Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

ĐẶC ĐIỂM LỊCH SỬ - VĂN HOÁ CỦA ĐỊA DANH HUYỆN HOA LƯ - NINH BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 133 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM







NGUYỄN THỊ HIỀN




ĐẶC ĐIỂM LỊCH SỬ - VĂN HOÁ
CỦA ĐỊA DANH HUYỆN HOA LƯ - NINH BÌNH







LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC


















THÁI NGUYÊN, NĂM 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM






NGUYỄN THỊ HIỀN






ĐẶC ĐIỂM LỊCH SỬ - VĂN HOÁ
CỦA ĐỊA DANH HUYỆN HOA LƯ - NINH BÌNH



Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. HÀ QUANG NĂNG










THÁI NGUYÊN, NĂM 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Địa danh học là một ngành khoa học nghiên cứu tên đất trên các
mặt từ nguyên, tính xã hội, quy luật cấu thành của nó nhằm thiết thực phục vụ
cho nhiều ngành khoa học khác.
1.2. Địa danh liên quan chặt chẽ đến lịch sử, văn hóa, cư dân của một
vùng nhất định. Địa danh lưu giữ những trầm tích của lịch sử, văn hóa, phong
tục, tập quán của cư dân ở một vùng đất. Nghiên cứu địa danh sẽ giúp nghiên
cứu văn hóa, lịch sử của vùng đất ấy.
Địa danh là một trong những chứng cứ quan trọng để tìm hiểu quá trình
hình thành của một bộ tộc, một dân tộc ở các mặt địa lý, tổ chức xã hội qua
các thời kì. Địa danh giúp khám phá sự ảnh hưởng và tác động của những
nhân tố bên ngoài vào cách đặt tên địa danh: đất nước học, tôn giáo, tín
ngưỡng, lịch sử tộc người
1.3. Địa danh cũng là những đơn vị được cấu tạo từ chất liệu ngôn ngữ,
là biểu hiện của ngôn ngữ. Nghiên cứu địa danh cũng đồng thời góp phần
phản ánh đời sống ngôn ngữ.
1.4. Hoa Lư - vùng đất tươi đẹp, giàu tiềm năng và truyền thống cách
mạng - xưa kia từng là kinh đô của các triều đại phong kiến Việt Nam trong
suốt gần nửa thế kỉ. Khảo sát hệ thống dịa danh huyện Hoa Lư sẽ làm sáng rõ
một chặng đường lịch sử lâu dài và hào hùng của dân tộc ta, giúp chúng ta
học tập, giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc, đồng thời góp phần vào việc
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, và mở rộng phát triển du lịch của huyện
Hoa Lư nói riêng, tỉnh Ninh Bình nói chung.
Với những lý do trên, chúng tôi chon đề tài “Đặc điểm lịch sử - văn
hóa của địa danh huyện Hoa Lư - Ninh Bình” làm đối tượng nghiên cứu của
luận văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


2
2. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các địa danh địa hình thiên nhiên,
đơn vị dân cư, và công trình nhân tạo của huyện Hoa Lư và đặc điểm ngôn
ngữ, văn hóa, lịch sử của một số địa danh thuộc huyện Hoa Lư.
3. Lịch sử vấn đề
3.1. Vấn đề nghiên cứu địa danh trên thế giới
Việc nghiên cứu địa danh được phát triển từ lâu trên thế giới. Ở Trung
Quốc, ngay từ thời Đông Hán (32- 39), Ban Cố đã ghi chép hơn 4000 địa
danh, trong đó một số đã được giải thích rõ nguồn gốc và ý nghĩa.
Ở các nước phương Tây, bộ môn địa danh học chính thức ra đời vào
cuối thế kỉ XIX. Năm 1872, JJ.Eghi (Thụy Sĩ) viết cuốn "Địa danh học”.
Năm 1903, J.W Nagl (Áo) cũng cho ra đời tác phẩm "Địa danh học”. Thời kì
đầu, các tác phẩm địa danh học chú trọng khảo chứng nguồn gốc địa danh.
Từ thế kỉ XX, bước vào giai đoạn nghiên cứu tổng hợp về địa danh,
Gi.Glliénon viết "Át lát ngôn ngữ Pháp”, nghiên cứu địa danh theo hướng
phát triển địa lý học. Năm 1926, A.Dauzat (Pháp) đã viết: "Nguồn gốc và sự
phát triển địa danh”, đề xuất phương pháp văn hóa địa lý học để nghiên cứu
các lớp niên đại của địa danh.
Từ những năm 60 của thế kỉ XX, hàng loạt công trình nghiên cứu về
vấn đề này ra đời, đáng chú ý là các công trình nghiên cứư của các nhà địa
danh học Xô Viết. Chẳng hạn, E.M.Murzaev với tác phẩm "Những khuynh
hướng nghiên cứu địa danh học” (1965). A.V.Superanxkaja với tác phẩm
"Địa danh là gì?” (1985) đã đi sâu vào vấn đề nhận diện và phân tích địa
danh. A.I.Popov (1964) lại đưa ra những nguyên tắc cơ bản của công tác
nghiên cứu địa danh, trong đó chú trọng hai nguyên tắc chính là phải dựa vào
tư liệu lịch sử của các ngành ngôn ngữ học, địa lí học, sử học và phải thận
trọng khi sử dụng phương pháp thành tố để phân tích ngữ vi của địa danh. Tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3
giả I.A.Kapenco (1964) lại nghiên cứu địa danh học về mặt đồng đại,
N.V.Podonxkaja khi phân tích, lý giải địa danh mang những thông tin gì cũng
đã góp phần làm cho việc nghiên cứu địa danh ngày càng đi sâu vào bản chất.
Bên cạnh những công trình của các nhà địa danh học Xô Viết, các nhà
nghiên cứu địa danh ở nhiều quốc gia cũng có những đóng góp không nhỏ
trong lĩnh vực này. Ch.Rostaing (1965) với tác phẩm "Les noms de lieux” đã
nêu ra hai nguyên tắc nghiên cứu địa danh là phải tìm ra các hình thức cổ của
các từ cấu tạo địa danh và muốn biết từ nguyên của địa danh thì phải dựa trên
kiến thức ngữ âm học địa phương. Chuyên luận này đã bổ sung thêm cho vấn
đề mà A.I.Popov đã nêu ra trước đó.
Ngày nay, địa danh học ngày càng được chú ý và phát triển. Những
công trình nghiên cứu ở nhiều nước đã minh chứng cho sự phong phú, đa
dạng của địa danh cũng như những vấn đề nghiên cứu trong lĩnh vực này.
3.2. Vấn đề nghiên cứu địa danh ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề địa danh được quan tâm từ rất sớm. Các tài liệu:
"Tiền Hán thư", "Địa lí chí", "Hậu Hán thư", "Tấn thư" thời Bắc thuộc có đề
cập đến địa danh Việt Nam nhưng do người Hán viết, phục vụ trực tiếp cho
công cuộc xâm lược nước ta.
Từ thế kỉ XV, việc nghiên cứu địa danh mới được các nhà nghiên cứu
Việt Nam chú ý. Lúc này các địa danh được thu thập, tìm hiểu về nguồn gốc
và ý nghĩa. Tiêu biểu là các tác phẩm "Dư địa chí" của Nguyễn Trãi, "Lịch
triều hiến chương loại chí" của Phan Huy Chú, "Phủ biên tạp lục" của Lê
Quý Đôn
Cùng với xu hướng phát triển của ngôn ngữ học, đặc biệt là của địa
danh học trên thế giới, vấn đề nghiên cứu địa danh ở Việt Nam có được
những bước tiến đáng kể hơn từ những năm 1960 trở đi. Năm 1964, Hoàng
Thị Châu với bài viết "Mối quan hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


4
một vài tên sông" được xem như là người cắm cột mốc đầu tiên trong nghiên
cứu địa danh dưới góc nhìn ngôn ngữ học. Năm 1991, Lê Trung Hoa với tác
phẩm "Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh" đã đưa ra những vấn đề lý thuyết
làm cơ sở cho sự phân tích và chỉ ra các đặc điểm về cấu tạo, nguồn gốc, ý
nghĩa của các địa danh thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 1996,
Nguyễn Kiên Trường với luận án PTS "Những đặc điểm chính của địa danh
Hải Phòng" đã phát triển, bổ sung thêm những vấn đề mà Lê Trung Hoa đã
đưa ra trước đó. Tiếp sau đó là luận án TS của Từ Thu Mai "Nghiên cứu địa
danh Quảng Trị” (2004), Phan Xuân Đạm với "Địa danh Nghệ An” (2005).
Ngoài ra còn có khá nhiều các luận văn thạc sĩ, đề tài nghiên cứu khảo sát địa
danh ở nhiều địa phương đã được công bố. Những công trình này đều có
những đóng góp đáng kể trong việc nghiên cứu địa danh học dưới góc độ
ngôn ngữ học.
Ngoài ra, còn một số công trình ra đời dưới dạng sách, từ điển, sổ tay
như các công trình của Trần Thanh Tân, Đinh Xuân Vịnh Các công trình
này đều nghiên cứu một cách công phu nhưng nặng về tập hợp tư liệu, tính lý
thuyết chưa cao.
3.3. Vấn đề nghiên cứu địa danh ở huyện Hoa Lư
Địa danh Hoa Lư là đối tượng hết sức mới mẻ, chưa có công trình nào
đi sâu nghiên cứu. Hiện chỉ có một số bài báo, cuốn sách đề cập tới một vài
địa danh nổi tiếng của huyện Hoa Lư như cuốn sách "Cố đô Hoa Lư lịch sử
và danh thắng" (1998) của Lã Đăng Bật, cuốn “Hoa Lư - di tích và danh
thắng” (2009) của Nguyễn Thị Kim Cúc hay những tác phẩm ghi lại những
truyền thuyết liên quan đến một vài vùng đất ở Hoa Lư như "Truyền thuyết
Đinh - Lê" (2000) của Trương Đình Tưởng…
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


5
Qua việc nghiên cứu hệ thống địa danh của huyện Hoa Lư, luận văn
hướng tới việc tìm ra quy luật cơ bản cũng như những nét đặc thù về cấu tạo,
ý nghĩa, nguồn gốc, phương thức định danh và mối quan hệ với các nhân tố
lịch sử, địa lí, văn hóa của hệ thống địa danh huyện Hoa Lư.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu các vấn đề lý thuyết về địa danh và địa danh học.
- Điều tra, khảo sát các địa danh của huyện Hoa Lư.
- Miêu tả, phân tích hệ thống địa danh về các mặt: cấu tạo, ý nghĩa,
phương thức định danh.
- Chỉ ra đặc điểm văn hóa - lịch sử qua hệ thống địa danh của huyện
Hoa Lư.
5. Phƣơng pháp và tƣ liệu nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp các
phương pháp sau:
- Phương pháp điều tra điền dã để thu thập tất cả các địa danh của
huyện Hoa Lư.
- Phương pháp thống kê, phân loại: Đây là phương pháp giúp chúng tôi
tập hợp và phân loại các địa danh địa hình thiên nhiên, đơn vị dân cư, và công
trình nhân tạo của huyện Hoa Lư trên cơ sở thu thập địa danh qua các nguồn
khác nhau.
- Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được sử dụng để phản ánh những
đặc điểm cấu tạo và ý nghĩa của các yếu tố cấu tạo trong phức thể địa danh.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: Dựa vào các cứ liệu ngôn ngữ, đặc
điểm tâm lý của con người và quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, nghiên cứu
một số địa danh để tìm hiểu xuất xứ, nguồn gốc của một số địa danh nổi tiếng
trong huyện Hoa Lư.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


6
5.2. Tư liệu nghiên cứu
Với mục đích phản ánh đầy đủ, trung thực hệ thống địa danh của huyện
Hoa Lư, chúng tôi đã tiến hành tập hợp các tư liệu cần thiết từ những nguồn sau:
- Niên giám thống kê của tỉnh Ninh Bình và huyện Hoa Lư.
- Tư liệu điều tra điền dã để thu thập tư liệu, ghi chép, bổ sung các
thông tin của từng địa danh.
- Bản đồ các loại của huyện Hoa Lư.
- Một số công trình nghiên cứu về kinh tế, văn hóa, lịch sử của huyện
Hoa Lư.
- Những tài liệu lưu giữ ở chính quyền địa phương.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Từ trước tới nay địa danh Hoa Lư hầu như không được khảo sát và
nghiên cứu. Đây là công trình đầu tiên khảo sát, tìm hiểu một cách đầy đủ,
toàn diện, và hệ thống địa danh ở địa bàn này về các phương diện cấu tạo,
phương thức định danh và ý nghĩa các địa danh địa hình thiên nhiên, đơn vị
dân cư và công trình nhân tạo. Bên cạnh đó luận văn cũng chỉ ra một vài đặc
trưng ngôn ngữ - văn hóa - lịch sử của địa danh trong mối quan hệ với địa lý,
lịch sử, dân cư và ngôn ngữ. Kết quả nghiên cứu của luận văn về địa danh có
thể là tư liệu quý cho ngành địa phương học, cho việc nghiên cứu lịch sử -
văn hóa Hoa Lư, góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, du lịch của địa
phương. Đồng thời, kết quả nghiên cứu này có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo bổ ích trong việc giảng dạy lịch sử địa phương, trong giáo dục truyền
thống, giữ gìn, phát huy những giá trị lịch sử, văn hóa của địa phương.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm ba chương:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


7
Chƣơng 1: Những cơ sở lý thuyết liên quan đến địa danh và địa
danh học
Chương này sẽ trình bày những vấn đề lý thuyết làm cơ sở cho việc
triển khai các chương mục tiếp theo. Bên cạnh đó, những vấn đề về địa lý,
lịch sử, dân cư, văn hoá trên địa bàn huyện Hoa Lư cùng một số kết quả thu
thập và phân loại các địa danh trên địa bàn cũng được trình bày tóm tắt, làm
cơ sở cho các phần nội dung của luận văn.
Chƣơng 2: Đặc điểm cấu tạo của địa danh huyện Hoa Lƣ
Chương này sẽ xác định cấu trúc phức thể địa danh của huyện Hoa Lư
gồm thành tố chung và tên riêng. Nội dung của chương sẽ đi sâu tìm hiểu
những dặc điểm cấu tạo của địa danh huyện Hoa Lư và các phương thức đinh
danh những địa danh đó.
Chƣơng 3: Đặc điểm lịch sử - văn hóa của huyện Hoa Lƣ đƣợc
phản ánh qua hệ thống địa danh.
Chương này sẽ đi sâu vào tìm hiểu những ảnh hưởng của điều kiện địa
lý, dân cư, lịch sử, văn hoá đối với các địa danh của huyện Hoa Lư, làm nổi
bật một số đặc điểm văn hoá - lịch sử thể hiện trong địa danh huyện Hoa Lư.
Đồng thời ở chương này chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu một số địa danh gắn với
đới sống lịch sử, văn hoá ở huyện Hoa Lư.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
CHƢƠNG 1:
NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỊA DANH
VÀ ĐỊA DANH HỌC

1.1. KHÁI NIỆM ĐỊA DANH VÀ ĐỊA DANH HỌC
1.1.1. Khái niệm địa danh
Bất cứ một thực thể nào trong thế giới thực tại, khi đã được con người

nhận thức, nhận diện, đều được con người gọi tên, đặt tên theo cách này hay
cách khác tuỳ theo từng mục đích, dựa trên những quy ước nhất định ở trong
từng hoàn cảnh và không gian sinh tồn cụ thể. Do đó, đặt tên, gọi tên là một
nhu cầu thường trực, tất yếu và quan trọng của con người.
Tên đất, tên núi, tên rừng, tên sông, tên biển, tên đường phố… đều là
những địa danh (toponym). Một địa danh, xét về mặt lo gíc học, tương đương
với một khái niệm; xét về mặt ngôn ngữ học, được cấu tạo từ từ, từ những
đơn vị tương đương với từ. Thuật ngữ địa danh, nguyên thuỷ trong tiếng Hy
Lạp có cấu tạo gồm hai bộ phận: topos (địa điểm) và anyma (tên gọi). Như
vậy, ý nghĩa chung nhất của thuật ngữ này là “ tên gọi điểm địa lý”.
Khái niệm địa danh cần phải hiểu theo đúng phạm vi xuất hiện của nó.
Nếu hiểu đúng theo lối chiết tự thì “địa danh” là tên đất. Tuy nhiên, khái niệm
này cần phải hiểu rộng hơn vì đây chính là đối tượng nghiên cứu của một
ngành khoa học. Cụ thể, địa danh không chỉ là tên gọi của các đối tượng địa lý
tồn tại trên trái đất. Nó có thể là tên gọi của các đối tượng địa hình thiên nhiên,
đối tượng địa lý cư trú hay là công trình do con người xây dựng tạo lập nên.
Địa danh là lớp từ ngữ nằm trong vốn từ vựng của một ngôn ngữ, được
dùng để đặt tên, gọi tên các đối tượng địa lý. Vì thế, nó hoạt động và chịu sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
tác động, chi phối của các quy luật ngôn ngữ nói chung về mặt ngữ âm, từ
vựng - ngữ nghĩa và ngữ pháp.
Hiện nay, có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra những định nghĩa khác nhau
về địa danh. Nhà ngôn ngữ học người Nga A.V.Superanskaja trong cuốn
“Địa danh là gì?” đã cho rằng: địa danh là những từ ngữ biểu thị tên gọi
“những địa điểm, mục tiêu địa lý”, “ những địa điểm, mục tiêu địa lý đó là
những vật thể tự nhiên hay nhân tạo với sự định vị xác định trên bề mặt trái
đất” [41, tr.13].
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã tiếp cận địa danh từ hai góc độ

khác nhau là nghiên cứu địa danh từ góc độ địa lý - văn hoá và nghiên cứu địa
danh từ góc độ ngôn ngữ học. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu thứ nhất,
Nguyễn Văn Âu cho rằng: “Địa danh là tên đất, tên sông, núi, làng mạc …
hay là tên các địa phương, các dân tộc” [3, tr.15].
Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu thứ hai là Lê Trung Hoa, Nguyễn Kiên
Trường, Từ Thu Mai, Phan Xuân Đạm…
Lê Trung Hoa cho rằng “ Địa danh là những từ hoặc ngữ cố định được
dùng làm tên riêng của địa hình thiên nhiên, các công trình xây dựng, các
đơn vị hành chính, các vùng lãnh thổ” [28, tr.21].
Nguyễn Kiên Trường quan niệm: “Địa danh là tên riêng của các đối
tượng địa lí tự nhiên và nhân văn có vị trí xác định trên bề mặt trái đất” [47,
tr.16].
Phan Xuân Đạm định nghĩa: “ Địa danh là lớp từ ngữ đặc biệt, được
định ra để đánh dấu vị trí, xác lập tên gọi các đối tượng địa lí tự nhiên và
nhân văn” [23, tr.12].
Từ Thu Mai cho rằng “Địa danh là những từ ngữ chỉ tên riêng của các
đối tượng địa lí có vị trí xác định trên bề mặt trái đất” [33, tr21].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
Từ quan niệm của các nhà nghiên cứu trên, có thể nhận thấy: Nguyễn
Văn Âu có quan niệm khá đơn giản, dễ hiểu, rất gần với cách hiểu thông
thường của nhân dân, của từ điển ngữ văn giải thích. Chẳng hạn, trong “Từ
điển Hán Việt”, Đào Duy Anh giải thích “Địa danh là tên gọi các miền đất”;
trong “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên, giải thích “địa danh là tên
đất, tên làng”. Nguyễn Văn Âu cố gắng thoát ra khỏi quan niệm cho rằng địa
danh học “chuyên nghiên cứu về tên riêng”, ông chú ý tới các từ chung.
Lê Trung Hoa là một trong những người có ý thức trình bày các vấn đề
địa danh đặt trong khung cảnh ngôn ngữ học, hướng đến tính lý thuyết, tính
hệ thống sớm hơn cả so với nhiều tác giả khác. Lê Trung Hoa cho rằng: “Địa

danh là những từ hoặc ngữ cố định dùng làm tên riêng của địa hình thiên
nhiên, các công trình xây dựng thiên nhiên về không gian hai chiều, các đơn
vị hành chính, các vùng lãnh thổ” [28, tr.21]. Định nghĩa này thiên về việc
chỉ ra ngoại diên các khái niệm, đồng thời chỉ ra cách phân loại các địa danh
vốn đa dạng trong thực tế vào trong định nghĩa phân loại này.
Nguyễn Kiên Trường là người đầu tiên đưa ra định nghĩa nêu giới hạn
ngoại diên của địa danh chỉ thuộc về những gì ở trên trái đất một cách hiển
ngôn. Dựa trên tiêu chí mà Lê Trung Hoa đưa ra, Nguyễn Kiên Trường chia
địa danh thành từng loại nhỏ. Bên cạnh đó, ông còn tiến hành phân loại theo
nguyên ngữ, theo chức năng của địa danh.
Từ Thu Mai cho rằng, khi xác định khái niệm địa danh cần chú ý đến
những vấn đề trong nội tại bản thân khái niệm. Định nghĩa của Từ Thu Mai có
điểm xuất phát từ cách hiểu địa danh của A.V.Superanskja.
Chúng ta thấy rằng, mặc dù nằm trong hệ thống những loại hình khác
nhau nhưng các đối tượng địa lý bao giờ cũng xuất hiện trong thực tế với
những cá thể độc lập. Đầu tiên người ta thường sử dụng các tên chung để định
danh cho một đối tượng cụ thể, được xác định. Nó chính là đơn vị định danh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
bậc hai trên cơ sở vốn từ chung. Vì vậy, khi xác định khái niệm địa danh cần
phải chú ý đến những vấn đề nội tại trong bản thân địa danh. Trước hết, mỗi
địa danh đều phải có tính lý do, phải xác định được nguyên nhân đặt tên đối
tượng. Chức năng gọi tên và các thể hoá, khu biệt đối tượng là tiêu chí thứ
hai. Tiêu chí thứ ba là các đối tượng được gọi tên phải là các đối tượng địa lí
tồn tại trên bề mặt trái đất và ngoài trái đất. Các đối tượng này có thể là đối
tượng địa lí tự nhiên hay không tự nhiên.
Phan Xuân Đạm có quan niệm khá độc đáo, khác với những người đi
trước. Cách hiểu của ông về địa danh rất hợp lý, tiến bộ theo hướng chức
năng của địa danh. Về cách phân loại địa danh, cũng như Từ Thu Mai, tác giả

kế thừa cách phân loại của Lê Trung Hoa.
Nhìn chung, trong các định nghĩa và phân loại, các tác giả đều thừa
nhận rằng, các đối tượng được định danh rồi nhóm lại dưới tên gọi “địa danh”
chỉ là những đối tượng thuộc về trái đất. Như vậy, các đối tượng ngoài trái đất
như Trạm vũ trụ Hoà Bình, sao Hoả… sẽ không được coi là địa danh. Điều
này khác với quan điểm của nhiều nhà khoa học nước ngoài.
Từ những vấn đề trên chúng tôi tán thành quan điểm của Phan Xuân
Đạm khi ông cho rằng: “Địa danh là lớp từ ngữ đặc biệt được định ra để
đánh dấu vị trí, xác lập tên gọi các đối tượng địa lí tự nhiên và nhân văn”
[ 23, tr.12]. Luận văn này sẽ nghiên cứu những từ ngữ chỉ tên riêng của các
đối tượng địa lý thuộc địa danh địa hình thiên nhiên, địa danh đơn vị dân cư
và địa danh công trình nhân tạo trên địa bàn huyện Hoa Lư - Ninh Bình.
1.1.2. Khái niệm địa danh học
Địa danh học (toponymy, toponomasiology, toponomastics), theo các
nhà nghiên cứu, là một trong những bộ môn của danh học (onomastics). Đặt
trong khung cảnh ngôn ngữ học, địa danh học nằm trong lòng bộ môn từ vựng
học vì đối tượng nghiên cứu của địa danh học chính là các từ ngữ được sử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
dụng để gọi tên, đặt tên. Địa danh học là một bộ môn khoa học có tính chất
liên ngành, đa ngành, nó sử dụng nhiều phương pháp, thao tác nghiên cứu, kết
quả nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như lịch sử, dân tộc học,
địa lý học, văn hoá học… mỗi địa danh đều gắn chặt với những chủ thể nhất
định ở những thời điểm nhất định, tương ứng với nó là một lịch sử, văn hoá,
tôn giáo, tín ngưỡng, ngôn ngữ, tư duy… Qua mỗi địa danh nào đó, ta có thể
thấy được quá trình lịch sử - xã hội của một dân tộc. Bộ môn khoa học này,
nói chung có nhiệm vụ nghiên cứu về hai mặt nội dung ngữ nghĩa và hình
thức ngữ âm, góp phần làm nên tín hiệu địa danh khi đặt nó trong cách nhìn
của tín hiệu học. Chính vì thế, việc xem xét một tín hiệu địa danh chủ yếu trên

phương diện của tín hiệu ngôn ngữ là một việc làm hết sức cần thiết và quan
trọng. Địa danh học là một bộ môn ngôn ngữ học chuyên nghiên cứu nguồn
gốc, ngữ nghĩa, cấu tạo, sự biến đổi, lan toả, phân bố địa danh.
1.2. PHÂN LOẠI ĐỊA DANH
Hiện nay, ở Việt Nam cũng như trên thế giới, các nhà ngôn ngữ học có
những cách phân loại khác nhau về địa danh. Chẳng hạn, G.P.Smolichnaja và
M.V.Gorbanevskij cho rằng địa danh có bốn loại: Phương danh (tên các địa
phương), sơn danh (tên núi, gò, đồi…), thuỷ danh (tên các dòng chảy, ao,
ngòi, sông vũng…), phố danh (tên các đối tượng trong thành phố). Còn nhà
khoa học Nga A.V.Superanskja lại chia làm bảy loại: phương danh, thuỷ
danh, sơn danh, phố danh, viên danh, lộ danh, đạo danh (tên các đường giao
thông trên đất, dưới đất, trên nước, trên không).
Ở Việt Nam, Nguyễn Văn Âu quan niệm: “phân loại địa danh là sự
phân chia địa danh thành các kiểu, nhóm khác nhau dựa trên các đặc tính cơ
bản về địa lý cũng như về ngôn ngữ và lịch sử” [3, tr.37]. Ông đã chia địa
danh Việt Nam thành hai loại: địa danh tự nhiên và địa danh kinh tế - xã hội
với bảy kiểu: thuỷ danh, lâm danh, làng xã, huyện thị, tỉnh, thành phố, quốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
gia ; và mười hai dạng: sông ngòi, hồ đầm, đồi núi, hải đảo, rừng rú, truông -
trảng, làng - xã, huyện - quận, thị trấn, tỉnh, thành phố, quốc gia. Mỗi dạng
lại có thể phân chia thành các dạng: sông, ngòi, suối… Cách phân loại này
của tác giả nghiêng về tính dân gian, dễ tiếp thu song hơi sa vào chi tiết, thiếu
tính khái quát, đối tượng nghiên cứu và tên gọi đối tượng nghiên cứu chưa
được làm rõ.
Lê Trung Hoa phân loại địa danh dựa vào nguồn gốc của chúng. Cách
phân loại của ông dựa vào hai tiêu chí tính tự nhiên và không tự nhiên. Đây là
cách phân loại thường gặp và tương đối hợp lý, có tính bao quát. Ông phân
loại địa danh thành: địa danh chỉ địa hình thiên nhiên, địa danh chỉ công trình

xây dựng, địa danh hành chính, địa danh chỉ vùng.
Nguyễn Kiên Trường phân loại dựa trên tiêu chí mà Lê Trung Hoa đưa
ra nhưng tiếp tục chia nhỏ một bước nữa. Ông chia đối tượng tự nhiên thành
hai loại nhỏ: các đối tượng sơn hệ và các đối tượng thuỷ hệ; chia đối tượng
nhân văn thành: địa danh cư trú và địa danh chỉ công trình xây dựng. Địa
danh cư trú bao gồm: đơn vị cư trú tự nhiên, đơn vị hành chính, đường phố.
Địa danh chỉ công trình xây dựng bao gồm: đơn vị hành chính, đường phố và
các đối tượng khác. Bên cạnh đó, Nguyễn Kiên Trường còn tiến hành phân
loại theo nguyên ngữ địa danh, theo chức năng giá trị của địa danh.
Từ Thu Mai cũng phân loại theo cách phân loại của Lê Trung Hoa và
dùng khái niệm “loại hình địa danh” làm tiêu chí phân loại. Theo Từ Thu
Mai, có ba loại hình địa danh là địa danh địa hình tự nhiên, địa danh đơn vị
dân cư và địa danh công trình nhân tạo. Trong đó, ở mỗi loại hình địa danh
lại gồm những tiểu loại địa danh khác nhau.
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên cứu đi trước và theo
mục đích nghiên cứu của luận văn, chúng tôi cũng tán đồng cách phân loại
theo tiêu chí “tự nhiên - không tự nhiên” của Lê Trung Hoa và Từ Thu Mai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Chúng tôi phân loại địa danh huyện Hoa Lư - Ninh Bình thành ba loại: địa
danh địa hình thiên nhiên, địa danh đơn vị dân cư và địa danh công trình
nhân tạo. Trong đó, địa danh địa hình thiên nhiên gồm: sơn danh, thuỷ danh
và những vùng đất nhỏ phi dân cư; địa danh đơn vị dân cư gồm các đơn vị
dân cư cụ thể nằm trong cấp huyện: xã, thị trấn, thôn xóm…; địa danh các
công trình nhân tạo gồm những địa danh các công trình nhân tạo thuộc những
hoạt động vật chất của con người và địa danh các công trình nhân tạo thuộc
những hoạt động tinh thần của con người. Trong mỗi tiểu loại lại gồm những
bộ phận nhỏ hơn thuộc những loại địa hình địa danh đó.
1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỊA DANH

Xét về phương diên ngôn ngữ học, nhìn vào toàn bộ hệ thống định danh
một vùng đất có thể thấy rõ các đặc điểm sau đây:
1.3.1. Địa danh là một hệ thống tên gọi đa dạng
Nếu so sánh với nhân danh và vật danh thì hệ thống địa danh vừa đa
dạng, vừa phức tạp. Về loại hình địa danh, có những địa danh biểu thị địa
hình thiên nhiên (núi, sông, ao, hồ…), có những địa danh biểu thị tên gọi của
các đơn vị hành chính, đơn vị dân cư do Nhà nước đặt ra (huyện, xã, thôn,
xóm…), lại có những địa danh là tên gọi các công trình xây dựng trên bề mặt
đất hay dưới lòng đất (cầu, cống, đường, hầm, đê, đập…). Về cấu tạo, địa
danh vừa có cấu tạo đơn vừa có cấu tạo phức (vừa có từ vừa có cụm từ, vừa
có từ vừa có danh ngữ). Trong cấu tạo đơn, có địa danh đơn tiết có địa danh
đa tiết. Trong cấu tạo phức, giữa các yếu tố trong địa danh có các mối quan
hệ: quan hệ đẳng lập, quan hệ chính phụ và quan hệ chủ vị. Về nguồn gốc
ngôn ngữ, có những địa danh có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số và cả những
địa danh vay mượn từ tiếng nước ngoài.
1.3.2. Địa danh thƣờng diễn ra hiện tƣợng chuyển hoá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Chuyển hoá là lấy tên gọi một đối tượng địa lý này để gọi một đối
tượng địa lý khác. Hiện tượng này có thể xảy ra các trường hợp như:
- Chuyển hoá trong nội bộ từng loại địa danh. Ví dụ:
Đình Tuân Cáo → Chùa Tuân Cáo.
Đình Đông Hội → Đền Đồng Hội.
Đền Khả Lương → Chùa Khả Lương.
- Chuyển hoá giữa các loại địa danh. Ví dụ:
Động Thiên Tôn → Thị trấn Thiên Tôn.
Núi Bích Động → Chùa Bích Động
Núi Am Tiêm → Chùa Am Tiêm.
- Chuyển hoá nhân danh thành địa danh. Ví dụ:

Vua Đinh Tiên Hoàng → Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng
Vua Lê Đại Hành → Đền thờ Vua Lê Đại Hành.
1.3.3. Địa danh có phƣơng thức cấu tạo phong phú
Nghiên cứu các phương thức cấu tạo địa danh, chúng tôi thấy địa danh
được tạo nên bởi rất nhiều phương thức khác nhau. Các địa danh có thể dựa
vào đặc điểm bản thân đối tượng để đặt tên như: hang Tối (trong hang tối om,
phải có đèn mới đi được), hang Luồn (hang ở dưới gầm quả núi lớn, phải luồn
qua một hang nước mới sang được bên kia núi).
Có địa danh lại dựa vào sự vật, yếu tố có quan hệ chặt chẽ với đối
tượng như: núi Cây Chanh, núi Bánh Dày…
Lại có phương thức ghép các yếu tố Hán Việt để đặt tên như: xóm Kim
Phú, thôn Phú Gia, xóm Tân Mỹ, phố Mỹ Lộ …; dùng số đếm hoặc chữ cái để
đặt tên như: đội 1, đội 2, đội 3…
1.4.Các phƣơng diện nghiên cứu địa danh
Đối tượng nghiên cứu của địa danh học rất rộng. Nói đến danh học,
người ta thường thiết lập một danh sách các khái niệm có liên quan như: Tên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
người (nhân danh), tên các hành tinh, tên gọi các tổ chức chính trị - xã hội, tên
các tộc người, tên các nghiệp đoàn, tên các con đường, tên gọi các con sông,
dòng suối, tên gọi các con vật, tên gọi các đấng siêu nhiên, thần linh, tên gọi
các quả đồi, ngọn núi, tên các công trình xây dựng để ở, tên người gọi theo
dòng bố, tên người gọi theo dòng mẹ, tên người gọi theo con cháu … Bộ môn
khoa học nghiên cứu về tên gọi như vậy được gọi là danh học. Các địa danh
cũng chỉ là một trong nhiều đối tượng nghiên cứu của khoa học được đặt
trong thế phân biệt với nhân danh học. Đặt trong khung cảnh ngôn ngữ học,
địa danh học nằm trong lòng bộ môn từ vựng học, vì đối tượng nghiên cứu
của địa danh học chính là các từ ngữ được sử dụng để đặt tên, gọi tên.
Địa danh học là một bộ môn ngôn ngữ học chuyên nghiên cứu về

nguồn gốc, cấu tạo, ngữ nghĩa, sự biến đổi, sự lan toả, phân bố của địa danh.
Người chuyên nghiên cứu về địa danh được gọi là nhà địa danh học.
Như vậy, một nhà địa danh học thường phải nghiên cứu, giải quyết
những công việc chính sau đây:
- Tìm hiểu nguồn gốc lịch sử của địa danh.
- Tìm hiểu ngữ nghĩa của địa danh.
- Tìm hiểu các mô hình địa danh, các phương thức quá trình tạo địa
danh.
- Tìm hiểu sự nảy sinh, lan toả, sự phân bố của địa danh qua các không
gian, các khoảng thời gian khác nhau.
- Chuẩn hoá các địa danh.
Trong những vấn đề lớn trên, người ta lại chia nhỏ thành nhiều vấn đề
khác nhau để nghiên cứu.
Về quan điểm tín hiệu học, địa danh có tính lý do. Vậy, vấn đề quan
trọng là cội nguyên, ngữ nghĩa của địa danh. Điều này ta thường thấy trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
định nghĩa địa danh học: là bộ môn nghiên cứu về nguồn gốc ngữ nghĩa của
địa danh.
Dựa trên hướng nghiên cứu, người ta chia ra các bộ phận nhỏ như:
Ngôn ngữ địa danh học, địa lí địa danh học, lịch sử địa danh học, đối chiếu
địa danh học… Ngôn ngữ địa danh học chú ý nhiều đến những diễn tiến về
mặt ngôn ngữ của địa danh, đặc điểm cấu tạo ngôn ngữ của địa danh, ngữ
nghĩa của địa danh, các mô hình cấu tạo của địa danh…; địa lí địa danh học
chú ý sự phân bố về địa danh, sự liên quan giữa sự phân bố của địa danh đối
với các vùng, các đối tượng không gian địa lí…; lịch sử địa danh học chú ý
nhiều đến các quá trình hình thành địa danh, sự phát triển của địa danh, sự
phân bố của địa danh có liên quan đến các tộc người; đối chiếu địa danh học
nghiêng về sự đối sánh để tìm ra những nét tương đồng và dị biệt giữa hệ

thống địa danh của tộc người này, dân tộc này, đất nước này với tộc người
khác, dân tộc khác, đất nước khác, tìm hiểu tính chất nhân học trong địa danh.
Ngoài ra, người ta có thể chia địa danh thành địa danh học lí thuyết, địa
danh học mô tả.
1.5. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA HUYỆN HOA LƢ - NINH BÌNH
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỊA DANH
1.5.1. Về địa lí
Huyện Hoa Lư là một huyện nằm ở trung tâm tỉnh Ninh Bình, có vị trí
bao bọc phía Bắc và Tây với thành phố Ninh Bình. Hoa Lư có chung ranh
giới với các huyện Gia Viễn, Nho Quan, Yên Mô, Yên Khánh, thị xã Tam
Điệp và huyện Ý Yên (Nam Định). Phía Đông giáp huyện Yên Khánh, huyện
Ý Yên (Nam Định) và thành phố Ninh Bình, có sông Đáy là ranh giới. Phía
Bắc giáp huyện Gia Viễn, có sông Hoàng Long là ranh giới. Phía Tây giáp
huyện Nho Quan. Phía Nam giáp huyện Yên Mô và thị xã Tam Điệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
Huyện Hoa Lư có diện tích 102,9 km
2
(2008) chiếm 7% diện tích cả
tỉnh Ninh Bình. Hoa Lư thuộc vùng chiêm trũng núi đá, có nhiều núi đá, hang
động, nhiều sông, ngòi. Địa hình huyện Hoa Lư chia thành ba vùng tương đối
rõ rệt. Phía Tây là vùng có nhiều núi đá vôi, các thung lũng xen kẽ. Sáu xã ở
miền núi phía Tây: Trường Yên, Ninh Hoà, Ninh Xuân, Ninh Thắng, Ninh
Hải, Ninh Vân, có thế mạnh phát triển du lịch và sản xuất vật liệu xây dựng.
Phía Nam là vùng đất vàn cao, đất màu, trồng hai vụ lúa và cây màu thuận lợi.
Phía Bắc và Đông là vùng đồng bằng chiêm trũng. Trước Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, vùng này chỉ cấy được một vụ chiêm. Nay cấy hai vụ chắc ăn
và nhiều diện tích đã làm được ba vụ lúa, màu.
Huyện Hoa Lư nằm ở vị trí chiến lược của tỉnh, là yết hầu giao thông

giữa miền Bắc và miền Trung, giữa đồng bằng châu thổ sông Hồng và miền
núi rừng Tây Bắc. Hoa Lư nằm trên hai đường giao thông thuỷ, bộ quan trọng
nhất của đất nước theo cả bốn hướng Bắc - Nam - Đông - Tây. Về đường bộ,
có quốc lộ 1A đi qua các xã Ninh Giang, Ninh Mỹ, Ninh An dài gần 20km;
đường 12C đi qua các xã Ninh Mỹ, Ninh Hoà, Trường Yên đi Rịa (Nho
Quan). Bên cạnh quốc lộ 1A là đường xe lửa Bắc - Nam đoạn qua xã Ninh An
dài gần 10km. Về đường thuỷ, mỗi con sông trên đất Hoa Lư như mãi hiện
lên hình ảnh về một thời Hoa Lư là Cố đô của nhà Đinh, nhà Lê và buổi đầu
dấy nghiệp của nhà Lý. Đó là sông Đáy chảy qua Hoa Lư từ cầu Gián Khẩu
(Ninh Giang) tới thành phố Ninh Bình xuôi ra biển Đông. Sông Hoàng Long
từ huyện Gia Viễn chảy ra các xã Trường Yên, Ninh Giang tới cầu Gián Khẩu
vào sông Đáy. Sông Xuyên Thuỷ Động (là chi lưu của sông Hoàng Long) từ
Trường Yên chảy qua các xã Ninh Xuân, Ninh Thắng rồi nhập vào sông
Tranh. Sông Tranh (cũng là một chi lưu của sông Hoàng Long) chảy qua các
xã Ninh Giang, Ninh Hoà qua các xã Ninh Mỹ, Ninh Xuân rồi nhập vào sông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
Vân. Sông Vạc từ cầu Yên chảy qua Ninh An, thành phố Ninh Bình rồi qua
Yên Mô, Yên Khánh, Kim Sơn.
Hoa Lư có gần 4000 ha núi đá. Vùng núi đá vôi của Hoa Lư với trữ
lượng lớn, nằm gần đường giao thông thuỷ, bộ, đường sắt thuận tiện cho khai
thác, là một tiềm năng kinh tế lớn để phát triển các ngành công nghiệp khai
thác, chế biến và sản xuất vật liệu xây dựng. Vùng núi đá Hoa Lư có nhiều
hang động đẹp, kì thú như động Thiên Tôn (thị trấn Thiên Tôn), Xuyên Thuỷ
Động (Trường Yên), Tam Cốc - Bích Động (Ninh Hải), Bàn Long (Ninh
Xuân) … cùng hàng trăm ngôi đền, chùa, danh thắng khác, biến Cố đô Hoa
Lư thành một trung tâm du lịch lớn của tỉnh Ninh Bình và cả nước. Vùng núi
Hoa Lư từ xưa đến nay còn là căn cứ địa trọng yếu trong các cuộc đấu tranh
bảo vệ và giải phóng quê hương, đất nước trong suốt chiều dài lịch sử đấu

tranh anh hùng của dân tộc ta. [4], [5].
Ca ngợi Hoa Lư, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh (1807- 1859) viết bài
“Phú cồ kinh danh thắng”, trong đó có đoạn:
“Định đô Tràng An, mở nền chính thống.
Một là địa thế tôn nghiêm, hai là tiện đường triều cống.
Núi Mã Yên nghìn trùng xa ngắt, thành đắp đã cao.
Sông Hoàng Long một dải trong veo, hào hào cũng rộng.

Phong cảnh tốt thay, đệ nhất là đây.
Phong Châu khôn sánh, Phong Khê nào tày.
Xem như địa lý hoạ đồ, thầy Tàu để kiểu.
Rõ được thiên nhiên hình thắng, thợ tạo khéo bày”.

1.5.2. Về lịch sử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
Lịch sử huyện Hoa Lư là lịch sử của những năm tháng hào hùng, gắn
liền với những mốc son lịch sử chói ngời từ ngàn xưa của dân tộc Việt Nam.
Mỗi ngọn núi, dòng sông, mảnh đất Hoa Lư đều ghi lại những dấu ấn lịch sử
từ thời Vua Hùng dựng nước đến sự ra đời của nhà nước Đại Cồ Việt, của các
vị Vua Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ. Hoa Lư cũng vừa là hậu
cứ, vừa là chiến trường của các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên- Mông,
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ …
Huyện Hoa Lư là huyện Gia Khánh trước đây, được thành lập vào năm
Thành Thái thứ 18 (năm 1906) gồm 4 tổng của huyện Gia Viễn và 4 tổng của
huyện Yên Khánh hợp lại, gồm 34 xã, 13 thôn, 1 phường và 1 trang. 4 tổng
của huyện Gia Viễn là: Tổng La Mai gồm 5 xã: La Mai, La Hộ, Trung Trữ,
Bạch Cừ, La Cầu, và trang La Trữ; tổng Quán Vinh gồm 6 xã: Quán Vinh,
Áng Sơn, Ngô Khê, Đại Áng, Luân Khê và Áng Ngũ; tổng Kỳ Vĩ gồm 5 xã: Kỳ

Vĩ, Phúc Sơn, Gia Phú, Gia Hộ, Hoàng Sơn; tổng Đa Giá gồm 6 xã: Đa Giá
Hạ, Cam Giá, Lực Giá, Tải Nhân, Kiêm Đa, Phú Gia. Bốn tổng của huyện
Yên Khánh là: tổng An Đăng gồm 4 xã: An Đăng, Đại Đăng, Cổ Loan, Bích
Đào, 3 thôn: Phúc Chỉnh, Phúc Trì, Phúc Am và phường Khương Lộc; tổng
Thiện Trạo gồm 4 xã: Thiện Trạo, Trầm Hương, An Phúc, An Khoái; tổng Vũ
Lâm gồm 4 xã: Vũ Lâm, Văn Lâm, Khê Đầu, Tuân Cáo; tổng Dương Vũ gồm
10 thôn: Hoàng Sơn, Đông Hội, Mai Xá, Đông Trang, Xuân Áng, Bộ Đầu,
Chấn Lữ, Côn Lăng Thượng, Côn Lăng Hạ, Phú Lăng.
Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, để phù hợp với nhiệm vụ xây
dựng đất nước trong hoà bình, tháng 9 - 1954 các xã Gia Thanh, Gia Trường
thuộc huyện Gia Viễn; các xã Dưỡng Thiện, Đam Khê, Hải Nham thuộc
huyện Yên Mô được sáp nhập vào huyện Gia Khánh. Năm 1977, huyện Gia
Khánh và thị xã Ninh Bình hợp nhất thành huyện Hoa Lư. Năm 1981, huyện
Hoa Lư lại chia tách thành thị xã Ninh Bình (nay là thành phố Ninh Bình) và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
huyện Hoa Lư như hiện nay. Huyện Hoa Lư trước kia có 17 xã: Trường Yên,
Ninh Hoà, Ninh Giang, Ninh Khang, Ninh Mỹ, Ninh Khánh, Ninh Tiến, Ninh
Nhất, Ninh Xuân, Ninh Thắng, Ninh Hải, Ninh Vân, Ninh An, Ninh Phong,
Ninh Sơn, Ninh Phúc, Ninh Thành. Sau nhiều lần chia tách, nhiều xã của
huyện Hoa Lư sáp nhập vào thị xã Ninh Bình (nay là thành phố Ninh Bình).
Đến nay, huyện Hoa Lư có diện tích 102,9Km
2
(2008) với 10 xã và 1 thị trấn:
Ninh Giang, Ninh Hoà, Ninh Xuân, Trường Yên, Ninh Mỹ, Ninh Khang, Ninh
Thắng, Ninh Hải, Ninh Vân, Ninh An và thị trấn Thiên Tôn (thị trấn Thiên
Tôn được tách ra từ xã Ninh Mỹ năm 2004).
Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, tiêu biểu là thế kỷ X, hàng
nghìn nông dân Hoa Lư đã gia nhập nghĩa binh Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 xứ

quân, thu non sông về một mối, thống nhất đất nước. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh
lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng, lập nước Đại Cồ Việt, xây
dựng kinh đô tại Hoa Lư. Hoa Lư - Đại Cồ Việt mở ra một trang sử mới của
dân tộc Việt Nam, tiêu biểu cho xu thế thống nhất quốc gia, tinh thần tự hào
dân tộc và ý chí độc lập, tự chủ mạnh mẽ của dân tộc ta từ Văn Lang - Đại
Việt. Năm 981, Thập đạo tướng quân Lê Hoàn xuất quân đánh tan quân Tống
và quân Chiêm Thành giữ yên bờ cõi nước nhà. Lê Hoàn lên ngôi vua, hiệu là
Lê Đại Hành, lập nên triều đại mới: Triều Lê, và vẫn lấy Hoa Lư là kinh đô
nước Đại Cồ Việt. Đến đầu triều Lý, Hoa Lư vẫn là kinh đô của nước ta cho
đến năm 1010, vua Lý Thái Tổ mới dời đô về Thăng Long.
Đến cuối thế kỷ XIII (năm 1285), Triều Trần đã rời thành Thăng Long
lui quân về Hoa Lư xây dựng căn cứ địa kháng chiến chống quân Nguyên -
Mông xâm lược. Ngày nay, hành cung Vũ Lâm - Văn Lâm và đền Thái Vi là
dấu tích còn lại của đại bản doanh của các vua Trần thời đó. Cũng tại căn cứ
địa Trường Yên, ngày 21/03/1285, quân dân nhà Trần đã đánh bại cuộc tập
kích của quân Nguyên do Toa Đô chỉ huy. Ngày 07/06/1285, vua Trần lãnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
đạo quân và dân ta đánh tan quân Nguyên tại Trường Yên, giải phóng toàn bộ
vùng đất Ninh Bình. Sau đó, cũng từ Hoa Lư, nhà Trần cũng tổ chức cuộc
tổng tiến công, đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông ở Bạch Đằng, Vạn
Kiếp …, kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông,
giải phóng đất nước.
Hơn 500 năm sau (1789), Quang Trung - Nguyễn Huệ cũng từ Hoa Lư
xuất quân thần tốc tiến về Thăng Long, tiêu diệt quân Thanh giành lại nền độc
lập cho nước nhà.
Từ giữa thế kỉ XIX, đất nước ta rơi vào ách đô hộ của thực dân Pháp.
Phát huy truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm của ông cha, nhân dân
Hoa Lư hăng hái tham gia các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp ngay từ

khi chúng đặt chân xâm lược nước ta. Hàng nghìn nông dân Hoa Lư đã tham
gia nghĩa quân của Phạm Văn Nghị, Bùi Cẩm (Ninh Giang), Đinh Công
Tráng; tham gia phong trào Cần Vương do cụ Bang Tương (Ninh Nhất) và cụ
Ba Chu (Ninh Hoà) cầm đầu. Năm 1885, các ông Đặng Văn Hài, Hoàng Văn
Kênh (Trường Yên) đã tổ chức lực lượng đánh địch ở phố Nứa (Ninh Bình).
Từ cuối những năm 1920, phong trào yêu nước và cách mạng ở trong
nước nói chung cũng như ở Hoa Lư nói riêng đã có những bước phát triển
mới. Tháng 10 năm 1927, chi bộ của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí hội được thành lập ở xã Trường Yên. Đến tháng 10 năm 1929, chi bộ này
đã chuyển thành chi bộ Đông Dương Cộng sản đảng. Đây là một trong ba chi
bộ đảng đầu tiên của tỉnh Ninh Bình. Đầu năm 1931, các chi bộ Đảng ở Trung
Trữ (Ninh Giang), Thanh Khê (Ninh Hoà) được thành lập. Các chi bộ Đảng
này là bộ tham mưu lãnh đạo phong trào cách mạng Hoa Lư phát triển và tiến
tới cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám lịch sử (1945).
Để bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân còn non trẻ, bảo vệ nền độc
lập và thành quả cách mạng, chống lại sự xâm lược của đế quốc Pháp và bọn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
can thiệp Mỹ, nhân dân Hoa Lư lại cùng cả nước bước vào cuộc chiến đấu
mới, Hoa Lư vừa là hậu phương, vừa là tiền tuyến trong suốt 9 năm (1945-
1954) trường kỳ kháng chiến. Những chiến công vang dội của dân quân, du
kích các xã Trường Yên, Ninh Giang, Ninh An, Ninh Xuân, Ninh Hoà… mãi
mãi là niềm tự hào của nhân dân Hoa Lư, góp phần cùng quân dân cả nước
làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”.
Trong bảng vàng chiến thắng chống Pháp, từ tháng 3 năm 1948 đến
tháng 2 năm 1954, quân và dân huyện Hoa Lư - Gia Khánh đã đánh 300 trận,
loại khỏi vòng chiến đấu 1281 tên địch, bắt sống 264 tên, tiêu diệt 630 tên,
phá huỷ 74 xe cơ giới, bắn rơi 20 máy bay, bắn cháy 64 tầu thuyền,thu 261
khẩu súng. Trong 9 năm kháng chiến Hoa Lư có 4621 thanh niên xung phong

vào bộ đội, hơn 12000 người tham gia dân quân du kích, hơn 3200 hội viên
phụ nữ và gần 3000 đoàn viên thanh niên tham gia kháng chiến và có hơn
2300 người tham gia “Hội giúp đỡ binh sỹ”.
Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, cùng với cả nước, Đảng bộ và
quân dân Hoa Lư khẩn trương khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và
phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chi viện sức người sức của cho
miền Nam ruột thịt…
Đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, nhân dân Hoa Lư đã đoàn
kết chặt chẽ, phát huy truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc vừa sản
xuất, vừa chiến đấu lập nên những chiến công vẻ vang trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước. Đặc biệt, dân quân xã Ninh Mỹ bằng súng K44 đã bắn rơi
1 máy bay Mỹ ngay trên địa phận Hoa Lư. Trên các bến phà Non Nước, cầu
Gián, cầu Yên… dưới bom đạn địch, dân quân Hoa Lư sát cánh cùng các chiến
sỹ công binh đảm bảo thông suốt các chuyến hàng. Từ năm 1965 đến năm
1975, nhân dân Hoa Lư đã tiễn 17614 người con thân yêu của mình lên đường
đánh Mỹ (bằng 23% số dân trong huyện). Trang sử truyền thống anh hùng của

×