Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TRIẾT HỌC NHO GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TRONG LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.77 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
CHUYÊN ĐỀ TRIẾT HỌC
“TRIẾT HỌC NHO GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TRONG LỊCH
SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM”
Người hướng dẫn: Gv. Nguyễn Đình Tư
Học viên: Nguyễn Quang Vĩnh
Lớp: Cao học k18A – Nghành QLBVTNR
Khoá học:

Hà Nội, tháng 09 năm 2010
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Triết học Nho giáo của Khổng tử, là một trong những trường phái triết học
chính trị xã hội, tôn giáo lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc được ra đời từ
thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc, nó đã mở đường cho thời kỳ cổ đại, một
thời kỳ có nhiều biến động lớn, toàn diện kéo dài từ thế kỷ thứ VIII tới thế
kỷ thứ III trước Công nguyên (tr. CN) của xã hội Trung Quốc. Học thuyết
Nho giáo do Khổng Tử sáng lập là một kho tàng tri thức về triết học, sử học,
văn học cũng như về phong tục tập quán, nếp sống của đất nước Trung quốc
cổ đại. Khổng Tử đã sưu tập, bảo lưu và nâng cao những giá trị văn hóa của
đất nước Trung hoa cổ đại trong các tác phẩm của mình. Đặc biệt như kinh
thi, kinh thư, kinh lễ. Đồng thời ông đã truyền đạt các tri thức đó cho các thế
hệ học trò của mình. Với tư cách là học thuyết triết học về xã hội và nhân
sinh mà trước hết là một học thuyết chính trị và đạo đức, Nho giáo đã có tác
động mạnh mẽ đến sự phát triển của xã hội Trung Quốc và một số nước
phương Đông trong đó có Việt Nam trên nhiều phương diện, đặc biệt là trên
phương diện tư tưởng văn hoá và phương diện chính trị.
Việt Nam là một nước đã trải qua nhiều thế kỷ, chịu sự đô hộ của các
vương triều phong kiến phương Bắc, hệ tưởng Nho giáo đã có ảnh hưởng
lớn đến đời sống chính trị - xã hội. Trong lịch sử đã có thời kỳ giai cấp


phong kiến Việt Nam lấy tư tưởng Nho giáo làm hệ tư tưởng thống trị xã
hội. Mặc dù có nhiều mặt còn hạn chế song có thể nói nhiều nội dung tư
tưởng của học thuyết Nho giáo đã trở thành cội nguồn và có ảnh hưởng rất
lớn đến sự hình thành và phát triển nền tư tưởng văn hoá của dân tộc Việt
Nam. Với ý nghĩa đó được sự hướng dẫn của Thầy giáo tôi đã tìm hiểu
chuyên đề “Triết học Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với lịch sử tư
tưởng Việt Nam” nhằm có sự hiểu biết sâu hơn về Triết học nói chung và
Triết học Nho giáo nói riêng, những mặt tích cực và tiêu cực của Triết học
Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với tư tưởng Việt Nam từ đó giúp cho
chúng ta có khả năng nhận thức đúng đắn hơn, khách quan hơn về giới tự
nhiên, xã hội và tư duy.
2
PHẦN II
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁ TIẾP CẬN
I. Nội dung
1. Khái lược một số vấn đề chính về sự ra đời của Nho giáo.
1.1. Đặc điểm lịch sử, xã hội Trung quốc thời kỳ cổ đại.
1.2. Một số nội dung cơ bản học thuyết Nho giáo của Khổng tử.
2. Sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đối với tư tưởng Việt Nam
2.1. Con đường hình thành Nho giáo ở Việt Nam
2.2. ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đối với tư tưởng Việt Nam
II. Phương pháp tiếp cận: Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các tài
liệu sẵn có về lịch sử triết học, triết học Nho giáo của Khổng tử để tìm hiểu,
phân tích và làm rõ hơn về Triết học Nho giáo và ảnh hưởng của Triết học
Nho giáo đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam.
PHẦN III
KẾT QUẢ THẢO LUẬN
1. Một số khái lược về sự ra đời của Nho giáo.
1.1. Đặc điểm lịch sử, xã hội Trung quốc thời kỳ cổ đại.
Điều kiện ra đời: Triết học Nho giáo ra đời trong thời kỳ Xuân Thu -

Chiến Quốc, thời kỳ nhà Chu bị suy yếu và có cuộc chiến tranh giữa các
nước chư hầu, thời kỳ biến đổi xã hội, và được phản ánh trường phái triết
học Nho gia (Nho giáo).
Trung quốc là một quốc gia được hình thành từ lâu đời, song phải đến
khoảng thế kỷ thứ XII tr. CN xã hội Trung quốc mới phân chia giai cấp, còn
trước đó là xã hội nguyên thuỷ. Trung Quốc cổ đại trải qua một chế độ xã
hội quá độ lên chế độ phong kiến, xã hội chiếm hữu nô lệ kiểu gia trưởng,
với hình thức xã hội công xã nông thôn. Từ thế kỷ thức VIII đến thế kỷ thứ
III tr. CN là thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ, chế độ tông pháp
của nhà Chu, chuyển sang chế độ phong kiến. Trong đó, nhà nước thống
nhất cai trị nhưng chia thành các khu vực (nước), giao cho các quí tộc thân
thích cai trị. Đứng đầu là nước Tông chủ mệnh danh là Thiên tử. Đứng đầu
các nước nhỏ là Chư hầu, chức cao nhất đó là hầu công. Chư hầu không
được xưng vương và có nghĩa vụ phải phục tùng Tông Chủ.
3
Từ thế kỷ VIII tr.CN xã hội Tông chủ có nhiều biến động lớn lao,
khủng hoảng kéo dài nhất trong lịch sử trung quốc cổ đại. Các nước chư hầu
nhà Chu phân tranh, thôn tính lẫn nhau, khiến cho xã hội đại loạn hàng trăm
năm. Lịch sử gọi đây là thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc. Đó là bước chuyển
tất yếu của lịch sử.
Về mặt lực lượng sản xuất, thời kỳ này đồ sắt xuất hiện thay cho đồ
đồng, đã đem lại sự phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất nông nghiệp và thủ
công nghiệp. Vào thế kỷ VI-V tr. CN đã xuất hiện những thành thị thương
nghiệp buôn bán xuất, nhập nhộn nhịp ở nước Hán, Tề, Tần, Sở. Sự phát
triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất thúc đẩy kinh tế phát triển đã tác động
đến hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của xã hội. Nhà Chu bị
mất đất, mất dân, địa vị kinh tế ngày càng sa sút và vai trò chính trị ngôi
Thiên tử của nhà Chu chỉ còn là hình thức. Sự phân biệt sang hèn dựa trên
tiêu chuẩn huyết thống của chế độ thị tộc tỏ ra không còn phù hợp nữa mà
đòi hỏi phải dựa trên cơ sở tài sản. Các nước chư hầu nhà Chu không chịu

phục tùng Vương chủ nữa và đưa quân đi thôn tính lẫn nhau tự xưng là Bá;
tầng lớp địa chủ mới lên ngày càng giàu có, lấn át quý tộc, thị tộc cũ thậm
chí còn chiếm cả chính quyền nhà Chu khiến cho xã hội lâm vào cảnh đại
loạn.
Như vậy, từ những biến động trong kinh tế đã dẫn đến sự đa dạng
trong kết cấu giai tầng xã hội. Nhiều giai tầng mới xuất hiện, giai tầng mới-
cũ đan xen và mâu thuẫn ngày càng gay gắt, đó là:
+ Mâu thuẫn giữa tầng lớp địa chủ mới lên có tư hữu tài sản, có địa vị
kinh tế trong xã hội mà không được tham gia chính quyền với giai cấp quý
tộc, thị tộc cũ của nhà Chu đang nắm chính quyền.
+ Mâu thuẫn giữa tầng lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công, thương nhân
với giai cấp quí tộc nhà Chu.
+ Trong bản thân giai cấp quí tộc nhà Chu có một bộ phận tách ra
chuyển hoá lên giai tầng mới; một mặt họ muốn bảo lưu nhà Chu mặt khác
họ cũng không hài lòng với trật tự của nó. Họ muốn cải biến xã hội hiện tại
bằng con đường cải lương cải cách.
+ Tầng lớp tiểu quý tộc, thị tộc một mặt họ đang bị tầng lớp mới lên
tấn công về chính trị và kinh tế mặt khác họ cũng có mâu thuẫn với tầng lớp
đại quý tộc đang nắm chính quyền.
4
+ Mâu thuẫn giữa nông dân công xã thuộc các tộc người bị người Chu
nô dịch và tầng lớp địa chủ mới lên đang ra sức bóc lột tận dụng sức lao
động của họ.
Đó là những mâu thuẫn của thời kỳ lịch sử đang đòi hỏi giải thể chế
độ nô lệ, thị tộc xây dựng chế độ phong kiến; giải thể chế độ tông pháp giải
phóng lực lượng sản xuất mở đường cho sự phát triển của xã hội. Đất nước
Trung Quốc thời kỳ này đang chuyển mình dữ dội, kinh tế phát triển tầng
lớp dân tự do xuất hiện, đặc biệt là sự ra đời của các thành thị tự do phồn
vinh và những thành quả đạt được trên lĩnh vực khoa học tự nhiên (nhất là
về thiên văn học và y học. Lịch sử gọi đây là thời kỳ “Bách gia chi tử”,

“Bách gia minh tranh”. Chính trong quá trình đó đã sản sinh ra các nhà tư
tưởng vĩ đại trong đó Khổng Tử là một nhân vật kiệt xuất đã để lại dấu ấn
đậm nét trong lịch sử Trung Quốc và của nhiều nước Á Đông trong suốt hai
ngàn năm trăm năm qua.
1.2. Một số nội dung cơ bản của học thuyết Nho giáo của Khổng Tử
Khổng Tử (551- 479 tr. CN) tên là Khâu, hiệu là Trọng Ni, sinh ra ở
ấp Trâu nước Lỗ, trong một gia đình quý tộc nhỏ bị sa sút. Người kế tục nổi
tiếng của Khổng tử là Mạnh Tử (372-289 tr. CN) và Tuân Tử (313-238 tr.
CN). Thời kỳ này trật tự lễ pháp cũ của nhà Chu đang bị đảo lộn. Đứng trên
lập trường của bộ phận cấp tiến trong giai cấp quý tộc nhà Chu, ông đã chủ
trương lập lại pháp chế kỷ cương bảo vệ địa vị chính trị cho giai cấp mình và
không tiến hành cách mạng, Khổng Tử hệ thống hoá những tri thức, tư
tưởng đời trước và quan điểm của ông thành học thuyết đạo đức - chính trị
nổi tiếng gọi là Nho giáo. Những nội dung tư tưởng cơ bản của triết học Nho
giáo được thể hiện như sau:
- Về thế giới quan: Nho giáo ít bàn đến vấn đề bản thể luận, ít bàn đến
chuyện quỷ thần, song quan niệm về vũ trụ, nhân sinh là nền tảng của học
thuyết chính trị- đạo đức của họ. Xuất phát từ sự kế thừa, phát triển tư tưởng
kinh dịch của Trung Quốc, ông cho rằng mọi sự vật và hiện tượng biến đổi
không ngừng và biến đổi theo đạo (đường) của nó.
Nho gia thừa nhận có trời hay thượng đế, coi trời đất là gốc của thiên
hạ, nhờ có nó mà mọi vật sinh thành biến hoá quan điểm duy vật. Mặt khác
Khổng Tử lại cho đạo là thiên lý, là huyền bí là định phép sống cho mọi vật
và con người, ông coi đó là thiên mệnh mà con người không thể chống lại
5
được. Trời theo quan điểm của Nho gia là cái lý vô hình linh diệu cương
kiện không thể nào cưỡng lại được. Trời là chúa tể của cả vũ trụ. Nguyên lý
vận hành của trời là: Dịch (biến) - Trung - Hoà - Sinh. Trời có ý chí rất
mạnh, khiến cho mọi sự biến hoá trong thế gian đều hợp lẽ điều hoà sinh
biến. Cái ý chí ấy gọi là thiên mệnh. Theo Khổng tử mọi việc trên đời là do

thiên mệnh cả: Sinh tử tại mệnh, phú quí tại thiên, mệnh trời khó cưỡng.
Khổng Tử còn tin có quỷ thần, song ông cho rằng quỷ thần là khí thiêng của
trời đất, đâu đâu cũng có. Một mặt ông chủ trương tôn kính một mặt ông lại
lánh xa và cảnh giác. Ông nói: Biết kính quỉ thần mà lánh xa nó là người có
trí. Quan điểm của Mạnh Tử phát triển tư tưởng “Thiên mệnh” của Khổng
Tử, ông cho rằng: “Chẳng có việc gì xảy ra mà không do mệnh Trời. Mình
nên tuỳ thuận mà nhận lấy cái mệnh ấy,…”, trái với Khổng Tử và Mạnh Tử,
Tuân Tử cho rằng: đạo Trời luôn diễn ra theo lẽ tự nhiên nhất định, không
liên quan đến đạo người, Trời không thể quyết định được vận mệnh của con
người.
- Quan điểm về người: Khổng tử cho rằng thiên - địa - nhân vừa nhất
thể, vừa khác biệt; thiên nhân hợp nhất, thiên nhân tương phản (vừa đồng
vừa dị). Khổng tử cho rằng con người lưu hành trong thiên lý giống như đàn
cá vẫy vùng trong dòng nước. Cá có năng lực vẫy vùng trong nước nhưng
vẫn cứ phải trôi dạt trong dòng nước vậy. Đây là sự khác biệt giữa Nho giáo
với Đạo giáo và Phật giáo. Đạo giáo coi con người sống tuân thủ tuyệt đối
theo đạo theo tự nhiên. Con người hành động hoàn toàn theo sự xui khiến
của trời đất. Phật giáo quan niệm con người không có bản ngã riêng (vô
ngã). Còn theo Nho gia tuy vẫn cho rằng ý chí của trời đất là rộng khắp, vô
cùng cương kiên nhưng con người vẫn có sự tự do tương đối trong hành
động. Vì có tính tự do tương đối với trời đất nên con người chết không phải
là hết, trở thành hư vô tuyệt đối. Người ta chết đi vẫn để lại cái tinh thần. Do
có sự đồng thể giữa thiên - địa - nhân nên con người có thể biết được thiên
mệnh. Biết được thiên lý cho nên có thể hoá dục được trời đất. Quan niệm
về bản chất của con người vừa mang bản chất tự nhiên, vừa mang bản chất
xã hội, tuy nhiên theo quan điểm của Khổng tử thì con người mang bản chất
xã hội nhiều hơn. Đây là quan điểm phù hợp với quan điểm duy vật biện
chứng của Triết học Mác - Lê nin khi cho rằng con người là tổng hoà các
mối quan hệ xã hội. Quan điểm về nhân sinh quan của Nho gia được thể
6

hiện đậm nét ở bộ ba phạm trù Nhân - Lễ - Chính danh, đó là những phạm
trù trung tâm của toàn bộ học thuyết Nho giáo. Học thuyết về nhân sinh
quan của Nho giáo tập trung giải quyết mối quan hệ giữa người với người.
Họ chú trọng nhiều vấn đề chính trị, đạo đức. Chính trị dựa trên nền tảng
đạo đức. Nho gia đặt đạo đức lên vị trí cao nhất, cao hơn cả tiền tài, địa vị,
cả trí tuệ, đó là điều ít thấy ở phương Tây.
- Phạm trù nhân: Nhân là phạm trù giữ vai trò quan trọng. Con người
là kết quả của sự trung hoà âm dương, nên con người phải “trung dung,
trung thứ” nghĩa là sống đúng với mình và sống phải với người. Theo quan
điểm của Khổng tử phạm trù nhân còn hiểu là yêu người, thương người, là
một phạm trù đạo đức của con người. Quan điểm về nhân là vấn đề cốt lõi
của chủ nghĩa nhân đạo Trung Quốc truyền thống. Tinh thần bác ái, yêu
người và coi con người là trung tâm, lấy dân làm gốc, xã hội là cơ sở. Trước
thực tiễn xã hội nhà Chu đang có sự đảo lộn và cần có sự ổn định và cải tạo
nó, song ông không muốn cải tạo xã hội bằng cách mạng, Khổng Tử chủ
trương “Đức trị” cai trị bằng đạo đức tăng cường giáo dục đạo đức nhân
nghĩa cho con người là điều kiện quan trọng nhất và ông chủ trương “Hữu
giáo vô loại” ông không chỉ là nhà lý luận mà còn là nhà giáo dục lớn. Cho
nên trong học thuyết của mình, về chính trị-xã hội, Khổng Tử chủ trương lấy
Lễ- Nhạc để khiến cho mọi người đạt đến bậc nhân.
“Nhân” còn gồm nhiều tiêu chuẩn đạo đức khác nhau nữa như: trung hiếu
cung kính, khoan hoà, cần mẫn, chính đáng, thật thà, khiêm tốn, dũng cảm,
học gắn với hành, tự trách mình hơn là trách người; thận trọng, biết yêu
người đáng yêu, biết ghét kẻ đáng ghét (giết một người cứu muôn người là
nhân),… Như vậy, đức “nhân” trong Nho giáo không chỉ là thương người
mà thực chất là đạo làm người. “Nhân” bao quát nhiều tiêu chuẩn đạo đức
như vậy nên một người chỉ có một số tiêu chuẩn thì chưa có thể được coi là
người có nhân.
Nho giáo gọi người có nhân là người quân tử để đối lập với kẻ tiểu nhân.
Khổng Tử có nói: “Người quân tử có khi phạm điều bất nhân, chứ chưa thấy

kẻ tiểu nhân làm được điều nhân”. Sự phân biệt đẳng cấp như vậy cũng là
nét đặc biệt trong tư tưởng đạo đức của Nho giáo. Với phạm trù này Mạnh
Tử đưa học thuyết “Tính thiện” ông cho rằng bản tính con người ta là thiện,
còn trái với quan điểm này Tuân Tử đưa ra lý luận “bản tính người là ác”
7
- Phạm trù lễ: theo quan điểm của Khổng Tử nó chỉ bao gồm những
nghi thức qui tắc, qui định, kỷ cương của trật tự xã hội bao gồm: lễ nghi, tế
lễ, cưới xin, ma chay, cả lối cư xử hàng ngày, các qui định về chức tước, về
sau qua các thời đại, quan niệm về lễ được phát triển rộng thêm.
Lễ là những chuẩn mực, chế tài của xã hội đối với mỗi cá nhân, để mỗi
người trong xã hội hành động không phá vỡ các quan hệ xã hội, đảm bảo
cho xã hội ổn định phát triển; lễ là những chuẩn mực đạo đức, phẩm chất,
nhân cách của người quân tử, lễ còn là những nghi thức qui định hành vi ứng
xử của mỗi cá nhân trong cộng đồng xã hội hành động theo danh phận của
mình.
- Phạm trù chính danh: Khổng tử cho rằng để xã hội trật tự trước hết
thực hiện chính danh. “Chính danh có nghĩa là một vật trong thực tại cần
phải cho phù hợp với cái danh mà nó mang”. “Chính danh” là danh (tên gọi
chức vụ, địa vị, thứ bậc của một người) và thực (phận sự của người đó bao
gồm cả nghĩa vụ và quyền lợi) phải phù hợp với nhau. Danh và thực không
phù hợp là loạn danh. Danh và phận của mỗi người, trước hết, do các mối
quan hệ xã hội qui định. Mỗi vật, mỗi người sinh ra đều có công dụng nhất
định và mỗi con người trong hoạt động thực tiễn có một cái danh hợp với
thực, mọi người phải tự ý thức được vai trò, vị trí quyền và nghĩa vụ của
mình trong xã hội mà hành động, nếu danh không hợp với thực dẫn đến loạn
danh, loạn xã hội, vì vậy phải sống cho chính danh.
Các luân đã nói rõ danh, phận của từng người. Nếu mỗi người thực hiện
đúng danh, phận đó sao cho “vua ở hết phận vua, tôi ở hết phận tôi, cha ở
hết phận cha, con ở hết phận con,….” thì có “chính danh”.
Ví dụ: Bản chất của ông vua là những điều kiện lý tưởng mà ông vua phải

có, nghĩa là những điều kiện hợp với “vương đạo”, hành động theo vương
đạo thì ông vua vừa hợp với danh và vừa hợp với thực đó mới là ông vua.
Trong xã hội mỗi cái danh đều bao hàm một số trách nhiệm và bổn
phận mà những cá nhân mang danh ấy phải có những trách nhiệm và bổn
phận phù hợp với danh ấy, đây là ý nghĩa của thuyết chính danh của Khổng
Tử.
Cho nên nguyên tắc của xã hội có lễ là: Chính danh, định phận vĩ hoà vi quí.
Tư tưởng chính danh cho thấy, Nho giáo chủ trương củng cố sự phân chia
đẳng cấp, thần thánh hoá tầng lớp trên: Quân tử, quân vương biến mọi lời
8
khen thưởng thành ân huệ, trừng phạt thành quyền uy của các tầng lớp cai
trị.
Thuyết chính danh: “Quân - quân; Thần - thần; Phụ - phụ; Tử - tử”
Từ học thuyết chính danh, Khổng Tử chia xã hội thành các mối quan hệ, mỗi
quan hệ gọi là 1 luân, có 5 luân quan trọng thể hiện: “Vua - tôi; Vợ - chồng;
Cha - con; Anh - em; Bạn - hữu”. Ba mối quan hệ đầu quan trọng nhất, gọi
là tam cương (kỷ cương quan trọng). Từ “ngũ luân” Khổng Tử nêu lên 11
đức lớn: Vua nhân, tôi trung, cha từ, con hiếu, anh lành, em đễ, chồng có
nghĩa, vợ vâng lời, trưởng có ân, ấu ngoan ngoãn, với bạn hữu phải có đức
tín.
Con người sống phải theo cái ngũ thường (5 điều thường ngày con người
thực hiện) đó là: “Nhân, nghĩa, trí, tín, dũng”.
- Quân (vua) không thực hiện cha truyền con nối, chọn người tài làm vua,
vua gưỡng mẫu, liêm chính, biết chăm dắt dân, có lòng tin đối với với dân.
- Tôi (thần) trung với vua hiếu với nước “Trung quân ái quốc”
- Cha (Phụ) lấy lòng nhân ái làm trọng, thương yêu con cháu.
- Con (Tử) lấy chữ hiếu làm đầu, thành kính bố mẹ, chăm sóc bố mẹ
già.
- Vợ chồng có nghĩa, đối với phụ nữ: nữ nhi nam hoá, phụ nữ tam
tòng: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”; tứ đức “Công,

dung, ngôn, hạnh”.
Tuy nhiên, Nho giáo cũng đã sớm nhận ra rằng, xã hội muốn ổn định
thì phải hoà mục trên dưới đồng lòng, mỗi cá nhân đều phải có nguyên tắc
xử thế, lấy hoà làm trọng, không đấu tranh với nhau. Khổng tử cho rằng:
Bản nhạc là bản hoà âm của các âm thanh khác nhau. Xã hội phải lấy hoà
làm trọng mới tồn tại được. Đây cũng là nguyên tắc giải quyết mẫu thuẫn
đặc thù của người phương Đông nói chung và của người Trung Quốc nói
riêng.
- Về quan điểm chính trị- xã hội của Nho giáo:
Các Nho gia đều có hoài bão về một chế độ phong kiến có kỷ cương, thái
bình và thịnh trị. “Chính danh” là tư tưởng cơ bản của chính trị Nho giáo
nhằm đưa xã hội loạn trở lại trị. Từ điều lý của vũ trụ là “vạn vật các đắc kỳ
sở”, Khổng Tử cho rằng, xã hội cũng phải có “chính danh”. Một xã hội có
“chính danh” là một xã hội có trật tự kỷ cương, thái bình thịnh trị. Trước sự
9
loạn danh của xã hội Đông chu, Khổng Tử chủ trương chính danh nhằm khôi
phục lại chế độ phong kiến, lấy Tây Chu làm khuôn mẫu.
Đến đời Hán, Đổng Trọng Thư chủ trương kết hợp Nho gia với Pháp gia để
trị quốc, đã duy tâm hoá triệt để thuyết “chính danh”. Mối quan hệ trong các
luân được giải quyết hoàn hảo theo Thiên mệnh, kẻ dưới phải tuyệt đối phục
tùng người trên đến mức: vua xử bề tôi chết, bề tôi phải chết mới là trung;
cha bắt con chết, con phải chết mới là hiếu; chồng nói vợ phải tuyệt đối vâng
theo mới là tiết hạnh,… ba luân được gọi là “tam cương” cùng với những
tiêu chuẩn đạo đức của bề dưới như: trung, hiếu, tiết hạnh,…. được đề cao
hơn cả.
Để chính danh, Nho giáo không dùng pháp trị (bá đạo) mà dùng đức trị-
nhân chính (vương đạo). Đức trị là dùng luân lý đạo đức điều hành guồng
máy xã hội. Từ vua cho tới dân đều thấm nhuần và hành động theo những
tiêu chuẩn đạo đức Nho giáo. Trung tâm của đạo đức Nho giáo là đức
“nhân”. Cốt lõi của “nhân” là “trung thứ”. Khổng tử nói: “đạo ta là do nơi

một lẽ mà suốt thông tất cả… chỉ gom vào hai đức trung và thứ mà thôi”.
“Trung” là cái gốc của đạo làm người: “kỷ dục lập nhi lập nhân”, “kỷ dục
đạt nhi đạt nhân” - nghĩa là không chỉ yêu thương người ái nhân mà còn phải
giúp đỡ, tạo lập cho người thành đạt. “Thứ” là suy mình ra người, là “kỷ sở
bất dục, vật thi ư nhân”- nghĩa là, cái gì mình ghét đừng trao cho người.
“Nhân” còn bao gồm các đức là “lễ”, “nghĩa”, “trí”, “tín”. “Lễ” vừa là cách
thức thờ cúng (lễ bái), vừa là những qui định có tính luật pháp; vừa là những
phong tục tập quán, vừa là một kỷ luật tinh thần - “tự khắc kỷ phục lễ”. Suy
cho cùng, “lễ” chỉ là sự bổ sung và cụ thể hoá của “chính danh” nhằm thiết
lập trật tự xã hội phong kiến. “Nghĩa” là những việc nên làm nhằm duy trì
đạo lý, như ta thường nói “hành hiệp trượng nghĩa”. “Trí” là tri thức, phải có
tri thức mới thành “nhân” được. Vậy, phải “tu thân” để tề gia trị quốc bình
thiên hạ. “Tín” là lời nói và việc làm phải thống nhất với nhau, lời nói phải
đi đôi với việc làm. Có “tín” mới có “tin”, “Một sự bất tín là vạn sự bất
tin”.
Vua (Nhà nước) phải biết dưỡng dân, giáo dân và chính hình. Đây là phương
diện khác của đức trị. Chính hình là hình phạt phải chính đáng. Sở dĩ phải
chính hình, vì theo Nho giáo, trong xã hội còn có tầng lớp “hạ ngu” không
giáo hoá được bằng đạo đức. Dưỡng dân là lo cho dân có cuộc sống no đủ.
Mạnh Tử còn tiến bộ hơn ở tư tưởng “dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc thứ
10
thi”. Ông chủ trương chia ruộng cho dân theo chế độ tỉnh điền. Giáo dân là
giáo dục cho dân đạo lý làm người, thể hiện tư tưởng giáo dục của Nho giáo.
Tư tưởng “trăm năm trồng người” của Khổng tử là nhằm đào tạo người quân
tử lấy đức làm chính - “Tiên học lễ hậu học văn” và phải học đi đôi với
hành. Trong giáo dục, Khổng Tử rất coi trọng sự nêu gương của tầng lớp
vua quan và mở trường học cho dân. “Hữu giáo vô loại” - phải dạy học cho
mọi người không phân biệt đẳng cấp - đây là tư tưởng tiến bộ của Khổng Tử.
Chính ông là người đầu tiên thực hiện tư tưởng này.
Ngoài ra, Nho giáo còn có nhiều tư tưởng về kinh tế, quân sự, ngoại giao,…

Nho giáo lấy đạo đức làm gốc, làm cơ sở cho xã hội và con người, là
mục tiêu của xã hội và là nền tảng của chính trị. Lễ nhạc là phương tiện để
giáo hoá điều nhân. Chính trị là nơi thể hiện vai trò của “Nhân - Lễ - Chính
danh”.
Trong học thuyết của mình, Khổng Tử đề cao vai trò của dân, ông cho
rằng dân là trời, vì dân có sức. Bồi dưỡng sức dân là việc làm muôn thuở của
kẻ cai trị. Tuy nhiên, Nho giáo quan niệm về dân không phải theo nguyên
tắc dân chủ. Dân đối với họ là lực lượng làm cho của cải xã hội dồi dào, nuôi
sống xã hội và bảo vệ đất nước, nhưng dân chính là lực lượng để triều đình
sai khiến, có nghĩa là để phục vụ triều đình và giai cấp thống trị.
Nho giáo phân biệt trong xã hội có hai loại người, người lao tâm giáo hoá
cho dân và người lao lực phục vụ cho Nhà nước. Đó là định mệnh. Dân có
nghĩa vụ phải nuôi sống xã hội, bảo vệ đất nước, dân không chịu lao động,
không chịu đi lính phải trừng trị.
Nho giáo lấy dân để làm cơ sở thi hành chính sự. Lấy đức để cai trị,
khi nào thái quá mới dùng đến hình phạt. Đó là đường lối đức trị. Đương lối
đức trị là bớt hình phạt, nhẹ tô thuế, làm cho dân giàu, dân có học (tiên phú,
hậu giáo). Dân cường thì nước thịnh là nguyên tắc chính sự của Nho giáo.
Khổng Tử ước mơ một xã hội người già có lụa mặc, trẻ con có thịt ăn, xã hội
thái bình, thịnh trị, quốc thái, dân an. Đó là chủ nghĩa nhân đạo, là ước mơ,
là lý tưởng về một xã hội tốt đẹp mà ngay chính ngày nay chúng ta cũng
đang hướng tới. Khổng Tử chủ trương không dùng pháp để cai trị. Ông cho
rằng, nếu dùng hình phạt để chấn chỉnh dân thì dân tạm thời tránh được tội
lỗi nhưng không có liêm sỹ. Nếu dùng đạo đức để dìu dắt, dùng lễ giáo để
chỉnh đốn dân thì dân không những có liêm sỹ mà còn quy phục. Ông đề ra
ý tưởng là làm việc nước phải tôn trọng 5 điều tốt, loại bỏ 4 điều xấu. 5 điều
11
tốt đó là: (i) Đem lợi cho dân mà không tốn của; (ii) Thúc đẩy dân làm việc
mà dân không oán, tức là lựa sức dân mà điều động; (iii) Muốn ở dân điều
nghĩa mà không mang tiếng tham; (iv) An nhiên tự lạc mà không mang tiếng

kiêu kỳ; (v) Uy nghiêm mà không mang tiếng là hung dữ.
Còn 4 điều xấu mà không làm đó là: (i) Không chịu tiến hành giáo dục mà
tiến hành giết chóc gọi là ngược; (ii) Không căn dặn răn bảo mà muốn có
ngay kết quả gọi là bạo; (iii) Lúc đầu trể nải, sau hộc tốc định kỳ hạn gọi là
cướp; (iv) Khi cho ai cái gì so đo biển lận gọi là tiểu khí của viên chức mọn.
Đây cũng là những vấn đề mà cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
- Khổng tử cho rằng thực hành chính trị nhất định phải giữ chính danh. Có
nghĩa làm vua cho ra vua, làm tôi phải ra làm tôi; làm cha phải ra làm cha và
làm con cũng phải xứng với đạo làm con.
- Quan lại triều đình khi thi hành chính trị phải công bằng, ông cho rằng:
“Bất hoạn bần, nhi loạn bất quan”, có nghĩa là không sợ nghèo, chỉ sợ
không công bằng, mà không công bằng thì xã hội loạn lạc, xã hội không phát
triển được.
- Còn đối với kẻ cai trị nước là người quân tử, cho nên tu dưỡng phẩm chất
của người quân tử là vấn đề rất lớn của học thuyết Nho giáo. Quân tử là
người có đầy đủ Nhân - Nghĩa - Lễ - Tín. Quân tử phải là người có đức hiếu
nhân. Người quân tử là người mà kẻ tốt ưa, còn kẻ xấu thì ghét. Đừng nghe
một lời nói hay cho là giỏi và cũng đừng vì người ta nói dở một lần mà
người ta nói điều gì hay mình cũng không nghe.
Để có phẩm chất của người quân tử. Nho giáo yêu cầu người quân tử phải ra
sức tu thân. Tu thân là bồi dưỡng phẩm chất đạo đức mà tiêu chuẩn đầu tiên
là người quân tử phải thương người, yêu dân để có trách nhiệm với dân với
nước.
- Quan điểm của Nho giáo về giáo dục: trước hết là học đạo làm
người, sau đó mới dạy chữ. Tiên học lễ hậu học văn. Khổng Tử là người đầu
tiên trong lịch sử Trung Quốc mở trường tư thục đào tạo nhân tài và các tầng
lớp cai trị cho xã hội.
Như vậy những nội dung cơ bản của học thuyết Nho giáo về vũ trụ
quan, nhân sinh quan và về chính trị xã hội giáo dục tuy có những tiêu cực
hạn chế về lập trường duy tâm khách quan thần bí trong vấn đề bản thể luận,

về quan hệ giữa vũ trụ với con người, về tư tưởng củng cố sự phân chia đẳng
12
cấp, thần thánh hoá tầng lớp trên và tính không tưởng ở một số quan
điểm…. Nhưng học thuyết có nhiều điểm tích cực, có giá trị cho đến ngày
nay và các thế hệ tiếp theo kế thừa và phát huy.
- Về bản thể luận: Khổng Tử tin là có trời. Nhưng với ông, trời khi thì
có ý chí, ý trời là thiên mệnh, không thể “cải được Mạng trời?”, khi thì chỉ là
lực lượng tự nhiên, không có ý chí: “Bốn mùa…. Cứ xây vần mãi; trăm vật
trong võ trụ vẫn sinh hoá mãi. Mà trời có nói gì đâu?”. Đối với quỷ thần,
ông cũng có tư tưởng thiếu nhất quán như vậy. Đến các thế hệ học trò của
ông, trừ Tuân tử, tư tưởng Thiên mệnh được khẳng định và là tư tưởng cơ
bản của Nho giáo chi phối các tư tưởng khác.
Từ kinh nghiệm của mình, Khổng Tử đã tổng kết được nhiều qui luật
nhận thức, chủ yếu là thực tiễn giáo dục và về phương pháp học hỏi, Nho gia
rất quan tâm tới giáo dục và hướng vào rèn luyện đạo đức con người. Tư
tưởng về giáo dục, về thái độ và phương pháp học tập của Khổng Tử chính
là bộ phận giàu sức sống nhất trong tư tưởng Nho gia.
Tóm lại: Nho giáo là một học thuyết đạo đức chính trị nổi tiếng, song
tư tưởng Triết học của Khổng Tử các phạm trù “Nhân”, “lễ”, “trí”, “dũng”,
“chính danh định phận” có nội dung phong phú, thống nhất nhau và luôn
thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội là thành quả kết tinh rực rỡ
trong triết lý của ông, song những yếu tố duy vật và vô thần với những yếu
tố duy tâm, giữa những quan điểm tiến bộ và quan điểm bảo thủ, tính không
nhất quán ấy là cơ sở để các thế hệ sau khai thác, song ông cũng xứng đáng
với lòng suy tôn của nhân dân Trung Quốc gọi ông là “Vạn thế sư biểu”. Với
triết học của Mạnh Tử còn nhiều yếu tố duy tâm thần bí, nhất là những quan
niệm của ông về tự nhiên, về lịch sử xã hội cũng như về luân lý, đạo đức,
nhưng về học thuyết chính trị xã hội với tư tưởng “nhân chính”, “bảo dân”,
… có ý nghĩa tiến bộ, phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của lịch sử xã
hội, ông xứng đáng được hậu thế phong bậc á thánh. Song đối với triết học

của Tuân Tử, tuy còn nhiều yếu tố duy tâm khi lý giải về vấn đề xã hội,
thiếu khách quan khoa học vì liên hệ với lợi ích của giai cấp địa chủ và cung
cấp cho giai cấp này căn cứ lý luận để xây dựng nền trật tự thống trị xã hội.
2. Sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đối với tư tưởng Việt Nam
2.1. Con đường hình thành Nho giáo ở Việt Nam
Việt Nam là một nước đã trải qua gần một ngàn năm dưới sự đô hộ
của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Do vậy, học thuyết Nho giáo có
13
điều kiện thuận lợi để xâm nhập và phát triển ở nước ta. Khi vào Việt Nam,
Nho giáo đã tác động vào sự phát triển của xã hội Việt Nam từ những hoạt
động tư tưởng văn hoá tinh thần và hoạt động chính trị của chính quyền đô
hộ. Sự có mặt của Nho giáo ở Việt Nam vừa là sự áp đặt về tư tưởng và văn
hoá để phục vụ cho lợi ích của chính quyền đô hộ, vừa là một hiện tượng
phù hợp với quy luật giao lưu văn hoá giữa 2 nước láng giềng. Lúc đầu là
những tên cai trị người Hán đến nước ta mở trường học Nho học và cải đổi
phong tục nếp sống của người Việt, bắt người Việt phục vụ cho chính quyền
đô hộ theo nghĩa lễ của Nho giáo. Đồng thời Nho giáo cũng được những tên
quan cai trị người Hán coi là nguyên tắc để cai trị dân và quản lý xã hội,
cũng như để xác định mối quan hệ giữa họ và Hoàng đế Trung Hoa. Trong
suốt thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo là công cụ thống trị của chính quyền đô hộ
và phục vụ cho chính quyền đô hộ, có thể nói sự tác động của Nho giáo đối
với sự phát triển của xã hội nước ta lúc đương thời nói chung là có tính tiêu
cực, đi ngược lại xu thế đấu tranh giành giải phóng của dân tộc Việt Nam.
Nhưng trong tính tiêu cực đó cũng có tính tích cực. Vì sự truyền bá Nho giáo
thường gắn liền với chữ Hán và gắn với sự truyền bá tri thức cả về xã hội lẫn
tự nhiên và những tinh hoa văn hoá nhất là văn học và sử học của Trung
Quốc. Trong hoàn cảnh nước ta chưa có văn tự riêng thì sự du nhập chữ Hán
và những kiến thức đó cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển về tư tưởng văn
hoá tinh thần của nước ta lúc đương thời tiến lên một bước.
Đến thời kỳ độc lập tự chủ của dân tộc ta, thì Nho giáo tồn tại và phát

triển ở nước ta dưới một hình thức khác. Giờ đây, nó không còn là công cụ
tư tưởng và văn hoá của bọn phong kiến thống trị ngoại bang mà nó đã được
cải tạo cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội. Chính vì thế mà trong thời kỳ lịch
sử này, Nho giáo là một hiện tượng văn hoá tinh thần quan trọng tham gia
vào công cuộc xây dựng một nền văn minh Đại Việt.
2.2. ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đối với tư tưởng Việt Nam
Nho giáo du nhập vào nước ta từ những năm cuối tr. CN. Từ cuối thế
kỷ XIII trở đi, Nho giáo dần dần lấn át Phật giáo và trở thành Quốc giáo. Nó
được phát triển trong sự ảnh hưởng của tư tưởng truyền thống Việt Nam và
Phật giáo. Xét một cách tổng hợp trên các phương diện, ảnh hưởng của tư
tưởng Nho giáo đối với tư tưởng Việt Nam có cả mặt tích cực và mặt tiêu
cực.
14
- Mặt tích cực: Nho giáo góp phần xây dựng các triều đại phong kiến
vững mạnh, bảo vệ chủ quyền dân tộc. Tư tưởng của Nho giáo đối với tư
tưởng Việt Nam trước hết đã đưa lại cho đất nước ta một nền giáo dục và thi
cử có nội dung xác định và có tổ chức. Nền giáo dục đó đã đào tạo ra các
tầng lớp Nho sĩ Việt Nam với tư cách là những phần tử tri thức của thời đại,
trong đó có nhiều nhân tài kiệt suất như Nguyễn Trãi, Lê Quí Đôn, Nguyễn
Du, Ngô Thì Nhậm,… Nền giáo dục đó lấy chữ Hán làm văn tự truyền giảng
và phổ biến kiến thức, lấy những pho kinh sử của Nho giáo làm tài liệu
giảng dạy, lấy thơ phú để biểu đạt tư tưởng. Đó là những yếu tố quan trọng
hàng đầu của tư tưởng văn hoá Việt Nam. Nho giáo hướng nhân dân vào con
đường ham tu dưỡng đạo đức theo “Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín”, ham học
tập để phò giúp vua giúp nước. ảnh hưởng chính của Nho giáo là thiết lập
được kỷ cương và trật tự xã hội,… đó là mặt tích cực của Nho giáo.
Có thể nói Nho giáo đã thúc đẩy sự phát triển của tư tưởng văn hoá
Việt Nam trong khuôn khổ của chế độ phong kiến, từ việc mở mang
nền giáo dục thi cử, sáng tác thơ văn cho đến việc biên soạn quốc sử. Không
những thế nó còn để lại dấu ấn sâu sắc trong những bộ hình luật của các

triều đại phong kiến. Nó còn ảnh hưởng đối với nhiều ngành nghệ thuật như
tuồng, chèo, nghệ thuật múa hát cung đình, nghệ thuật kiến trúc ở kinh đô và
các tỉnh lỵ. Nho giáo còn tác động và làm thay đổi những phong tục tập quán
từ thành thị cho đến nơi thôn dã. Nho giáo đã đưa ra một hệ thống những qui
định nghiêm khắc và chặt chẽ để định hướng cho việc tổ chức hôn lễ và tang
lễ, uốn ắn sự giao tiếp ứng xử phù hợp với thân phận của từng hạng người
trong xã hội.
Mặt khác ở Việt Nam, Nho giáo không chỉ thông qua những hoạt
động văn hoá mà tác động vào đời sống xã hội, Nho giáo còn tác động trực
tiếp vào những hoạt động chính trị của nhà nước phong kiến với tư cách là
vũ khí tư tưởng chỉ đạo thực tiễn chính trị. Trước hết, Nho giáo xác định
quyền lực và vị trí tối cao của nhà vua và quan hệ vua tôi một cách nghiêm
ngặt. Trên cơ sở đó, Nho giáo đã đề ra những nguyên lý về tổ chức chính
quyền và quản lý xã hội theo khuôn khổ của chế độ phong kiến. Nho giáo đã
cung cấp những cơ sở lý luận cho việc hoạch định đường lối chính sách của
nhà nước phong kiến.
Như vậy, trong công cuộc dựng nước và giữ nước cũng như sự phát triển
toàn diện của xã hội Việt Nam dưới chế độ phong kiến trung ương tập quyền
15
suốt từ thế kỷ XI cho đến thế kỷ XV đã khẳng định vai trò của Nho giáo
trong xã hội Việt Nam. Nho giáo đã thúc đẩy sự phát triển của xã hội thông
qua hoạt động tư tưởng văn hoá và chính sự du nhập đó đã tác động vào sinh
hoạt văn hoá truyền thống của dân tộc, làm cho văn hoá dân tộc được nâng
cao trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hoá của nước Trung
Hoa cổ đại. Hơn nữa, nó góp phần củng cố và kiện toàn về mặt tổ chức và cơ
chế vận hành của nhà nước phong kiến tập quyền và xúc tiến hình thành
những quan hệ xã hội phù hợp với sự quản lý của loại hình nhà nước đó.
- Mặt tiêu cực: Ngoài những ưu điểm trên Nho giáo góp phần không
nhỏ trong việc duy trì quá lâu chế độ phong kiến, kìm hãm quan hệ kinh tế
tư bản phát triển ở nước ta. Dưới ảnh hưởng của Nho giáo, truyền thống tập

thể đã biến thành chủ nghĩa gia trưởng chuyên quyền độc đoán. Nho giáo
không khuyến khích thúc đẩy sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên,
… Tất cả những mặt tiêu cực đó phản ánh tính chất bảo thủ và lạc hậu của
Nho giáo đối với nước ta.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực trong thời kỳ này Nho giáo biểu
hiện những mặt tiêu cực như: Nho giáo tạo điều kiện cho bệnh giáo điều và
bệnh khuôn sáo phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực tư tưởng và ý thức hệ;
Nho giáo đã làm cho kẻ sỹ coi thường và xa rời sinh hoạt kinh tế và lĩnh vực
đời sống xã hội; các lễ chế của Nho giáo góp phần củng cố chế độ phong
kiến quá khắc nghiệt đã làm tổn hại đến tình cảm hồn nhiên và tính nhân bản
của con người.
Từ thế kỷ thứ XVI trở đi, chế độ phong kiến VN bước vào thời kỳ suy
tàn và thường không có sự ổn định về chính trị. Các tập đoàn phong kiến
tranh đoạt vương quyền và gây ra những cuộc nội chiến tàn khốc. Trước sự
rối loạn như vậy của xã hội Nho giáo tỏ ra bất lực, không giữ được vai trò
giúp vua trị nước, yên dân. Niềm tin của nhân dân và cả của tầng lớp Nho sỹ
đối với Nho giáo bị giảm sút. Những lúc này mầm mống của một xã hội tiến
bộ hơn có thể thay thế chế độ phong kiến vẫn chưa xuất hiện. Do vậy chế độ
phong kiến của nước ta vẫn có lý do để tồn tại, cho nên xã Việt Nam vẫn
phải cần đến Nho giáo. Xét trên bình diện văn hoá thì đến thế kỷ XVIII dân
tộc ta có những bước phát triển mạnh và đạt đỉnh cao về mặt sử học, y học
và nhiều ngành tri thức khác. Có sự phát triển đó cũng nhờ vào sự đóng góp
tích cực của Nho giáo trong việc đào tạo ra những Nho sỹ và việc sử dụng
16
chữ Hán, chữ nôm cùng với những kiến thức Nho học để góp phần tạo ra
những giá trị văn hóa đậm đà màu sắc dân tộc trong thời kỳ này.
Bước sang thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản ở châu âu phát triển và thâm
nhập vào các nước châu á lạc hậu. Đứng trước tình hình ấy chế độ phong
kiến
Việt Nam thời Nguyễn và hệ tư tưởng Nho giáo đã trở nên lỗi thời, cản trở

sự phát triển của xã hội Việt Nam không những trên phương diện chính trị
văn hoá mà cả trên phương diện kinh tế xã hội.
Sau khi thực dân pháp xâm lược thì xã hội Việt Nam trở thành xã hội
thuộc địa nửa phong kiến. Do đó văn hoá phương Tây và hệ tư tưởng tư sản
tràn ngập vào nước ta. Giờ đây Nho giáo suy sụp và đổ vỡ căn bản hơn trước
vì nhà nước phong kiến tự chủ chỗ dựa của Nho giáo không còn và chế độ
khoa cử nhằm tái sản xuất ra tầng lớp Nho sỹ đã chấm dứt. Tuy nhiên, thực
dân pháp vẫn muốn duy trì ở nước ta những quan hệ phong kiến và những
yếu tố của hệ tư tưởng phong kiến để củng cố chế độ thuộc địa vì thế mà
thực dân Pháp đã sử dụng Nho giáo vào việc cai trị dân bản xứ.
Nhìn chung dưới thời Pháp thuộc, Nho giáo cuối cùng vẫn để lại những ảnh
hưởng tiêu cực của nó trong sinh hoạt văn hoá và trong lĩnh vực chính trị xã
hội. Đạo trị nước và đạo làm người không giúp được cho quá trình chuẩn bị
tổ chức thực hiện một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công lập nên Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông nam châu
á đã làm cho Nho giáo ở nước ta suy sụp hoàn toàn cùng với sự suy sụp của
chế độ thuộc địa. Nhưng tàn dư và âm hồn của Nho giáo vẫn còn sống một
cách dai dẳng trong các quan hệ xã hội, trong ứng xử giữa người với người,
trong phong tục tập quán và cả trong nghi thức thờ cúng, tín ngưỡng cổ
truyền của dân tộc. Những tàn dư đó đã tác động vào đời sống xã hội theo
hai hướng tích cực và tiêu cực. Sở dĩ Nho giáo có sự tác động tích cực vào
đời sống xã hội là vì Nho giáo đã tồn tại ở Việt Nam, đã được Việt Nam hoá
và hoà đồng với nền văn hoá Việt Nam để tạo nên những truyền thống tốt
đẹp về mặt tư tưởng, đạo đức, nếp sống mà cho đến nay chúng ta vẫn kế
thừa.
Ngày nay trong thời kỳ cả nước tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước với mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ
17

văn minh thì những tác động những dư âm của Nho giáo vẫn còn tiếp tục do
vậy chúng ta phải chủ động kế thừa một cách có chọn lọc những mặt tích
cực, đồng thời khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực mà Nho giáo để lại.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình Chủ tịch Hồ Chí Minh là một
tấm gương sáng ngời về sự kế thừa có chọn lọc và cải tạo những giá trị của
Nho giáo để phục vụ cho mục đích cách mạng. Người đã sử dụng một cách
khéo léo những khái niệm đạo đức của Nho giáo như: Trung hiếu, liêm sỹ,
cần kiệm,… để giáo dục cán bộ và quần chúng nhân dân. Trong khi sử dụng
những khái niệm của Nho giáo, người đã kiên quyết những gì lạc hậu và
phản động trong đó, để phát huy những nhân tố hợp lý của Nho giáo có lợi
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
18
PHẦN IV
KẾT LUẬN
Qu¸ tr×nh lÞch sö ph¸t triển của các trường phái triết học Trung quốc
thời kỳ cổ đại, Nho giáo là một học thuyết lớn về chính trị và đạo đức, nó có
sức sống mãnh liệt trong đời sống xã hội của đất nước Trung quốc cổ đại và
có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống, tư tưởng chính trị - xã hội và văn hoá
của các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam chúng ta. Do những điều
kiện lịch sử cụ thể mà Việt Nam có sự tiếp thu và cải biến những tư tưởng
triết học của Trung Hoa, đó là một tất yếu lịch sử. Sự ảnh hưởng đó được thể
hiện trên nhiều phương diện, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá. Khi
du nhập vào Việt Nam, Nho giáo đã được Việt Nam hoá và trở thành một
thành tố của nền tư tưởng văn hoá Việt Nam. Nó trực tiếp hoạt động trên
lĩnh vực tư tưởng văn hoá và từ lĩnh vực tư tưởng văn hoá mà tác động vào
sự phát triển của xã hội. Đồng thời Nho giáo cũng là hệ tư tưởng thống trị
của chế độ phong kiến Việt Nam. Những tư tưởng của Nho giáo đã ảnh
hưởng mạnh mẽ, trực tiếp trên các lĩnh vực: văn học nghệ thuật, phong tục
tập quán, tự do tín ngưỡng và những mối quan hệ trong giao tiếp ứng xử
giữa người với người trong xã hội. Đồng thời Nho giáo còn tác động đến sự

phát triển của xã hội thông qua hoạt động chính trị của nhà nước phong kiến
và sự tác động đó càng mạnh khi mà Nho giáo được tôn thờ là hệ tư tưởng
thống trị xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình du nhập và tồn tại ở Việt Nam thì sự tác
động của Nho giáo vào sự phát triển của xã hội Việt Nam có giai đoạn mang
tính tích cực, có lúc thì những tác động đó mang tính tiêu cực, kìm hãm sự
phát triển của xã hội. Sự tác động tích cực hay tiêu cực của Nho giáo trong
lịch sử là phụ thuộc vào bản thân của chế độ phong kiến. Khi xã hội Việt
Nam xác lập chế độ phong kiến tập quyền, phù hợp với yêu cầu xây dựng
nền văn minh Đại Việt, thì Nho giáo có sự tác động tích cực. Trái lại khi chế
độ phong kiến ở Việt Nam suy sụp và không còn vai trò lịch sử nữa thì tác
động của Nho giáo mang tính tiêu cực, trở thành lực cản đối với sự phát
triển văn hoá-xã hội Việt Nam.
Ngày nay, Nho giáo không tồn tại với bộ mặt đích thực và những cơ
chế hoạt động của nó nữa. Bởi vì chỗ dựa của Nho giáo là Nhà nước phong
kiến không còn. Tuy nhiên, tàn dư của Nho giáo vẫn còn tồn tại trong sinh
19
hoạt văn hoá tư tưởng và trong các quan hệ xã hội nước ta. Vì vậy, chúng ta
cần tiếp thu có chọn lọc, thông qua sự phê phán và cải tạo trên lập trường tư
tưởng Mác xít chân chính để có gạt bỏ những yếu tố tiêu cực và sử dụng
những yếu tố tích cực của Nho giáo nhằm phục vụ cho việc xây dựng một xã
hội có kỷ cương trật tự, giữ gìn và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc đẩy lùi hiện tượng tiêu cực là động lực nền tảng cho
sự phát triển phồn thịnh của đất nước.
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học - Tập 1. Dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao
học không thuộc chuyên ngành triết học. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
1995.
2. Giáo trình Triết học Mác - Lê nin. Dùng trong các Trường Đại học và Cao

đẳng. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2004.
3. Hỏi đáp về Triết học Mác-Lênin. Học viện C.Trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
4. Giáo trình lịch sử triết học - GSTS Nguyễn Hữu Vui. Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1998.
5. Tạp chí triết học số 5 năm 2005.
6. Tiểu luận Triết học: Nho giáo và sự ảnh hưởng của nho giáo đối với văn
hoá Việt Nam. Trần Đình Tuấn. Lớp Cao học Chính trị K-11. Học viện Báo
chí Tuyên truyền.
7. Tiểu luận Triết học: Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với văn học nghệ
thuật. Nguyễn Thị Thu Hằng. Cao học Báo chí K-11. Học viện Báo chí
Tuyên truyền.
8. Tiểu luận Triết học: Nho giáo, giáo dục và đào tạo con người Nhân - Lễ.
Nguyễn Thị Hoa. Cao học Báo in K-11. Học viện Báo chí Tuyên truyền.
21

×