Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Luận văn thạc sỹ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ CỪ BẢN BÊ TÔNG CỐT THÉP DỰ ỨNG LỰC ĐỂ BẢO VỆ BỜ SÔNG BỜ BIỂN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.78 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LI
ĐỖ VĂN NHÂN
NGHIÊN CỨU,
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ CỪ BẢN BÊ TÔNG CỐT THÉP
DỰ ỨNG LỰC (PRESTRESSED CONCRETE SHEET PILES)
ĐỂ BẢO VỆ BỜ SÔNG BỜ BIỂN
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT
CHUYÊN NGÀNH CÔNG TRÌNH THỦY LI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN VĂN HẠNH
HÀ NỘI 3-2004
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
Chương I. Tổng quan về vấn đề xói lở ở ĐBSCL
1-1. Đặc điểm tự nhiên khu vực ĐBSCL
1-1-1. Đặc điểm khí tượng
1-1-2. Đặc điểm thuỷ văn sông ngòi
1-1-3. Đặc điểm đòa hình
1-1-4. Đặc điểm đòa chất
1-1-5. Kết luận
1-2. Thực trạng xói lở ở ĐBSCL
1-2-1. Tổng quát tình hình xói lở bờ sông Cửu Long
1-2-2. Xói lở ở những khu vực trọng điểm
1-2-3. Nguyên nhân xói lở
1-2-4. Kết luận
1-3. Các loại kè đã xây dựng để chống sạt lở trong khu vực
1-3-1. Tường cừ bằng gỗ


1-3-2. Tường cừ bằng thép
1-3-3. Tường cừ bằng BTCT
1-3-4. Kết luận
Chương II. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ cừ bản BTCT dự ứng lực để
bảo vệ bờ
2.1. Giới thiệu công nghệ cừ bản BTCT dự ứng lực
2.1.1. Giới thiệu chung
2.1.2. Cấu tạo cừ bản BTCT dự ứng lực
2.1.3. Kết cấu cừ bản BTCT dự ứng lực
2.1.4. Liên kết cừ bản BTCT dự ứng lực
2.1.5. Tiêu chuẩn kỹ thuật
2.2. Các ứng dụng công nghệ cừ bản BTCT dự ứng lực
2.2.1. Các ứng dụng công nghệ cừ bản BTCT dự ứng lực trên
thế giới
2.2.2. Các ứng dụng công nghệ cừ bản BTCT dự ứng lực ở
Việt Nam
2.3. Công nghệ thiết kế cừ bản BTCT dự ứng lực
2.3.1. Tính toán thiết kế cừ
2.3.1.1. Tính toán ổn đònh bản thân từơng cừ bản BTCT
dự ứng lực
A. Phương pháp giải tích
B. Phương pháp đồ giải
C. Phương pháp toán đồ và tra bản
2.3.1.2. Thiết kế cừ bản BTCT dự ứng lực
2.3.1.3. Thiết kế thanh neo, bộ phận giữ neo, dầm ốp tường
2.3.1.4. Kiểm tra ổn đònh tổng thể của tường cừ và đất nền
2.3.1.5. Kết luận
2.3.2. Thiết kế đònh hình cừ bản BTCT dự ứng lực
Dùng phần mềm Sap2000
2.4. Công nghệ thi công cừ bản BTCT dự ứng lực

2.4.1. Chế tạo cừ bản tại nhà máy
2.4.2. Thiết bò thi công
2.4.3. Quy trình công nghê thi công cừ bản BTCT dự ứng lực.
Chương III.Ứng dụng công nghệ cừ bản BTCT dự ứng lực vào xây dựng
công trình kè bảo vệ bờ biển Gành Hào – Huyện Đông Hải –
Tỉnh Bạc Liêu
3.1. Tên công trình, quy mô, nhiệm vụ công trình
3.1.1. Tên công trình và đòa điểm xây dựng
3.1.2. Sự cần thếit phải đầu tư dự án
3.1.3. Nhiệm vụ công trình
3.2. Tính toán thiết kế cừ bản BTCT dự ứng lực
3.2.1. Các tài liệu cơ bản
3.2.2. Thiết kế công trình
3-2-2-1. Các số liệu ban đầu
3-2-2-2. Tính toán các yếu tố sóng do gió
3-2-2-3. Xây dựng các thông số kích thước mặt cắt tường kè
3-2-2-4. Tính toán thiết kế tường cừ chắn sóng
3-2-2-5. Tính toán gia cố kè phía biển
3-2-2-6. Tính toán áp lực sóng
3-2-2-7. So sánh hiệu quả kinh tế giữa phương án BTCT thường
và tường kè bằng cừ bản BTCT dự ứng lực
3.3. Công nghệ thi công cừ bản BTCT dự ứng lực
3.3.1. Chế tạo cừ bản
3.3.2. Vận chuyển cừ bản và thiết bò đến công trình
3.3.3. Thiết bò thi công
3.3.4. Quy trình công nghệ thi công cừ bản BTCT dự ứng lực
3.3.5. Kết luận
Chương IV.Kết kuận và kiến nghò
MỞ ĐẦU
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng đất màu mở có hệ thống sông

rạch ngang dọc chằng chòt chòu ảnh hưởng của thuỷ triều biển Đông và biển Tây.
Với diện tích khoảng 39.000 Km
2
, dân số khoảng 16.400.000 người, trong đó
khoảng 50% dân số sống tập trung ở các vùng đất phù sa ven sông và ven biển.
Mật độ dân số vùng này rất cao lên đến 800 người/km
2
. ĐBSCL có đòa hình tương
đố bằng phẳng, cao độ bình quân từ (+1,00m) ÷ (+1,50m), cao trình đáy sông sâu
nhất (-3,00m) ÷ (-14,00m) (trừ các sông lớn như sông Tiền, sông Hậu, sông Cổ
Chiên, Hàm Luông,…). Đòa chất chủ yếu là nền đất mềm yếu, khả năng chòu lực
kém. Vấn đề xói lở ở ĐBSCL đã và đang gây nên những tổn thất rất lớn, là mối
đe dọi nghiêm trọng đến tính mạng, tài sản của nhân dân và nhà nước trong vùng.
Vì vậy việc nghiên cứu tìm ra các kết cấu giải pháp kỹ thuật hợp lý nhằm bảo vệ
thiệt hại do xói lở gây ra là rất cấp bách.
Việc xây dựng các tường kè bảo vệ chống xói lở đã được áp dụng nhiều
loại kết cấu như : tường kè bằng gỗ, tường kè bằng thép và tường bêtông cốt thép,
nhưng tính chòu lực và tuổi thọ của các kết cấu này không cao vì gỗ chòu lực kém
và bò mục, cừ thép thì hoen rỉ và bò ăn mòn, bêtông cốt thép bò xâm thực và thời
gian thi công kéo dài.
Để khắc phục những nhược điểm trên Nhật Bản đã phát minh ra công nghệ
cừ bản bêtông dự ứng lực, công nghệ này đã được nghiên cứu, ứng dụng nhiều
năm qua ở Nhật Bản và trên thế giới, đã mang lại những hiệu quả rất to lớn và
được áp dụng cho nhiều ngành như : giao thông, thuỷ lợi,…
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài : tác giả tập trung nghiên cứu ứng dụng cừ
bản bêtông cốt thép dự ứng lực vào xây dựng các công trình tường kè bảo vệ bờ
biển, bờ sông ở ĐBSCL, bởi công nghệ này có tính ưu việt sau :
- Độ bền cao: Moment chống uốn lớn, cường độ bêtông đạt R
b
= 650

÷
725
kg/cm
2
(gấp 2
÷
3 lần so với bêtông thường)
- Sản xuất theo dây chuyền công nghiệp nên kiểm soát và đảm bảo chất
lượng vật liệu đồng đều, giảm thiểu các khuyết tật
- Chống xâm thực tốt, đặc biệt trong môi trường nước mặn và chua phèn
- Tiết kiệm vật liệu bêtông do kích thước mặt cắt nhỏ nhưng khả năng chòu
lực cao.
- Rút ngắn thời gian thi công ở hiện trường 40
÷
60% so với công nghệ thi
công tường chắn đúc tại chỗ.
- Tăng mỹ quan cho công trình xây dựng .
- Góp phần giảm khai thác tài nguyên (cát, đá) bảo vệ môi trường.
Luận văn này được hoàn thành tại khoa sau đại học - Trường đại học Thuỷ
Lợi - Năm 2004.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến thầy : PGS.TS NGUYỄN VĂN HẠNH
đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong quá trình thực hiện luận văn. Xin chân thành
cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Thuỷ Lợi, các thầy cô giáo khoa sau đại
học, lãnh đạo Viện khoa học thuỷ lợi Miền Nam, các đồng nghiệp và bạn bè đã
nhiệt tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn này.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ XÓI LỞ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Đồng bằng sơng Cửu Long (ĐBSCL) thuộc Miền Nam Việt Nam chạy từ
hữu ngạn sơng Vàm Cỏ Đơng xuống Cà Mau, bao gồm một phần nhỏ tỉnh Tây
Ninh, phần lớn tỉnh Long An, 10 tỉnh : Tiền Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Bến

Tre, Trà Vinh, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà mau, An Giang, Kiên Giang và TP.Cần
Thơ. Đây là vùng đồng bằng châu thổ rộng lớn của hạ lưu sơng MêKơng.
ĐBSCL phía Bắc giáp CamPuChia ; phía Đơng giáp các tỉnh miền Đơng Nam Bộ
như TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Dương ; phía Nam tiếp giáp với Biển
Đơng ; phía Tây giáp với biển Tây.
Tổng diện tích đất đai có khoảng 3,9 triệu ha, trong đó đất có khả năng đưa vào
trồng trọt khoảng 3 triệu ha, hầu hết là đất phù sa do sơng MêKơng bồi đắp.
Dân số trong tồn vùng là : 16.365.900 người bao gồm nhiều dân tộc như
người Kinh, người Khmer, người Hoa; đa số sống bằng nghề nơng.
1.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN CỦA ĐỒNG BẰNG SƠNG CỬU LONG
1.1.1 Đặc điểm khí tượng
1.1.1.1. Đặc điểm chung:
ĐBSCL có vị trí gần xích đạo, địa hình bằng phẳng và có độ cao trung bình
thấp xấp xỉ mực nước biển, nên hàng năm nhiệt độ đạt 26 ÷ 27
o
C.
Nhìn chung ĐBSCL là khu vực có khí hậu điều hòa nhất so với tồn bộ lãnh
thổ nước ta. Hàng năm khơng gặp thời tiết q lạnh, nhiệt độ thấp nhất khơng xuống
dưới 12 ÷ 13
o
C. Tồn đồng bằng khơng có gió Tây khơ nóng như các địa phương ở
khu vực Miền Trung; ít gặp trường hợp mưa q lớn, lượng mưa 1 ngày lớn nhất
khơng vượt q 250mm. Đặc biệt ở đây ít gặp bão, chỉ bị ảnh hưởng của các cơn bão
với hậu quả là gây mưa và ảnh hưởng mực nước trong hệ thống sơng rạch.
1.1.1.2. Các yếu tố khí tượng .
A. Nhiệt độ khơng khí :
* Nhiệt độ bình qn hàng năm tương đối ổn định trong khoảng 26 ÷ 28
o
C.
* Trong năm, biên độ nhiệt giữa các tháng đạt trên 3

o
C.
+ Thời kỳ nóng nhất trong năm là các tháng III, IV, V. Tháng nóng nhất là
tháng IV có nhiệt độ bình quân là 28.5
o
C.
+ Các tháng XII, I, II là thời kỳ có nhiệt độ thấp trong năm. Tháng mát nhất là
tháng I, nhiệt độ bình quân là 25.5
o
C.
Bảng 1-1. Nhiệt độ tại một số trạm đại diện ở ĐBSCL
TT Trạm T
bq
(
o
C)
T
max
(
o
C)
T
min
(
o
C)
1 Mỹ Tho 27.9 38.9 14.9
2 Cà Mau 26.5 38.3 15.3
3 Rạch Giá 27.3 37.2 14.8
4 Châu Đốc 27.0 38.0 17.0

5 Cần Thơ 26.7 40.0 14.8
B. Độ ẩm không khí:
Bảng 1-2. Độ ẩm tại một số trạm đại diện ở ĐBSCL
TT Trạm
U
bq
(%)
U
max
(%)
U
min
(%)
1 Mỹ Tho 83.0 100 38
2 Cà Mau 85.6 100 25
3 Rạch Giá 82.2 100 28
4 Châu Đốc 81.3 100 32
5 Cần Thơ 82.4 100 27
* Độ ẩm bình quân năm ở khu vực đang xét là 80 ÷ 86%.
+ Mùa khô ( tháng XII đến tháng IV) độ ẩm đạt 74÷85%.
+ Mùa mưa (tháng V đến tháng XI) độ ẩm đạt 77÷89%.
+ Các tháng IX, X là thời kỳ mưa nhiều nên độ ẩm đạt trị số cao nhất trong
năm.
+ Các tháng III,IV nhiệt độ không khí cao và lượng mưa rất nhỏ làm cho độ
ẩm có giá trị thấp nhất trong năm.
C. Mưa:
Xu thế chung trên đồng bằng Nam Bộ, lượng mưa bình quân năm giảm dần từ
bờ biển phía Tây (Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau) sang phía Đông và từ phía Nam (Sóc
Trăng, Bạc Liêu) lên phía Bắc.
B ảng 1-3. Mưa bình quân hàng năm ( Đơn vị: mm/tháng )

Trạm
Tháng Cả
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII năm
Mỹ Tho 5 2 4 38 149 188 186 171 233 267 104 35 1382
Cà Mau 15 8 33 104 266 319 331 366 345 330 189 62 2370
Rạch Giá 9 6 27 87 250 265 294 361 315 290 157 33 2094
Châu Đốc 11 1.5 12 61 142 155 155 183 224 252 121 38 1354
Cần Thơ 17 0 3 15 156 181 196 215 208 185 79 9 1263
Trong năm chia thành 2 mùa rõ rệt :
- Mùa mưa: từ tháng V đến tháng XI, lượng mưa chiếm trên 90% tổng
lượng mưa năm, mưa lớn nhất vào các tháng IX, X.
- Mùa khô: từ tháng XII đến tháng IV năm sau. Mùa này rất ít mưa, đặc biệt các tháng
I, II, III lượng mưa không đáng kể.
1.1.2 Đặc điểm thủy văn:
1.1.2.1. Đặc điểm chung:
Về thủy văn, ĐBSCL chịu ảnh hưởng trực tiếp của dòng chảy sông MêKông,
Sông MêKông chảy vào đến lãnh thổ Việt nam chia làm 2 nhánh là sông Tiền & sông
Hậu , đổ ra biển Đông theo 9 cửa sông .
Đặc điểm nổi bật của chế độ thủy văn ĐBSCL là chế độ dòng chảy bị ảnh
hưởng của thủy triều biển.
- Phía Đông : Thủy triều biển Đông ảnh hưởng vào sâu trong nội đồng qua
hệ thống các cửa của sông Cửu Long là chính: Sông Mỹ Tho ở khu vực Tiền Giang;
sông Ba Lai, Hàm Luông ở khu vực Bến Tre; sông Cổ Chiên ở khu vực Trà Vinh,
Vĩnh Long, Đồng Tháp, Tân Châu; sông Hậu ở khu vực Sóc Trăng, Cần Thơ, Long
Xuyên, Châu Đốc. Trên sông Tiền và sông Hậu, ảnh hưởng thủy triều rõ rệt nhất là ở
phạm vi từ Mỹ Thuận và Cần Thơ trở ra biển. Phía trên lên tới Tân Châu, Châu Đốc
bị ảnh hưởng chủ yếu của lũ thượng nguồn.
- Khu vực Quản Lộ Phụng Hiệp chịu ảnh hưởng của triều biển Đông thông
qua các cửa sông Mỹ Thanh, Gành Hào.
- Phía Tây : Thủy triều biển Tây ảnh hưởng vào khu vực phía Nam và Tây tứ

giác Long Xuyên chủ yếu theo sông Cái Lớn, sông Giang Thành và các cửa kênh ven
QL80 ; vào bán đảo Cà Mau theo một số sông nhỏ như sông Ông Đốc, Bảy Háp, rạch
Cửa Lớn, Trẹm….
Trong năm, hình thành 2 mùa dòng chảy:
- Mùa cạn (từ tháng I đến tháng VI) : Ảnh hưởng của thủy triều biển Đông với
chế độ bán nhật triều không đều chiếm ưu thế. Hàng ngày mực nước lên xuống 2 lần.
Biên độ triều bình quân tháng lớn nhất đạt sấp sỉ 1m tại Tân Châu, Châu Đốc và tới
1.3÷1.5m tại Long Xuyên, từ 2÷2.5m tại Cần Thơ, Mỹ Thuận và tới 3m tại Đại Ngải,
Trà Vinh. Mực nước chân triều tháng thấp nhất thường xuất hiện trong các tháng IV,
V. Phía biển Tây thủy triều ảnh hưởng sâu vào tới tận Ba Đình với chế độ nhật triều là
chính.
- Mùa lũ (từ tháng VII đến tháng XI): Đoạn phía trên của sông Cửu Long ảnh
hưởng của thủy triều giảm dần khi nước lũ từ thượng nguồn sông Mê Kông đổ về.
Các tháng VII, VIII mực nước sông Tiền và sông Hậu tăng nhanh; mực nước bình
quân tháng cao nhất trong mùa lũ thường là tháng IX, X. Thời gian duy trì đỉnh lũ khá
dài, khoảng 50÷60 ngày. Trong thời kỳ lũ lớn, giao động mực nước trong ngày theo
chế độ thủy triều hầu như không còn. Lũ lớn gặp kỳ triều cường ở hạ du cản trở khả
năng tiêu nước của sông Tiền và sông Hậu sẽ tạo nên ngập úng nghiêm trọng khu vực
các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Một phần nước lũ từ sông
Hậu và lũ tràn từ biên giới Campuchia chuyển về phía Tây qua tứ giác Long Xuyên
đổ ra biển Tây.
Sông Mê Kông là một con sông thuộc loại lớn trên thế giới, chế độ dòng chảy
của nó rất phức tạp, hiệu ích của dòng chảy đối với con người rất lớn song tác hại do
nó gây ra cũng vô cùng nghiêm trọng.
1.1.2.2. Dòng chảy Sông Mê kông (Cửu Long) :
A. Sơ lược về lưu vực sông MêKông:
Sông MêKông là con sông lớn và dài nhất Đông Nam Á với các thông số lưu
vực như sau:
- Diện tích lưu vực : 795.000 km
2

- Tổng chiều dài sông chính : 4.220 km
- Tổng lượng dòng chảy năm : 475 x10
9
m
3
- Lưu lượng trung bình năm : 13.974 m
3
/s
- Lưu lượng đỉnh lũ max : 66.700 m
3
/s
- Lưu lượng đỉnh lũ min : 39.800 m
3
/s
- Lưu lượng kiệt nhất : 1.250 m
3
/s
Sông MêKông chảy qua 6 nước: Trung Quốc, Mianma, Lào, Thái Lan,
CamPuChia và Việt Nam.
* Phần thượng lưu:
Dài 1.850km, bắt nguồn từ độ cao 5.000m ở Tây Tạng đến Vân Nam (Trung
Quốc). Lưu vực hẹp, chủ yếu là núi cao, chiếm 19% tổng diện tích lưu vực.
* Phần trung lưu:
Diện tích mở rộng tới Kratier, chiếm 57% tổng diện tích lưu vực. Đoạn này dài
1.800km, có nhiều phụ lưu quan trọng như Nậm Thà, Nậm U, Nậm Suông, Nậm
Kham, Nậm Ngừa, Xê Băng Phác, Xê Don, Xê Cong, Xê Xan, XêRêPoc ở phía tả
ngạn. Phía hữu ngạn có phụ lưu Nậm Mun.
Phần trung lưu là vùng chủ yếu sinh lũ của sông MêKông.
* Phần hạ lưu:
Từ Kratie trở xuống, dài 500km. Sông Tông Lê Sáp ở phía hữu ngạn nối sông

MêKông với Biển Hồ (Biển Hồ có dung tích khoảng 80 tỉ m
3
có tác dụng điều tiết lũ
cho sông MêKông đáng kể).
Từ Kông Pông Chàm qua Tân Châu, Châu Đốc, Cần Thơ, Mỹ Thuận trở ra
biển là vùng châu thổ có địa hình bằng phẳng.
B. Dòng chảy Sông Tiền, Sông Hậu:
a) Lưu lượng:
Lưu lượng bình quân nhiều năm của sông MêKông tại Kratie (CamPuChia) là
13.974 m
3
/s, từ Phnômpenh chia thành Sông Tiền, Sông Hậu lưu lượng chảy vào nước
ta theo tỷ lệ tương đối ổn định : qua Tân Châu là 84÷86% và qua Châu Đốc là 14÷16
%. Tới Vàm Nao, dòng chảy Sông Tiền được sông Vàm Nao chuyển một phần sang
Sông Hậu với tỉ lệ khoảng 30÷34%. Sau Vàm Nao tới Cần Thơ và Mỹ Thuận, tỷ số
lưu lượng 2 sông xấp xỉ nhau.
Số liệu quan trắc dòng chảy từ 1978 đến 1988 cho kết quả lưu lượng và lưu tốc dòng
chảy tại Tân Châu và Châu Đốc như sau:
Bảng 1-4. Lưu lượng và lưu tốc dòng chảy cực trị (1978-1988)
Trạm
Mùa lũ Mùa cạn
Qmax (m
3
/s) Qmin (m
3
/s)
Qmax (m
3
/s) Qmin (m
3

/s) Vmax(m/s)
Xuôi Ngược Xuôi Ngược Xuôi Ngược Xuôi Ngược Xuôi Ngược
Tân
Châu
6120 3298 4750
1960 3285 1479 2667 786 0.79 0.40
Châu
Đốc
1540 1370 1240
946 933 733 782 503 0.56 0.52
Lượng dòng chảy sông Tiền sau Mỹ Thuận bị chia ra các nhánh Cổ Chiên,
Hàm Luông, Ba Lai, Mỹ Tho; trong đó nhánh Cổ Chiên chiếm tỷ trọng lớn nhất.
b) Mực nước:
* Mùa kiệt:
Thủy triều biển Đông có chế độ bán nhật không đều với biên độ lớn (2,5
÷
3m)
ảnh hưởng rất sâu, lên tới tận PhnômPênh. Biên độ triều bình quân tháng lớn nhất đạt
tới 0,9m ở Tân Châu ; 1,1m ở Châu Đốc ; 1,3m ở Chợ Mới và 1,5m ở Long Xuyên ;
tại Cần Thơ, Mỹ Thuận biên độ mực nước hàng ngày đạt tới 4m. Trong một ngày
đêm, mực nước lên xuống 2 lần với 2 chân triều và 2 đỉnh triều không đều nhau.
Chênh lệch triều lên và chênh lệch triều xuống bình quân sấp sỉ nhau ở tất cả các
tháng trong năm .
* Mùa lũ:
Do ảnh hưởng của lũ sông MêKông nên mực nước trên sông Tiền và sông Hậu
tăng lên nhanh chóng. Trong mùa này, ảnh hưởng của nước lũ lấn át hẳn ảnh hưởng
của thủy triều.
Tháng có mực nước bình quân cao nhất trong mùa lũ thường là tháng X, một
số ít năm rơi vào tháng IX. Thời gian duy trì đỉnh lũ khá dài.
Bảng 1-5. Thời gian duy trì các cấp mực nước ở Tân Châu

Năm 1978 1984 1991 1994
H ≥ 4.5m
58 ngày 35 ngày 22 ngày 30 ngày
H ≥ 4.0m
77 ngày 73 ngày 64 ngày 82 ngày
H ≥ 3.5m
93 ngày 93 ngày 81 ngày 90 ngày
Năm 1961 được coi là năm lũ lớn trong lịch sử, mực nước đỉnh lũ (X/1961) tại
Tân Châu là 5,28m, tại Châu Đốc là 4,94m và tại Long Xuyên là 2,85m. Ở hạ lưu, tại
Cần Thơ là 2,09m, tại Mỹ Thuận là 1,96m. Mực nước đỉnh lũ trong nhiều năm có độ
giao động nhỏ : Chênh lệch giữa mực nước lũ năm lớn nhất và năm nhỏ nhất không
quá 2,30m tại Châu Đốc, 1,0m tại Long Xuyên, 2,0m tại Tân Châu và 1,3m tại Chợ
Mới.
1.1.2.3. Chế độ thủy triều biển Đông, biển Tây:
A. Chế độ thủy triều biển Đông:
Thủy triều ven biển Đông (với độ dài khoảng 300km từ Vũng Tàu đến Cà Mau)
có những đặc điểm đồng nhất, ít thay đổi theo chiều dài bờ biển. Chế độ triều bao
trùm là “bán nhật triều không đều” với những đặc điểm cơ bản sau đây:
- Trong năm , thủy triều thường lên cao vào tháng XII, tháng I và xuống
thấp vào tháng VI, tháng VII; tuy nhiên chênh lệch cao độ đỉnh triều giữa các
tháng trong năm không lớn.
- Trong 1 tháng âm lịch có 2 chu kỳ triều, mỗi chu kỳ 15 ngày. Trong 1 chu kỳ
triều, nước lên xuống rất mạnh trong 4÷5 ngày xung quanh ngày rằm và ngày không
trăng. Trong những ngày này biên độ giao động mực nước lớn, mực nước lên rất cao
và xuống rất thấp. Đây gọi là kỳ triều cường. Sau đó là 4÷5 ngày biên độ triều giảm
dần (đỉnh triều hạ thấp dần, chân triều nâng cao dần). Tiếp theo là 4÷5 ngày nước
lên xuống rất yếu, biên độ mực nước nhỏ - gọi là kỳ triều kém.
- Trong 1 ngày đêm có 2 lần nước lên và 2 lần nước xuống (nên gọi là chế độ
bán nhật triều) ; nhưng 2 chân triều và 2 đỉnh triều trong ngày có cao độ không đều
nhau. Một pha dao động triều khoảng 12,4 giờ, một chu kỳ bán nhật là 24,8 giờ; do đó

cứ sau một ngày thì thời điểm xuất hiện chân triều hay đỉnh triều tương ứng chậm đi
gần 1 giờ. Biên độ giao động triều hàng ngày tại Vũng Tàu tới 2,5÷3m, khu vực ven
biển Đông từ cửa Cung Hầu qua cửa Định An xuống Mỹ Thanh, Gành Hào, Cà Mau
biên độ triều đạt giá trị lớn nhất so với các vùng khác. Thời kỳ triều cường biên độ
triều tới 3÷4 m.
B. Chế độ thủy triều biển Tây:
- Thủy triều biển Tây phần lớn có tính chất nhật triều thuần nhất, đôi khi là
nhật triều không đều. Mỗi ngày có 1 lần nước lên và 1 lần nước xuống. Biên độ
thủy triều thuộc loại nhỏ: đạt 0,8m tại cửa Ông Đốc, 1,3m tại Rạch Giá.
- Trong năm từ tháng I đến tháng VI mực nước biển tương đối thấp, từ tháng
VII đến tháng XII mực nước cao hơn. Tuy nhiên, mức độ chênh lệch của mực nước
giữa 2 thời kỳ chỉ khoảng vài chục cm. Mực nước cao nhất thường xuất hiện vào các
tháng từ VI đến tháng XII trùng với mùa mưa lũ.
Do đặc điểm thủy triều có biên độ dao động nhỏ nên ảnh hưởng không sâu
vào các kênh rạch trong nội đồng; khả năng trao đổi nước bị hạn chế do tốc độ dòng
chảy nhỏ.
1.1.2. ĐỊA HÌNH
II Địa hình Đồng bằng sông Cửu Long tương đối bằng phẳng , cao độ trung bình
khoảng (+1,00m)÷(+1,50m) cao nhất khoảng (+3,00m)÷(+4,00m), thấp nhất khoảng
(
±
0,00m)÷(+0,50m).
Khu tả sông Tiền Giang có xu hướng từ Tây Bắc xuống Đông Nam, cao độ
trung bình vùng Tây Bắc khoảng (+1,50m)÷(+2,00m), nơi cao nhất ở ven sông Tiền
có cao độ (+3,00m)÷(+4,00m). Cao độ trung bình vùng Đông Nam
(+0,20m)÷(+1,00m), nơi thấp nhất có thể xuống (
±
0,00m) hoặc thấp hơn nữa. Cao độ
vùng ven biển khoảng trên dưới (+1,00m).
Khu nằm giữa sông Tiền và sông Hậu có hướng dốc chính Tây Bắc - Đông

Nam (hướng chảy của sông Hậu) hướng dốc phụ từ Bắc xuống Nam. Cao trình trung
bình (+1,00m)÷(+1,50m). Có vùng trũng nhỏ cao độ thấp hơn (+0,50m)
÷
(+0,70m) ở
phía Bắc đường Quốc lộ 4. Vùng ven biển nồi lên 1 số giồng lớn có cao độ
(+2,00m)÷(+3,00m).
Khu hữu sông Hậu có thể chia ra 2 vùng địa hình :
- Vùng Tứ Giác Long Xuyên có hướng dốc chính từ Đông Bắc xuống Tây
Nam hướng phụ từ Bắc xuống Nam. Cao độ trung bình mặt đất khoảng (+0,80m) ÷
(+1,20m). Vùng cao nhất nhất ở ven sông Hậu có cao độ trung bình khoảng
(+1,50m)÷(+2,00m), vùng thấp nhất ở ven biển Hà Tiên có cao độ trung bình dưới
(+0,50m).
- Vùng Tứ Giác Long Xuyên, Địa hình khá phức tạp, vùng trũng ở giữa
chạy từ Rạch giá xuống cửa sông Ghềnh Hào, cao dần lên phía sông Hậu và phía U
Minh, Năm Căn. Cao độ trung bình mặt đất khoảng (+1,00m). Ở ven biển có 1 số
giồng nổi lên với cao độ (+2,00m).
1.1.3. ĐỊA CHẤT
Căn cứ vào tài liệu địa chất của các công trình đã khảo sát, chiều sâu hố khoan
đối với cống đầu mối từ 30÷70m, địa chất công trình trong khu vực hay ở những công
trình đã xây dựng gồm các lớp chủ yếu :
+ Lớp bồi tích trẻ : có chiều dày từ 10÷30 m , chủ yếu là bùn sét hữu cơ có xen
kẹp lớp cát mỏng, đất có tính chảy dẻo cao ,khả năng chịu lực kém, không thích hợp
cho việc đặt móng công trình chịu tải trọng lớn.
Các chỉ tiêu cơ lý chính của lớp này trong khoảng sau :
-
Dung trọng tự nhiên : γ
w
= 1.5 ÷1.7 T/m
3


-
Độ sệt B : 0.7 ÷ 2.0
-
Độ bão hòa G : > 95 %
-
Góc ma sát ϕ : 2
o
÷ 10
o
-
Lực chống cắt C : 0.3 ÷ 1.5 T/m
2
+ Lớp bồi tích cổ : chủ yếu là á sét & sét cát, đất có trạng thái nửa cứng đến
cứng , khả năng chịu tải tương đối tốt, phù hợp cho việc chống cọc xử lý nền vào các
lớp này
Các chỉ tiêu cơ lý chính của lớp này trong khoảng sau :
-
Dung trọng tự nhiên : γ
w
= 1.7 ÷2.0 T/m
3

-
Độ sệt B : 0.2 ÷ 0.7
-
Độ bão hòa G : > 90 %
-
Góc ma sát ϕ : 7
o
÷ 22

o
- Lực chống cắt C : 1.0 ÷ 3.0 T/m
2
1.1.4. KẾT LUẬN
ĐBSCL có những đặc điểm nổi bật khác với các vùng khác như Đồng bằng Bắc bộ,
Miền Trung, Miền Đông Nam bộ, Tây nguyên,… cụ thể là :
1.1.4.1. Về khí tượng & thủy văn
+ Khí hậu điều hòa nhất nước, chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa khô từ tháng 12 đến tháng
4 năm sau, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa tập trung đến 90% tổng lượng mưa
cả năm
+ Ít khi có bão , tốc độ gió lớn nhất nhỏ hơn 30 m/s
+ Hầu hết trong vùng chịu ảnh hưởng triều của Biển Đông & Biển tây. Trong
năm còn chia làm 2 mùa, mùa lũ & mùa kiệt. Mùa lũ thường vào tháng 8 đến tháng 11
trong năm. Mực nước cao nhất thường xảy ra trong mùa lũ .
+ Căn cứ vào điều kiện thủy văn có thể chia ra làm 3 khu vực :
- Khu vực 1: khu vực chịu ảnh hưởng lũ là chủ yếu : gồm các tỉnh An
Giang, Đồng Tháp, một phần của tỉnh Cần Thơ, Vĩnh Long, Long An, Tiền
Giang, Kiên Giang.
- Khu vực 2: khu vực chịu ảnh hưởng của triều biển Đơng là chủ yếu gồm
các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, một phần tỉnh Cà mau, Hậu
Giang, Tp. Cần Thơ, Vĩnh Long.
- Khu vực 3: khu vực chịu ảnh hưởng của triều biển Tây là chủ yếu gồm
các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau.
1.1.4.2. Về địa hình
Địa hình tương đối bằng phẳng, cao độ bình qn từ (+1,00m)÷(+1,50m). Về
địa hình phần lòng sơng (ngoại trừ các sơng chính như sơng Tiền, sơng Hậu, Sơng Cổ
Chiên, Hàm lng,…) cao trình đáy sơng sâu nhất khoảng (-14,00m), còn thơng
thường khoảng từ (-3,00m) đến (-10,00m), cao trình bờ sơng khoảng từ (+0,80m) đến
(+2,50)m. Chiều rộng sơng thơng thường < 300m
1.1.4.3. Về địa chất

Địa chất chủ yếu là nền đất mềm yếu, khả năng chịu lực kém, dễ bị biến dạng
chiều dày lớp mềm yếu này có thể thay đổi rất lớn trong vùng từ 10÷50m, trừ một số
vùng cát còn nói chung đất có thành phần hạt sét chiếm tỷ trọng lớn, hệ số thấm thấp.
1.2. THỰC TRẠNG XĨI LỞ Ở ĐỒNG BẰNG SƠNG CỬU LONG
1.2.1. Tổng qt tình hình xói lở bờ.
Qua nghiên cứu phân tích các tài liệu lòch sử, qua điều tra, xem xét, nghiên
cứu các vết tích sạt lở bờ còn lưu lại ngoài thực đòa, kết hợp với nhiều đợt đo đạc,
khảo sát thực tế trong năm 2000, chúng tôi đã xác đònh được vò trí, phạm vi, tốc độ
của 68 điểm sạt lở, dọc theo tuyến bờ sông Tiền và sông Hậu thuộc hệ thống sông
Cửu Long. Trong đó:
• Thống kê theo đơn vò hành chính:
+ Tỉnh Đồng Tháp : 16 điểm
+ Tỉnh An Giang : 20 điểm
+ Tỉnh Tiền Giang : 4 điểm
+ Tỉnh Vónh Long : 10 điểm
+ Tỉnh Bến Tre : 4 điểm
+ Tỉnh Cần Thơ : 6 điểm
+ Tỉnh Sóc Trăng : 1 điểm
+ Tỉnh Trà Vinh : 7 điểm
• Thống kê theo tốc độ sạt lở trung bình hàng năm:
+ Tốc độ sạt lở mạnh (trên 10 m/năm) : 11 điểm
+ Tốc độ sạt lở trung bình (từ 5 đến 10 m/năm) : 32 điểm
+ Tốc độ sạt lở yếu (dưới 5m/năm) : 25 điểm
• Thống kê theo đặc điểm hình thái sông:
+ 18 điểm sạt lở trên đoạn sông cong, gấp khúc
+ 4 điểm sạt lở trên đoạn sông co hẹp đột ngột
+ 6 điểm sạt lở trên đoạn sông nằm tại các cửa phân lưu
+ 12 điểm sạt lở trên các cù lao nằm trong lòng dẫn
+ Các điểm còn lại nằm trên các đoạn sông tương đối thẳng với tốc
độ và phạm vi sạt lở nhỏ.

• Thống kê theo khu vực sông ảnh hưởng chủ yếu của chế độ dòng
chảy thượng nguồn và phần sông ảnh hưởng chủ yếu của chế độ thủy triều
Biển Đông (ranh giới tại Vónh Long đối với sông Tiền còn tại mặt cắt sông
cách Cần Thơ khoảng 30 km về phía hạ lưu đối với sông Hậu ):
+ Phần sông ảnh hưởng của chế độ dòng chảy thượng nguồn có 52
điểm sạt lở
+ Phần sông ảnh hưởng của chế độ thủy triều Biển Đông có 16
điểm sạt lở
Vò trí và mức độ mạnh yếu của các điểm sạt lở bờ trên toàn tuyến sông Cửu
Long giai đoạn trước năm 2000 được thể hiện trên bản đồ thực trạng sạt lở.
Bảng I - 6 thống kê các vi trí sạt lở bờ và các thông số cơ bản trên
toàn tuyến sông Cửu Long giai đoạn trước năm 2000.
1.2.2. Thực trạng xói lở ở những khu vực trọng điểm.
1.2.2.1. Sạt lở bờ sông Tiền, khu vực từ Thường Phước 2 tới hết đoạn sông
phân lạch sau cù lao Long Khánh, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp
Hình 1-1. Sạt lở bờ uy hiếp khu dân cư tại xã Thường Phước
Huyện Hồng Ngự - Tỉnh Đồng Tháp (ngày 18/6/2000)
Đoạn sông dài khoảng gần 20km, với một đoạn sông gãy và một đoạn sông
phân lạch. Đây là đoạn sông đang diễn biến rất phức tạp. Đoạn sông chỉ dài gần
20km nhưng có tới 6 vò trí sạt lở bờ có tốc độ sạt lở hàng năm từ cao và rất cao như
đoạn bờ thuộc đòa phận ấp Thường Phước 2, tốc độ sạt lở hàng năm trên 30m.
Cũng trên đoạn sông này còn có hai vò trí bồi lắng lòng dẫn khá nhanh đã làm cho
chế độ dòng chảy khu vực này trở nên phức tạp, vì thế khu vực này rất cần nghiên
cứu để tìm ra cách giải quyết hữu hiệu.
* Nguyên nhân xói lở bờ trên sông Tiền đoạn Thường Phước, Tân Châu, Hồng
Ngự
Trung tâm đoạn sông Tiền từ Thường Phước đến Hồng Ngự, cách biên giới
Việt Nam Campuchia về phía hạ lưu khoảng 13km. Đây là đoạn sông chòu ảnh
hưởng của chế độ dòng chảy thượng nguồn là chủ yếu, với các điểm xói lở liên
tiếp nhau, xen kẽ nhau. Kết quả xói lở bờ của khu vực xói lở phía thượng lưu ảnh

hưởng trực tiếp tới vò trí, phạm vi và tốc độ xói lở của khu vực kế tiếp.
Nguyên nhân xói lở bờ sông đoạn Thường Phước, Tân Châu và Hồng Ngự
là do lòng dẫn sông ở đây được tạo bởi một điểm nút gấp khúc với góc khoảng
120
o
. Điểm nút gấp khúc này đã làm cho những cù lao, cồn cát nhỏ riêng rẽ, rời
rạc ở lòng sông phía thượng lưu sau nhiều năm dòch chuyển xuống hạ lưu bò giữ
lại, tạo thành một bãi cát rộng lớn (cù lao Mang cá hay còn gọi là cồn liệt só) nằm
phía bờ hữu đối diện với bờ sông Thường Phước. Quan sát đoạn lòng dẫn sông
Tiền từ Thường Phước đến Tân Châu vào những năm 1945 cho thấy; các cù lao,
bãi bồi, cồn cát nằm rời rạc, phân tán, nhưng đến năm 1983 các cù lao, bãi bồi,
cồn cát đã nhập lại tạo thành một cù lao lớn có xu hướng bít cửa kênh Tân Châu -
Châu Đốc. Cù lao lớn tạo thành này nằm ngay phía thượng lưu phía bờ hữu điểm
gấp khúc Tân Châu và càng ngày càng phát triển. Đến nay lòng sông đã bò thu
hẹp, dòng chảy luồng chính với vận tốc rất lớn (cả vào mùa lũ lẫn vào mùa kiệt) bò
ép sát về phía bờ tả (bờ Thường Phước). Mặt khác, khu vực Thường Phước, bờ
sông, lòng sông được cấu tạo bởi các lớp đất sét pha, bùn sét pha, bùn cát pha và
lớp cát hạt nhỏ, cường độ cơ học rất thấp, dễ biến dạng, dễ bò ảnh hưởng bởi các
yếu tố bên ngoài tác động, nên rất dễ bò xói lở khi bò dòng chảy có vận tốc lớn
công phá.
Lưu tốc lớn nhất của dòng chảy ép sát bờ tả sông Tiền khu vực Thường
Phước vào mùa kiệt đạt tới 2m/s còn vào mùa lũ có thể đạt tới 3m/s. Trong khi đó
vận tốc lớn nhất cho phép không xói trung bình của các lớp đất lòng sông, bờ sông
ở đây chỉ đạt tới 0,7m/s. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tốc độ xói lở hàng
năm ở khu vực này đạt tới 30÷50m/năm.
Cũng do đoạn sông cong gấp khúc khu vực Tân Châu Thường Phước đã làm
chặn lại bãi cát lớn bên bờ hữu, phía trên thò trấn Tân Châu do đó, dòng chính bò
dồn ép sang phía bờ tả, theo hướng chảy đâm thẳng sang phía bờ thò trấn Tân
Châu. Hầu như toàn bộ năng lượng dòng chảy sông Tiền tại mặt cắt đầu đoạn gấp
khúc (Thường Phước II) sau khi bò hao tổn một phần năng lượng để thắng lực cản

thủy lực do chảy từ bờ tả Thường Phước sang bờ hữu thò trấn Tân Châu (khoảng
600m), đã công phá đoạn bờ sông thuộc khu vực thò trấn Tân Châu và đem bùn cát
xuống hạ lưu. Do dòng chảy tác dụng trực tiếp vào bờ với góc tác dụng khoảng
120
o
, sau đó bò phản xạ tạo ra dòng chảy khu vực sát bờ hết sức phức tạp (dòng
chảy xáo trộn, dòng chảy xoáy, dòng nhiễu xạ.v.v…). Đòa chất lòng dẫn sông Tiền
tại thò trấn Tân Châu có phần tốt hơn so với các vò trí lân cận, vì đã được cố kết do
nhà cửa, công trình có tải trọng nặng xây dựng lên hàng trăm năm, vì thế mặc dù
bò dòng chảy công phá mạnh song tốc độ xói lở trung bình hàng năm tại khu vực
xói lở thò trấn Tân Châu không lớn. Mấy năm gần đây, xói lở bờ sông khu vực
Thường Phước diễn ra với tốc độ rất nhanh và càng về gần điểm gấp khúc tốc độ
sạt lở càng mạnh. Vì đầu điểm nút gấp khúc bò xói lở, nên dòng chảy đâm vào bờ
sông khu vực thò trấn Tân Châu bò đổi hướng, dẫn đến vò trí xói lở bờ sông khu vực
Tân Châu cũng bò dòch chuyển theo. Điều này được thể hiện rất rõ trên thực tế
trong nhiều năm qua. Phạm vi xói lở bờ khu vực thò trấn Tân Châu đã di chuyển
dần xuống hạ du (trung tâm xói lở năm 1993 ở trước nhà thờ Cao Đài, năm 1996 di
chuyển xuống chợ cũ Tân Châu, còn hiện nay thì trung tâm xói lở đã tiến tới công
viên trước UBND huyện Tân Châu).
Điểm xói lở bờ sông Tiền phía bờ tả khu vực thò trấn Hồng Ngự lại có
nguyên nhân gây ra xói lở bờ không giống với nguyên nhân gây ra xói lở bờ của
đoạn sông Tứ Thường - Thường Phước và Tân Châu. Khu vực xói lở đoạn sông thò
trấn Hồng Ngự nằm phía bờ lõm của đoạn sông vừa cong vừa co hẹp, với chiều
dài đoạn xói lở tới trên 4km, nhưng điểm xói lở có tốc độ cao và nghiêm trọng
nhất là phía thượng lưu và hạ lưu cửa vào sông Sở Thượng.
Lòng dẫn sông Tiền sau khi qua khỏi thò trấn Tân Châu thì tách thành hai
nhánh. Nhánh sông chính đi qua Hồng Ngự đã hướng dòng chảy có vận tốc lớn,
nhất là vào những tháng mưa lũ vào phía bờ lõm làm xói lở một đoạn bờ sông
tương đối dài từ Thường Thới Tiền đến phía thượng lưu cửa sông Sở Thượng. Đoạn
sông Tiền ngay tại cửa sông Sở Thượng bò co hẹp, chòu chế độ dòng chảy hai

chiều, ngoài ra cửa vào sông không thuận dòng, đã tạo nên dòng chảy đáy có vận
tốc rất lớn, tạo nên các xoáy nước và sóng nhiễu xạ công phá lòng sông Tiền và
lòng sông Sở Thượng. Các hố xói sâu cục bộ ở ngã ba cửa vào sông Sở Thượng và
sông Tiền dần dần hình thành. Những hố xói này ngày một phát triển, từ từ được
nhập lại, tiến sát vào bờ sông Sở Thượng, gây mất ổn đònh bờ sông và cuối cùng đi
đến sạt lở.
Vào mùa lũ nước tràn qua biên giới, tràn qua bờø hữu sông Sở Thượng rồi
chảy vào Đồng Tháp Mười, vì thế dòng chảy sông Sở Thượng bò ép vào bờ tả phía
thò trấn Hồng Ngự. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính gây nên hiện
tượng sạt lở bờ sông Sở Thượng phía thò trấn Hồng Ngự vào mùa mưa lũ.
1.2.2.2. Sạt lở bờ sông Tiền, khu vực thò xã Sa Đéc.
Sạt lở bờ sông Tiền khu vực Sa Đéc đã xảy ra nhiều năm mức độ thiệt hại
do sạt lở bờ khu vực này vào loại lớn nhất toàn vùng Đông Nam Bộ và Nam Bộ,
nhưng chỉ về vật chất. Sạt lở bờ nơi đây đã làm thò xã Sa Đéc thu hẹp lại. Đây
chính là một trong những nguyên nhân buộc chính quyền tỉnh phải chuyển về Cao
Lãnh mấy năm trước đây. Sạt lở bờ sông Tiền khu vực thò xã Sa Đéc là đại diện
cho diễn biến sạt lở tại các đoạn sông cong với tính chất đất cấu tạo lòng sông bờ
sông không tốt. Đây còn là đoạn sông đang thi công kè bảo vệ sông Tiền, rất cần
theo dõi để kiểm tra ổn đònh kè cùng hiệu quả thả vật liệu bảo vệ bờ xuống đoạn
sông sâu chòu ảnh hưởng lớn của dòng chảy thủy triều.
• Nguyên nhân xói lở bờ trên sông Tiền đoạn thò xã Séc tỉnh Đồng Tháp
Đoạn sông Tiền từ Cao Lãnh đến Séc là đoạn sông hình chữ S với hai đỉnh
cong: phía dưới Cao Lãnh và chính tại Séc. Qua tài liệu lòch sử, cách đây
100năm, thò xã Séc nằm cách bờ sông Tiền theo đường chim bay trên 2km và
hơn 3,5km theo rạch Nhà Thương. Đến nay sau nhiều năm xói lở bờ sông Tiền đã
tiến sát thò xã Séc (cách thò xã Séc khoảng 200m theo rạch Nhà Thương). Đoạn
sông Tiền khu vực thò xã Séc hiện đang diễn biến theo quy luật phát triển của
đoạn sông cong uốn khúc vùng châu thổ. Bờ lõm ngày càng bò xói lở mạnh còn bờ
lồi ngày càng được bồi thêm. Qua quan sát, nghiên cứu thực đòa cho thấy, vò trí sạt
lở mạnh nhất nằm phía hạ lưu đỉnh cong, bờ lõm càng ngày càng bò thoái lui dần

còn đỉnh cong vừa lùi sâu vào bờ vừa dòch chuyển về hạ du.
Hình 1-2. Sạt lở bờ trên sông Tiền tại phường 3 - Thò xã Sa Đéc
Tỉnh Đồng Tháp (ngày 29/9/2000)
Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng sạt lở bờ đoạn sông Tiền khu vực thò xã
Séc thì nhiều song có thể tóm lược một vài nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân
cơ bản sau:
Dòng chảy từ thượng nguồn có vận tốc rất lớn (nhất là vào mùa lũ) vượt gấp
nhiều lần vận tốc cho phép không xói của đất lòng sông, bờ sông, đã bào mòn
và mang đi một khối lượng đáng kể bùn cát lòng sông, bờ sông. Vì lớp đất bờ
sông (ở lớp dưới) và lớp đất lòng sông là những lớp đất dễ xói lại ở độ sâu lớn,
cho nên dòng chảy sông với vận tốc lớn dễ dàng đào bới lớp đất lòng sông, bờ
sông tạo thành hố xói sâu cục bộ dần dần tiến sát vào bờ, dẫn đến khối đất bờ
bò mất ổn đònh dần và cuối cùng bờ sông bò sạt lở từng khối lớn. Quá trình bào
xói lòng sông, bờ sông, tốc độ sạt lở bờ và vận chuyển bùn cát của khối sạt lở
đổ xuống sông càng được gia tăng vào khoảng thời gian triều rút trong mùa
mưa lũ.
Tại khu vực bờ lở thò xã Séc ngoài những nguyên nhân chính gây nên xói lở
và làm gia tăng tốc độ xói lở là dòng chảy nguồn (đặc biệt là vào mùa lũ), thì
dòng chảy do thủy triều Biển Đông, sóng vỗ bờ do gió chướng, tàu vận tải lớn
đi trên sông, hiện tượng đào đất bờ lở làm gạch, hiện tượng neo đậu tàu bè vô
nguyên tắc và hiện tượng giao thoa giữa dòng chảy thượng nguồn và dòng chảy
thủy triều làm phát sinh sóng nhiễu động, dòng chảy xoáy trên sông cũng là
những nguyên nhân không nhỏ gây ra hiện tượng xói lở bờ và gia tăng tốc độ
xói lở bờ ở khu vực này.
1.2.2.3. Sạt lở bờ sông Hậu, khu vực Thành phố Long Xuyên
Hình 1-3. Sạt lở bờ ở khu vực Tp. Long Xuyên trên sông Hậu-
Tỉnh An Giang (2/ 2/2001)
Long Xuyên một trung tâm kinh tế, văn hóa lớn nhất vùng ĐBSCL, năm
bên bờ sông Hậu trong mấy năm qua do áp lực khai thác các nguồn lợi trên sông
như: nuôi cá bè, giao thông vận tải thủy, khái thác vật liệu xây dựng đặc biệt là

cát xây dựng và tôn nên; xây dựng các công trình kiến trúc có tải trọng lớn bên bờ

×