Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

thử nghiệm sản xuất giống ốc nhồi (pila polita – deshayes 1830) trong điều kiện nhân tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.29 MB, 47 trang )

MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, cùng với xu thế phát triển chung của nền kinh
tế thế giới, ngành nuôi trồng thủy sản nước ta đã và đang phát triển nhanh chóng
cả về số lượng lẫn chất lượng con giống, cũng như mở rộng mô hình nuôi.
Ngoài việc cung cấp thực phẩm, sản phẩm còn là mặt hàng xuất khẩu có giá trị
kinh tế cao, nó trở thành một ngành mũi nhọn của nền kinh tế nước ta.
Việt Nam có vị trí thuận lợi cho nghề nuôi trồng thủy sản nói chung và
cho nghề nuôi cá nói riêng. Với chiều dài bờ biển 3620 Km, 112 của sông có hệ
thống sông ngòi, kênh mương, đầm phá dày đặc, diện tích mặt nước ruộng lớn là
điều kiện thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản. Để phát huy được những
lợi thế đó đòi hỏi phải đầu tư quy hoạch và nghiên cứu sản xuất con giống cung
ứng cho nhu cầu của người nuôi.
Trong những năm gần đây NTTS nước ngọt đã và đang trở thành một
nghề sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao. Sản phẩm của nghề NTTS nước
ngọt góp phần cải thiện đời sống nhân dân,góp phần vào xóa đói giảm nghèo.
Ngoài các đối tượng nuôi nước ngọt truyền thống như cá Chép, cá Mè, cá
Trắm,… thì một đối tượng nuôi như loài ốc nhồi (Pila polita) là khá mới mẻ,
nhưng lại là một đối tượng rất triển vọng do đây là loài có giá trị kinh tế tương
đối cao. Những món ăn được chế biến từ ốc nhồi có chất lượng thơm ngon, cung
cấp một lượng đạm, canxi, axit amin,… và đặc biệt là chứa các chất béo không
no có lợi cho sức khoẻ cho nên được thị trường rất ưa chuộng.
Do nguồn cung cấp ốc nhồi hiện tại hầu hết là do bắt ngoài tự nhiên nên
nguồn cung còn chưa ổn định, tăng áp lực khai thác nguồn ốc từ tự nhiên dẫn
đến sự suy giảm về số lượng loài này. Hiện nay, đã có một vài nơi tiến hành
nuôi thử loài ốc nhồi với nguồn giống được thu ngoài tự nhiên có kết quả khá
khả quan, đem lại hiệu quả kinh tế tương đối cao cho người nuôi.
Hiện vẫn chưa có những nghiên cứu về xây dựng quy trình công nghệ
sản xuất giống và nuôi thương phẩm loài ốc nhồi Pila polita. Việc nghiên cứu
quy trình công nghệ sản xuất loài ốc nhồi Pila polita thành công sẽ tạo cơ sở để
1
phát triển nghề nuôi ốc nhồi bổ sung thêm một loài ốc nước ngọt có giá trị kinh


tế cao vào danh mục các loài động vật thân mềm nuôi của ngành thủy sản Việt
Nam. Mặt khác, đây cũng là một giải pháp nhằm giảm áp lực khai thác nguồn ốc
tự nhiên góp phần bảo tồn nguồn lợi loài ốc này.
Vì vậy, trong thời gian thực tập tại trại thực nghiệm nước ngọt Hưng
Nguyên – Trường Đại Học Vinh, được sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn Tạ
Thị Bình tôi đã chọn đề tài “Thử nghiệm sản xuất giống ốc nhồi (Pila polita –
Deshayes 1830) trong điều kiện nhân tạo”
• Mục tiêu nghiên cứu
 Thử nghiệm sản xuất giống ốc nhồi trong điều kiện nhân tạo nhằm
cung cấp con giống thúc đẩy phát triển nghề nuôi, góp phần bảo tồn nguồn lợi
ốc tự nhiên.
 Thông qua đề tài để thử nghiệm quy trình sản xuất giống ốc nhồi nhân
tạo nhằm tạo ra con giống cung cấp cho thị trường.
2
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Phân loại
Phylum : Mollusca - (Linnaeus, 1758) Cuvier, 1795 - Molluscs
Class : Gastropoda - Cuvier, 1795 - Snails and Slugs
Subclass : Orthogastropoda - Ponder & Lindberg, 1996
Superorder : Caenogastropoda - Cox, 1960
Order : Architaenioglossa - Haller, 1892
Superfamily : Ampullarioidea - J.e. Gray, 1824
Family : Ampullariidae
Genus : Pila - Röding, 1798
Specific name : polita - (Deshayes, 1830)
Scientific name : Pila polita - (Deshayes, 1830).
Tên tiếng Anh : Apple Snail
Tên tiếng Việt : ốc nhồi, ốc đồng, ốc bươu đen.
Trong giống Pila đến nay trên thế giới đã phân loại được 23 loài bao
gồm : P. africana, P. africana martens, P. ampulacea, P. ampullacea, P.

angelica, P. cecillei, P. congoensis, P. conica, P. globosa, P. gracilis, P.
leopoldvillensis, P. letourmenxi, P. luzonica, P. occidentalis, P. ovata, P.
pesmei, P. pesmi, P. polita, P. saxea, P. scutata, P. speciosa, P. virens, P.
wernei
1.2. Đặc điểm sinh học loài ốc nhồi
1.2.1. Hình thái ngoài
Là loài ốc cỡ lớn, mặt vỏ bóng, màu xanh vàng hay nâu đen, mặt trong
hơi tím. Số vòng xoắn 5,5 - 6, các vòng xoắn hơi phồng, rãnh xoắn nông. Lỗ
miệng vỏ hẹp dài, tháp ốc vuốt nhọn, dài vỏ bóng. Vòng xoắn cuối lớn, chiếm
3
tới 5/6 chiếu cao vỏ. Các vòng xoắn trên nhỏ, vuốt nhọn dài. Lỗ miệng vỏ hẹp,
dài, chiều rộng bằng nửa chiều cao. Vành miệng sắc, không lộn trái, lớp sứ bờ
trụ dày. Lỗ rốn dạng rãnh hẹp dài. Nắp miệng dài, tâm ở khoảng giữa, gần cạnh
trong.
Vỏ ốc có lớp canxi ở phía trong và lớp vỏ sừng màu xanh đen hay ánh
vàng ở phía ngoài.

Hình 1 : Ốc nhồi nhìn từ mặt bên Hình 2 : Ốc nhồi nhìn từ mặt
bụng
1.2.2. Tập tính sống
Khi di chuyển, ốc mở nắp vỏ, xoè làm cơ bụng dạng lưỡi uyển chuyển
trên nền đáy hoặc trên vách giá thể, khi di chuyển ốc tiết ra một lớp nhầy để
giảm ma sát. Trong lúc di chuyển đầu ốc nhô ra, thuỳ miệng ở giữa, bên trái là
ống xiphong hút lớn thông với xoang phổi, bên phải là ống xiphong thoát bé
thông với xoang mang. Đôi khi ốc thải phân cùa với bọt khí qua ống thoát ra
4
ngoài. Khi ốc nổi từ từ lên mặt nước thì ống hút nhô lên, mở rộng miệng ống ra
để lấy không khí dự trữ vào khoang áo.
Nếp da trước miệng của ốc kéo dài thành 2 mấu lồi miệng, kế đó là 2 tua
râu cảm giác có khi vươn dài tới 5cm. Ở kề 2 gốc tua là 2 mắt, cuống mắt ngắn,

cử động linh hoạt.
Khối cơ chân rụt vào trong vỏ khi đóng nắp và duỗi ra khi bò, gập nắp
vỏ về phía lưng.
1.2.3. Phân bố và môi trường sống
Đây là loại ốc nước ngọt, sống phổ biến trong các ao, ruộng, hồ, đầm ở
vùng đồng bằng và trung du, chúng thường bò trên rong, bèo, ăn mùn bã hữu cơ,
bám vào xơ mít vứt xuống ao hay bám vào cỏ trong ruộng
Ốc thường nổi lên mặt nước để thở, khi có tiếng động liền thu mình lại
vào vỏ và lặn xuống sâu. Mùa nóng hay mùa lạnh, ốc hay nổi lên mặt nước, ốc
nhồi vừa có mang vừa có phổi nên chịu được khô, bỏ ở tro bếp, ốc cũng sống
được 3-4 tháng, buổi sáng ốc thường ở gần bờ ao, ruộng, trưa rút xuống sâu và
ra xa bờ hơn.
1.2.4. Đặc điểm dinh dưỡng
Ốc nhồi là loài ăn tạp, có phổ thức ăn đa dạng, chúng ăn lá của thực vật
bậc cao, rêu bám trên đá, thực vật phù du, và cả mùn bã hữu cơ, phân trâu-bò.
Ngoài ra, ốc nhồi còn ăn cả những thức ăn nhân tạo như bột cám gạo, bột đậu
tương, bột ngô,…
Trong giai đoạn còn non, ốc kiếm ăn gần như cả ngày, cường độ bắt mồi
lớn, thức ăn chủ yếu trong giai đoạn này là thực vật phù du, các loại rêu, tảo, bèo
(bèo tám, bèo hoa dâu,…) và các loại thức ăn tinh bổ sung. Ốc ăn nhiều, nhanh
lớn, tăng trưởng nhanh về kích thước. Giai đoạn về sau, ốc chủ yếu kiếm ăn vào
ban đêm tời lúc gần sáng, thức ăn trong giai đoạn này có thêm lá các loài thực
vật bậc cao, mùn bã hữu cơ. Giai đoạn này ốc ít tăng trưởng về kích thước, chủ
yếu tăng về khối lượng (tích luỹ cho sinh sản).
5
Cách thức ăn của ốc nhồi cũng khá đa dạng, tuỳ thuộc vào loại thức ăn mà
chúng ăn vào. Khi ăn lá các loài thực vật bậc cao, lá bèo, rêu bám trên giá thể,…
ốc sử dụng lưỡi bào (radula) để bào nhỏ thức ăn, sau đó cuốn vào miệng rồi tiêu
hoá thức ăn. Khi ăn mùn bã hữu cơ có kích thước nhỏ chìm dưới đáy, ốc sẽ bò
trên nền đáy và đưa vòi miệng ra thu lấy thức ăn, đối với các loại thưc ăn tinh

nổi trên mặt nước thì ốc có cá ăn là bò lên sát mặt nước rồi đưa vòi ra thu lấy
thức ăn hoặc treo mình lên trên mặt nước rồi thu thức ăn. Trong khi ăn ốc còn
tiết nhớt để keo dính thức ăn lại, thuận tiện cho việc hút thức ăn vào trong
miệng, lúc treo ngược người trên mặt nước loài này còn sử dụng cách thức vận
động chân bụng kết hợp tiết nhớt để gom thức ăn vào giữa chân bụng, sau đó
cuộn chân bụng lại rồi đưa vòi vào giữa thu lấy thức ăn.
1.2.5. Đặc điểm sinh sản
Hiện nay chưa có tài liệu nào nghiên cứu về vấn đề này.
1.3 Tổng quan tình hình thuộc lĩnh vực đề tài :
1.3.1. Trên thế giới
Trong sản lượng thuỷ sản hàng năm trên thế giới thì động vật thân mềm đóng
vai trò khá quan trọng. Theo số liệu thống kê của FAO năm 2000, động vật thân
mềm chiếm 30% về sản lượng và 19% về giá trị tổng sản lượng nuôi thuỷ sản
thế giới. Sản lượng động vật thân mềm tăng từ 3,6 triệu tấn năm 1990 lên 10,7
triệu tấn năm 2000, tỷ lệ tăng trưởng bình quân đạt 11,5%/năm.
Các nước có sản lượng động vật thân mềm nuôi lớn là Trung Quốc, Nhật
Bản, Mỹ, CHND Triều Tiên, Pháp và Italia
Các đối tượng nuôi chính chủ yếu tập trung ở các loài sống ở vùng
ven biển như Hầu TBD, Vẹm Xanh, Ngao, Sò, Điệp, Bào Ngư
Theo Dillon RT, 2000[11], Pila polita là loài ốc nước ngọt phổ biến. Chúng
Phân bố ở Đông Dương, Inđônêxia, Trung Quốc (Quảng Đông, Vân Nam), Thái
Lan và Việt Nam. Chúng sống trong ao, ruộng, vùng đồng bằng và trung du.
Đã có những nghiên cứu khác nhau về sinh thái, phân bố, vai trò và tác
hại của một số loài ốc nước ngọt trong đó có ốc nhồi Pila polita. Theo Burch và
6
Lohachit, 1983; Kaewjam, 1986[12], Pila polita được xem là một trong 8 loài
ốc nước ngọt có vai trò rất quan trọng trong y học. THAEWNON-NGIW Bet
all, 2002 cho biết Pila polita hiện đang được biết đến như là một biệt dược để
chữa bệnh về da của người dân địa phương miền nam Thái Lan[9].
Loài ốc Pila polita hiện chưa được nghiên cứu về khả năng sinh sản trong

điều kiện nhân tạo. Việc nghiên cứu quy trình sinh sản nhân tạo loài ốc nhồi
Pila polita thành công sẽ tạo cơ sở để phát triển nghề nuôi ốc nhồi thương phẩm
bổ sung thêm một loài ốc nước ngọt có giá trị kinh tế vào danh mục các loài ốc
nước ngọt nuôi của ngành thủy sản thế giới. Mặt khác, đây cũng là một giải
pháp nhằm giảm áp lực khai thác nguồn ốc tự nhiên, góp phần bảo tồn nguồn lợi
tự nhiên đang gần bị khai thác cạn kiệt.
1.3.2. Ở trong nước
Việt Nam là nước nằm trong khu vực nhiệt đới, có nhiều ao hồ, sông suối,
nhiều Cửa sông đổ ra biển với nền đáy đa dạng tạo nên một khu hệ động vật
thân mềm phong phú. Tuy nhiên, tập đoàn các đối tượng nuôi nước ngọt, còn
nghèo nàn chưa tương xứng với tiềm năng đa dạng sinh học và sự đa dạng về
điều kiện sinh thái của đất nước cũng như nhu cần của sản xuất[3].
Theo Bách Khoa toàn thư Việt Nam, Pila polita là loài ốc nước ngọt
thuộc họ Ốc nhồi (Pilidae), phân lớp Ốc mang trước (Prosobranchia), lớp chân
bụng, ngành động vật thân mềm. Vỏ tương đối lớn. Mặt vỏ bóng, màu xanh
vàng hoặc nâu đen, mặt trong hơi tím. Lỗ miệng dài hẹp, tháp ốc vuốt nhọn, có 5
- 6 vòng xoắn, các vòng xoắn hơi phồng, rãnh xoắn nông; vòng xoắn cuối rất lớn
chiếm tới 5/6 chiều cao vỏ, các vòng xoắn trên nhỏ dần, vuốt nhọn dài. Vành
miệng sắc, không lộn trái, lớp sứ bờ trụ dày. Lỗ rốn dạng rãnh hẹp dài. Nắp khe
miệng dài. Ăn mùn bã hữu cơ. Phân bố ở Đông Dương, Inđônêxia, Trung Quốc.
Sống trong ao, ruộng, vùng đồng bằng và trung du. Hiện nay chúng được sử
dụng làm các món ăn được ưa chuộng phổ biến (vd. bún ốc, ốc xào, ốc hấp
gừng, ốc om chuối đậu, ốc hấp thuốc bắc vv…).
Trong những năm gần đây, ở một số địa phương người dân đã nuôi thử
loài ốc nhồi này từ việc sử dụng nguồn giống khai thác từ tự nhiên bằng hình
7
thức nuôi kết hợp trong ao với cá quả, lươn, ba ba và ốc nhồi ở Thanh Hoá, Ninh
Bình với giá bán thương phẩm khoảng 40-50 ngàn đồng/kg nên mang lại hiệu
quả kinh tế khá cao.
Hiện vẫn chưa có những nghiên cứu chính thức nào về xây dựng quy

trình công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm loài ốc nhồi Pila polita.
1.3.3. Trích dẫn một số tài liệu về nuôi ốc nhồi ở nước ta
1.3.3.1. Sản xuất ốc đồng giống và nuôi ốc thịt (Trích đẫn từ tài liệu của trung
tâm khuyến ngư quốc gia)
Ốc đồng sống ở nước ngọt, thích sống ở nơi có nhiều chất hữu cơ mục
nát như ao, mương, ruộng, rừng Nhiệt độ thích hợp nhất 20 - 28ºC. Khi nhiệt
độ nước trên 40ºC, ốc sẽ chết; dưới 10ºC, ốc ở trạng thái ngủ. ở nhiệt độ không
thích hợp (mùa đông), ốc thường chui vào hang, mùa khô chui xuống bùn để trú
nóng.
Vào mùa khô, ốc thường vùi dưới mặt đất 5 - 20cm; khi có nước ngập
thì trồi lên sinh sống và phát triển ở môi trường nước. ốc ăn tạp, thức ăn là sinh
vật phù du, rêu, rau xanh, cám gạo, nội tạng gia súc, gia cầm và cả phân trâu -
bò. ốc cái thường lớn hơn ốc đực. ốc cái có 2 râu duỗi thẳng ra phía trước, ốc
đực có râu bên phải cuộn về bên trái. ốc đẻ nhiều lần ở nhiệt độ thích hợp, sinh
sản tập trung vào tháng 6-7 khi nhiệt độ nước 20-25ºC và điều kiện sống phù
hợp.
 Sản xuất ốc giống
Cho ốc đẻ ở ao đất, đáy có bùn mềm, nhiều mùn hữu cơ, mực nước
trung bình 0, 5m và tốt nhất là nước có dòng chảy nhẹ. Ao được bón lót bằng
phân chuồng, phân gà, phân trâu - bò trộn lẫn với rơm rạ băm nhỏ (tỷ lệ 1/3).
Bón phân cho ao nuôi trước khi thả ốc bố mẹ 3 ngày. Mật độ thả 15 -20 con/m2
ao, tỷ lệ ốc đực - cái 1/1. Nên thả ốc vào ao trước mùa sinh sản của ốc. Sau 10 -
15 ngày kể từ ngày thả ốc bố mẹ, có thể bắt ốc con để nuôi riêng. ốc giống có
thể bắt ngoài tự nhiên về nuôi. Cần làm nhẹ nhàng, tránh ốc bể vỏ, chết.
 Nuôi ốc thịt :
8
Ốc nuôi ở ruộng, nước sâu 0,7-1m, nơi cạn 0,2-0, 3m. Có thể nuôi ốc ở
mương, ao, ruộng trũng, sông cụt, rừng nước hoặc khoanh vùng đất khi nước lũ
tràn về; nên nuôi ghép ốc với cá. Vùng nuôi cần trồng bông súng, rong để tăng
độ mát và độ bám của ốc trong môi trường nước. Nước nuôi ốc không bị nhiễm

độc nông dược, giàu chất hữu cơ, nước có lưu thông nhẹ càng tốt. Nếu không có
bờ bao thì dùng lưới cước bao quanh. 10 ngày trước khi thả ốc cần băm rơm rạ
cùng với phân chuồng thả đều ao với tỷ lệ 2kg/m2, bón xong đợi đến khi có bọt
nước nổi lên mới thả ốc giống. Mật độ thả 100 - 150 con/m2, ốc cỡ lớn hơn thả
80 - 120 con/m2. Hàng ngày cho ốc ăn cám gạo, bắp, khoai, rau xanh, thịt hến,
cá, rắc đều trên phần nông của ao. Có thể cho ốc ăn thức ăn hỗn hợp như bột
bắp, cám gạo nấu với bột cá. Lượng thức ăn hàng ngày bằng 10% trọng lượng
ốc dưới ao. Cho ăn mỗi ngày 1 lần vào giờ nhất định. ốc lớn, tăng dần lượng
thức ăn.
 Quản lý và thu hoạch
Thu tỉa ốc lớn để lại ốc nhỏ nuôi tiếp trong mùa nước. Vào cuối mùa
nước, thu toàn bộ; chọn ốc bố mẹ để nuôi năm sau. Nơi có nhiều phù sa bồi lắng
nên thu hoạch vào mùa khô, khi đó chỉ cần cào mặt đất, bắt từng con ốc. Đây
cũng là lúc ốc mập nhất.
1.3.3.2. Kỹ thuật nuôi ốc nhồi (Trích dẫn từ trang thông tin điện tử cơ sỏ dữ liệu
KH&CN nông nghiệp)
Ốc nhồi là loại ốc nước ngọt, sống phổ biến trong các ao, ruộng, hồ,
đầm ở vùng đồng bằng và trung du, chúng thường bò trên rong, bèo, ăn mùn bã
hữu cơ, bám vào xơ mít vứt xuống ao hay bám vào cỏ trong ruộng
Ốc thường nổi lên mặt nước để thở, khi có tiếng động liền thu mình lại
vào vỏ và lặn xuống sâu. Mùa nóng hay mùa lạnh, ốc hay nổi lên mặt nước, ốc
nhồi vừa có mang vừa có phổi nên chịu được khô, bỏ ở tro bếp, ốc cũng sống
được 3-4 tháng, buổi sáng ốc thường ở gần bờ ao, ruộng, trưa rút xuống sâu và
ra xa bờ hơn. Muốn bắt ốc dễ dàng đêm đến có thể bỏ rơm rạ hoặc cỏ thối rữa
xuống ao, hồ để ốc bám vào, sáng hôm sau ra bắt.
Nuôi ốc ở ao cần có phần sâu và phần nông theo tỷ lệ 3/2.
9
Phần sâu giữ nước 50-80cm, phần nông quanh ao mức nước 20-30cm.
Vây lưới quanh ao ở độ sâu 50cm để không cho ốc bò đi. Nước ao không bị ô
nhiễm, có điều kiện lưu thông tốt, độ pH 6-7, nhiệt độ nước thích hợp nhất là

20-2500C, giống ốc con thả với mật độ 100-150con/m2, trước khi thả 10 ngày,
rắc rơm rạ băm nhỏ xuống ao, sau đó đổ phân gà khoảng 300/m2, khi thấy nước
nổi bọt lên thì thả ốc con.
Cần cho ốc ăn liên tục, thức ăn gồm cám gạo, rau xanh, thịt hến, bột cá
trộn cám gạo, bột ngô ngày cho ăn một lần, lượng thức ăn bằng 10% trọng
lượng ốc dưới ao, rải thức ăn đều ở phần nông của ao.
CHƯƠNG II : ĐỊA ĐIỂM, VẬT LIỆU, ĐỐI TƯỢNG,
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm nghiên cứu
Tại trại thực nghiệm nước ngọt Hưng Nguyên, Nghệ An, thuộc khoa
Nông Lâm Ngư, Trường Đại Học Vinh.
2.2. Vật liệu nghiên cứu
 Bể : Bể tròn 1,5m
3
: 2 bể ;bể xi măng 1,5m
3
: 1 bể.
Bể hình chữ nhật 0.5m
3
: 2 bể
 Giai 1m
3
: 2 giai.
 Xô, chậu, dụng cụ hỗ trợ khác.
 Máy đo các yếu tố môi trường : nhiệt độ (tºC), pH.
 Thức ăn cho ốc : bột cám gạo, bèo.
 Các vật liệu đất, đá, gạch,…để tạo bờ đất trong bể sinh
sản của ốc
2.3. Đối tượng nghiên cứu
 Ốc nhồi (Pila polita) bố mẹ đạt kích cỡ tham gia sinh

sản.
10
 Trứng ốc nhồi thu tự nhiên để tiến hành ấp.
 Ốc con sau khi nở để thử nghiệm quy trình ương.
2.4. Nội dung nghiên cứu :
 Thu thập ốc bố mẹ và nuôi thuần dưỡng
 Thu trứng và ấp trứng.
 Ương ốc con mới nở lên ốc giống.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
2.5.1.1. Phương pháp thu thập ốc bố mẹ, nuôi thuần dưỡng và cho sinh sản
Thu thập ốc bố mẹ: Nguồn ốc sẽ được chọn lọc và thu mua từ ốc của
các ngư dân khai thác tại các địa phương như Nam Đàn, Hưng Nguyên ốc thu
mua khỏe mạnh, kích cỡ 20-30 con/kg, được chuyển về nghiên cứu thuần dưỡng
trong điều kiện nuôi bể.
Nuôi thuần dưỡng: Thí nghiệm nuôi ốc bố mẹ trong các bể composite
(thể tích 1,5m
3
/bể) với 2 nghiệm thức:
 Nuôi trong bể có thả bèo hoa dâu
 Nuôi trong bể có tạo bờ đất xung quanh và thả bèo hoa dâu. Mỗi đơn
vị thí nghiệm 12 cặp ốc bố mẹ.
 Thức ăn dùng cho ốc bố mẹ là bột cám gạo.
* Kích thích sinh sản bằng cách kích thích nhiệt khô :
• Nguyên lý của phương pháp :
 Nguyên lý vật lý : dưới tác động của ánh sáng, nhiệ độ không khí ở
điều kiện nhiệt độ thấp sẽ dẫn đến quá trình mất nước do bốc hơi của các cơ
quan sinh sản. Điều này kiến cho áp suất thẩm thấu giữa cơ thể và môi trường
nước. Khi đưa cơ quan sinh sản về môi trường nước, cơ thể hút nươc tăng lên
đột ngột đã thúc đẩy quá trình đẻ trứng của ốc.

 Nguyên lý sinh học : Nhiệt độ không khí tăng lên kích thích các
giao tử chín muồi đồng loạt.
• Phương pháp kích thích :
11
 Ốc bố mẹ sau quá trinh nuôi vỗ, đã thành thục (quan sát mặt chóp
nhọn của ốc thấy có màu vàng nghệ thì ốc đó đã thành thục), được đặt vào 1
chậu nhựa khô, để vào nơi có bóng râm (hoặc có nắng nhẹ) trong vòng 30 phút
đến 1 giờ. Sau đó được đưa lại vào bể đã được thay nước (50% - 70%), nếu kích
thích thành công tối hôm đó ốc sẽ lên sinh sản.
2.5.1.2. Phương pháp thu trứng và ấp trứng
Quan sát hoạt động sinh sản của ốc trong điều kiện sinh sản nhân tạo,
thu các chùm trứng ốc đã sinh sản ngoài tự nhiên, rửa sạch, đếm số lượng trứng
rồi cho vào dụng cụ ấp.
Thí nghiệm ấp trứng với 2 hình thức :
 Ấp trứng trong các khay nhựa, để khô trong phòng và thỉnh thoảng
có tưới nước giữ ẩm.
 Ấp trứng trên các thân cây chuối: thu các chùm trứng. Đem sắp lên
các thân cây chuối chẻ đôi, sau đó dùng lá chuối che lại và để trong phòng.
Các chỉ tiêu theo dõi : Thời gian ấp nở, tỷ lệ nở, theo dõi nhiệt độ môi
trường.
2.5.1.3. Phương pháp ương từ ốc con mới nở lên ốc giống
Để tìm hiểu kỹ thuật ương nuôi cần tiến hành thử nghiệm ương nuôi
với 2 nghiệm thức:
 Thử nghiệm ương ốc trong bể composite đáy bùn.
 Thử nghiệm ương ốc trong giai đặt trong ao số 7.
Mỗi nghiệm thức lặp lại 2 lần.
Thức ăn: bột cám gạo
Chỉ tiêu theo dõi:
 Tăng trưởng của ốc giống
 Tỷ lệ sống của ốc giống.

2.5.2. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu môi trường :
 Đo nhiệt độ : Dùng nhiệt kế hoặc máy đo pH/Nhiệt độ.
12
 Đo pH : Dùng máy đo pH/Nhiệt độ và dùng bộ Test
pH.
 Đo NH
3
: Dùng bộ Test NH
3.
Số liệu tăng trưởng:
 Định kỳ đo tốc độ tăng trưởng của ôc con 7 ngày/lần, mỗi lần đo 30
con
2.5.3. Phương pháp xử lý số liệu
 Các số liệu về tỷ lệ nở, tỷ lệ sống được xử lý bằng các
công thức toán học.
 Các số liệu khác được xử lý bằng phần mềm Excel.
13
CHƯƠNG III : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Quy trình kỹ thuật nuôi thuần dưỡng và cho sinh sản ốc nhồi
3.1.1. Chuẩn bị bể nuôi
Bể nuôi được chuyển từ trong kho ra, vệ sinh sạch sẽ trước khi vào giai
đoạn tạo các điều kiện cho bể đẻ.
Bao gồm 4 bể : 3 bể composit và 1 bể xi măng :
• Bể composit nuôi ốc bố mẹ sinh sản :
Bể composit có thể tích 1,5 m
3
, trong bể có lót 1 lớp gạch dày khoảng
30cm để năng độ cao của đáy bể tiện cho việc chăm sóc, quản lý. Bên trên bể
tạo ghè đá, đắp đất vượt lên mặt nước 30cm, là nơi cho ốc sinh sản. Đáy bể phủ

1 lớp đất khoảng 10cm và 1 lớp bùn non mỏng làm nơi trú ẩn cho ốc.
• Bể xi măng nuôi ốc bố mẹ sinh sản :
Bể xi măng có thể tích 1,5m
3
, trong bể có lóp 1 lớp gạch dày khoảng
20cm để nâng độ cao của đáy bể. Bên trên tạo ghè đá, đắp đất vượt trên mặt
nước khoảng 30cm. Đáy bể cũng được phủ 1 lớp đất dày khoảng 10cm và 1
lơpfs bùn non mỏng.
• Bể composit thứ 2 nuôi ốc bố mẹ sinh sản :
Bể có thể tích 1m
3
, trong bể tạo một ghè đá, có đắp đất bao phủ, là nơi
để ốc sinh sản. Đáy bể là đáy trơ (không bỏ chất đáy), bên dưới ghè đá được xếp
một lớp gạch cao để giảm hiện tượng đất bên trên sạt lở xuống dưới bể.
• Bể composit nuôi ốc bố mẹ hậu bị :
Bể có thể tích 1,5m
3
, được phủ 1 lớp bùn đáy dày khoảng 5cm.
Cả 4 bể đều có tấm che để hạn chế khoảng 50% ánh nắng trực tiếp chiếu
vào bể, nhằm giảm nhiệt độ nước trong những ngày nắng nóng. Và có thiết kế
nâng cao lù xả đáy để phù hợp với điều kiện nền đáy mới được tạo ra.
14

Hình 3 : Bờ đá cho ốc sinh sản Hình 4 : Tấm che nắng trên bể
Cấp nước vào bể với độ sâu khoảng 30cm. Cấp nước vào ra khoảng 5-6
lần để loại bỏ chất bẩn lơ lửng trong nước, sau đó để sa lắng phù sa, nước sẽ có
độ trong đủ điều kiện cho việc thả ốc bố mẹ. Tiếp đó tiến hành thả bèo hoa dâu
vào tỷ lệ phủ bèo khoảng ½ diện tích mặt nước trong bể (phần không phủ bèo để
thuận tiện cho việc cho ốc ăn thức ăn nhân tạo)
3.1.2. Chọn và thả ốc bố mẹ

3.1.2.1. Thu thập ốc bố mẹ và nuôi thuần dưỡng
• Thu thập ốc bố mẹ
Do nguồn ốc bố mẹ còn hạn chế nên việc việc thu mua ốc bố mẹ tương
đối khó khăn, chủ yếu là thu mua ngoài chợ. Sau khi được mua về tuyển chọn ốc
bố mẹ bằng các yếu tố cảm quan là chính. Ốc có chiều dài toàn thân trung bình
từ 48mm đến 56mm. Vỏ còn nguyên vẹn, có màu sắc đặc trưng của loài.
• Nuôi thuần dưỡng
15
Ốc bố mẹ được nuôi thuần dưỡng ở các bể composit từ ngày 5/4, sau vài
ngày nuôi, số lượng ốc chết xảy ra rất nhiều.
 Nguyên nhân : ốc bố mẹ được thu mua ngoài chợ nên chất lượng
không đảm bảo, ốc có sức khoẻ yếu, có thể đã có những tổn thương bên trong
mà mắt thường không quan sát được. Mặt khác trong thời gian này có sử dụng lá
sắn làm thức ăn cho ốc nhồi dẫn tới việc nước trong bể nuôi đã bị ô nhiễm đã
làm chết ốc hàng loạt.
 Khắc phục : Tiến hành thay nước cho bể nuôi, loại bỏ những con ốc
chết, tiếp tục nuôi thuần dưỡng những cá thể còn khoẻ mạnh, ngừng cho ăn thức
ăn xanh (lá sắn), chuyển sang chỉ sử dụng thức ăn tinh là bột cám gạo.
Ngày 21/4 đi mua thêm ốc bố mẹ bổ sung vào và tiếp tục nuôi thuần
dưỡng, từ ngày 22/4 dến ngày 29/4 một số ốc bố mẹ bị chết.
 Nguyên nhân : do ốc bố mẹ được thu mua có sức khoẻ kém, mặt
khác trong thời gian này thời tiết thay đổi thất thường dẫn đến việc một số ốc bố
mẹ bị chết.
 Khắc phục : Tiến hành loại bỏ những con bị chết, thay nước rồi ổn
định lại môi trường nước, tiếp tục nuôi để chọn lọc những con ốc bố mẹ khoẻ
mạnh.
3.1.2.2. Thả ốc bố mẹ
Sau khi bể nuôi đã ổn định,có độ trong tương đối, bèo hoa dâu phủ ½
diện tích mặt nước trong bể. Tiến hành thả vào buổi sáng ngày 6/5. Nuôi trong 3
bể gồm : 1 bể composit 1,5m

3
, 1 bể composit 1m
3
và 1 bể xi măng 1,5m
3
, mỗi bể
thả 12 cặp ốc bố mẹ (đã cân đo lấy số liệu). Sau khi thả dùng tấm che để che đi
½ diện tích mặt bể, hạn chế ánh sáng mặt trời chiếu vào.
 Kích thước trung bình ốc bố mẹ tham gia sinh sản :

Chiều
cao vỏ (mm)
Chiề
u rộng vỏ
(mm)
Chiều
dài vỏ (mm)
K.lượ
ng toàn thân
(g)
Bể xi măng
34.389
167
35.9
07917
50.4683
33
30.436
542
Bể 34.395 35.3 49.5379 30.135

16
composit 1,5m³ 6625 17 958
Bể
composit 1m³
36.326
667
37.9
34583
53.1637
5
32.419
625
 Nhận xét : Kích thước ốc bố mẹ đưa vào sinh sản nhân tạo hợp vời
tương đối hợp với yêu cầu. Ốc đực và ốc cái có kích thước khác nhau (ốc đực
nhỏ hơn ốc cái có cùng độ tuổi) nên khi chọn ốc bố mẹ tham gia sinh sản phải
lưu ý tới điều này.
3.1.3. Chăm sóc và quản lý
3.1.3.1. Chăm sóc
Thời gian đầu cho ốc ăn bột cám gạo 2 lần/ngày vào buổi sáng lúc 6h và
buổi chiều lúc 17h, nhưng sau 1 thời gian nuôi (từ ngày 6/5 đến ngày 11/5) thì
thấy ốc chủ yếu bắt mồi vào ban đêm (khoảng từ 19h-5h sáng hôm sau – đã có
theo dõi và đoạn phim thu lại), hầu như ít có hoạt động kiếm ăn vào ban ngày
nên giai đoạn sau chỉ cho ăn 1 buổi trong ngày là buổi chiều (lúc 17h). Khối
lượng thức ăn cho vào bể khoảng 3-5% khối lượng cơ thể, ngoài ra còn có bèo
hoa dâu trong bể là nguồn thức ăn xanh bổ sung.
3.1.3.2. Quản lý
Hằng ngày quan sát sự hoạt động của ốc, theo dõi các yếu tố môi trường
(nhiệt độ và pH),nhiệt độ đo 3 lần/ngày và pH đo 2 lần/ngày :
 Bảng nhiệt độ trung bình trong mỗi bể đẻ, tính trên toàn bộ
thời gian nuôi sinh sản :

Nhiệt độ
Bể xi
măng
Bể
composit 1,5m³
Bể
composit 1m³
Sáng
T
B
26.1545
4545
26.377272
73
26.18095
238
M
in-Max
23.3-
27.8 24-28.5 23.1-28.1
Trư
a
T
B
27.9863
6364
28.452380
95
28.35454
545

M
in-Max
24.6-
29.8
26.4-28.5 26.7-30.7
Chiề T 29.4090 29.718181 29.79545
17
u
B
9091 82 455
M
in-Max
24.5-
31.5
28.3-31.7 25.3-33.1
Tro
ng ngày
T
B 27.85
28.118181
82
28.15909
091
M
in-Max
24.13-
29.53
24.2-30.03
24.2-
30.23

 Biểu đồ nhiệt độ trung bình ngày :
 Nhận xét :
 Trong thời gian nuôi ốc bố mẹ tham gia sinh sản, nếu tính nhiệt độ
trung bình trong suốt thời gian nuôi thì nhiệt độ của các bể tại 1 thời điểm đo là
tương đương nhau. Nhiệt độ trung bình buổi chiều cao hơn buổi sáng khoảng
3ºC. Mặt khác, tuỳ từng ngày mà nhiệt độ cùng một buổi cũng có sự sai khác
lớn, đây chỉ là sự thay đổi do yếu tố thời tiết (gió mùa, mưa, ).
 Nhìn vào biểu bảng ta thấy nhiệt độ trung bình ngày tại thời điểm
11/5 và 15/5 có sự hạ thấp nhiệt độ so vời nền nhiệt những ngày xung quanh,
nguyên nhân là do trong 2 ngày này có xuất hiện mưa rào làm nhiệt độ trong
ngày giảm xuống đáng kể. Ngày 9/5-10/5 và ngày 15/5 là 3 ngày ốc bố mẹ có
hoạt động đẻ trứng, đặc biệt lưu ý khi ngày 9/5 và 10/5 là vào đợt sinh sản chưa
có tác động kích thích. Vì vậy có thể việc sinh sản trong điều kiện nuôi nhốt của
ốc nhồi có liên quan tới việc đón những cơn mưa rào này.
18
 Bảng số liệu pH trung bình trong quá trình cho sinh sản :
p
H
Bể xi măng
Bể composit
1,5m³
Bể composit
1m³

ng
C
hiều

ng
C

hiều
S
áng
Ch
iều
T
B
7.
71818
7.
76818
7.
73636
7.
79545
7
.75
7.8
1364
 Nhận xét :
 Do suốt trong quá trình nuôi nguồn nước cấp cho bể đẻ được lấy từ
ao số 5, và những lần thay nước kích thích sinh sản thì sự thay đổi pH không
đáng kể biến động pH từ 7,6 đến 7,9, còn lại thường ổn định trong khoảng 7,7.
3.1.4. Cho sinh sản nhân tạo ốc nhồi
3.1.4.1. Cho ốc sinh sản mà không kích thích
Khi nuôi ốc trong bể có thiết kế tạo bờ cho ốc sinh sản thì ốc đã sinh
sản, như vậy về cơ bản có thể cho ốc sinh sản trong điều kiện nuôi nhốt mà
không cần dùng các biện pháp kích thích sinh sản.
19


Hình 5 : Cặp ốc bố mẹ sinh sản Hình 6 : Ốc mẹ cùng tổ trứng mới
đẻ
 Bảng số liệu ốc bố mẹ sinh sản khi tạo bờ nhân tạo
Ngày
Số ốc bố mẹ đưa vào
sinh sản (cặp)
Số ốc bố mẹ tham gia sinh
sản (cặp)
B
ể xi
măng
B

composit
1,5m³
B

composit
1m³
B
ể xi măng
Bể
composit
1,5m³
B

composit
1m³
9/5/2
010

1
2
1
2
1
2
0 0 1
10/5/
2010
1
2
1
2
1
2
1 0 0
 Nhận xét :
20
 Tỷ lệ ốc bố mẹ tham gia sinh sản rất thấp, những cặp này trước khi
đưa vào nuôi trong bể đã thành thục khi gặp điều kiện thuận lợi về nhiệt độ (đã
phân tích ở phía trên) và có bờ đất thích hợp để sinh sản nên ốc đã sinh sản.
3.1.4.2. Cho ốc nhồi sinh sản bằng biện pháp kích thích sinh sản
Từ ngày 11/5 đến ngày 27/5 tiến hành kích thích sinh sản cho ốc nhồi,
chia làm 2 đợt là đợt 1 từ ngày 11/5 đến ngày 15/5 và đợt 2 từ ngày 21/5 tới
ngày 25/5, việc kích thích sính sản được tiến hành đối với ốc bố mẹ ở cả 3 bể :
 Tháo gần cạn nước (tháo 70-80%) trong bể nuôi
 Bắt ốc bố mẹ ra, đem đi kích thích khô, cụ thể như sau : đem ốc bố
mẹ đặt vào một chậu khô, để trong bóng râm khoảng 30 phút đến 1 tiếng, sau đó
bắt thả lại vào bể, chờ dền tối theo dõi xem ốc có sinh sản hay không.
 Trong lúc bắt ốc thì tiến hành cấp nước vào bể, mực nước như cũ là

khoảng 30cm, trong lúc chờ kích thích sinh sản xong thì nước cũng được sa
lắng, sẵn sàng để thả lại vào bể.
Các hoạt động trên được làm theo tứng đợt, trong mỗi đợt thì cứ 2 ngày
kích thích 1 lần, vào đợt 1 là các ngày 11/5, 13/5 và 15/5 và đợt 2 là các ngày
21/5, 23/5 và 25/5.
Việc kích thích được tiến hành 2 ngày/lần để tránh gây tổn hại nhiều
đến sức khoẻ của ốc bố mẹ và khoảng cách giữa 2 đợt kích thích là 5 ngày cũng
nhằm mục đích phục hồi sức khoẻ cho ốc bố mẹ và tiếp tục nuôi vỗ tái phát dục
để ốc sinh sản.
Thường thì ốc sẽ sinh sản trong buổi tối sau khi kích thích, thời gian ốc
sinh sản có thể kéo dài từ 20h đến 5h sáng hôm sau.
21

Hình 7 : Ốc nhồi đang sinh sản Hình 8 : Tổ trứng mới được sinh
sản
 Bảng số liệu ốc bố mẹ sinh sản nhờ kích thích nhiệt khô :
Đ
ợt
Số ốc bố mẹ đưa vào sinh sản
(cặp)
Số ốc bố mẹ tham gia sinh sản
(cặp)
B
ể xi
măng
Bể
composit
1,5m³
Bể
composit

1m³
Bể
xi măng
Bể
composit
1,5m³
Bể
composit
1m³
1
1
1
12 11 0 0 3
2
1
2
12 12 1 1 6
 Nhận xét :
 Trong đợt 1 bể xi măng và bể composit 1m
3
mỗi bể chỉ thả 11 cặp,
loại ra 2 cặp đã sinh sản không kích thích vào ngày 9/5 và ngày 10/5.
 Sau 2 lần kích thích sinh sản nhận thấy số lượng ốc bố mẹ tham gia
sính sản chiếm tỷ lệ cao nhất ở bể composit 1m
3
. Có thể thấy đây là bể cho ốc
22
sinh sản có hiệu quả nhất. Do ở bể này không thiết kế bùn đáy, vì ốc có tập tính
vùi mình trong bùn như vậy sẽ hạn chế sự hoạt động của ốc dẫn tới hạn chế sự
tham gia sinh sản.

3.2. Quy trình ấp trứng ốc
Do trong giai đoạn đầu nuôi thuần dưỡng ốc gặp nhiều khó khăn, việc
nuôi thuần dưỡng kéo dài nên việc ấp trứng được đưa vào tiến hành trước cho
kịp tiến trình thực tập. Nguồn trứng ốc được thu từ tự nhiên nên thời gian nở của
trứng sẽ không đồng nhất (do thời gian từ lúc ốc đẻ đến khi thu mỗi tổ trứng là
khác nhau), số trứng thu được từ sinh sản nhân tạo chỉ được đưa vào ấp để theo
dõi chính xác thời gian nở và quá trình phát triển phôi của ốc.
Thu trứng sinh sản nhân tạo rồi tiến hành ấp thử nghiệm. Theo dõi sự
phát triển của ốc thì sau 13 ngày ấp trứng đã bắt đầu nở, sau 16 ngày thì trứng
nở hoàn toàn (trừ một số trứng không nở được).
Thử nghiệm 2 hình thức ấp khác nhau là ấp trong bẹ chuối và ấp trong
khay để khô trong phòng (thỉnh thoảng có tưới nước giữ ẩm).
3.2.1. Chuẩn bị dụng cụ ấp
• Hình thức ấp trứng trên khay nhựa :
Sử dụng các khay nhựa có kích thước 5x5x2cm (đồ dùng trong phòng
thí nghiệm) làm khay ấp trứng. Các khay được vệ sinh sạch sẽ, đặt lên chậu
nhựa có đổ nước ở phìa dưới để thuận tiện cho việc chuyển ốc con xuống môi
trường nước. Trong chậu có thả 1 ít bèo hoa dâu để ốc con khi mới nở có thể trú
ẩn và lấy bèo làm thức ăn.
• Hình thức ấp trên bẹ chuối :
Dùng thân chuối non (vừa đủ kích thước chậu cũng như số lượng trứng
ấp trên đó) làm nơi để ấp trứng. Thân chuối được chẻ làm đôi, rửa sạch rồi sau
đó đặt vào chậu làm nơi đặt trứng lên tiến hành ấp. Bên dưới bẹ chuối cho vao 1
ít nước, ngập ½ thân bẹ chuối, tạo điều kiện để ốc con sau khi nở có thể bò
23
thẳng xuống nước. Trong chậu đặt bẹ chuối còn bỏ thêm 1 ít bèo tây để làm chỗ
trú ẩn và thức ăn cho ốc con.
3.2.2. Thu và đưa vào ấp trứng
Trúng được thu ở bờ ao số 7 trong trại thực nghiệm nước ngọt Hưng
Nguyên, đây là ao duy nhất trong trại có loài ốc nhồi sinh sống. Trứng được ốc

tự nhiên đẻ ở ven bờ ao, nơi kín đáo, được che bởi các ghè đá xung quanh ao
hoặc các hốc đất có cỏ cây ven bờ ao che phủ.

Hình 9 : Ao thu trứng ốc Hình 10 : Tổ trứng ngoài tự
nhiên
Khi tiến hành thu trứng phải nhẹ nhàng gỡ bỏ trứng ra khỏi giá thể bám,
tránh làm vỡ trứng. Sau khi gỡ đưa vào trong ngay, tránh vận chuyển nhiều làm
tổn thương vật lý tới trứng.
Số lượng trứng thu được là 21 tổ, được bố trí đưa vào ấp với 2 hình thức
khác nhau. Bố trí như sau : Ấp trên khay nhựa là 7 tổ (có đánh số thứ tự các tổ)
và ấp trên bẹ chuối là 14 tổ (không đánh số thứ tự).
24
Trứng được thu và đem vào ấp vào ngày 12/4.
Chậu đựng dụng cụ ấp trứng được đặt trong phòng nhằm giảm nhiệt độ
so với môi trường ngoài vì trong thời gian ấp trứng nhiệt độ môi trường khá cao,
sẽ ảnh hưởng nhiều tới tỷ lệ nở của trứng và khả năng sống của ốc con.

Hình 11 : Ấp trứng trong bẹ chuối Hình 12 : Ấp trứng trong khay
Đưa 1 tổ trứng ra cân thử, rồi tách cân thử 1 quả, từ đó tính dược số
lượng trứng trong tổ. Cân thử 1 tổ trứng khối lượng là : 10,681g, tách 1 quả ra
cân ta có khối lượng là : 0,072g. Như vậy số trứng của tổ là :
Số trứng của tổ = 10,681 : 0.072 = 147 trứng.
Như vậy số ta có thể tính được con số tương đối về số lượng trứng đem
đi ấp, từ đó tính ra tỷ lệ nở của trứng.
 Bảng số liệu ấp trứng ốc
Các chỉ số Ấp trên bẹ chuối
Ấp trên khay
nhựa
25

×