Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Thị trường xe máy việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.83 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN

BÀI TẬP NHÓM
MÔN: CĂN BẢN KINH TẾ VI MÔ


ĐỀ TÀI
XE MÁY CUỘC CHIẾN CHIẾM LĨNH
THỊ TRƯỜNG





GIẢNG VIÊN: THS. NGUYỄN NGỌC QUÝ

NHÓM SINH VIÊN:
1. Nguyễn Xuân Thành. (K17KDN4)
2. Nguyễn Trần Phú. (K17QTH2)
3. Nguyễn Đức Huy. (K17QTH1)
4. Phùng Tấn Bi. (K17QTH3)
5. Trần Anh Quy. (K17QTM)
6. Phan Quang Thông. (K17QTC1)






NGÀY 19 THÁNG 11 NĂM 2012


1

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 2
1. Lý do lựa chọn đề tài: 2
2. Mục tiêu nghiên cứu: 2
I – Tổng quan về thị trường xe máy Việt Nam: 4
1. Nhu cầu tiêu thụ xe máy ở Việt Nam: 4
2. Các nhà cung cấp xe máy ở Việt Nam 6
2.1. Honda Việt Nam: 6
2.2. Yamaha Motor Việt Nam: 8
2.3. SYM: 10
2.4. Việt Nam Suzuki: 12
2.5. Các hãng cung cấp xe máy khác: 14
II – Đặc trưng của thị trường xe máy tại Việt Nam trong năm gần đây: 16
1. Đảo chiều ngoạn mục 16
2. Nguy cơ cung sớm vượt cầu 18
KẾT LUẬN 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO 21



2

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài:
Hiện nay trên thị trường tồn tại rất nhiều phương tiện khác nhau để đáp ứng nhu
cầu đi lại của người tiêu dùng. Và chúng ta không thể không kể đến một phương
tiện phổ biến đó chính là xe máy. Đối với mọi người nói chung cũng như sinh viên

nói riêng, xe máy là một phương tiện đi lại được xem là thuận tiện nhất, tương đối
phù hợp về giá cả cũng như về hình thức.
Trong những năm gần đây, thị trường xe máy Việt Nam đã có sự thay đổi rất
lớn. Cụ thể là: sau khi công ty liên doanh Honda Việt Nam được thành lập và đi
vào hoạt động thì người tiêu dùng Việt Nam giờ đây đã có thể sử dụng những chiếc
xe máy được sản xuất ngay tên lãnh thổ Việt Nam. Nhận thấy nhu cầu sử dụng xe
máy của người dân Việt Nam là rất lớn, một số hãng sản xuất xe máy khác cũng đã
tiến hành liên doanh với Việt Nam để thành lập công ty liên doanh sản xuất xe máy
như: Việt Nam Suzuki, Yamaha Motor Việt Nam,… Bên cạnh đó, trong 5 năm trở lại
đây, thị trường xe máy Việt Nam thêm đa dạng bởi những chiếc xe máy Trung Quốc
được nhập khẩu cũng như được sản xuất ồ ạt tại Việt Nam mà chất lượng của
nó thì không kiểm soát được.
Người tiêu dùng Việt Nam giờ đây có thể tự do lựa chọn những sản phẩm xe
máy mà mình yêu thích. Nhưng bên cạnh đó, họ cũng đối diện với những chiếc xe
máy có chất lượng không tốt. Vì thế khi quyết định mua xe cho mình, ngoài việc
quan tâm đến giá cả, hình dáng, kích thước, màu sắc của xe thì còn một vấn đề nữa
cũng không kém phần quan trọng đó chính là dịch vụ hậu mãi – đặc biệt là dịch vụ
bảo hành. Nhận thấy tầm quan trọng cũng như để có thể nghiên cứu sâu hơn về ảnh
hưởng của dịch vụ bảo hành tới quyết định mua xe máy của người tiêu dùng nên tôi
đã quyết định lựa chọn đề tài.
2. Mục tiêu nghiên cứu:

3

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là sẽ nghiên cứu xem ảnh hưởng hay tác động
của dịch vụ bảo hành tới quyết định mua xe máy của sinh viên đại học Kinh tế
Quốc dân. Nó góp phần cải thiện cũng như giúp đỡ các hãng cung cấp xe máy trên
thị trường Việt Nam nhận ra được vai trò quan trọng của dịch vụ bảo hành cũng như
sẽ cải tiến các dịch vụ bảo hành nhằm đem lại cho khách hàng nhiều lợi ích và thu
hút được nhiều khách hàng hơn.

















4

NỘI DUNG
I – Tổng quan về thị trường xe máy Việt Nam:
1. Nhu cầu tiêu thụ xe máy ở Việt Nam:
Trong gần 20 năm qua, nhờ những nỗ lực và quyết tâm của toàn Đảng và toàn
dân ta trong việc thực hiện các chủ trương và chính sách đúng đắn của Đảng, nền
kinh tế Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu quan trọng và có tính bước
ngoặt trên con đường xây dựng và đổi mới đất nước. Việc thực hiện chính sách mở
cửa hội nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới đã làm cho
nền kinh tế Việt Nam phát triển và đạt được những thành tựu đáng kể. Tốc độ
tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân đạt trên 7%/năm trong
nhiều năm, đặc biệt là giai đoạn 1991 – 1995 (đạt trên 8,2%/năm). GDP bình
quân đầu người giai đoạn 1996 – 2000 là 462 USD, ước thực hiện giai đoạn 2001 –

2005 là 600 USD. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giai đoạn 2001 –
2005 cả cấp mới và bổ sung đạt 15 – 16 tỷ USD, tăng gấp 1,5 lần so với giai đoạn
1996 – 2000.
Bên cạnh những thành tựu về kinh tế, sau 20 năm tiến hành đổi mới, Việt Nam
đã đạt được một số thành tựu về xã hội, có tác động thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc mục tiêu giảm một nửa số người nghèo và một nửa
số người dân bị đói theo chuẩn quốc tế so với những năm đầu thập niên 90 chỉ nửa số
người dân bị đói theo chuẩn quốc tế so với những năm đầu thập niên 90 chỉ chi tiêu
của hộ gia đình, đã được cải thiện rõ rệt. Tính chung cả nước, chi tiêu hộ gia đình
theo giá so sánh thời kì 2003 – 2004 đạt 328000 đồng, tăng bình quân 12,1%/năm.
Như vậy sự phát triển của nền kinh tế đã có ảnh hưởng trực tiếp tích cực đến đời
sống của người dân. Đời sống của người dân từng bước được cải thiện và nâng
cao rõ rệt.

5

Cũng như những nhu cầu tự nhiên như ăn, mặc, ở thì một nhu cầu khác cũng
không thể thiếu được đối với con người trong cuộc sống hiện nay đó là phương tiện
đi lại hay còn gọi là phương tiện giao thông. Và để đáp ứng đựơc nhu cầu đó của
người dân thì hàng loạt các phương tiện giao thông đã đựơc nghiên cứu, sản xuất và
đưa vào sử dụng như ô tô, xe máy, xe đạp điện…
Nếu như ở Việt Nam khoảng một hai thập niên trước đây, xe máy mang tính
thiểu số, được vị nể với tư cách là một sản phẩm tân kỳ, một tài sản lớn hơn
là một phương tiện giao thông thì trong những năm gần đây, chiếc xe máy đã trở nên
phổ biến hơn và hầu như trở thành phương tiện giao thông chính của đại đa số
người dân. Hiện nay, có những hộ gia đình có 1, 2 thậm chí có đến 3, 4 chiếc xe máy
trong nhà.
Trong cơ cấu tham gia giao thông đô thị ở Việt Nam, các số liệu cho biết: tổng
lượng xe máy tại việt nam chiếm khoảng 33,5 triệu chiếc. Chỉ riêng thành phố Hồ
Chí Minh đã có gần 5 triệu xe máy (4.883.753 chiếc), ở Hà Nội thì con số này

khoảng gần 2 triệu xe máy, còn không kể đến một số lượng xe không nhỏ ở các vùng
khác. Ngoài ra, đối với thu nhập bình quân của người Việt Nam hiện nay, xe máy là
sự lựa chọn phù hợp nhất – nó có giá cả tương đối phù hợp (nhiều xe máy
của Trung Quốc còn có giá rẻ).
Nhận biết được nhu cầu khổng lồ về xe máy như vậy nên trong thời gian qua đã
có nhiều nhà cung cấp trên thị trường xe máy Việt Nam. Các hãng xe máy nổi
tiếng trên thế giới như: Honda, SYM, Suzuki, Yamaha… đã tiến hành liên doanh với
Việt Nam để sản xuất và cung cấp cho người tiêu dùng Việt Nam. Thêm vào đó,
trong 5 năm trở lại đây, thị trường xe máy đã đa dạng nay còn đa dạng hơn bởi những
chiếc xe máy Trung Quốc được nhập khẩu cũng như được sản xuất ồ ạt tại Việt Nam.
Sản phẩm xe máy Trung Quốc với ưu thế là giá rẻ, chủng loại phong phú đã thực sự
phù hợp với người tiêu dùng Việt Nam có nhu cầu sử dụng xe máy song thu nhập

6

thấp hoặc những người dân có nhu cầu đổi mới kiểu dáng xe nhưng không có
đủ tiền…
Qua phân tích trên ta thấy nhu cầu sử dụng xe máy trên thị trường Việt Nam là
rất lớn. Trước thực trạng đó, có rất nhiều cơ hội cũng như thách thức để có thể tiếp
tục tạo dựng và duy trì lòng tin của người tiêu dùng Việt Nam đối với các hãng sản
xuất xe máy về những sản phẩm mà công ty đã và đang tiến hành sản xuất – lắp ráp.
2. Các nhà cung cấp xe máy ở Việt Nam
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một vấn đề không thể tránh khỏi đối
với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Cho dù doanh nghiệp đó đang tiến hành kinh doanh
ở bất kỳ một lĩnh vực nào thì vấn đề cạnh tranh luôn song hành với sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp đó. Đối với thị trường xe máy Việt Nam cũng vậy. Trong
những năm gần đây, trên thị trường xe máy Việt Nam có rất nhiều nhà cung cấp. Họ
có những điểm mạnh của riêng mình và đang từng bước khắc họa, khẳng định uy
tín của mình trên thị trường xe máy Việt Nam. Tiêu biểu đó là sự ra đời của các
công ty liên doanh xe máy. Sản phẩm của các công ty liên doanh này rất đa dạng và

phong phú.
2.1. Honda Việt Nam:
Công ty Honda Việt Nam là liên doanh giữa công ty Honda Motor Nhật Bản,
công ty Asian Honda Motor Thái Lan và Tổng công ty máy động lực và máy
nông nghiệp Việt Nam, được thành lập theo giấy phép đầu tư số 1521/GP cấp ngày
22 tháng 3 năm 1996. Từ đó đến nay Honda Việt Nam luôn được người tiêu dùng
Việt Nam biết đến với uy tín và chất lượng của một tập đoàn sản xuất xe máy lớn
nhất trên thế giới… Sản phẩm ban đầu là những chiếc xe Honda Cub 50, Cub 70,
Super Cub,… đã thực sự chinh phục được lòng tin của người tiêu dùng Việt Nam
bằng chính chất lượng và sự tiện dụng của những sản phẩm đó. Người tiêu
dùng Việt Nam biết tới xe máy chính là do tập đoàn Honda mang lại, thậm chí
người ta còngọi chiếc xe máy là xe Honda. Xe máy của tập đoàn Honda luôn

7

mang đến cho người tiêu dùng Việt Nam cảm giác an toàn, sự tin tưởng vào chất
lượng và độ bền của xe.
Honda Việt Nam cung cấp cho thị trường các sản phẩm chính sau:
- Nhãn hiệu xe Super Dream (nay đã có Super Dream mới).
- Nhãn hiệu xe Future gồm: Future NEO và Future II.
- Nhãn hiệu xe Wave gồm: Wave α, Wave ZX, Wave RS.
- Nhãn hiệu xe tay ga Spacy, @, SH, Dylan…
Với một đội ngũ công nhân lao động có tay nghề, đội ngũ kỹ sư của Honda
Việt Nam được đào tạo tại nước ngoài (tại Honda Thái Lan, Honda Nhật Bản) thật
sự là cơ sở để Honda Việt Nam bảo đảm chất lượng của từng sản phẩm sản xuất ra.
Sau 10 năm hoạt động, Honda Việt Nam đã đầu tư gần 194 triệu USD cho sản xuất
kinh doanh với các sản phẩm được người sử dụng tin dùng như Super Dream,
Future, Wave α, Future II và Wave ZX, Wave RS và Future NEO.
Cho đến nay, Honda Việt Nam đã có hơn 2,5 triệu sản phẩm được khách hàng
trong nước sử dụng. Bên cạnh đó, Honda Việt Nam còn xuất khẩu hơn 163.000 xe

máy cùng với động cơ và phụ tùng xe máy, đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 96 triệu
USD, trở thành doanh nghiệp đầu tiên trong nước xuất khẩu xe máy, phụ tùng. Công
ty đã tạo việc làm ổn định cho hơn 32.000 lao động. Theo Thời báo kinh tế - điện tử,
vào ngày 14/03/2006, tại lễ kỷ niệm 10 năm ngày thành lập, ông Hiroaki Funami,
Tổng giám đốc công ty Honda Việt Nam, cho biết trong 5 năm tới, công ty sẽ đầu tư
thêm khoảng 60 triệu USD cho dự án xây dựng nhà máy sản xuất ô tô Honda tại
Việt Nam.
Bên cạnh đó, với một bộ máy quản trị chặt chẽ, thống nhất từ tổng giám đốc tới
các giám đốc, phòng, ban, phân xưởng, tổ sản xuất, chất lượng xe máy của Honda
Việt Nam luôn được kiểm tra sát sao, chặt chẽ trước khi xuất xưởng và bán tới tận
tay người tiêu dùng. Sản phẩm của Honda Việt Nam đã đạt tiêu chuẩn quản lý

8

chất lượng ISO 9002. Ngay từ khi xây dựng nhà máy tại Việt Nam, vấn đề môi
trường sản xuất đã được quan tâm. Vì vậy Honda Việt Nam đã được cấp chứng chỉ
đạt hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14000. Với tầm nhìn chiến lược
lâu dài, các nhà quản trị của công ty Honda Việt Nam đã và đang đầu tư vào việc sản
xuất một phần động cơ tại Việt Nam, bên cạnh đó Honda Việt Nam còn tiến hành liên
doanh với công ty VMEP để sản xuất động cơ đầu tiên tại Việt Nam. Cùng với việc
đảm bảo cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm có chất lượng cao,
Honda Việt Nam cũng đồng thời xây dựng một mạng lưới bảo hành, sửa chữa, bảo
dưỡng cho tất cả các loại xe mang nhãn hiệu Honda trên cả nước.
Chính vì thế xe máy của tập đoàn Honda Việt Nam luôn mang đến cho người
tiêu dùng Việt Nam cảm giác an toàn, sự tin tưởng vào chất lượng và độ bền của xe.
Sau 10 năm đi vào hoạt động kinh doanh, công ty Honda Việt Nam đã từng bước
trưởng thành và đứng vững trên thị trường xe máy Việt Nam.
2.2. Yamaha Motor Việt Nam:
Công ty Yamaha Motor Việt Nam là doanh nghiệp liên doanh giữa công ty
Yamaha Motor Nhật Bản (46% vốn pháp định), Tổng công ty lâm nghiệp Việt Nam

(30% vốn pháp định) và công ty công nghiệp Hong Leong Industries Berhad
Malaysia (24% vốn pháp định), trong đó vồn pháp định là 24.250.000 USD. Công
ty được thành lập ngày 01 tháng 4 năm 1999, giấy phép đầu tư số 2029/GP.
Văn phòng chính và nhà máy tại xã Trung Giã, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Hiện nay
công ty có khoảng gần 1100 công nhân.
Hơn ai hết, tuy là kẻ đến sau nhưng Yamaha đã chiếm được vị trí tương đối
vững chắc trong thị trường xe máy Việt Nam. Sản phẩm của hãng được nhiều
người ưa thích - đặc biệt là giới trẻ. Yamaha tung ra thị trường với nhiều loại xe từ xe
số, xe phanh đĩa, xe ga với kiểu dáng màu sắc rất trẻ trung và đa dạng. Các kiểu xe ga
của Yamaha như Mio Amore, Mio Maximo, Mio Classical đều có thiết kể nhỏ
gọn, sang trọng, giá cả vừa phải, dao động từ 16 – 18 triệu đồng, nó rất phù hợp với

9

phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là đối với các bạn nữ. Với những chiếc xe ga này các bạn
gái vừa có thể thể hiện cá tính, sự năng động của mình nhưng lại vừa mang đến nét
dịu dàng, nhẹ nhàng, quyến rũ vốn có của nữ giới. Vì thế ngay từ khi ra đời nó đã
được sự ủng hộ đông đảo của khá nhiều nữ giới. Bên cạnh xe ga dành cho
nữ giới, Yamaha cũng khá thành công cho việc thiết kế xe ga dành cho nam giới –
đó chính là Nouvo. Xe được thiết kế với phần đầu và thân xe thể hiện sự mạnh mẽ
của nam giới, nhẹ nhàng lướt ga nhưng vẫn thể hiện sự dũng mãnh của mình. Ngoài
ra thì Yamaha cũng cung cấp trên thị trường các xe thuộc dòng xe số như
Jupiter V, Jupiter MX, Sirius V,… Các loại xe này hiện đang rất được ưa
chuộng trên thị trường - đặc biệt là giới trẻ.
Theo số liệu của Đoàn công tác liên ngành khảo sát hoạt động của các doanh
nghiệp xe máy có vốn đầu tư nước ngoài đăng trên báo Đầu tư ta thấy: Công ty
Yamaha Motor Việt Nam đã tiêu thụ được khoảng hơn 20.000 xe. Đây là một con
số cũng không phải là nhỏ đối với một doanh nghiệp mới gia nhập vào sau.
Mặc dù không dù không thể cạnh tranh với Honda (Honda Việt Nam) về chất
lượng nhưng các hãng sản xuất xe máy khác lại có lợi thế hơn Honda Việt Nam về

chủng loại. Chủng loại của các hãng này rất phong phú và đa dạng, rất hợp
thời trang. Yamaha Motor Việt Nam còn có chiến lược quảng cáo, tiếp thị rộng
rãi, có hình thức “mua trả góp” với lãi suất hợp lý nhằm thu hút khách hàng. Những
sản phẩm của các hãng này thường được giới trẻ ưa chuộng bởi sự thời trang về màu
sắc cũng như kiểu dáng của nó. Tập đoàn Yamaha Nhật Bản đã thành lập một trung
tâm tại Băng Cốc (Thái Lan) với chức năng nghiên cứu phát triển các loại xe máy
để bán trên thị trường Châu Á và Việt Nam (động thái này xuất phát từ thực tế,
trên thị trường Châu Á đang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt không chỉ về chất lượng
giá cả mà cả về kiểu dáng của xe).

10

Như vậy, sau một thời gian hoạt động Yamaha Motor Việt Nam đã tìm
thấy thế mạnh của mình và đang từng bước khẳng định sức mạnh đó trên thị trường
xe máy Việt Nam.
2.3. SYM:
Công ty công nghiệp San Yang thuộc tập đoàn Chinfon được thành lập năm
1954 tại Đài Loan, khởi đầu bằng việc sản xuất đinamô cho xe đạp. Năm 1962, San
Yang bắt đầu sản xuất xe máy và năm 1969 là ô tô. Trong 50 năm qua, San Yang đã
sản xuất và tiêu thụ hơn 6.000.000 xe máy, luôn là doanh nghiệp hàng đầu về sản
xuất và tiêu thụ xe máy ở Đài Loan.
Năm 1992, San Yang đầu tư sản xuất kinh doanh xe gắn máy tại Việt Nam với
tên đầy đủ là: “Công ty hữu hạn chế tạo hàng công nghiệp và gia công chế biến
hàng xuất khẩu Việt Nam” viết tắt là VMEP. VMEP có hai nhà máy được xây dựng
tại hai tỉnh Hà Tây (miền Bắc) và Đồng Nai (miền Nam) với tổng số vốn
đầu tư 1.160.000.000 đô la Mỹ, có công suất đạt 540.000 xe/năm. Đây là dự án sản
xuất xe máy đầu tiên ở Việt Nam và cũng là dự án lớn nhất ở Việt Nam thuộc loại
này.
Từ năm 1996, công ty San Yang Motor Taiwan thuộc Tập đoàn Chinfon đã
quyết định đột phá bằng chiến dịch toàn cầu với thương hiệu SYM. Hiện nay sản

phẩm của SYM đã có mặt tại rất nhiều nước trên thế giới.
Năm 2002 công ty mẹ San Yang đã tăng cường đầu tư để triển khai dự án sản
xuất và lắp ráp động cơ 15.000.000 USD. VMEP là công ty đầu tiên đưa thiết bị sản
xuất động cơ vào Việt Nam, các phân xưởng đầu tiên đã đi vào hoạt động: sản xuất
xy lanh, cốt cam, phụ tùng ô tô và khuôn mẫu chính xác. Đến nay VMEP là
doanh nghiệp có tỷ lệ nội địa hoá cao nhất trong các doanh nghiệp sản xuất xe máy
tại Việt Nam với mức độ nội địa hoá đạt hơn 90% cho một số loại xe.

11

Về nhân sự, VMEP có gần 2000 cán bộ nhân viên chính thức, toàn bộ nhân viên
kỹ thuật được đào tạo chuyên môn để bảo đảm cung cấp chế độ hậu mãi tốt.
Sản phẩm mang thương hiệu SYM có hai dòng chính: xe Cub (xe số bình
thường) và xe Scooter (xe tay ga):
Dòng xe Cub có các nhãn hiệu xe sau:
- Nhãn hiệu xe Angel.
- Nhãn hiệu xe Magic.
- Nhãn hiệu xe Star.
- Nhãn hiệu xe Amigo.
- Nhãn hiệu xe Bonus.
- Nhãn hiệu xe Husky.
Dòng xe Scooter bao gồm:
- Nhãn hiệu xe Attila.
- Nhãn hiệu xe Excel.
- Nhãn hiệu xe HD.
- Nhãn hiệu xe GTS.
Doanh số bán của SYM miền Bắc trong một vài năm gần đây:
- Năm 2000 bán được 46.866 xe.
- Năm 2002 bán được 75.871 xe.
- Năm 2002 bán được 142.849 xe.

- Năm 2003 bán được 150.523 xe.
- Năm 2004 bán được 139.134 xe.
- Năm 2005 bán được 52.433 xe.

12

Với chất lượng và uy tín cũng như sự tìm tòi, cải tiến không ngừng với những
sản phẩm mẫu mã đẹp, chất lượng cao, SYM ở Việt Nam đã và đang trở thành
một trong những nhãn hiệu được người tiêu dùng Việt Nam ưa chuộng và tin tưởng.
2.4. Việt Nam Suzuki:
Suzuki là một hãng xe lớn của Nhật Bản. Công ty Việt Nam Suzuki thành lập
vào ngày 21 tháng 4 năm 1995 với lượng vốn pháp định là 11.700.000 USD (trong
đó cổ phần của công ty Suzuki Motor chiếm 35%, công ty Nissho Iwai chiếm 35% và
công ty Vikyno chiếm 30%), tổng số vốn đầu tư là 34.200.000 USD.
Năm 1996 công ty Việt Nam Suzuki đi vào hoạt động. Tháng 9/1996: Việt
Nam Suzuki đã sản xuất xe GN 125, loại xe Suzuki đầu tiên tại Việt Nam.
Tháng 10/1996: công ty đã cho ra đời Viva CD, mẫu xe Viva đầu tiên ra mắt tại Việt
Nam, xây dựng nên một hình ảnh thời trang cho xe máy.
Ngoài việc cải tiến những sản phẩm hiện có, Việt Nam Suzuki còn đưa ra thị
trường các kiểu xe mới như Shogun R125 (giá 23,5 VND/xe), Viva 110 thường và
phanh đĩa, Smash 110 (giá: 15,7 VND/xe)… Ngoài ra hãng còn sản xuất một số
loại xe khác, tuy nhiên các loại xe này không được ưa chuộng lắm trên thị trường
ASEAN, bao gồm:
- Xe thể thao (Super Sport): nổi bật với kiểu xe GSX hay Hayabusa đều hỗ trợ
tối đa khả năng tăng tốc, ngoặt góc hoặc phanh - thắng trong một kiểu dáng oai vệ thể
hiện phong cách mạnh mẽ của người lái.
- Xe chạy đường trường (Street): đáng chú ý có kiểu xe V-Strom thể hiện sự tự
do thật sự và một tinh thần can đảm khi vượt những con đường dài hay
ngoằn nghèo nhưng với một cảm giác thoải mái và phấn khích.
- Xe tay ga (Scooter): nổi trội trong dòng xe này có kiểu xe Burgman. Đây là sự

kết hợp tuyệt vời trong thiết kế giữa ý tưởng về xe tay ga và xe máy kích thước lớn

13

nhằm gia tăng tính thực tiễn đồng thời tạo được sự thoải mái tối đa cho người sử
dụng. Đến nay, Burgman được xem như một chuẩn mực trong dòng xe tay ga.
- Xe Off-road: trong dòng xe này Suzuki có DR-Z. Kiểu xe này được trang bị
động cơ mạnh mẽ và bền bỉ, thích hợp hoạt động trên nhiều loại địa hình. Xe DR-Z
được thiết kế thích hợp cho cả người lớn lẫn thanh niên.
- Xe vượt chướng ngại vật (Motocross): RM, loại xe đua được thiết kế giúp
giữ thăng bằng tốt khi vượt chướng ngại vật. RM đã lập nên chiến thắng cùng với các
tay đua vô địch trên các đương đua trên khắp thế giới.
- Xe vượt mọi địa hình (ATVs): một số kiểu xe do suzuki sản xuấtbao gồm
Vinson, Ozark, Eiger, QuadSport. Tất cả được thiết kế với những tính năng nổi trội
nhằn mang lại sự thoải mái thực sự, cho phép người sử dụng đi đến bất cứ nơi đâu
trong mọi điều kiện.
Sản lượng mỗi năm của Việt Nam Suzuki là 4.000 chiếc ô tô, 60.000 chiếc xe
máy. Sản lượng xe máy của Việt Nam Suzuki từ năm 1996 đến năm 2002 như sau:
- Năm 1996: 2.040 chiếc (4 tháng hoạt động).
- Năm 1997: 12.253 chiếc III.
- Năm 1998: 25.015 chiếc.
- Năm 1999: 21.775 chiếc.
- Năm 2000: 23.964 chiếc.
- Năm 2001: 28.241 chiếc.
- Năm 2002: 42.797 chiếc.
Với khẩu hiệu xe máy Suzuki “Ride the winds of change”, Suzuki chấp nhận
thách thức trong việc cải tiến công nghệ nhằm đem lại những sản phẩm xe máy tinh
tế đem lại cảm xúc hoàn toàn mới cho người sử dụng, họ đã “thổi luồng gió mới cho
cuộc sống” và đã được người tiêu dùng Việt Nam chấp nhận. Suzuki với hệ thống đại


14

lý có mặt rộng khắp cả nước (trong đó có hơn 16 đại lý và trung tâm bảo hành tại Hà
Nội) nhằm phục vụ khách hàng một cách chu đáo và thuận tiện. Hệ thống này là sự
kết hợp hiệu quả của các cửa hàng Suzuki 3S đảm nhiệm tất cả các dịch vụ liên quan,
đó là bán hàng (sales), dịch vụ hậu mãi (after sales services) và cung cấp phụ tùng
Suzuki chính hiệu (Spare parts). Tất cả, từ cấu trúc tổng thể cho đến từng chi tiết, vật
dụng nhỏ, kết hợp tạo nên một hình ảnh nhất quán, hài hoà, đầy sáng tạo cho tất cả
các cửa hàng Suzuki trên toàn quốc. Các chiến dịch hậu mãi với tên gọi “Suzuki
chăm sóc khách hàng” được tổ chức hàng năm hỗ trợ những dịch vụ hậu mãi cộng
thêm thể hiện sự quan tâm khách hàng ngay cả sau khi đã bán. Dịch vụ cũng như các
điều lệ bảo hành của Suzuki được hướng dẫn cho khách hàng ngay sau khi bán.
Chính nhờ sự nỗ lực không ngừng nên thị trường tiêu thụ của Việt Nam
Suzuki ngày càng được mở rộng trên thị trường xe máy Việt Nam. Người tiêu
dùng Việt Nam đã dần chấp nhận và ủng hộ các sản phẩm của công ty.
2.5. Các hãng cung cấp xe máy khác:
Theo đánh giá của các chuyên gia, hiện nay giá bán xe máy của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngòai vẫn cao hơn rất nhiều so với giá của các loại xe
được sản xuất tại các nước ASEAN, Đài Loan… Đặc biệt trong điều kiện mức thu
nhập bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp thì giá bán xe máy hiện nay của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được các chuyên gia đánh giá là: “Cao
bất hợp lý”. Theo số liệu báo Đầu tư, cơ quan của Bộ kế hoạch và đầu tư ra
ngày 13/02/2001 ta thấy: đầu tháng 2/2001, tập đoàn công nghiệp Lifan (Trung
Quốc) đã chính thức đưa vào thị trường Việt Nam những loại xe máy mới: xe LF
110 – 9A với động cơ 110cc Best Style – LF 1p53FMH (982), hệ thống đánh lửa DL
– CDI (khởi động điện tử một chiều), đánh lửa nhanh, ổn định, dễ khởi động, bánh
cam biến tốc lắp thêm vòng bi, chuyển đổi nhẹ, linh hoạt,… đã cho thấy những ông
chủ các tập đoàn sản xuất xe máy Trung Quốc đã khai thác triệt để thị trường Việt
Nam. Nắm bắt được nhu cầu về xe máy tại Việt Nam là rất cao, trong những năm gần


15

đây, những ông chủ tập đoàn sản xuất xe máy lớn tại Trung Quốc như: tập đoàn
Lifan, Zongshen, Hongda, Fushi,… bằng “chiến thuật” theo mẫu của các động cơ có
sẵn trên thị trường đã sản xuất hàng loạt sản phẩm xe máy với giá bán thấp kỷ lục
để xuất sang thị trường Đông Nam Á, Châu Phi trong đó có Việt Nam. Ý đồ này đã
thực sự rất thành công trên thị trường Việt Nam vì một phần lớn người dân lao động
Việt Nam có nhu cầu mua xe máy song lại có thu nhập thấp, hoặc những người có
nhu cầu đổi xe máy mới song lại không có đủ tiền,…
Với sự xuất hiện của các sản phẩm xe máy Trung Quốc, thị trường xe máy
Việt Nam đã thực sự sôi động lên rất nhiều. Những sản phẩm xe máy Trung Quốc
được nhập khẩu vào Việt Nam hàng loạt với giá bán rất thấp, tuỳ thuộc vào từng
chủng loại, động cơ mà giá bán chỉ dao động từ 7 - 10 triệu đồng. Người Việt Nam
đã có thể thoả mãn nhu cầu của mình với những sản phẩm đa dạng, phong phú mà giá
bán chỉ bằng 1/3 đến 1/2 giá bán của một số hãng sản xuất nổi tiếng như:
Honda, Suzuki, Yamaha…
Gián tiếp đưa sản phẩm xe máy Trung Quốc vào thị trường Việt Nam đó là
những doanh nghiệp lắp ráp dây chuyền dạng IKD. Doanh nghiệp lắp ráp trên thị
trường Việt Nam tồn tại lên tới hàng trăm doanh nghiệp lớn, nhỏ của Việt Nam cũng
có mà liên doanh với nước ngoài cũng có. Qua đó ta thấy sản lượng xe máy Trung
Quốc đưa vào thị trường Việt Nam cũng ngày càng tăng lên. Hoạt động của các
doanh nghiệp này chủ yếu là nhập linh kiện, chi tiêt, phụ tùng của các hãng sản
xuất tại Trung Quốc rồi đem về lắp ráp, hoàn thiện để tung ra thị trường. Giá
đầu vào của một bộ linh kiện dao động từ 300 - 350 USD/bộ linh kiện, trong đó giá
bán dao động khoảng từ 8 - 10 triệu đồng đã thu hút rất nhiều các doanh nghiệp lắp
ráp này đi vào hoạt động. Tình hình cạnh tranh trên thị trường xe máy Việt Nam
diễn ra khá gay gắt và quyết liệt. Các hãng xe nổi tiếng phải cạnh tranh với nhau và
cạnh tranh với xe máy Trung Quốc. Không những “nhái lại” kiểu dáng mà những
người sản xuất xe máy Trung Quốc còn nhái lại “nhãn hiệu” hoặc nếu có khác thì chỉ
khác ở một số bộ phận, chi tiết mà rất khó có thể nhận ra. Những người không sành


16

về xe máy sẽ rất khó phân biệt đâu là xe chính hãng, đâu là xe Trung Quốc. Cuộc
cạnh tranh cũng diễn ra gay gắt đối với các doanh nghiệp lắp ráp - sản xuất xe máy
có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Họ cạnh tranh bằng chính ưu thế của mình.
Từ những phân tích trên chúng ta có thể thấy được thị trường các nhà cung cấp
xe máy tại Việt Nam đang diễn ra rât sôi động, các hãng cạnh tranh rất gay gắt. Vì thế
để có thể đứng vững và phát triển thị phần trên thị trường Việt Nam, các
hãng không những phải phát huy tốt những cơ hội, những thế mạnh của bản thân
mình mà còn phải biết đối phó lại những chiến lược cạnh tranh của đối thủ cạnh
tranh. Chỉ có như vậy mới đem lại sự thành công cho các hãng trên thị trường xe máy
Việt Nam.
II – Đặc trưng của thị trường xe máy tại Việt Nam trong năm gần đây:
1. Đảo chiều ngoạn mục
Năm 2011 vừa qua chứng kiến sự biến động mạnh của thị trường xe máy, không
phải bởi các tác động của chính sách mà do quy luật cung cầu trong bối cảnh kinh tế
khó khăn, lạm phát tăng cao. Còn nhớ hồi đầu năm, cơn sốt các xe tay ga, điển hình
và chủ yếu là các mẫu xe ga của Honda như PCX, Air Blade, Lead đẩy giá bán tới tay
người tiêu dùng chênh 3-5 triệu đồng, thậm chí hàng chục triệu đồng so với giá đề
xuất của nhà sản xuất.
Chẳng hạn thời điểm cuối năm 2010, đầu năm 2011, hầu hết các đại lý Honda
đều xảy ra tình trạng "hết hàng" với xe PCX, nhưng khi ra các cửa hàng nhỏ lẻ bên
ngoài (được cho là có mối quan hệ mật thiết với các đại lý Honda) thì khách hàng
mua bao nhiêu xe và màu gì cũng có, tuy nhiên giá bán tới 60-65 triệu đồng/chiếc,
cao hơn giá đề xuất tới 10-15 triệu đồng/chiếc.
Đầu tháng 4/2011, liên doanh Nhật âm thầm tăng giá đề xuất PCX lên 59 triệu
đồng. Tuy nhiên kể từ thời điểm này, các đại lý Honda chỉ duy trì được một thời gian
ngắn giá bán ra bằng với giá đề xuất, sau đó liên tục giảm mạnh và kéo dài tới cuối


17

năm, với mức giá bán ra thấp hơn giá niêm yết tới 5-7 triệu đồng/chiếc. Khi ấy, một
đại lý Honda tại Hà Nội than thở với chúng tôi rằng nếu như trước kia PCX lên cơn
sốt bao nhiêu thì giờ đây ế ẩm bấy nhiêu, họ sẵn sàng bán giá PCX với giá 50 triệu
đồng/chiếc để nhanh chóng quay vòng vốn (thấp hơn giá đề xuất 9 triệu đồng/chiếc),
với điều kiện phải mua hàng chục chiếc

Air Blade mới trong buổi ra mắt tại TP.HCM đầu tháng 4/2011.
ảnh QT
Cũng trong đầu tháng 4/2011, Honda VN quyết định làm mới mẫu xe ăn khách
nhất của mình là Air Blade bằng phiên bản 2011, với giá bán lẻ đề xuất cũng tăng tới
3 triệu đồng, lên 36-37 triệu đồng/chiếc. Chỉ sau một thời gian ngắn ra mắt và đặc
biệt là sau khi âm thầm tăng thêm 1 triệu đồng, giá bán thực tế của Air Blade liên tục
giảm, thậm chí giảm tới 3-4 triệu đồng so với giá đề xuất. Trong giai đoạn này, giá
bán lẻ thực tế của xe tay ga Lead cũng giảm 2-3 triệu đồng so với giá đề xuất của
Honda. Ngay cả mẫu xe mới ra mắt Honda Vision sau vài tháng loạn giá, giá bán cao
hơn tới 2-3 triệu đồng so với giá đề xuất 28,5 triệu đồng thì đến thời điểm cuối năm,
giá thực tế tới tay người tiêu dùng chỉ còn khoảng 26 -26,5 triệu đồng.

18

Không chỉ xe Honda mà các mẫu xe cùng tham gia "chiến dịch" loạn giá như
Yamaha Nozza, Exciter hay Piaggio Liberty cũng phải trở về mức giá đề xuất vào
thời điểm cuối năm do nhu cầu giảm mạnh.
Theo một số đại lý Honda, sự giảm giá xe máy chỉ khiến đại lý thiệt thòi vì quan
hệ giữa đại lý và công ty Honda là mua đứt bán đoạn. Vì thế, trong năm qua, dù
Honda Việt Nam vẫn đạt sản lượng tới 2,1 triệu chiếc nhưng đa số các đại lý ủy
nhiệm Honda đều thở dài ngao ngán bởi nửa cuối năm 2011 vừa qua, họ chỉ bán hòa
và lỗ, trong khi lạm phát tăng cao, hàng loạt chi phí duy trì hoạt động của đại lý

tăng vọt
2. Nguy cơ cung sớm vượt cầu
Nhận định thị trường xe máy Việt Nam vẫn tăng mạnh trong những năm tới nên
các nhà sản xuất đua nhau nâng công suất. Được thành lập vào năm 1996, Honda
Việt Nam xuất xưởng chiếc xe máy đầu tiên vào tháng 2/1998. Nếu như giai đoạn
đầu phải mất đúng 10 năm sau, Honda VN mới sản xuất được chiếc xe thứ 5 triệu
(tháng 7/2008) thì chỉ cần đúng 3 năm, liên doanh Nhật đã có thêm 5 triệu xe nữa để
đạt sản lượng 10 triệu xe máy vào tháng 09/ 2011. Chưa dừng lại ở đó, cuối năm
2011 vừa qua, Honda Việt Nam đã quyết định đầu tư thêm 120 triệu USD xây dựng
nhà máy xe máy thứ ba tại tỉnh Hà Nam, nâng năng lực sản xuất xe máy của doanh
nghiệp này lên 2,5 triệu xe/năm.
Không chịu thua kém, doanh nghiệp xe máy lớn thứ hai là Yamaha Việt Nam
cũng chi khoảng 50 triệu USD để tăng công suất của nhà máy tại Hà Nội lên gấp hai
lần hiện nay, hướng tới sản lượng 1,5 triệu xe/năm.

19


Sản xuất xe máy tại nhà máy Piaggio VN tại tỉnh Vĩnh Phúc.
ảnh QT
Trong khi đó, Piaggio Việt Nam sau khi đưa nhà máy thứ nhất với công suất
100.000 xe/năm vào hoạt động (tháng 6/2009), hiện đang đầu tư nhà máy thứ hai để
nâng công suất sản xuất xe máy lên 300.000 xe/năm. Cùng với sản lượng của SYM là
300.000 chiếc, Suzuki 200.000 chiếc và một số doanh nghiệp khác khoảng hơn
100.000 chiếc, tổng sản lượng xe máy sản xuất trong nước sẽ lên mức xấp xỉ 5 triệu
chiếc/năm vào cuối năm 2012 này.
Trong khi quy mô sản xuất xe máy tăng mạnh và ở mức cao thì theo tính toán,
nhu cầu thị trường đang ở mức thấp hơn khá nhiều. Ví dụ năm 2009 cả nước tiêu thụ
khoảng 2,75 triệu chiếc, sang năm 2010 đạt mức gần 3 triệu chiếc và năm 2011
khoảng 3,3 triệu chiếc. Như vậy, có thể khẳng định công suất sản xuất xe máy sắp tới

của Việt Nam sẽ vượt xa so với nhu cầu và trong bối cảnh đó, bài toán đặt ra với các
nhà sản xuất xe máy càng nan giải, đặc biệt ai cũng hiểu, thực trạng trái chiều giữa
doanh thu, lợi nhuận của nhà máy và đại lý như năm qua không thể kéo dài



20

KẾT LUẬN
Mở rộng thị trường và tạo dựng một hình ảnh tốt đẹp trong tâm trí khách hàng
luôn là mong muốn của bất kỳ doanh nghiệp nào. Do vậy các công ty luôn định
hướng cho hoạt động kinh doanh của mình xuất phát từ thị trường. Một công ty muốn
đứng vững trên thị trường thì phải nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, tìm hiểu các
đối thủ cạnh tranh để có thể đưa ra kế hoạch, chiến lược kinh doanh phù hợp, tìm ra
các giải pháp có hiệu quả để thực hiện các chiến lược đó một cách tốt nhất. Và đối
với các nhà cung cấp xe máy cũng vậy. Ngoài việc có thể cung cấp cho khách
hàng những sản phẩm xe máy có kiểu dáng, màu sắc đẹp các hãng còn phải nắm
được nhu cầu của khách hàng để có thể đáp ứng các nhu cầu đó một cách tốt nhất.
Chính vì thế ngoài việc đảm bảo chất lượng xe máy trước khi bán, các hãng còn phải
quan tâm đến chất lượng xe sau khi bán hay các dịch vụ sau khi bán.
Qua một thời gian tìm hiểu hoạt động Marketing cũng như các dịch vụ hậu mãi
của các hãng cung cấp xe máy trên thị trường Việt Nam, tôi thấy các hãng cung cấp
xe máy đã có một số hoạt động trong dịch vụ sau bán hàng nhằm mở rộng thị trường
cũng như thu hút khách hàng… Qua bản báo cáo này, nó phần nào đã giúp chúng ta
có thể hiểu được tầm quan trọng hay ảnh hưởng của dịch vụ bảo hành tới quyết định
mua xe máy của người tiêu dùng Việt Nam. Bản báo cáo này đã chứng minh được
rằng không những chỉ là một dịch vụ kèm theo khi khách hàng mua xe máy mà dịch
vụ bảo hành đã có vai trò khá quan trọng trong quyết định mua xe máy của người
tiêu dùng.






21

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH, Tác Giả: Dennis C.
McCornac, FETP, Phiên Dịch: Hiếu Hạnh, Hiệu Đính: Văn Thanh.
2) Giáo trình CĂN BẢN KINH TẾ VI MÔ, Khoa Quản Trị Kinh Doanh, Đại
học Duy Tân.
3) www.baomoi.com/Tag/thị-trường-xe-máy.epi.
4) dantri.com.vn/o-to-xe-may/diu-hiu-thi-truong-xe-may-630173.htm
5) news.zing.vn/thi-truong-xe-may/tag64403.html
6) autopro.com.vn/xe-may.chn

×