Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tiểu luận Vòng đàm phán Uruguay và tầm quan trọng của nó đối với sự ra đời của WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.26 KB, 28 trang )

Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

1




Tiểu luận

Vòng đàm phán Uruguay và tầm quan trọng
của nó đối với sự ra đời của WTO






Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

2


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 4
I. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT - Tổ chức tiền thân của WTO. 5
1. Sự ra đời của GATT 5
2. Khó khăn mà GATT phải đối mặt 6


3. Nhận xét: 7
II. Bối cảnh ra đời vòng đàm phán Uruguay 7
1. Tình hình Kinh tế - Chính trị 7
1.1. Tình hình chính trị 7
1.2. Tình hình kinh tế 7
2. Ý đồ quốc gia và bối cảnh ra đời 8
2.1. Ý đồ quốc gia 8
2.2. Bối cảnh cụ thế 8
III. Mục tiêu của vòng đàm phán Uruguay: 9
IV. Nội dung và kết quả vòng đàm phán Uruguay 10
1. Hiệp định về nông nghiệp 10
1.1. Vấn đề đặt ra 10
1.2. Quan điểm của các nước 10
1.3. Kết quả 11
2. Hiệp định về dệt may 12
2.1. Vấn đề đặt ra 12
2.2. Quan điểm của các nước 12
2.3. Kết quả 12
3. Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) 13
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

3

3.1. Vấn đề đặt ra 13
3.2. Quan điểm của các nước 13
3.3. Kết quả 14
4. Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS) 15
4.1. Vấn đề đặt ra 15

4.2. Quan điểm của các nước 15
4.3. Kết quả 17
5. Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS) 17
5.1. Vấn đề đặt ra 17
5.2. Quan điểm các nước 18
5.3. Kết quả 18
6. Hiệp định Marrakesh về thành lập WTO 19
6.1. Nội dung hiệp định: 19
6.2. Kết quả 19
7. Đánh giá 20
V. Sự ra đời của WTO 20
1. Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời của WTO 20
2. Mục tiêu 21
3. Nguyên tắc hoạt động 21
4. Cơ cấu tổ chức 22
5. Sự khác biệt giữa GATT và WTO 23
6. Thành tựu và hạn chế của WTO 23
7. Việt Nam với WTO 24
8. Đánh giá 25
LỜI KẾT 26

Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

4





LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hóa – xu thế phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại. Bắt nguồn từ những
năm 40 với sự ra đời của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), và đặc
biệt là vòng đàm phán thứ 8- vòng đàm phán Urugoay với dấu mốc lịch sử là sự ra đời
của tổ chức Thương mại thế giới WTO, nó đã và đang tạo nên một sự thay đổi lớn lao
trong nền kinh tế thế giới
Vòng đàm phán Urugoay – “vòng đàm phán của các vòng đàm phán và là vòng
đàm phán tham vọng nhất trong tất cả các vòng đàm phán của GATT”. Nhắc tới vòng
đàm phán nổi tiếng này, người ta không thể không nhắc đến sự ra đời của tổ chức thương
mại thế giới WTO - sự kiện góp phần cho sự phát triển của kinh tế thế giới nói chung và
thương mại quốc tế nói riêng.
WTO - tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra những nguyên tắc thương mại giữa các
quốc gia trên thế giới. Được thành lập ngày 1/1/1995, kế tục và mở rộng phạm vi điều
tiết thương mại quốc tế của tổ chức tiền thân, GATT - Hiệp định chung về Thuế quan
Thương mại, WTO thực hiện mục tiêu tự do hóa mậu dịch, mở đường cho kinh tế và
thương mại phát triển. Dù mới ra đời trong một thời gian khá ngắn nhưng WTO đang
ngày càng tỏ rõ vai trò và tầm quan trọng của mình đối với nền kinh tế toàn cầu.
Sau đây bài tiểu luận của chúng tôi xin được đề cập đến những vấn đề xung quanh
“vòng đàm phán Uruguay và tầm quan trọng của nó đối với sự ra đời của WTO” nhằm
góp phần tìm hiểu sâu hơn sự ra đời của tổ chức Thương mại thế giới WTO trong vòng
đàm phán nổi tiếng Uruguay. Trong quá trình làm bài chúng tôi không thể tránh những
thiếu sót, mong nhận được góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết của chúng tôi được
hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

5

I. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT - Tổ chức tiền

thân của WTO.
1. Sự ra đời của GATT
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT (General agreements on
Tariff & Trade) là tổ chức tiền thân của tổ chức thương mại thế giới WTO.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, ý tưởng ban đầu của các nước là thành lập một
tổ chức thứ ba cùng với hai tổ chức được biết đến là Ngân hàng Thế giới (World Bank)
và Quĩ tiền tệ Quốc tế (IMF) nhằm giải quyết các vấn đề hợp tác kinh tế quốc tế trong hệ
thống "Bretton Woods", hình thành các nguyên tắc thế lệ cho thương mại quốc tế, điều
tiết các lĩnh vực về thương mại hàng hoá, công ăn việc làm, hạn chế và khắc phục tình
trạng hạn chế, ràng buộc thương mại phát triển. Vì vậy kế hoạch đầy đủ được trên 50
nước lúc đó dự định là thiết lập tổ chức thương mại thế giới (ITO) như là một tổ chức
chuyên ngành của Liên hợp quốc (UN).
Trước khi hiến chương này được thông qua, 23 trong số hơn 50 nước tham gia đã
quyết định tiến hành đàm phán để giảm và ràng buộc thuế quan ngay trong năm 1946.
Các nước cũng nhất trí áp dụng ngay lập tức và "tạm thời" một số quy tắc thương mại
trong Dự thảo Hiến chương ITO nhằm bảo vệ giá trị của các nhân nhượng nói trên. Kết
quả là các quy định thương mại và các nhân nhượng thuế quan được đưa vào Hiệp định
chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Ngày 30-10-1947, 23 nước đã ký Nghị
định thư về việc áp dụng tạm thời Hiệp định GATT. Theo đó, các nhân nhượng thuế
quan có hiệu lực từ 30-6-1948.
Trong thời gian đó, Hiến chương ITO vẫn tiếp tục được thảo luận. Tuy nhiên,
quốc hội của một số nước đã không phê chuẩn Hiến chương này. Đặc biệt là Quốc hội
Hoa Kỳ rất phản đối Hiến chương Havana, mặc dù Chính phủ Hoa Kỳ đã đóng vai trò rất
tích cực trong việc thiết lập ITO. Do vậy trên thực tế, Hiến chương này không còn tác
dụng. Mặc dù chỉ là tạm thời nhưng GATT đã trở thành công cụ đa phương duy nhất
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

6


điều chỉnh thương mại quốc tế từ năm 1948 cho đến tận năm 1995 khi Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) ra đời.
2. Khó khăn mà GATT phải đối mặt
Trong quá trình hoạt động GATT đã đạt được rất nhiều thành công tuy nhiên nó
cũng phải đối mặt với không ít khó khăn.
Thứ nhất, thành công của GATT trong việc cắt giảm thuế quan xuống mức thấp
cộng với tác động của suy thoái kinh tế trong suốt thập niên 70 và 80 đã dẫn đến việc
chính phủ các nước đã tiến hành điều chỉnh các hình thức bảo hộ đối với các lĩnh vực
đang phải cạnh tranh với nước ngoài nhằm có thể giữ được ổn định cho nền kinh tế của
họ.
Thứ hai, đến thập niên 80 thì Hiệp định chung không còn đáp ứng được những yêu
cầu thực tiễn của thương mại quốc tế như ở thập niên 40 nữa. Phần lớn GATT chỉ điều
tiết thương mại hàng hoá hữu hình nhưng ngày nay nền kinh tế thế giới đang trong quá
trình toàn cầu hoá mạnh mẽ, thương mại dịch vụ - lĩnh vực không được hiệp định GATT
điều chỉnh đã trở thành lợi ích cơ bản của ngày càng nhiều nước.
Thứ ba, trong một số lĩnh vực của thương mại hàng hoá GATT cũng còn nhiều
bất cập, ví dụ đối với lĩnh vực hàng dệt may các nước đã cùng nhau miễn trừ các nguyên
tắc của GATT và đưa ra một hiệp định mới là Hiệp định đa sợi.
Thứ tư, cơ cấu tổ chức và cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT cũng gây ra
nhiều lo ngại. GATT chỉ là một hiệp định, việc tham gia không mang tính chất bắt buộc
do vậy các nước có thể tuân theo và cũng có thể không. Bên cạnh đó, thương mại quốc tế
trong những năm 80 trở đi đòi hỏi phải có một tổ chức cố định, có nền tảng pháp lý vững
chắc để có thể đảm bảo thực thi các quy định, các nguyên tắc chung của thương mại
quốc tế. Về hệ thống các quy chế giải quyết tranh chấp, GATT cũng chưa có cơ chế chặt
chẽ, chưa có thời gian biểu nhất định do vậy các cuộc tranh chấp thường bị kéo dài, dễ đi
vào ách tắc.
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15


7

3. Nhận xét:
Trong 47 năm tồn tại, thông qua 8 vòng đàm phán, GATT đã có những đóng góp to
lớn vào việc thúc đẩy tiến trình thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại quốc tế . Tuy
nhiên trước những biến động của thời đại, GATT đã không đáp ứng được yêu cầu. Vòng
đàm phán cuối cùng - Vòng Uruguay - đã mở rộng nội dung sang các lĩnh vực thương
mại và liên quan đến thương mại bao gồm: thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ,
đầu tư, sở hữu trí tuệ và kết quả là cho ra đời một tổ chức thay thế cho GATT, đó là
WTO.
II. Bối cảnh ra đời vòng đàm phán Uruguay
1. Tình hình Kinh tế - Chính trị
1.1. Tình hình chính trị
Thời điểm này, tình hình chính trị có những chuyển biến khả quan. Chiến tranh
lạnh giữa hai phe Mỹ - Xô đã dần đi vào hồi kết, tình trạng chạy đua vũ trang chấm dứt,
đem lại những tác động tích cực đến tình hình thế giới. Bên cạnh đó, các nước XHCN đã
có những cải cách mở cửa thị trường, khoa học kĩ thuật phát triển, phục vụ cho đời sống
xã hội và sản xuất. Tuy nhiên, CNXH ở Liên Xô và Đông Âu bộc lộ nhiều khuyết điểm ở
bộ máy nhà nước, tỏ ra lạc hậu hơn nhiều so với TBCN.
Trong thời kì này, có sự thay đổi lớn trong xu thế thời đại với xu thế đối thoại hợp
tác trở thành xu thế chính.
1.2. Tình hình kinh tế
Sự kiện lớn xảy ra trong thời kì này là sự tan rã của Liên bang Xô Viết - một
cường quốc lớn - nước đứng đầu XHCN sau cuộc cải tổ không thành công năm 1991.
Ngược lại với CNXH, CNTB phát huy được những điểm mạnh trong lĩnh vực kinh tế,
nổi bật là Mỹ. (Thời điểm này Mỹ là một trong 3 trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới, gồm
Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản).
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO


Nhóm 15

8

Thời kì này cũng đánh dấu những bước tiến nhảy vọt trong cuộc cách mạng khoa
học công nghệ (đặc biệt những năm 40 của thế kỉ XX) với sự xuất hiện của máy tính điện
tử, công nghệ sinh học, vật liệu mới… Những thành tựu này đã tạo tiền đề cho làn sóng
toàn cầu hóa dâng lên mạnh mẽ. Bên cạnh đó là sự phát triển nhanh chóng của nhóm
nước đang phát triển (Hàn Quốc, Malaisia, Singapore…) làm cho địa vị mỗi nước ngày
càng được nâng cao, càng thôi thúc nhu cầu hợp tác cùng nhau phát triển.
2. Ý đồ quốc gia và bối cảnh ra đời
2.1. Ý đồ quốc gia
Lúc này, những trung tâm tài chính lớn, điển hình là Mỹ luôn tìm cách duy trì trật
tự kinh tế quốc tế có lợi nhất cho mình. Mỹ đã đề nghị yêu cầu mở tiếp một vòng đàm
phán sau vòng đàm phán Tokyo với mục đích: thứ nhất, đối phó với những thế lực bảo
hộ tại Mỹ. Thứ hai, áp đặt tư tưởng chủ nghĩa tự do kinh tế đối với Tây Âu và Nhật
Bản.Thứ ba, giải quyết dứt điểm tranh chấp về nông nghiệp và dịch vụ đối với Tây Âu và
một số nước khác. Cuối cùng, nhằm giải quyết một số vấn đề phát sinh trong nước gây
ảnh hưởng xấu đến kinh tế Mỹ như lạm phát và tỉ lệ thất nghiệp tăng cao.
Các quốc gia Tây Âu cũng ủng hộ vòng đàm phán này diễn ra vì họ nhận thấy lợi
ích của mình nếu được thể chế hóa chính thức trong thương mại quốc tế. Họ có lợi thế
cạnh tranh lớn trong những lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao và vốn đầu tư lớn .
2.2. Bối cảnh cụ thế
Trước vòng đàm phán Uruguay, GATT đã có 7 vòng đàm phán, tuy nhiên những
kết quả trong các vòng đàm phán này chưa thỏa mãn yêu cầu phát triển của thời đại, đặc
biệt với những nước phát triển như Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản. Và những khó khăn mà
GATT phải đối mặt chính là những nhân tố khiến cho các thành viên của GATT tin rằng
cần có những nỗ lực mới nhằm củng cố và mở rộng hệ thống thương mại đa biên.
Tháng 11, năm 1982, ý tưởng vòng đàm phán Uruguay được nhen nhóm tại hội
nghị cấp Bộ trưởng của các nước thành viên GATT ở Gevana. Tuy nhiên phải mất bốn

Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

9

năm, cùng với sự tác động mạnh mẽ của những nước phát triển , vào tháng 9 năm 1986,
vòng đàm phán Uruguay mới được chính thức bắt đầu tại Punta Del Este (Uruguay).
Nhận xét: Nếu như sự thay đổi lớn lao trong bối cảnh kinh tế, chính trị ở các
quốc gia thời kì này cùng với xu thế hợp tác đối thoại đã đặt ra yêu cầu về việc mở thêm
một vòng đàm phán mới nhằm giải quyết những vấn đề mới phát sinh thì ý đồ của các
quốc gia lớn và yêu cầu phát triển của thời đại là những yếu tố chính để hình thành nên
sự ra đời của vòng đàm phán Uruguay.
III. Mục tiêu của vòng đàm phán Uruguay:
Một chương trình làm việc đã được lên kế hoạch tạo nền tảng cho vòng đàm phán
Uruguay , cụ thể:
- Tăng cường nền kinh tế thế giới và thúc đẩy thương mại, đầu tư, tăng việc
làm và thu nhập trên toàn thế giới.
- Giải quyết các vấn đề quan trọng bức xúc của chính sách thương mại, minh
bạch hóa thương mại quốc tế, đồng thời đưa ra một hệ thống giải quyết các tranh chấp
hoàn chỉnh và cơ chế đánh giá chính sách thương mại, nhằm đánh giá tổng thể thường
xuyên, rõ ràng, có hệ thống về các chính sách thương mại của các thành viên GATT, mở
rộng hệ thống thương mại tới một số lĩnh vực mới đặc biệt là thương mại dịch vụ và sở
hữu trí tuệ.
- Nhượng bộ cho xâm nhập thị trường của những sản phẩm nông sản nhiêt
đới với mục tiêu giúp đỡ các nước đang phát triển, tiếp cận thị trường, quy định về chống
bán phá giá và đề nghị thành lập một tổ chức mới.
- Giảm thuế và các biện pháp trợ cấp xuất khẩu, giảm hạn ngạch và các hạn
chế nhập khẩu khác, về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại.
Chúng ta có thể thấy rằng những mục tiêu kể trên của vòng đàm phán Uruguay

không nằm ngoài mục tiêu chung của GATT, có điều nó đi sâu và cụ thể hơn các vấn đề,
tiếp cận tổng thể cho các cuộc thương lượng thương mại và cố gắng giải quyết những
vấn đề còn tồn đọng khúc mắc và tranh chấp giữa các nước, trong đó có việc chỉnh lí và
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

10

mở rộng các vấn đề đã được bàn tại vòng đàm phán Tokyo trước đó. Như hiệp định về
trợ giúp các biện pháp bù trừ, hàng rào kĩ thuật trong thương mại, cấp giấy phép nhập
khẩu….
IV. Nội dung và kết quả vòng đàm phán Uruguay
Cuộc đàm phán được bắt đầu tại Punta del Este Uruguay tháng 9 năm 1986. Vòng
đàm phán kéo dài gần 8 năm, kết thúc vào năm 1994 với sự tham gia của 125 nước.
Chương trình đàm phán bao gồm hầu hết các vấn đề chính sách thương mại còn chưa
được điều chỉnh, nhằm mở rộng hệ thống thương mại đa biên sang một số lĩnh vực mới.
Trong đó, quan trọng nhất là: dịch vụ, sở hữu trí tuệ và cải tổ hệ thống thương mại trong
một số lĩnh vực có tính nhạy cảm cao như hàng nông sản và hàng dệt may, mọi nguyên
tắc về điều khoản ban đầu của GATT đều được rà soát lại. Sau đây bài viết xin đề cập
đến diễn biến 6 hiệp định chính của vòng đàm phán Uruguay.
1. Hiệp định về nông nghiệp
1.1. Vấn đề đặt ra
Trên thế giới diễn ra sự mất cân đối lớn giữa cung và cầu đối với các sản phẩm
nông nghiệp và sự chênh lệch lớn về giá cả giữa thị trường trong nước và thị trường thế
giới. Các nước đang phát triển đang phải hứng chịu những tác động tiêu cực của chủ
nghĩa bảo hộ, còn các nước phát triển thì phải đối mặt với gánh nặng tài chính ngày càng
lớn trong các chính sách hỗ trợ nông nghiệp. Vấn đề đặc biệt gay gắt là sự thiếu hiệu quả
của GATT và bất đồng giữa các nước về tự do hóa nông nghiệp.
1.2. Quan điểm của các nước

Vòng đàm phán Uruguay về nông nghiệp chủ yếu tập trung giải quyết vấn đề tự do
hóa nông nghiệp. Quan điểm của các nước rất khác nhau. EU phản ứng tiêu cực với tự do
hóa nông nghiệp, cho rằng nguyên nhân của các khó khăn đang diễn ra là do sự phát triển
của khoa học kĩ thuật, không phải do chính sách của chính phủ và đề nghị quá trình tự do
hóa nông nghiệp phải được tiến hành theo giai đoạn và tùy theo thị trường của từng loại
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

11

nông sản khác nhau. Còn Mỹ và nhóm Cairns thì ngược lại, cho rằng chính các chính
sách của chính phủ gây nên sự mất cân bằng cung cầu trong nông nghiệp, và mong muốn
xóa bỏ hoàn toàn trợ cấp nông nghiệp và các chính sách hạn chế nhập. Về phía các nước
đang phát triển, các nước yêu cầu phải tính đến lợi ích phát triển của các nước nghèo và
trong quá trình tự do hóa nông nghiệp các nước này cần có sự hỗ trợ thêm từ các nước
phát triển.
Do quan điểm các nước mâu thuẫn nhau nên cuộc đàm phán lâm vào bế tắc. Trước
tình hình đó, giám đốc GATT , ông Dunkel đã dự thảo một hiệp định về với kèm theo
nhiều ưu đãi cho các nước đang phát triển. Vòng đàm phán Uruguay khởi động lại vào
tháng 4 năm 1989, kéo dài đến tháng 12 năm 1990, nhưng Mỹ và EU vẫn không đạt
được thỏa thuận về trợ giá xuất khẩu nông. Tháng 9 năm 1991, một dự thảo thỏa thuận
chung cuộc được đưa ra nhưng bị EU bác bỏ.
Ngày 23/11/1992, Mỹ và EU đạt được thỏa thuận Blair House về nông nghiệp. Thỏa
thuận này bị Pháp phản đối kịch liệt, do đó EU và Mỹ buộc phải thương lượng lại. Và
ngày 15/12/1993 thỏa thuận có lợi cho EU được ký kết.
1.3. Kết quả
Nội dung hiệp định
Sau những nỗ lực của các bên thì Hiệp định về nông nghiệp đã được ký kết nhằm
mục tiêu cải cách thương mại nông sản và làm cho các chính sách nông nghiệp có định

hướng thị trường hơn. Hiệp định nông nghiệp đề cập đến hai vấn để chính:
- Mở cửa thị trường nông nghiệp: thuế quan hóa các biện pháp phi thuế quan, cắt
giảm và ràng buộc thuế quan đối với các mặt hàng nông sản.
- Quy định về khoản trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp trong nước đối với các mặt hàng
nông sản.
Tác động của hiệp định
- Việc mở cửa thị trường sẽ tạo điều kiện cho các nước đang phát triển thâm nhập
sâu vào thị trường các nước phát triển. Việc loại bỏ các biện pháp phi thuế quan
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

12

sẽ khiến cho thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp công khai, minh bạch và có
tính dự báo hơn.
- Tăng khả năng cạnh tranh nông sản của các nước đang phát triển xuất khẩu nông
sản.
- Hàng rào bảo hộ đã được minh bách hóa thông qua quá trình thuế quan hóa tất cả
các biện pháp phi thuế quan.
- Do quy định mức cắt giảm chung chỉ là 36% cho nên các nước phát triển thường
cắt giảm thật nhiều những mặt hàng vốn có mức thuế thấp, đặc biệt là đối với
những mặt hàng chế biến xuất khẩu từ các nước đang phát triển sang các nước
phát triển.

2. Hiệp định về dệt may
2.1. Vấn đề đặt ra
Trong lĩnh vực dệt may, vấn đề lớn nhất là việc xóa bỏ hạn ngạch xuất nhập khẩu.
Các nước phát triển đang áp đặt hạn ngạch lên các nước khác, và điều đó gây ra sự bất
bình từ các nước đang phát triển, yêu cầu tự do hóa lĩnh vực dệt may.

2.2. Quan điểm của các nước
Các nước đều đồng ý việc xóa bỏ hạn ngạch, nhưng không thống nhất được lịch
trình tiến hành việc xóa bỏ này. Các nước đang phát triển và EU không muốn chấm dứt
ngay chế độ hạn ngạch mà nên có quá trình chuyển tiếp. Còn Mỹ và Canada thì đề nghị
chuyển các hạn ngạch sang thuế quan thông qua quá trình thuế hóa như trong nông
nghiệp nhưng Mỹ không đề nghị thời điểm cụ thể.
2.3. Kết quả
Nội dung hiệp định
Những kết quả chính của kết quả Vòng đàm phán này có thể được tóm tắt như sau:
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

13

- Cam kết cắt giảm thuế đối với các sản phẩm công nghiệp của các nước cao hơn
hẳn các cam kết được đưa ra trong Vòng đàm phán Tokyo.
- Các nước đã đồng ý cắt giảm theo giai đoạn những hạn chế trong Hiệp định Ða sợi
(MFA) trong khoảng thời gian 10 năm đến ngày l-1-2005.
Tác động của hiệp định
- Hiệp định sẽ giúp cho các nước đang phát triển mở rộng thị trường hàng dệt may
của họ sang các nước đang phát triển.
- Việc xóa bỏ hạn ngạch sẽ kích thích tiêu dùng tại các nước phát triển, từ đó làm
tăng lượng xuất khẩu của các nước đang phát triển.

3. Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS)
3.1. Vấn đề đặt ra
Trong một số lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ tài chính quốc tế và vận tải biển,
từ hàng thế kỷ nay đã có sự trao đổi xuyên biên giới. Những lĩnh vực khác cũng đang trải
qua những thay đổi dẫn đến việc tham gia ngày càng nhiều hơn của khu vực tư nhân và

sự giảm dần các hàng rào cản trở cho những ai muốn tham gia. Sự phát triển của giao
thông vận tải, thông tin liên lạc và Internet cũng khiến cho ngày càng có nhiều loại dịch
vụ có thể thực hiện được khi người cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ có quốc
tịch khác nhau. Vì vậy vấn đề cấp thiết là cần có một khuôn khổ quốc tế các nguyên tắc
và luật lệ đối với thương mại dịch vụ trên thế giới.
3.2. Quan điểm của các nước
Vòng đàm phán về dịch vụ tập trung vào các vấn đề chính là: các vấn đề liên quan
đến số liệu và định nghĩa về các hoạt động dịch vụ, cơ sở cho các nguyên tắc và luật lệ
chung trong toàn lĩnh vực cũng như trong từng hoạt động dịch vụ cụ thể, phạm vi của
khuôn khổ quốc tế và dịch vụ, các hiệp định quốc tế hiện có về dịch vụ, và các biện pháp
khuyến khích hoặc hạn chế thương mại dịch vụ.
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

14

Quan điểm của các nước phát triển là muốn hình thành một khuôn khổ các luật lệ
và nguyên tắc có tính ràng buộc để quản lý toàn bộ các hoạt động dịch vụ và những luật
lệ nguyên tắc này sẽ được đưa vào trong GATT. Những nguyên tắc và luật lệ mới này sẽ
dựa trên các khái niệm về tính công khai minh bạch, không phân biệt đối xử, đãi ngộ
quốc gia, độc quyền, trợ cấp, đăng ký, tham vấn và giải quyết tranh chấp. Nhưng các
nước phát triển cho rằng không cần thiết phải định nghĩa thế nào là thương mại dịch vụ
vì bản thân GATT cũng không đưa ra định nghĩa về thương mại hàng hóa.
Ngược lại, các nước đang phát triển cho rằng dịch vụ phải được đưa thành một
hiệp định riêng không nằm trong GATT vì họ lo ngại rằng nếu để trong GATT, các nước
phát triển có thể sử dụng các cam kết trong lĩnh vực thương mại hàng hóa để ép các nước
đang phát triển về dịch vụ. Vì vậy họ yêu cầu phải xem xét các hiệp định dịch vụ đã có
như các hiệp định về dịch vụ hàng không và viễn thông quốc tế rồi trên cơ sở đó hình
thành một hiệp định riêng về dịch vụ. Ngoài ra, các nước đang phát triển đề nghị phải

làm rõ khái niệm thương mại dịch vụ, ít nhất cũng phải thống nhất được các loại hoạt
động dịch vụ không nằm trong khái niệm này vì nó không chỉ quan trọng trong xác định
cơ sở cho khái niệm khác như đãi ngộ quốc gia, tối huệ quốc trong lĩnh vực dịch vụ mà
còn giúp hạn chế những khái niệm có tính chủ quan của các nước phát triển sau này.
Tuy nhiên, việc đàm phán về tự do dịch vụ gặp phải hai trở ngại lớn. Thứ nhất là
một số ngành dịch vụ có tính chiến lược như viễn thông, hàng không vẫn còn thuộc độc
quyền của các công ty Nhà nước. Thứ hai là một số ngành dịch vụ vẫn còn chịu sự điều
tiết chặt chẽ của nhà nước như ngân hàng, y tế, xây dựng, pháp lý…
3.3. Kết quả
Nội dung hiệp định
GATS được thiết lập nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh của hệ thống thương mại
đa phương sang lĩnh vực dịch vụ chứ không chỉ điều chỉnh một mình lĩnh vực thương
mại hàng hóa như trước đó.
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

15

Tất cả các thành viên của WTO đều tham gia GATS. Các nguyên tắc cơ bản của
WTO về đãi ngộ tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia cũng đều áp dụng với GATS.
Hiệp định đưa ra những quy định về mở cửa thị trường trong lĩnh vực dịch vụ, và
việc mở cửa thị trường không có sự phân biệt đối xử giữa các nước. Đồng thời, các nước
phải công bố qui định chung và thông báo cho Hội đồng thương mại dịch vụ những biện
pháp có ảnh hưởng tới sự vận hành của GATS.
Tác động của hiệp định
- Hiệp định khiến cho các nước đang phát triển phải chỉ dẫn về dịch vụ công
nghệ, khía cạnh kĩ thuật và thương mại lập đầu mối tiếp xúc có nghĩa vụ cung cấp các
hướng dẫn đặc biệt cho các nhà cung cấp dịch vụ của những nước đó. Nước đang phát
triển có thể trực tiếp đưa yêu cầu thông tin cho các đầu mối tiếp xúc, ngược lại, các nước

phát triển phải đưa thông tin cho chính phủ nước đó.
- Các nước đang phát triển có thể thành lập đầu mối cung cấp thông tin muộn
hơn 2 năm so với thời gian quy định.
4. Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS)
4.1. Vấn đề đặt ra
Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đã thúc đẩy quá trình phát triển
thương mại dịch vụ, tuy nhiên nó cũng đem đến nhiều vấn đề bất cập như việc hàng giả,
hàng nhái… Những vấn đề tiêu cực này không chỉ dừng lại ở việc vi phạm bản quyền mà
còn gây tác động xấu đến thương mại, đòi hỏi phải được điều chỉnh và xử lý.
4.2. Quan điểm của các nước
Vấn đề trọng tâm của quá trình đàm phán về sở hữu trí tuệ là cần hình thành một
khuôn khổ các nguyên tắc chung trong thương mại quốc tế. Quá trình đàm phán tập trung
vào 3 vấn đề chính là các biện pháp đối phó với hàng giả, thương mại liên quan đến sở
hữu trí tuệ và mối liên hệ giữa sở hữu trí tuệ với các lĩnh vực khác.
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

16

Các nước phát triển điển hình như Mỹ, EU, Nhật và Thụy Sĩ cho rằng không nên tách
rời ba vấn đề trên vì thực chất các vấn đề đó chỉ phản ánh một hiện tượng là việc thiếu
một hệ thống hiệu quả bảo vệ sở hữu trí tuệ. Riêng Thụy Sĩ đề nghị bổ sung thêm một số
nguyên tắc về nghĩa vụ của các nước. Trong khi đó Mỹ và Nhật lại cho rằng GATT cần
có thêm phụ lục quy định sự điều chỉnh pháp luật trong các nước thành viên để tuân thủ
việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Về bằng sáng chế, Mỹ cho rằng phải cấp quyền phát minh cho bất cứ sáng chế mới
nào trong khoa học kỹ thuật. Còn EU cho rằng cần loại trừ hai ngoại lệ là phát minh
không phù hợp với an toàn và đạo đức xã hội và phát minh đó có các tác hại sinh học lên
cây trồng và vật nuôi.

Về nhãn hiệu thương mại, theo EU thì cần có những ngoại lệ nhất định liên quan đến
độc quyền nhãn hiệu thương mại, trong khi đó các nước phát triển khác cho rằng phải
loại bỏ hết các ngoại lệ đối với nhãn hiệu thương mại.
Về bản quyền, Mỹ và Nhật đề nghị việc bảo vệ bản quyền phải có giá trị trong suốt
thời gian tác giả của sáng kiến còn sống và 50 năm sau đó. Còn EU cho rằng trong lĩnh
vực phần mềm máy tính thực hiện bảo vệ bản quyền cần ít nhất 25 năm và không nhất
thiết cứ phải thực hiện bằng cách cấp bản quyền.
Còn về phía các nước đang phát triển, mối lo ngại chính của họ là vấn đề sở hữu trí
tuệ có thể làm tăng độc quyền của các tập đoàn xuyên quốc gia và ảnh hưởng tiêu cực
đến quá trình chuyển giao công nghệ cho các nước nghèo, đặc biệt là các phát minh trong
công nghệ sinh học và hoá dược. Các nước đang phát triển phản đối việc đưa vấn đề sở
hữu trí tuệ vào GATT vì họ cho rằng GATT chỉ liên quan đến hàng hoá hữu hình, không
thích hợp để giải quyết vấn đề liên quan đến hàng vô hình. Sở hữu trí tuệ nên được giải
quyết trong WIPO - Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới. Ngoài ra, các nước đang phát triển
cũng cố gắng tách rời các vấn đề liên quan đến hàng giả và sở hữu trí tuệ nói chung và tỏ
ý muốn đàm phán vấn đề hàng giả. Nhưng các đề nghị đó đều bị các nước phát triển
phản đối.
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

17

4.3. Kết quả
Nội dung hiệp định
Hiệp định TRIPS đã làm thay đổi bộ mặt của hệ thống sở hữu trí tuệ thế giới. Về
nguyên tắc bảo hộ sở hữu trí tuệ, Hiệp định TRIPS đòi hỏi mọi quốc gia thành viên của
WTO phải xây dựng hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ theo các tiêu chuẩn tối thiểu thống
nhất. Một cách tổng quát, các tiêu chuẩn tối thiểu ấn định trong Hiệp định TRIPS nhằm
bảo đảm cho mỗi quốc gia thành viên có một hệ thống sở hữu trí tuệ đầy đủ và có hiệu

quả.
Mỗi nước thành viên của WTO có nghĩa vụ dành cho công dân của nước thành
viên khác, theo nguyên tắc đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc, sự bảo hộ và thực thi
quyền sở hữu trí tuệ một cách đầy đủ và có hiệu quả.
Các lĩnh vực của sở hữu trí tuệ được điều chỉnh là: quyền tác giả và quyền liên
quan (tức là quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát
sóng); nhãn hiệu hàng hoá, bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ; chỉ dẫn địa lý, bao gồm cả tên
gọi xuất xứ; kiểu dáng công nghiệp; patent, bao gồm cả bảo hộ giống cây trồng mới;
thiết kế bố trí mạch tích hợp; và thông tin không được tiết lộ, bao gồm cả bí mật thương
mại và dữ liệu thử nghiệm.
Tác động của hiệp định
- Khuyến khích các hoạt động phát minh sáng chế cũng như chuyển giao công
nghệ sang các nước đang phát triển.
- Tạo điều kiện cho các nước đang phát triển xây dựng hệ thống bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ hiệu quả, từ đó khuyến khích được các phát minh sáng chế trong nước.
5. Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS)
5.1. Vấn đề đặt ra
Cùng với quá trình phát triển của thương mại thế giới, dòng lưu chuyển vốn đầu
tư cũng tăng không ngừng. Thực tế đã vượt xa tốc độ tăng trưởng thương mại giữa các
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

18

nước. Cuối thập niên 40 khi xây dựng nên hệ thống thương mại đa biên, người ta cũng
nghĩ đến cơ chế điều tiết đầu tư trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên ý tưởng trên khi đó
chưa thực hiện được.
5.2. Quan điểm các nước
Cho đến tận Vòng đàm phán Uruguay thì vấn đề đầu tư mới được đề cập như là

vấn đề riêng trong WTO. Hiệp định TRIMs là một bước tiến lớn, mặc dù nhiều ý kiến
cho rằng Hiệp định này chưa giải quyết thỏa đáng lợi ích của tất cả các nước, kể cả các
nước phát triển hay đang phát triển.
5.3. Kết quả
Nội dung hiệp định
Hiệp định TRIMs chỉ áp dụng cho thương mại hàng hóa mà không áp dụng cho
các lĩnh vực khác. Hiệp định TRIMs cấm áp dụng một số biện pháp bị coi là vi phạm
nguyên tắc "Đãi ngộ Quốc gia" và các biện pháp có tác dụng hạn chế thương mại bao
gồm:
- Các biện pháp bắt buộc hay điều kiện về quy định một "tỷ lệ nội địa hóa"
đối với doanh nghiệp.
- Các biện pháp "cân bằng thương mại " buộc doanh nghiệp phải tự cân đối
về khối lượng và trị giá xuất nhập khẩu, về ngoại hối
Tác động của hiệp định
- Hiệp định làm cho dòng chu chuyển vốn và đầu tư trên thế giới được lưu
thông và mở rộng phạm vi đầu tư.
- Thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài của các nước đang phát triển cả về qui mô
và phạm vi.
- Đối với các nước đang phát triển thì việc loại bỏ các biện pháp đầu tư sẽ có
thể dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế trong nước. Mục tiêu của nhà đầu
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

19

tư vẫn là lợi nhuận, nếu như không có những biện pháp quản lý đầu tư thì lợi nhuận thu
được sẽ chuyển ra nước ngoài, vì vậy sẽ tác động xấu đến thương mại trong nước.
6. Hiệp định Marrakesh về thành lập WTO
6.1. Nội dung hiệp định:

Các bên kí kết hiệp định này thừa nhận rằng:
- Tất cả những mối quan hệ của họ trong lĩnh vực kinh tế và thương mại phải
được thực hiện với mục tiêu nâng cao mức sống, bảo đảm đầy đủ việc; mở rộng sản
xuất, thương mại hàng hoá và dịch vụ, trong khi đó vẫn bảo đảm việc sử dụng tối ưu
nguồn lực của thế giới theo đúng mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ và duy trì môi
trường và nâng cao các biện pháp để thực hiện điều đó theo cách thức phù hợp với
những nhu cầu và mối quan tâm riêng rẽ của mỗi bên ở các cấp độ phát triển kinh tế
khác nhau.
- Cần phải có nỗ lực tích cực để bảo đảm rằng các quốc gia đang phát triển,
đặc biệt là những quốc gia kém phát triển nhất, duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong
thương mại quốc tế tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế của các quốc gia đó,
- Mong muốn đóng góp vào những mục tiêu này bằng cách tham gia vào
những thoả thuận tương hỗ và cùng có lợi theo hướng giảm đáng kể thuế và các hàng rào
cản trở thương mại khác và theo hướng loại bỏ sự phân biệt đối xử trong các mối quan hệ
thương mại quốc tế,
6.2. Kết quả
Đúng như những gì các bên đã thừa nhận, các nước kí kết quyết tâm xây dựng một
cơ chế thương mại đa biên chặt chẽ, ổn định, và khả thi hơn, duy trì những nguyên tắc cơ
bản và tiếp tục theo đuổi những mục tiêu đang đặt ra cho cơ chế thương mại đa biên này.
Điều đặc biệt là với tuyên bố Marakesh được kí ngày 15/4/1994 tại thành phố
Marrakesh, vương quốc Morroco, các Bộ trưởng đã quyết định thành lập nên Tổ chức
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

20

Thương mại thế giới WTO - một quyết định tạo nên một bước ngoặt lịch sử cho nền
Thương mại toàn cầu
7. Đánh giá

Vòng đàm phán Uruguay kéo dài đến gần 8 năm, quá dài so với dự kiến là 4 năm. Tại
nhiều thời điểm vòng đàm phán tưởng chừng như sẽ thất bại bởi sự bất đồng quan điểm
giữa các nước tham gia, nhất là hai nhóm nước phát triển và đang phát triển. Xuyên suốt
cuộc đàm phán, vấn đề khó khăn nhất chính là sự mâu thuẫn giữa Mỹ và EU, hai trung
tâm thương mại dịch vụ lớn nhất trên thế giới. Với sự nỗ lực của giám đốc GATT và 125
nước thành viên tham gia, cuối cùng, đến năm 1994 vòng đàm phán đã kết thúc, thông
qua các thỏa thuận quan trọng, dẫn đến việc ra đời của WTO và các hiệp định thương
mại liên quan.

V. Sự ra đời của WTO
Sau vòng đàm phán Uruguay kéo dài gần 8 năm, đến năm 1995, GATT được thay thế
bằng WTO. WTO đặt trụ sở tại Geneva, Thuỵ Sĩ và chính thức đi vào hoạt động từ
1/1/1995. Đến nay số thành viên chính thức của WTO đã lên tới con số 153 thành viên,
với Cape Verde là thành viên mới nhất (cập nhật vào 11/03/2009). Ngày 13 tháng 5 năm
2005, ông Pascal Lamy được bầu làm Tổng giám đốc thay cho ông Supachai
Panitchpakdi, người Thái Lan, kể từ 1 tháng 9 năm 2005.
1. Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời của WTO
Như chúng ta đã phân tích, vòng đàm phán Uruguay là vòng đàm phán cuối cùng
trong tám vòng đàm phán của GATT. Có thể nói, đây là một vòng đàm phán rất nổi
tiếng, vậy lí do gì khiến nó trở nên nổi tiếng đến như vậy?
Vòng Uruguay nổi tiếng vì nhiều lý do. Trước hết, đây là vòng đàm phán dài nhất và
có số nước tham gia đông nhất trong lịch sử của GATT. Đây có lẽ cũng là một trong
những vòng đàm phán lớn nhất từ trước đến nay. Thứ hai, Vòng Uruguay đã đạt được
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

21

những kết quả vượt bậc so với các vòng đàm phán trước, đặc biệt là với việc đưa được cả

thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ vào phạm vi điều chỉnh của GATT. Thứ ba, vòng
đàm phán này đã dẫn đến sự ra đời của WTO - một tổ chức chính thức để giám sát các
hoạt động thương mại đa phương.
Lí do đặc biệt nhất chính là lí do cuối - với hiệp định Marrakesh, vòng đàm phán
Uruguay đã cho ra đời Tổ chức WTO. Vậy tầm quan trọng của vòng đàm phán Uruguay
đối với sự ra đời của WTO như thế nào?
Dễ dàng thấy, vòng đàm phán Uruguay đã dẫn tới sự ra đời của tổ chức WTO. Trong
bối cảnh lịch sử xã hội lúc bấy giờ, khi mà thương mại phát triển, xu thế hợp tác hóa,
toàn cầu hóa tăng lên, sự phát triển của khoa học kĩ thuật, dù GATT đã đạt được những
thành công lớn nhưng những gì mà GATT điều chỉnh dần trở nên bất cập và không thể
nào đáp ứng được những nhu cầu thương mại hiện tại. Trước tình hình đó các bên tham
gia GATT nhận thấy cần phải có nỗ lực để củng cố và mở rộng hệ thống thương mại đa
biên Trong các vòng đàm phán đầu của GATT, chủ yếu tập trung thảo luận về vấn đề cắt
giảm thuế quan, vòng đàm phán thứ 7- vòng đàm phán Tokyo đã có thêm nhiều đổi mới
và tiến bộ hơn nhưng với trong sự thay đổi của thời đại, nó bộc lộ nhiều hạn chế. Đến
vòng đàm phán cuối cùng, vòng đàm phán Uruguay đã bao gồm được hầu hết các vấn đề
chính sách thương mại chưa được điều chỉnh, nhằm mở rộng hệ thống thương mại đa
biên sang một số lĩnh vực mới. Trong đó, quan trọng nhất là: dịch vụ, sở hữu trí tuệ và
cải tổ hệ thống thương mại trong một số lĩnh vực có tính nhạy cảm cao như hàng nông
sản và hàng dệt may, mọi nguyên tắc về điều khoản ban đầu của GATT đều được rà soát
lại.
Vòng đàm phán Uruguay đã kí kết rất nhiều Hiệp định quan trọng và như đã phân
tích ở trên, trong quá trình tiến hành, đã có những lúc vòng đàm phán này rơi vào thất
bại. Giữa các vị Bộ trưởng của các nước luôn có những bất đồng, không dễ dàng đi đến
thống nhất chung bởi lợi ích quốc gia luôn được đặt lên hang đầu. Nó khiến cho sự chậm
trễ lien tiếp của các vòng đàm phán và sự kéo dài lâu như vậy của vòng đàm phán này.
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15


22

Tuy nhiên sự chậm trễ ấy cũng có mặt tích cực của nó. Những vấn đề như dịch vụ, sở
hữu trí tuệ hay thậm chí là việc hình thành tổ chức thương mại thế giới sẽ không thể tiến
xa đến thế nếu đàm phán được tiến hành vào năm 1990.
Với những khó khăn, bất đồng gặp phải trong vòng đàm phán Uruguay, Việc đi đến
một hiệp định chung cho hầu hết các vấn đề thương mại tỏ ra hết sức khó khăn khiến một
số người cho rằng tổ chức một vòng đàm phán ở quy mô lớn đến thế là điều không
tưởng, trong khi đó rất nhiều vấn đề đã được lên lịch trình bàn bạc trong các hiệp định ký
kết trong khuôn khổ vòng đàm phán Uruguay.
Cuối cùng, với tuyên bố Marrkesh các vị bộ trưởng đã thống nhất thành lập tổ chức
Thương Mại Thế giới WTO và lấy những kết quả của vòng đàm phán URUguay để làm
văn kiện chính thức. Với tổ chức này, các quốc gia dễ dàng tìm được tiếng nói chung
trong cam kết và cùng nhau xây dựng một hệ thống Thương mại đa phương vững mạnh.
2. Mục tiêu
WTO đã xác định ba mục tiêu cụ thể là:
Thứ nhất, thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hóa và dịch vụ trên thế giới phục vụ
cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường.
Thứ hai, thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng, tranh
chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa
phương, phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế, bảo đảm cho các nước
đang phát triển được hưởng lợi ích thực chất từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế.
Thứ ba, nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các nước thành viên,
đảm bảo các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu.
3. Nguyên tắc hoạt động
Để thực hiện các mục tiêu nêu trên một cách hiệu quả, WTO đã đặt ra một loạt các
nguyên tắc hoạt động mang tính ràng buộc mà tất cả các thành viên WTO phải tuân thủ.
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15


23

Có 4 nguyên tắc quan trọng nhất cần được đề cập: tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia, mở
cửa thị trường và cạnh tranh công bằng.
Thứ nhất, nguyên tắc "Tối huệ quốc" (MFN) được hiểu là nếu một nước dành cho
một nước thành viên một sự đối xử ưu đãi nào đó, thì nước này cũng sẽ phải dành sự ưu
đãi đó cho tất cả các nước thành viên khác.
Thứ hai, nguyên tắc "Đối xử quốc gia" (NT) được hiểu là hàng hóa nhập khẩu, dịchvụ
và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài phải được đối xử không kém phần thuận lợi hơn so
với hàng hóa cùng loại trong nước.
Thứ ba, nguyên tắc mở cửa thị trường thực chất là mở cửa thị trường cho hàng hoá,
dịch vụ và đầu tư nước ngoài vào.
Thứ tư, nguyên tắc "Cạnh tranh công bằng" thể hiện nguyên tắc "tự do cạnh tranh
trong những điều kiện bình đẳng như nhau".
4. Cơ cấu tổ chức
Về cơ cấu tổ chức của WTO, đó là một cơ cấu gồm ba cấp:
Đứng đầu là các cơ quan lãnh đạo chính trị và có quyền ra quyết định bao gồm
Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng WTO, Cơ quan giải quyết tranh chấp và Cơ quan kiểm
điểm chính sách thương mại.
Dưới đó có các cơ quan thi hành và giám sát việc thực hiện các hiệp định thương
mại đa phương, bao gồm Hội đồng GATT, Hội đồng GATS và Hội đồng TRIPS;
Cuối cùng là các cơ quan thực hiện chức năng hành chính - thư ký là Tổng Giám
đốc và Ban Thư ký WTO.
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

24


5. Sự khác biệt giữa GATT và WTO
Mặc dù WTO là tổ chức được thành lập trên cơ sở kế thừa GATT, những vẫn có
những khác biệt chủ chốt giữa WTO và GATT là:
GATT chỉ mang tính chất tạm thời: Hiệp định chung về thương mại và thuế quan
chưa bao giờ được quốc hội các nước phê chuẩn; nó không có qui định nào về việc thành
lập một tổ chức nhất định. WTO và các hiệp định của nó mang tính thường trực lâu dài.
WTO là một tổ chức quốc tế được thành lập bởi sự nhất trí của các quốc gia thành viên.
WTO có nền tảng pháp lý vững chức bởi vì các nước thành viên đã thông qua các hiệp
định và chính các hiệp định đã mô tả phương thức hoạt động của tổ chức. Các quốc gia
thành viên phải thực hiện đúng theo các qui định, nguyên tắc của WTO và các hiệp định
của nó.
GATT chỉ có "các bên tham gia ký kết", điều này cho thấy rõ ràng là GATT chỉ mang
tính chất một hiệp định. WTO có các nước thành viên và WTO là một tổ chức quốc tế.
GATT chỉ giải quyết các vấn đề liên quan đến thương mại hàng hoá. Trong khi đó
WTO là tổ chức kế thừa và phát triển GATT, hiệp định GATT tồn tại cùng với các hiệp
định khác của WTO như hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATS); hiệp định
về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPS).
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO mang tính tự động và nhanh hơn so với cơ chế
của GATT. Đây là đóng góp lớn nhất của WTO đối với hệ thống thương mại thế giới.
6. Thành tựu và hạn chế của WTO
Cho tới nay sau hơn 10 năm hoạt động, tuy đây chỉ là một khoảng thời gian ngắn so
với GATT trước đây, nhưng ở một mức độ WTO đã thành công trong việc thúc đẩy
thương mai tự do lớn hơn. Kết quả là giá thành sản phẩm được hạ thấp, khả năng cạnh
tranh của các quốc gia cao hơn và tốc độ tăng trưởng cũng nhờ đó tăng theo.
Vòng đàm phán Uruguay dẫn đến sự ra đời WTO

Nhóm 15

25


Tuy nhiên, WTO đã thường bị chỉ trích vì lờ đi tình hình ở các quốc gia đang phát
triển. WTO ủng hộ "thương mại tự do '- loại bỏ các quy định hạn chế kinh doanh lớn hay
dòng chảy tự do của hàng hoá. Nó có thể gia tăng nghèo đói và có hại cho quốc gia ở các
giai đoạn khác nhau của phát triển. Về lý thuyết, WTO là dân chủ, và mỗi người có một
phiếu bầu. Nhưng trong thực tế, WTO khá thiếu dân chủ , và các nước nghèo có thể bị
chèn ép hoặc không được tham gia các cuộc thảo luận chính và ra quyết định. Hơn 30
nước đang phát triển không có người đàm phán tại trụ sở WTO. Các nước nghèo khác
chỉ có một người đàm phán duy nhất, nhưng người này không thể tham dự tất cả các
cuộc họp của WTO.
7. Việt Nam với WTO
Việt Nam gia nhập chính thức WTO kể từ ngày 7/11/2006. Sau khoảng 3 năm là
thành viên của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới, Việt Nam đã thu được những thành
công đáng kể về kinh tế và thương mại. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nước
ta có sự tăng trưởng đột biến. Năm 2006 là năm nước ta mới hoàn tất việc đàm phán gia
nhập WTO thì luồng vốn FDI đổ vào nước ta đạt 12 tỷ USD. Năm 2008, vốn FDI đã tăng
gấp 3 lần năm trước. Năm 2009, mặc dù bị tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế nhưng
vốn FDI vào Việt Nam cũng nhiều hơn năm 2007. Điều này cho thấy niềm tin vào sự
phát triển kinh tế nước ta của các nhà đầu tư nước ngoài.
Vấn đề đối với nước ta hiện nay là đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nhiều chưa hẳn đã
là mừng mà lo nhiều hơn. Có thể nói điều này vì có rất nhiều dự án khổng lồ cam kết vào
Việt Nam sẽ gây ra những xáo trộn không nhỏ đối với môi trường kinh doanh nước ta.
Chúng ta chưa chuẩn bị đầy đủ nguồn lực để tiếp nhận được những “siêu” dự án này: về
mặt cơ sở hạ tầng, đội ngũ quản trị, lãnh đạo địa phương. Nếu không chuẩn bị tốt, doanh
nghiệp FDI sẽ “bê” hết bộ máy của họ vào, chỉ tận dụng nguồn đất ưu đãi của nước ta.
Tiến sĩ Đinh Văn Ân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương nhận
định: Tác động của WTO đối với FDI tại Việt Nam là rất lớn, tuy nhiên cũng có những

×