
xoan sáng vàng hay gỗ lim đanh chắc, là những đồ gỗ, giường phản có thể
có sập gụ tủ chè sang trọng, thì bàn thờ được đóng đàng hoàng. Phần
trong cùng là gác lửng đóng nối giữa hai cột trong, ngoài kê thêm sập
thờ, nhang án, phía trên có treo hoành phi và hai bên treo câu đối sơn
then thếp vàng. Trên bàn thờ có thể có khám, ngai hay ít ra cũng đặt bài
vị được chạm khá cầu kỳ và sơn thếp cẩn thận. Trước bài vị được đặt
bình hương sứ to để khi thắp những nén hương vừa gợi ra bầu trời sao,
vừa dâng truyền ý nguyện con cháu lên những đấng anh linh ở thinh
không, phía ngoài còn bát nước trắng và đĩa trầu cau. Có thể có thêm đỉnh
trầm bằng đồng, bên cạnh có một hoặc hai chiếc độc bình vừa biểu hiện
tâm không lòng thành vừa để cắm hoa trong ngày Tết và giỗ chạp. Hoa cắm
thờ thường là hoa huệ biểu hiện trí tuệ với sự thanh cao cả ở hương và
sắc, ngày Tết hay cắm cành đào rực hoa, vừa biểu hiện sắc xuân với bầu
trời rạng rỡ, vừa theo quan niệm xưa là để trừ ma quỷ. Lại còn cây đèn

bằng đồng (hoặc gỗ sơn) để khi thắp đèn nến thì gợi ra cả vũ trụ với
mặt trời. Nhang án gia đình khá giả được làm khá công phu với những ô
hộc chạm tứ linh, dù đơn giản cũng phải được sơn thiếp, có khi được
tính kích cỡ rất cẩn thận. Bàn thờ ấy luôn gợi lên một chiều sâu tâm
linh "cây có gốc, nước có nguồn" vừa nhân bản vừa vun đắp truyền thống,
đồng thời là niềm tự hào của gia chủ về tổ tiên và về cách dạy con cháu.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
14
Lịch sử văn hóa Việt Nam
Bàn thờ tổ tiên là biểu hiện nếp sống văn hoá, biết vun trồng gốc để cây
đơm hoa đẹp, rồi kết trái ngọt, do đó nó cần thiết đối với mọi người mọi
nhà. Song ngôi nhà bây giờ đã khác trước, bàn thờ là một thành tố của
nội thất cũng phải thích hợp với toàn cảnh. Ở nông thôn, ngôi nhà ít
biến đổi, kiểu bàn thờ cổ truyền vẫn phát huy tác dụng; song với những
ngôi nhà mái bằng thường có nhiều đồ gỗ kiểu mới và đồ điện hiện đại,
thì chiếc hương án cầu kỳ lại không ăn nhập. Cũng thế, ở những khu tập
thể, bên cạnh dãy nhà cấp 4 lụp xụp lại có những ngôi nhà hộp cao tầng,
mỗi gia đình một căn hộ với hướng nhà và hướng cửa khá tùy tiện. Ở đấy,
vấn đề bức bách là không gian, có thể dùng mặt tủ làm bàn thờ hoặc đóng
cái giá gác lên tường, cần đặt ở vị trí trang trọng và có độ cao thích hợp để
khi thờ cúng thì mọi người tỏ được sự ngưỡng vọng thành kính. Mặt tủ đã
thành bàn thờ thì chỉ nên để đồ tế khí. Đã là bàn thờ phải có bát hương, có
điều kiện thì thêm bình hoa, cây đèn, ống hương, hoa, đèn, nước, trái cây,
đĩa xôi hoặc phẩm oản, và theo phong tục dân tộc thêm đĩa trầu cau.
Trong các gia đình, trừ trưởng tộc và trưởng chi vừa thờ tổ họ và tổ ngành
vừa thờ gia tiên mình, các nhà con truởng thì thờ mấy thế hệ gần nhất, còn
từ đời thứ 5 thì nhập chung vào lễ tế tổ, phần lớn các gia đình là con thứ, thì
đồng thời theo thờ bố mẹ ở nhà con trưởng, còn thờ thêm ở nhà mình. Do
đó nếu có chân dung tổ tiên xa thì để ở nhà thờ họ, gần thì để ở nhà con
trưởng, nhà con thứ chỉ cần thờ chân dung bố mẹ. Tuy nhiên, bàn thờ gia

tiên là thờ chung, không cần thiết phải có chân dung, thường có bài vị tượng
trưng vẽ cây thông già. Chân dung chỉ cần thiết ở bàn thờ tang.
Bàn thờ tổ tiên là một bộ phận trong không gian gia đình, nó tham gia vào
nội thất với tính chất trang nghiêm, lịch sự và thẩm mỹ. Mỗi gia đình tuỳ
không gian cho phép, tuỳ tương quan với tiện nghi sinh hoạt khác, có thể
làm những bàn thờ thích hợp và đồ tế khí phù hợp, làm sao cái đẹp ở đây
phải đảm bảo văn hoá ở cả chiều sâu tâm linh và mặt bằng hình sắc.
Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay
còn gọi ông Vải). Tuỳ theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác
nhau. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất.
Hai cây đèn tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, hương là tinh tú. Hai bát
hương để đối xứng, phía sau 2 cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy, với
nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Cũng có nhà cắm “cành vàng lá ngọc”
(một thứ hàng mã) với cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc, buôn bán
lãi gấp 5 hoặc gấp 10 lần năm trước. Ở giữa có trục “vũ trụ” là khúc trầm
hương dưới dạng khúc khuỷu, vươn lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt
xen giữa đèn và hương là hai cái đĩa để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả
(tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý
nghĩa của nó), phía trước bát hương để một bát nước trong, coi như nước
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
15
Lịch sử văn hóa Việt Nam
thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con
cháu, dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới…
Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng đặt tại nơi cao ráo, sạch sẽ và trang trọng nhất
trong nhà (gian giữa đối với nhà một tầng, tầng trên cùng đối với nhà tầng).
Trên bàn thờ thì bày bát hương, chân đèn, bài vị hay hình ảnh người quá cố,
chỗ thắp nến. Đồ cúng cơ bản không thể thiếu hương, hoa, chén nước lã.
Ngoài ra có thể có thêm thức ăn, trà rượu, và có khi có cả đồ vàng mã (quần
áo đồ dùng làm bằng giấy), tiền âm phủ… Sau khi tàn một nửa tuần hương,

đồ vàng mã và tiền âm phủ được đem đốt, được gọi là hoá vàng, còn chén
rượu cúng thì đem rót xuống đống tàn vàng. Tục truyền rằng phải làm như
vậy người chết mới nhận được đồ cúng tế, vì hương khói bay lên trời, nước
(rượu) hòa với lửa mà thấm xuống đất.
Cách bài trí
Lớp trong
Chiếc rương thật lớn, cao khoảng 1m, dài và rộng 2m. Mặt trước gồm ba
ô, mỗi ô khắc một chữ đại tự (大佀). Đôi khi, chiếc rương được thay bằng
chiếc bàn to, kê trên 2 chiếc mễ (1m).
Có 2 chiếc mâm đặt phía trong bàn thờ. Mâm to đựng cỗ, mâm bé bày
hương hoa trong ngày giỗ. Chiếc thứ 2 phải bé hơn chiếc thứ 1.
Có một chiếc thần chủ đặt trong khám thờ kê trên chiếc bệ. Có thể thay thế
bằng chiếc ngai (chiếc ỷ) để tổ tiên thuộc hàng cao có thể kiểm soát con
cháu thờ cúng.
Trước thần chủ thường có đĩa đựng trầu cau, 3 ly nước lã trong, chén (hoặc
bình) rượu nhỏ, đĩa đồng hoặc sứ đặt 2 bên để đặt hoa quả, thức ăn để thờ…
Bên trong đặt bài vị của tổ tiên bằng sứ, có thể thay thế bằng ảnh chân dung
người mất được treo lên tường sau hoặc đặt trên mặt bàn thờ.
Lớp ngoài
Hương án thật cao
Bình hương lớn bằng sứ hoặc đồng, trong đó có để cát hoặc tro ở trong, ở
giữa cắm trụ sắt cao để đặt hương vòng.
Hai bên có 2 cây đèn, bật khi cúng lễ
Hai cây đồng để thắp nến, có thể thay thế bằng 2 con hạc đồng. Đồng có thể
thay bằng sứ.
Có thể trang trí thêm đồ vật như hoành phi, câu đối… vào chính giữa bàn
thờ hoặc hai bên.
Cách bài trí bàn thờ gia tiên trong nhà
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
16

Lịch sử văn hóa Việt Nam
Ngày mai là ngày 23 tháng Chạp , là ngày tiễn ông Táo lên Trời báo cáo tình
hình làm ăn trong năm của Gia chủ , cũng là ngày mà người ta có thể rút bớt
chân nhang và lau dọn bàn thờ . Có nhiều bài viết về cách bố trí bàn thờ gia
tiên trong nhà , nhưng theo thiển ý của dienbatn thì chưa được chính xác .
Nay nhân tiện cuối năm , dienbatn xin chia sẻ những kinh nghiệm bố trí bàn
thờ Gia tiên trong nhà cùng các bạn , nếu bạn nào chưa làm đúng thì sẽ có cơ
hội sửa chữa lại .
CÁC BAN THỜ TRONG NHÀ :
Thông thường trong nhà người ta có các bàn thờ : Bàn thờ Phật , bàn thờ
Thần linh và gia tiên , bàn thờ ông Địa – Thần Tài , bàn thiêng ngoài trời thờ
9 phương Trời , 10 phương Phật , ngoài ra tuỳ gia chủ có thêm các ban thờ
Mẫu , ông Hoàng , bà Chúa , các cô , các cậu hay thờ 5 Ông … dienbatn xin
nêu các đặc điểm riêng của một số ban thờ như sau :
1/ Ban thờ Phật : Thường được lắp đặt nơi cao nhất trong phòng thờ của gia
đình , trên bàn thờ có ảnh của vị Phật mà mình muốn thờ ( Thông thường
người thường chỉ thờ ảnh Phật , các Thày hay Sư mới thờ tượng ) . Chính
giữa có bát nhang hay lư trầm . Bên cạnh có bình bông và đĩa trái cây , 3
chung nước , cặp đèn cầy hay đèn điện . Tuyệt đối không được đặt đồ lễ mặn
và giấy tiền vàng bạc trên bàn thờ Phật . Khi cúng Phật , phải tuyệt đối dùng
đồ chay .
2/ Bàn thờ Thần linh : Thường được đặt chung với bàn thờ Gia tiên . Bát
nhang thờ Thần linh đặt chính giữa và cao hơn hai bát nhang còn lại . Đằng
sau bát nhang có bài vị thờ Thần . Thường chỉ có một chữ Thần ( 神 ) hay
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
17
Lịch sử văn hóa Việt Nam
chữ Thần Tiên Linh ứng ( 神 仙 佀 應 ) . Thần linh ở đây bao gồm : Quan
đương Niên hành Khiển hàng năm , Thành Tào Phán Quan , Ngũ phương
Ngũ Thổ Long Thần , Tiền hậu Địa chủ Tài Thần , Thần hoàng bản xứ ,

Thần Hoàng Bản Cảnh , Ngài bản xứ Thần linh Thổ địa . Ngài định Phúc
Táo quân . Ngài Phúc Đức chính Thần . Các Ngài Ngũ Phương , Ngũ Thổ ,
Long mạch tài Thần . Ngài Bản Gia Táo Quân . Các ngày Địa Chúa Long
mạch Tôn Thần và tất cả các Thần linh cai quản trong khu vực …
Trước bát nhang người ta thường để 3 chén nước trên cùng một cái khay
bằng sứ dài . Về cuối năm hay đầu năm , người ta thường cúng một bộ đồ
quan Thần linh bao gồm mũ , áo , ủng , ngựa theo ngũ hành ( Vàng , trắng ,
đen , xanh , đỏ ) và 1000 vàng hoa theo màu bộ quan Thần linh .…
QUAN ĐƯƠNG NIÊN HÀNH KHIỂN CÁC NĂM .
1/ TÝ : QUAN CHU VƯƠNG hành khiển , Thiên ôn hành binh chi Thần Lý
Tào Phán quan .
2/ SỬU : QUAN TRIỆU VƯƠNG hành khiển tam thập lục phương hành
binh chi Thần , Khúc Tào Phán quan .
3/ DẦN : QUAN NGỤY VƯƠNG hành khiển , Mộc chi Thần , Tiêu tào
Phán Quan .
4/ MÃO : QUAN TRỊNH VƯƠNG hành khiển , Thạch tinh chi Thần , Liễu
Tào Phán quan .
5/ THÌN : QUAN SƠ VƯƠNG hành khiển , Hỏa tinh chi Thần , Biểu Tào
Phán quan .
6/ TỴ : QUAN NGÔ VƯƠNG hành khiển , Thiên hải chi Thần , Hứa Tào
Phán quan .
7/ NGỌ : QUAN TẦN VƯƠNG hành khiển , Tiên Tào chi Thần . Nhân tào
Phán quan .
8/ MÙI : QUAN TỐNG VƯƠNG hành khiển , Ngũ đạo chi Thần , Lâm Tào
Phán quan .
9/ THÂN : QUAN TỀ VƯƠNG hành khiển , Ngũ Miếu chi Thần , Tống Tào
Phán quan .
10/ DẬU : QUAN LỖ VƯƠNG hành khiển , Ngũ Nhạc chi Thần , Cự Tào
Phán quan .
11/ TUẤT : QUAN VIỆT VƯƠNG hành khiển , Thiết bá chi Thần , Thành

Tào Phán quan .
12/ HỢI : QUAN LƯU VƯƠNG hành khiển . Ngũ ôn chi Thần , Nguyễn
Tào Phán quan .
CHÚ THÍCH : 12 vị Đại Vương hành khiển cái quản 12 năm , mỗi vị đều có
một vị Phán quan gíup việc .
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
18
Lịch sử văn hóa Việt Nam
3/ Bát nhang thờ Cửu Huyền Thất Tổ : ( 九玄七祖 ) : Cửu Huyền Thất
Tổ ở đây là nói tắt . Đúng ra là Cửu Huyền Thất Tổ nội ngoại tôn thân – Tức
là tứ thân phụ mẫu nhiều đời nhiều kiếp của cả bên nội và bên ngoại . Không
nên chia ra làm bàn thờ bên nội và bàn thờ bên ngoại . Bát ngang này thờ tất
cả các Đời của 4 dòng họ nội ngoại chứ không hẳn chỉ có 9 đời như người ta
thường hiểu sai . Thậm chí có nhiều bát nhang Linh thiêng có thể nối nhịp
cầu với vài chục đời , thậm chí hàng trăm đời trước . Bát nhang Cửu Huyền
Thất Tổ nội ngoại tôn thân được đặt ở phía tay phải người đứng lễ , hay tay
trái từ trong bàn thờ nhìn ra . Phía sau thường đặt bài vị hay ảnh thờ . Phía
trước cũng có 3 chén nước trên cùng một cái khay bằng sứ dài . Bên cạnh
người ta đặt một bình bông tùy ý , thường là bông có mầu sắc vàng , đỏ …
4/ Bát nhang Bà Cô – Ông Mãnh Tổ ( 婆 祖 翁 猛 姑 ) : Bát nhang Bà Cô
– Ông Mãnh Tổ dùng để thờ những người chết trẻ , chưa vợ , chưa chồng
nhiều đời nhiều kiếp của cả bên nội và bên ngoại . Thông thường trong số đó
thường có một vài Bà Cô Tổ hay Ông Mãnh Tổ của một vài đời rất linh
thiêng , thường theo phù hộ cho con cháu . Trong những buổi gọi hồn ,
thường các vị này xin ra đầu tiên rất linh thiêng . bát nhang của Bà Cô – Ông
Mãnh Tổ được đặt ở phía bên tay trái người cúng hay bên tay phải từ trong
bàn thờ nhìn ra . Phía trước cũng có 3 chén nước trên cùng một cái khay
bằng sứ dài . Bên cạnh người ta đặt một bình bông nhưng ở đây bắt buộc là
bông có màu trắng , tượng trưng cho sự tinh khiết của họ vì họ chưa có lập
gia đình .

Thời gian cúng
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
19
Lịch sử văn hóa Việt Nam
Người Việt thường cúng Gia tiên vào ngày Sóc - Vọng (Sóc là ngày Mồng
Một, Vọng là ngày Rằm hàng tháng), lễ Tết, giỗ hoặc bất kỳ lúc nào cần
được gia tiên phù hộ như: sinh con, đẻ cái, kết hôn, làm nhà, lập nghiệp, có
trục trặc về sức khỏe. Đây là cách để thể hiện đạo lý Uống nước nhớ nguồn.
Việc thắp hương trên bàn thờ bao giờ cũng phải thắp theo số lẻ: 1, 3, 5, 7, 9,
11, mà tránh thắp số chẵn như 2, 4, 6, 8, 10, Người ta quan niệm rằng, số
lẻ là dương nên nó phù hợp hơn với tổ tiên(người dương thắp cho người
âm). Loại hương thẳng gồm 2 phần: chân hương màu hồng đỏ, bụi hương
thơm. Có một loại hương vòng bao gồm nhiều vòng hương, có buộc dây,
được đặt trên que sắt trong bình hương. Khi thắp hương, người ta phải để
hương sao cho thật thẳng, tránh để hương bị nghiêng, méo hay siêu đổ khiến
đốm lửa giữa các nén hương không đều nhau, làm hương bị tắt lửa, hương
tàn xuống có thể gây cháy những đồ lễ vật trên bàn thờ hoặc gây Hỏa hoạn.
Khi thắp hương, có thể trông coi khi cần thiết.
Những gia đình sung túc thường làm lễ cúng tiên thường vào ngày hôm
trước để yết cáo tổ tiên và cáo tri người được làm giỗ. Lễ cúng này vào buổi
chiều. Nhiều nhà có hương hỏa, lợi nhuận hay kỵ để làm giỗ thì anh em bà
con thân thích đến cúng tiên thường xong, đêm ở lại chầu chực gia tiên để
qua ngày hôm sau làm lễ bái chính giỗ. Lệ thường người ta làm giỗ lớn với
bậc sinh thành, rồi mỗi đời trở lên được làm kém đi. Chẳng hạn như giỗ các
cụ, kỵ xa đời cùng là những người thân thuộc nhưng không quan trọng về
huyết thống trong gia đình như chú bác, cô dì không có con cháu giỗ quảy
mà mình phải thay thế thì làm giỗ đơn giản, không có mời khách khứa gọi là
"giỗ giúi".
Lễ vật cúng
Mâm ngũ quả :

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
20
Lịch sử văn hóa Việt Nam
Mâm cơm cúng :
Khi cúng thường có các đồ lễ như : Trầu , cau , rượu , thuốc lá , giấy tiền
vàng bạc thật và giả , đèn , nến , đĩa muối gạo . Có thêm 3 chung trà , 3
chung rượu , 3 chung nước để tượng trưng cho Tam tài :
Thiên : Có Nhật – Nguyệt – Tinh tú .
Địa : Có Thủy – Hỏa – Phong .
Nhân : Có Tinh – Khí – Thần .
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
21
Lịch sử văn hóa Việt Nam
Có 9 ngọn nến , 2 ngọn đặt trước tượng trưng cho Nhật – Nguyệt , 7 ngọn để
ở hàng sau tượng trưng cho Thất tinh là chòm sao bắc Đẩu – Quê hương ,
cội rễ của loài người .Trong các lần cúng nên có sớ để tâu trình ( các bạn có
thể in các lá sớ dienbatn đã viết trong Blog này để sử dụng )
Theo tục lệ, cho dầu làm tiệc lớn mấy đi chăng nữa, bữa cúng cũng
phải có chén cơm xới đầy có ngọn, úp lồng một cái chén khác lên trên gọi là
chén cơm lồng cùng trứng gà luộc đã bóc vỏ dẹt ra trên đĩa với một ít hột
muối. Vì thế mới có tên cúng giỗ là "cúng cơm". Những khách khứa cùng bà
con thân thích, trước khi ngồi vào bàn, ván ăn giỗ phải làm lễ dâng cúng với
những lễ vật mình đem tới và lạy trước bàn thờ xong đã.
Trên bàn thờ đèn nhang đã được thắp từ trước khi các thức ăn được
bày lên. Gia trưởng phục sức chỉnh tề, có khi mặc áo thụng, chú trọng xem
xét và rà soát lại các lễ vật có đầy đủ rồi mới bước vào chiếc chiếu trải trước
bàn thờ, lễ bốn lạy, quỳ xuống, hai tay chắp lại vòng ngang trán. Một trong
hai người chấp sự, thường là em hay con cháu gia trưởng, đứng hai bên bàn
thờ, lấy ba nén hương châm lửa thắp, đưa cho gia trưởng vái một vái dài rồi
trao lại đem cắm lên bát hương. Người chấp sự thứ hai mở nút bình rượu, rót

rượu lên ba chén để trên đài, xong đâu vào đó rồi gia trưởng làm lễ khấn.
Lời khấn có những đặc điểm sau:
1. Cáo tri địa điểm hành lễ, từ nước trở xuống xã thôn.
2. Nói rõ con cháu, liên hệ gia đình làm lễ cúng với các món cỗ bàn,
dâng lên hương hồn ai có tên gì, từ trần ngày tháng năm, chôn ở đâu.
3. Mời người có tên giỗ về hưởng, chứng tri lòng thành và phù hộ
cho con cháu được mọi sự tốt lành.
4. Cũng mời tất cả các vị tổ, đọc rõ tên, cùng thân thuộc nội ngoại đã
quá vãng cùng về hưởng lễ cúng.
Khấn xong, gia trưởng cúi xuống, lễ nốt một nữa lạy nữa rồi đứng lên vái ba
vái rồi lùi ra. Tiếp sau đó là những người trong họ tộc, theo thứ tự quan
trọng và hạng bậc vào làm lễ với bốn lạy ba vái. Nếu là lễ tế, thì theo tục lệ
tế lễ thần thánh, tế tổ tiên có ghi các nghi tiết được sắp xếp một cách quy
củ trang trọng. Trước bàn thờ chính có trải bốn chiếc chiếu. Hai bên chiếu
trải, bên phải bàn thờ có án để rượu và đèn nến, bên trái có án để đài rượu và
khay trà. Nghi tiết đầy đủ thường được áp dụng trong một cuộc tế lớn trong
làng xã hay gia đình Phật giáo và Khổng giáo gồm có các thủ tục đại cương,
ghi theo thứ tự tờ xướng lễ như sau:
1. Hành Tế Thánh đại lễ, chấp sự giả các tư kỳ sự (Bắt đầu tế Thánh,
các vị chấp sự phải liệu việc của mình).
2. Khơi chung cổ (Đánh chuông trống thường là ba hồi).
3. Nhạc công tấu nhạc (phường bát âm cử nhạc).
4. Thuế cân, nghệ quán tẩy sơ (Các vị dự tế rửa tẩy, lau tay).
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
22
Lịch sử văn hóa Việt Nam
5. Chánh tế viên tựu vị (Vị chánh tế vào đứng ở chiếu thứ ba).
6. Bồi tế viên tựu vị (Các vị bồi tế vào đứng ở chiếu thư tư).
7. Cử soát tế vật (Hai người chấp sự cầm đèn đưa cho vị chánh tế đi
kiểm soát các lễ vật coi như có sơ suất không).

8. Tham thần cúc cung bái (Chủ tế và bồi tế cùng lạy bốn lạy nhịp
xướng theo nhịp xướng của người xướng tế: hưng là đứng dậy, bái là lạy
theo lối phủ phục toàn thân).
9. Hành sơ hiến lễ. Chánh tế viên nghệ hương án tiền (Làm lễ sơ hiến,
vị chánh tế bước ra ngoài, vòng lên chiếu thứ nhất trước hương án).
10. Quỵ (Vị chánh tế quỳ xuống).
11. Tiến tước (Hai chấp sự đem rượu đến quỳ cạnh chủ tế cho chủ tế
rót. Chủ tế vái rồi đưa cho chấp sự để lên bàn thờ).
12. Phủ phục, hưng bái (Chủ tế khấu đầu, lạy hai lạy).
13. Bình thân, phục vị (Chủ tế đi ra, vòng xuống đứng lại ở chiếu thứ
ba).
14. Nghệ độc chúc sở tại hương án tiền (Chủ tế bước lên chiếu thứ
nhất).
15. Quỵ (Chủ tế quỳ xuống).
16. Chuyển chúc (Hai chấp sự lên bàn thờ đem chúc xuống quỳ bên
cạnh chánh tế).
17. Tuyên đọc (Người đọc chúc quỳ bên cạnh tuyên đọc).
18. Phủ phục, hưng bái (Chủ tế khấu đầu lạy hai lạy).
19. Bình thân, phục vị (Chủ tế về chỗ cũ).
20. Hành Á hiến lễ nghệ hương án tiền (Dâng rượu lần thứ hai như lần
sơ hiến).
21. Phủ phục, hưng bái (Khấu đầu lạy hai lạy).
22. Bình thân, phục vị (Chủ tế về chỗ cũ).
23. Hành Chung hiến lễ nghệ hương án tiền (Dâng rượu lần thứ ba).
24. Bình thân, phục vị (Chủ tế về chỗ cũ).
25. Nghệ tộ sở (Chủ tế lên chiếu lần thứ hai chờ lễ tộ sở).
26. Quỵ (Chủ tế quỳ xuống).
27. Tứ phúc tộ (Chấp sự lên bàn thờ lấy khay rượu thịt được thần hay
gia tiên ban cho chủ tế).
28. Thụ tộ (Chấp sự đưa khay cho chủ tế. Chủ tế đón nhận, uống một

hớp rượu tượng trưng). Khay rượu thịt cho chủ tế mang về sau khi tế xong.
29. Phủ phục, hưng bái (Khấu đầu lạy hai lạy).
30. Bình thân, phục vị (Chủ tế về chỗ cũ).
31. Bình thân điển trà (Chấp sự dâng trà lên bàn thờ).
32. Hành tạ lễ cúc cung bái: (Chủ tế và bồi tế tạ bốn lễ).
33. Bình thân phần chúc (Chủ tế và bồi tế đứng lui ra để người chấp
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
23
Lịch sử văn hóa Việt Nam
sự đốt sớ).
34. Lễ tất (Xong lễ, mỗi người vái ba vái).
Trong lễ này có mấy điều chú ý như sau:
- Khi chủ tế di chuyển đổi chỗ trên các chiếu, từ chiếu dưới lên chiếu
trên thì phải bước ra khỏi chiếu rồi bước lên về phía bên phải của mình, và
khi trở xuống cũng bước ra khỏi chiếu trở về phía bên trái của mình tức là
bên phải của bàn thờ.
- Hai người bồi tế ngoài nhiệm vụ phụ giúp chủ tế trong việc hành lễ
còn có nhiệm vụ thay thế người chủ tế nếu người này vì bất cứ lý do gì
không hành lễ được.
- Khi đốt sớ, mọi người dự tế đều phải đứng quay mặt và ngó vào
chỗ đốt sớ.
Cách thức lạy: ngày nay, cách lạy cũng đã được giản lược, hoặc vì
không hiểu đúng phép người ta hành lễ một cách lấy có với những động tác
vô nghĩa. Đã có xu hướng thay thế lạy bằng những cái "xá", nhất là những
người ăn mặc Âu phục. Rồi đây, có thể tục lạy sẽ bị bỏ dần và mất hẳn trong
mọi lễ nghi trong gia đình cùng ngay cả ở các đền chùa. Thiết tưởng cũng
cần ghi lại một vài nét về tác động của cách lạy với hoài mong lưu lại một
chút cơ sở về sau. Người lạy đứng thẳng, chắp tay lên cao ngang trán, cong
mình xuống, đặt hai tay vẫn chắp xuống chiếu, cúi rạp đầu xuống gần bàn
tay đang chắp (đây là thế phủ phục), cất đầu vào mình thẳng lên đồng thời

co hai tay vẫn lên chắp trước ngực và co đầu gối bên phải lên, đặt bàn chân
phải lên chiếu để sửa soạn đứng dậy, đem hai bàn tay vẫn chắp xuống tì vào
đầu gối bên phải mà đứng lên, chân trái đang quỳ tự nhiên theo cử động chót
này cùng đứng thẳng lên.
Người lạy, trước khi khấn đã lễ bốn lạy, và sau khi khấn từ tư thế quỳ đứng
lên, đã qua như lễ được một nữa lạy, cho nên người ta thường nói là lạy "bốn
lạy rưỡi" là vậy.
Người chịu trách nhiệm cúng
Theo phong tục , con trai trưởng là người có trách nhiệm tổ chức và
cúng.nếu con trai trưởng không còn thì việc cúng giỗ do cháu đích tôn tổ
chức(chỉ khi trưởng nam không may tuyệt tự, không có con trai nối dõi thì
mới đến con thứ). Tuy nhiên, không vì thế mà những người con thứ, cháu
thứ, cháu ngoại bỏ ngày giỗ của ông bà , cha mẹ.Đến ngày giỗ, họ phải tề
tựu ở nhà con trai trưởngvà cũng phải mang đồ lễ cúng tới để gửi lễ.
Cách thức tang ma
Sinh và tử là hai sự kiện quan trọng trong đời của một con người. Đối với
các dân tộc có tục tôn thờ người quá cố ở vùng Đông Á và Đông Nam Á, lễ
tang được xem rất trọng. Riêng đối với người Việt, tang lễ của người cao
niên có địa vị trọng yếu trong gia đình, tang lễ ông bà, cha mẹ lại càng quan
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
24
Lịch sử văn hóa Việt Nam
trọng hơn.
Theo quan niệm phương Đông ngày xưa: sự tử như sự sanh, sự vong như sự
tồn. Sự ở đây là thờ kính. Kính người chết giống như kính người sống. Dù
nghĩa tử là nghĩa tận, nhưng khi người đã mất rồi, người ta vẫn bày biện
cúng kiến, thờ phượng tưởng chừng như người đó vẫn còn sống đâu đây
ngay trong nhà. Thờ cúng không phải để cho người chết về hưởng, mà chính
là bày tỏ sự tưởng nhớ của người sống đối với người chết. Câu thơ của cụ
Nguyễn Đình Chiểu điếu liệt sĩ Phan Công Tòng (Bến Tre): lòng đây tưởng

nhớ đó, mất như còn nói lên ý nghĩa này. Lễ tang là nội dung bước đầu của
tín ngưỡng thờ người chết.
Tuy nhiên, người đời xưa nay ai ai cũng muốn được trường sanh, nên rất
sợ cái chết. Trong ý nghĩa đó, lễ tang luôn mang tính cộng đồng, nhằm dịu
bớt nỗi sợ hãi của cá nhân. Lễ tang với nhiều nghi thức, có sự tham dự của
cộng đồng, mang lại cho người sống cảm giác cái chết được xã hội hóa.
Ông Hồ Sĩ Dương, tức Thọ Mai cư sĩ, đời nhà Lê, phỏng theo sách Văn
Công gia lễ của Chu Hy đời Tống (Trung Quốc) biên soạn giản lược thành
tập Thọ Mai chi lễ, đến nay vẫn còn được vận dụng.
Nghi thức tang lễ gồm một số bước sau:
1. Lễ Mộc dục: Khi người thân hấp hối phải chuyễn đến vị trí trang trọng
nhất trong nhà, lau rửa thân thể và thay áo quần sạch, để nằm trên giường.
Lấy một tấm lụa trắng đắp ngang ngực, khi người thân tắt thở, lấy tấm lụa
này thắt hình con người, để sau khi tẩn liệm treo trước bàn thờ, gọi là thiết
hồn bạch.
2. Lễ Phạn hàm (Khiết xí): Khi người thân tắt thở thì trải chiếu dưới đất đặt
thi hài lên (hạ tịch/hạ thổ) với hy vọng, khi tiếp xúc với khí âm, người chết
có thể sẽ hồi dương, sống lại. Sau đó ít phút khiêng đặt lại trên giường, lấy
đũa cạy mịêng, bỏ vào miệng một nhúm gạo và ba đồng tiền (nhà giàu có,
thì một miếng vàng) dùng một miếng vải đậy mặt, trên bụng dằn một nải
chuối còn xanh, giăng mùng cẩn thận. Trước đầu, để một cái bàn con, trên
bày nhang đèn và một tô cơm (với một hột vịt luộc chẻ ba hoặc ba miếng
chao) có đôi đũa gác ngang và hai chiếc đũa.
3. Lễ Tẩn liệm:
- Tiểu liệm: Thi hài được quấn vải: một dọc, ba ngang.
- Đại liệm: Thi hài được bọc một lần vải theo chiều dọc và năm lần nữa theo
chiều ngang.
4. Lễ Nhập quan: Ở Nam bộ khi trong nhà có người cao tuổi, người ta
thường sắm sẵn một cái quan tài, gọi là cái thọ để dưỡng sanh (sanh thọ),
hoặc sắm đôi ba bộ ván ngựa bằng gỗ tốt, khi cần lấy đóng quan tài, khỏi

mất thì giờ tìm mua.
Sau khi liệm xong, đến giờ tốt, chuyển thi hài vào quan tài, đóng nắp kĩ
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
25

×