Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.99 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP.HCM
PHÒNG QUẢN LÝ KHOA HỌC – SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Phân tích
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
VAI TRÒ CỦA TRI THỨC KHOA HỌC
TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY

GVHD : TS ĐÀO DUY THANH
HVTT : NGUYỄN DUY KIỆT
MSHV : QTDN13026

Tp.HCM, tháng 03/2003


Tiểu Luận Triết Học

A. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC:
Chủ nghóa duy vật triết học đã có quá trình hình thành và phát triển từ thời
cổ đại cho đến nay mà đỉnh cao là chủ nghóa duy vật Mácxit. Chủ nghóa duy vật
được thực hiện tập trung trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học – mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức chúng ta sẽ tìm hiểu thế nào là vật chất và ý thức.
I. VẬT CHẤT VÀ CÁC HÌNH THỨC TỒN TẠI CỦA NÓ:
1. Định nghóa phạm trù vật chất:
1.1. Quan niệm của chủ nghóa duy vật trước Mác về vật chất: Chủ nghóa duy
vật trước Mác có rất nhiều định nghóa về vật chất, trong đó nổi lên các định nghóa
điển hình sau đây:
Định nghóa đầu tiên về vật chất là định nghóa cho rằng vật chất là một vật thể
cụ thể, hữu hình đặc biệt nhất định. Xuất phát từ nhận thức trực quan sinh động,


cảm tính, các nhà triết học Hy Lạp cổ đại cho rằng: mọi sự vật, hiện tượng và
quá trình của thế giới đều được bắt nguồn từ một nguyên thể đầu tiên rõ rệt,
cho nên ta còn gọi đó là quan điểm nhất nguyên thể. Chẳng hạn, Talet cho
rằng, vật chất là nước, nước là yếu tố đầu tiên, là bản nguyên của mọi sự vật
trong thế giới. Theo ông, mọi sự vật đều sinh ra từ trước, khi phân hủy lại biến
thành nước. Mọi vật đều có sinh ra và mất đi, biến đổi không ngừng, chỉ có
nước là tồn tại mãi mãi.
-

Một số nhà triết học khác lại cho rằng thế giới sự vật, hiện tượng do một yếu tố
vật chất đầu tiên tạo thành, cho nên ta còn gọi đó là quan điểm đa nguyên thể.
Chẳng hạn, thuyết ngũ hành của triết học Trung Quốc cổ đại cho rằng năm yếu
tố: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa,Thổ là những yếu tố khởi nguyên cấu tạo nên mọi
vật. Nhìn chung, quan điểm đa nguyên thể giải thích rằng sự biến đổi của giới
tự nhiên là do sự kết hợp khác nhau của những yếu tố vật chất đầu tiên. So với
quan điểm nhất nguyên thể thì quan điểm đa nguyên thể là một bước tiến nhất
định trong quá trình nhận thức về vật chất. Vì cơ sở của mọi vật là một số đối
tượng rộng lớn.

-

Bước tiến quan trọng nhất của sự phát triển phạm trù vật chất là định nghóa vật
chất của hai nhà triết học Hy Lạp cổ đại: Lờxíp và Đêmôcrít. Hai ông định
nghóa vật chất là nguyên tử, căn nguyên của mọi vật là nguyên tử. Mọi sự vật,
hiện tượng của thế giới là do sự kết hợp và phân giải của các nguyên tử mà

Hvth: Nguyễn Duy Kieät

Trang 1



Tiểu Luận Triết Học

thành. Thuyết nguyên tử cổ đại đã vượt lên xa hơn, khái quát hơn, trừu tượng
hơn trong quan niệm về vật chất so với các học thuyết vật chất của các nhà duy
vật trước đó. Tuy còn nhiều hạn chế như quy vật chất về các dạng cụ thể của
vật chất, nhưng học thuyết nguyên tử là một bước phát triển mới trên con đường
hình thành phạm trù vật chất trong triết học, tạo cơ sở triết học mới cho nhận
thức khoa học sau này.

Hvth: Nguyễn Duy Kieät

Trang 2


Tiểu Luận Triết Học

1.2. Định nghóa vật chất của V.I.LêNin:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Đây là định nghóa khoa học và hoàn chỉnh về vật chất của V.I.Lênin trong
tác phẩm Chủ nghóa duy vật Và Chủ nghóa kinh nghiệm phê phán, bao hàm các nội
dung sau đây:
-

Một là, vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan. Khi
nói vật chất với tư cách là một phạm trù triết học thì nó là một sự trừu tượng. Vì
vậy, “chúng ta không biết, vì chưa có ai nhìn được và cảm thấy vật chất với tính
cách là vật chất … bằng con đường cảm tính nào khác”. (C.Mác và Ph.Ăngghen:

toàn tập, NXB Chính Trị Quốc gia Hà Nội, 1994, tr.726). Song sự trừu tượng
này chỉ các đặc tính chung nhất, bản chất nhất mà mọi sự vật, hiện tượng cụ thể
nào của vật chất cũng có, đó là đặc tính tồn tại khách quan và độc lập với ý
thức của loài người. Đặc tính này là tiêu chuẩn cơ bản duy nhất để phân biệt cái
gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Khi nghiên cứu nội dung này cần
phải chú yếu cả hai khía cạnh phân biệt nhau, nhưng lại gắn bó với nhau, đó là
tính trừu tượng và tính cụ thể của vật chất. Nếu chỉ thấy tính trừu tượng, thổi
phồng tính trừu tượng mà quên mất những biểu hiện cụ thể của vật chất sẽ đồng
nhất vật chất với vật thể. Cần khẳng định rằng, chủ nghóa duy vật Mácxit không
bao giờ quy vật chất thành những “viên gạch nhỏ của lâu đài thế giới” có tính
chất bất biến mà luôn luôn hiểu vật chất là thực tại khách quan tồn tại độc lập
với ý thức và được ý thức của con người phản ánh.

“Khách quan không phải theo ý nghóa là một xã hội những sinh vật có ý thức, những
con người, có thể tồn tại và phát triển không phụ thuộc vào sự tồn tại của những
sinh vật có ý thức, mà khách quan theo nghóa là tồn tại xã hội không phụ thuộc vào
ý thức xã hội của con người”.
V.I.LêNin: Chủ nghóa kinh nghiệm phê phán và chủ nghóa duy vật lịch sử.
Toàn tập, tập 18 NXB Tiến Bộ Mát-xcơ-va 1980, tr.403.
-

Hai là, thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác. Với nội dung này, V.I.LêNin làm rõ mối quan
hệ giữa thực tại khách quan và cảm giác rằng thực tại khách quan (tức là vật
chất) là cái có trước ý thức, không phụ thuộc vào ý thức, độc lập với ý thức, còn

Hvth: Nguyễn Duy Kiệt

Trang 3



Tiểu Luận Triết Học

cảm giác (tức là ý thức) của con người là cái có sau vật chất, phụ thuộc vào vật
chất. Vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan của tri thức, là nguyên
nhân phát sinh ra ý thức, không có cái bị phản ánh là vật chất sẽ không có cái
phản ánh là ý thức.
-

Ba là, thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản
ánh. Với nội dung này, V.I.LêNin chứng minh vật chất tồn tại khách quan,
nhưng không phải tồn tại một cách vô hình thần bí mà tồn tại một cách hiện
thực dưới dạng các sự vật, hiện tượng cụ thể, mà con người bằng cá giác quan
có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận biết được. Nghóa là, ngoài dấu hiệu tồn tại
khách quan, vật chất còn có một dấu hiệu quan trọng khác là tính có thể nhận
thức được. Vì vậy, về nguyên tắc, không có đối tượng nào không thể nhận biết,
chỉ có những đối tượng chưa nhận thức được mà thôi.
Là kết quả của sự khái quát những thành tựu khoa học mới và hoạt động

thực tiễn của con người, định nghóa vật chất của V.I.LêNin đã giải đáp một cách
đúng đắn, sâu sắc cả hai mặt nội dung vấn đề cơ bản của triết học. Vì vậy, ngoài ý
nghóa thế giới quan khoa học trên đây, định nghóa vật chất của V.I.LêNin còn có ý
nghóa phương pháp luận chung đối với chúng ta trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn.
Vì vật chất có trước, tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức, ý thức
có sau, vật chất quyết định ý thức, cho nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
“Phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách
quan” (Đảng Cộng Sản Việt Nam :Văn Kiện Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc Lần
Thứ VI, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1987, tr.30), phải xuất phát từ điều kiện vật chất
khách quan đã và đang có làm cơ sở cho mọi hành động của mình, không được lấy

ý muốn, nguyện vọng chủ quan làm điểm xuất phát. Yêu cầu khi đề ra mục tiêu,
nhiệm vụ và các biện pháp thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cho địa phương mình, đơn
vị mình, ngành mình, phải nắm chắc tình hình thực tế khách quan thì mới nêu ra
mục đích, chủ trương đúng và sẽ đi đến thắng lợi trong hoạt động thực tiễn. Ngược
lại, cần chống thái độ chủ quan, duy ý chí, nóng vội, bất chấp quy luật khách quan,
không đếm xỉa đến điều kiện vật chất khách quan, tùy tiện phiến diện, lấy ý muốn,
nguyện vọng, cảm tính làm xuất phát điểm cho chủ trương, chính sách, hậu quả là
đường lối không hiện thực, không tưởng và tất yếu sẽ đi đến thất bại trong hoạt
động thực tiễn.

Hvth: Nguyễn Duy Kiệt

Trang 4


Tiểu Luận Triết Học

Sẽ là không đầy đủ, nếu sau khi làm rõ vật chất là gì, chúng ta không đề cập
đến một vấn đề liên quan chặt chẽ với vật chất, đó là vật chất tồn tại bằng cách
nào?
2. Các hình thức tồn tại của vật chất:
Chủ nghóa duy vật biện chứng cho rằng vật chất tồn tại bằng vận động, và
vận động của vật chất diễn ra trong không gian và thời gian. Vì vậy, vận động,
không gian và thời gian là các hình thức tồn tại của vật chất.
2.1. Vận động:
Quan điểm của chủ nghóa duy vật biện chứng cũng như sự phát triển của
khoa học hiện đại đã chứng minh rằng: không thể hiểu vận động chỉ theo nghóa cơ
học, tức là sự chuyển dịch vị trí của vật thể trong không gian, mà phải hiểu vận
động theo nghóa chung nhất là mọi sự biến đổi nói chung. Tư tưởng ấy đã được
Ph.Ăngghen khái quát như sau: “Vận động, hiểu theo nghóa chung nhất, tức được

hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất,
thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự
thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.” (C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn Tập, NXB
Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1994, tr 519).
2.1.a. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất:
“Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Bất cứ ở đâu và bất cứ lúc
nào cũng không có và không thể có vật chất mà không có vận động. Vận động trong
không gian vũ trụ, vận động cơ học của những khối nhỏ hơn trên mỗi thiên thể riêng
biệt, dao động phân tử dưới hình thức nhiệt, hay dưới hình thức dòng điện hoặc dòng
từ, phân giải hóa học và hóa hợp hóa học đời sống hữu cơ, đó là những hình thức
vận động mà mỗi một nguyên tử vật chất riêng biệt trong vũ trụ (trong mỗi lúc nhất
định đều nằm dưới một hình thức vận động hay dưới nhiều hình thức vận động cùng
một lúc. Mọi trạng thái đứng yên, mọi trạng thái thăng bằng đều chỉ là tương đối,
chỉ có ý nghóa nếu đem so sánh với một hình thức vận động nhất định nào đó.”
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, điều đó có nghóa là vật chất
tồn tại bằng cách vận động, thông qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện sự
tồn tại của mình. Như vậy, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng ở trong trạng thái
vận động. Từ các thiên thể khổng lồ đến những hạt vô cùng nhỏ, từ giới vô sinh
đến giới hữu sinh, từ các sự vật, hiện tượng tự nhiên đến xã hội loài người, tất cả
đều không ngừng biến đổi dưới hình thức này hay hình thức khác.
Hvth: Nguyễn Duy Kieät

Trang 5


Tiểu Luận Triết Học

Ph.Ăngghen: chống Đuy – rinh
Mác – Ăngghen, toàn tập, tập 20, NXB Chính trị Quốc Gia Hà Nội, 1994, tr.89
2.1.b. Nguồn gốc của vận động nằm trong ngay bản thân sự vật, bản thân vật

chất :
Vật chất bao giờ cũng ở trong trạng thái vận động, bởi vì bất cứ sự vật, hiện
tượng vật chất nào cũng là một thể thống nhất có một kết cấu nhất định. Kết cấu
đó gồm những nhân tố, những bộ phận, những xu hướng khác nhau, đối lập nhau.
Sự tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau của các yếu tố đó gây ra những biến đổi
nói chung, tức là vận động. Vì vậy, nguồn gốc của vận động là do sự tác động của
các mặt khác biệt bên trong của các kết cấu vật chất tạo nên. Do đó, vận động của
vật chất là tự vận động.
2.1.c. Những hình thức vận động cơ bản của vật chất:
Với cách nhìn khái quát theo quan điểm duy vật biện chứng, Ph.Ăngghen đã
rút ra năm hình thức vận động cơ bản của vật chất là:
- Vận động cơ học (sự dịch chuyển vị trí của các vật thể trong không gian).
- Vận động vật lý (vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động của
điện tử, của các quá trình nhiệt, điện ….).
- Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa học và
phân giải các chất).
- Vận động sinh vật (sự trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường).
- Vận động xã hội (sự biến đổi, thay thế của các hình thái kinh tế xã hội).
Các hình thức vận động cơ bản có sự khác nhau về chất, nhưng lại tồn tại
trong mối liên hệ biện chứng với nhau. Mỗi hình thức vận động được thực hiện là
do tác động qua lại với nhiều hình thức vận động khác.
2.2. Không gian và thời gian:
Vật chất luôn vận động và phát triển, sự vận động ấy không ở đâu khác.
“Ngoài không gian và thời gian”. Không gian và thời gian là một thuộc tính khách
quan của vật chất, gắn liền với sự vận động của vật chất.
Mọi sự vật tồn tại khách quan đều có vị trí, có hình thức kết cấu, có độ dài
ngắn, ngang dọc, cao thấp của nó, tất cả những thuộc tính đó được gọi là không
gian.

Hvth: Nguyễn Duy Kieät


Trang 6


Tiểu Luận Triết Học

Mọi sự vật đều ở trong trạng thái không ngừng biến đổi, mà mọi sự biến đổi
diễn ra đều có quá trình, có độ dài của sự diễn biến, nhanh, chậm kế tiếp nhau, tất
cả những thuộc tính đó được gọi là thời gian.
Như vậy, không gian và thời gian là thuộc tính khách quan, nội tại của bản
thân vật chất. Không gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động về mặt vị trí,
quảng tính, kết cấu, còn thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động về mặt
độ dài diễn biến, sự kế tiếp nhau của quá trình.
Chính vì vậy, V.I.LêNin viết: “Trong thế giới không có gì ngoài vật chất
đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không
gian và thời gian”. (V.I.LêNin: Toàn tập, NXB Tiến Bộ, Mátxcơva, 1980, tr.209 –
210).
Không gian và thời gian là hai thuộc tính khác nhau nhưng không thể tách
rời nhau của vật chất vận động. Vì vậy, không gian và thời gian có những tính chất
sau đây:
-

Tính khách quan: không gian và thời gian là một thuộc tính của vật chất, tồn tại
gắn liền với vật chất vận động. Vật chất tồn tại khách quan, do đó không gian
và thời gian cùng tồn tại khách quan.

-

Tính vónh cữu của thời gian và tính vô tận của không gian, những thành tựu của
vật lý học hiện đại về lónh vực vi mô cũng như vũ trụ học ngày càng xác nhận

những tính chất này.

-

Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian, tính ba chiều của
không gian là chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một chiều của thời gian
là chiều từ quá khứ đến tương lai.

Hvth: Nguyễn Duy Kiệt

Trang 7


Tiểu Luận Triết Học

II. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC:
“Nếu người ta đặt câu hỏi rằng tư duy và ý thức là gì, chúng từ đâu đến, thì
người ta sẽ thấy rằng chúng là sản vật của bộ óc con người và bản thân con người,
là sản vật của giới tự nhiên một sản vật đã phát triển trong một môi trường nhất
định và cùng với môi trường đó. Vì vậy, lẽ tự nhiên là những sản vật của giới tự
nhiên, không mâu thuẫn mà lại còn phù hợp với mối liên hệ còn lại của giới tự
nhiên”.
P.h ngghen: Chống Đuy-Rinh
Mác – ngghen, toàn tập, tập 20. Nxb CTQG, HN, 1994, trang 55.
Vấn đề nguồn gốc, bản chất và vai trò của ý thức là một vấn đề hết sức phức
tạp của triết học, là trung tâm của cuộc đấu tranh giữa chủ nghóa duy vật và chủ
nghóa duy tâm trong lịch sử. Dựa trên những thành tựu của triết học duy vật, của
khoa học và thực tiễn xã hội, triết học Mác – Lênin đã góp phần làm sáng tỏ vấn
đề trên đây.
1. Quan điểm của triết học Mac – Lênin về nguồn gốc và bản chất của ý

thức:
1.1. Nguồn gốc của ý thức:
1.1.a. Nguồn gốc tự nhiên:
Trước Mác nhiều nhà duy vật tuy không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên
của ý thức, song do khoa học chưa phát triển nên cũng đã không giải thích đúng
nguồn gốc và bản chất của ý thức. Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên
nhất là sinh lý học thần kinh, chủ nghóa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức
là một thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là
thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người
là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc người. Hoạt động ý
thức của con người diễn ra trên sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Ý
thức phụ thuộc vào hoạt động bộ óc người, do đó khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt
động ý thức sẽ không bình thường hoặc bị rối loạn. Vì vậy, không thể tách rời ý
thức ra khỏi hoạt động của bộ óc. Ý thức không thể diễn ra, tách rời hoạt động sinh
lý thần kinh của bộ óc người.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế
giới bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.
Hvth: Nguyễn Duy Kieät

Trang 8


Tiểu Luận Triết Học

Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất, thuộc
tính này được biểu hiện ra trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật
chất với nhau, phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất
này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả
của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật – vật tác động và vật nhận tác động.
Đồng thời quá trình phản ánh bao hàm quá trình thông tin. Nói cách khác, vật nhận

tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều hết sức quan
trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy sinh
ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con
người. Ý thức là ý thức của con người, nằm trong con người, không thể tách rời con
người. Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất – thuộc tính phản ánh –
phát triển thành. Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh
của vật chất, nội dung của nó là thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản
ánh. Ý thức và sự phản ánh thế giới bên ngoài vào trong bộ óc người. bộ óc người
là cơ quan phản ánh song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức. Không có
sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt
động ý thức không thể xảy ra.
Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc, đó là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
1.1.b. Nguồn gốc xã hội:
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng,
không thể thiếu được, song chưa đủ điều kiện quyết định cho sự ra đời cùng với
quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội,
ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ thuộc và xã hội, và ngay từ đầu
đã mang tính chất xã hội.
Quá trình hình thành ý thức không phải là quá trình con người thu nhận thụ
động. Nhờ có lao động con người tác động vào các đối tượng hiện thực, bắt chúng
phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình
thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác động vào bộ óc người.
ý thức được hình thành không phải chủ yếu là do tác động thuần túy, tự nhiên của
thế giới khách quan vào bộ óc người, mà chủ yếu là do hoạt động của con người
cải tạo thế giới khách quan làm biến đổi thế giới đó. Quá trình hình thành ý thức là
Hvth: Nguyễn Duy Kiệt

Trang 9



Tiểu Luận Triết Học

kết quả hoạt động, chủ động của con người. như vậy, không phải bỗng nhiên thế
giới khách quan tác động vào bộ óc người để con người có ý thức mà trái lại, con
người có ý thức chính vì con người chủ động tác động vào thế giới thông qua hoạt
động thực tiễn để cải tạo thế giới, con người chỉ có ý thức do có tác động vào thế
giới. Nói cách khác, ý thức chỉ được hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của
con người. Nhờ tác động vào thế giới mà con người khám phá ra những bí mật của
thế giới, ngày càng làm phong phú và sâu sắc ý thức của mình về thế giới.
“Sự sản xuất ra ý niệm, những quan niệm và ý thức thì lúc đầu là trực tiếp
gắn liền mật thiết với hoạt động vật chất và với sự giao tiếp vật chất của con
người. Ngôn ngữ của cuộc sống hiện thực. Ở đây, những quan niệm tư duy, sự giao
tiếp tinh thần của con người xuất hiện ra còn là sản phẩm trực tiếp của các quan hệ
vật chất của họ. Đối với sản xuất tinh thần, đúng như nó biểu hiện trong ngôn ngữ
của chính trị, của pháp luật, của tôn giáo, của siêu hình học, v..v…trong một dân tộc
thì cũng thế . Chính con người là kẻ sản xuất ra những quan niệm, ý
niệm,v..v…..của mình, song đây là những con người hiện thực, đang hành động
đúng, , như họ bị quy định bởi một sự phát triển nhất định của những lực lượng sản
xuất của họ và bởi sự giao tiếp phù hợp với sự phát triển ấy, kể cả những hình thức
rộng rãi nhất của sự giao tiếp đó ?.
C. Mac và Ăngghen : Hệ tư tưởng Đức . Toàn tập, tập 3 . NXB CTQG, HN,
1995, trang 37.
Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ vào lao động mà ý thức . Không
có hệ thống tín hiệu này – tức ngôn ngữ , thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện
được . Ngôn ngữ, theo C. Mác là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp
của tư tưởng, không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức .
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và
phát triển của ý thức là lao động , là thực tiển xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện

thực khách quan vào trong bộ óc người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan
hệ xã hội . Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
1.2/ - Bản chất của ý thức .
Ý thức là cái phản ảnh thế giới khách quan, nhưng nó là cái thuộc phạm vi
chủ quan, là thực tại chủ quan, không có tính vật chất . Ý thức là hình ảnh phi cảm
tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính . Nếu coi ý thức cũng là một
hiện tượng vật chất thì sẽ lẫn lộn giữa vật chất và ý thức , làm mất ý nghóa của sự
Hvth: Nguyễn Duy Kiệt

Trang 10


Tiểu Luận Triết Học

đối lập giữa vật chất và ý thức, từ đó dẫn đến làm mất đi sự đối lập giữa chủ nghóa
duy vật và chủ nghóa duy tâm .
Tuy nhiên, ý thức không phải là bản sao giản đơn, thụ động máy móc của sự
vật. Ý thức là của con người, mà con người là một thực thể xã hội năng động sáng
tạo. Ý thức phản ảnh thế giới khách quan trong quá trình con người tác động cải tạo
thế giới . Do đó, ý thức con người là sự phản ảnh có tính năng động, sáng tạo. Ý
thức là sự phản ảnh sáng tạo lại hiện thực, theo nhu cầu thực tiển xã hội, vì vậy ý
thức “Chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người, và
được cải biến đi ở trong đó” (C. Mác và Ph . Ăngghen : Toàn tập, NXB. CTQG,
HN, 1993, Trang 35) . Nói cách khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan .
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, song đây
là sự phản ảnh đặc biệt – phản ảnh trong quá trình con người, cải tạo thế giới . Quá
trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt sau đây :
- Một là trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh . Sự trao đổi
này mang tính chất hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết .

- Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần .
Thực chất đây là quá trình “Sáng tạo lại” hiện tượng của ý thức , theo nghóa mã
hóa các đối tượng vật chất thành các ý thức tinh thần phi vật chất .
- Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình
hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiển biến cái quan niệm thành cái
thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài
hiện thực . Trong giai đoạn này con người lựa chọn những phương pháp, phương
tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của
mình . Điều đó càng nói lên tính năng động sáng tạo của ý thức .
Tính sáng tạo của ý thức không có nghóa là ý thức đẻ ra vật chất . Sáng tạo
của ý thức là sáng tạo của sự phản ảnh, theo qui luật và trong khuôn khổ của sự
phản ánh, mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần . Sự sáng tạo của
ý thức không đối lập , loại trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với
phản ánh, trên cơ sở phản ánh. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của
ý thức . Ý thức trong bất cứ trường hợp nào - cũng là sự phản ánh và chính thực
tiển xã hội của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ
óc.
Hvth: Nguyễn Duy Kiệt

Trang 11


Tiểu Luận Triết Học

2/ Vai trò và tác dụng của ý thức . Ý nghóa phương pháp luận của mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức :
“Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo
ra thế giới khách quan”
V.I. Lênin : Bản tóm tắt : “Khoa học Lôgich “ học thuyết về khái niệm .
Toàn tập, tập 29. NXB Tiến Bộ Mát -xcơ va, 1981, trang 228.

Khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, chủ nghóa duy
vật Mác xit đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý
thức đối với vật chất . Ý thức cho vật chất sinh ra và quyết định, song sau khi ra
đời, ý thức có tính độc lập tương đối nên có sự tác động trở lại, to lớn đối với vật
chất thông qua hoạt động thực tiển của con người . Ý thức của con người có tác
động tích cực, làm biến đổi hiện thực, vật chất khách quan theo nhu cầu của mình .
Quan hệ giữa vật chất và ý thức không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ
tác động qua lại . Không thấy điều đó sẽ rơi vào quan niệm duy vật tầm thường và
bệnh bảo thủ trì trệ trong nhận thức và hành động .
Vai trò tích cực của ý thức, tư tưởng không phải ở chổ nó trực tiếp tạo ra hay
thay đổi thế giới vật chất mà là nhận thức thế giới khách quan và từ đó làm cho
con người hình thành được mục đích, phương hướng, biện pháp và ý chí cần thiết
cho hoạt động của mình . Sức mạnh của ý thức con người không phải ở chổ tách
rời điều kiện vật chất , thoát ly hiện thực khách quan , mà là biết dựa vào điều kiện
vật chất đã có, phản ánh đúng qui luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan
theo một cách chủ động, sáng tạo với ý chí, nhiệt tình cao . Con người phản ánh
càng đầy đủ và chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế giới có hiệu quả.
Vì vậy phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố
con người để tác động cải tạo thế giới khách quan . Đồng thời phải khắc phục bệnh
bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại, ngồi chờ trong quá trình đổi mới
hiện nay .
Tuy nhiên cơ sở cho việc phát huy tính năng động chủ quan là việc thừa
nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất , của các qui luật tự nhiên và xã hội
. Nếu như thế giới vật chất – với những thuộc tính và qui luật vốn có của nó – tồn
tại khách quan, không phụ thuộc ý thức con người thì trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ
cho mọi hoạt động của mình. Chính vì vậy, Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng,
Hvth: Nguyễn Duy Kiệt

Trang 12



Tiểu Luận Triết Học

không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình
cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát
từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện
thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí.
III. TÍNH TUYỆT ĐỐI VÀ TƯƠNG ĐỐI CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT
CHẤT VÀ Ý THỨC VÀ Ý NGHĨA LÝ LUẬN CỦA NÓ:
Từ trước tới nay có quan niệm cho rằng, trong mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức thì vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức,
đó là cái đúng ở mọi nơi, mọi lúc. Họ làm như vậy và tưởng rằng mình đứng trên
lập trường kiên định của chủ nghóa duy vật biện chứng. Nhưng thực ra đâu có phải
như vậy, họ đã đứng trên lập trường của chủ nghóa duy vật máy móc, siêu hình, tại
sao lại như vậy?
Trước hết, nếu trong giới hạn của vấn đề nhận thức luận, thừa nhận cái gì là
cái có trước, cái gì là cái có sau, thì sự đối lập giữa vật chất và ý thức, xem vật chất
là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức, ý thức là có ý nghóa
tuyệt đối. Điều này đã được sự phát triển của khoa học, đặc biệt là khoa học tự
nhiên khẳng định. Ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX, trong chủ nghóa duy vật
và chủ nghóa kinh nghiệm phê phán, V.I Lênin đã đặt vấn đề: “ Giới tự nhiên có
tồn tại trước loài người không? ”. Và ông đã trả lời: “Các khoa học tự nhiên khẳng
định một cách tích cực rằng trái đất đã từng tồn tại trong một trạng thái chưa có và
cũng không thể có loài người hay bất cứ một sinh vật nào nói chung cả. Vật chất
hữu cơ là một hiện tượng về sau mới có, là kết quả của một sự phát triển lâu dài”.
Rằng “ Vật chất là cái có trước; tư duy, ý thức, cảm giác đều là sản phẩm của một
sự phát triển rất cao”. Avênariút cho rằng, khoa học tự nhiên muốn biết , hình dung
trái đất hoặc thế giới như thế nào trước khi có các sinh vật hay con người xuất
hiện? Không phải từ Avênariút, mà trước kia đã có người cho rằng sở dó biết vật là

do ta đã “Quẳng” cái tâm vào đó rồi. Còn nếu không có tâm thì vật là vật hay là
gì ta cũng không biết. Cũng như hiện nay, chúng ta đã phóng tầm mắt, ý thức của
mình ra ngoài vũ trụ cách xa trái đất hàng mấy tỷ năm ánh sáng, nhưng ngoài giới
hạn này là cái gì, ta không thể hay biết. Cái mà Cantơ gọi là “Vật tự nó” đã được
ông “Quẳng” ý thức của mình vào đó để đặt tên cho những vật chưa biết. Còn thực
sự nó là vật hay tâm, là gì, hầu như chúng ta không hề hay biết. Từ đó học rút ra
kết luận, sở dó có vật là vật, vật chất là vật chất là do có c tâm, có ý thức.

Hvth: Nguyễn Duy Kiệt

Trang 13


Tiểu Luận Triết Học

Còn nếu không có cái tâm, không có ý thức thì vật là vật hay gì chúng ta
không hề biết.
Như vậy, vật là tâm, vật chất và ý thức là không hề tách rời nhau, liên hệ
mật thiết với nhau, thiếu một trong hai cái thì cái kia không tồn tại. Qua đây ta
thấy, ngoài vấn đề nhận thức luận cơ bản ra, thì sự đối lập giữa vật chất và ý thức
chỉ là tương đối. Nếu dừng lại ở đây thì chúng ta còn có thể chấp nhận được, nhưng
những nhà lý luận trên còn đi xa hơn nữa, họ cho rằng có tâm mới có vật, còn
không có tâm thì không có vật, và thế là họ lại rơi vào chủ nghóa duy tâm, “Không
có chủ thể thì không có khách thể ”.
Mặt khác, ngoài vấn đề nhận thức luận, chúng ta cũng không nên khẳng
định rằng vật chất quyết định ý thức ở mọi nơi, mọi lúc. Nếu khẳng định như vậy
thì sẽ rút ra một hệ quả là ai phong phú, giàu có về vật chất người đó sẽ phong
phú, giàu có về tinh thần. Điều này đâu phải lúc nào cũng đúng. Nhiều sản phẩm
tinh thần sống mãi với thời gian được thoát thai từ hoàn cảnh trăn trở, éo le, khó
khăn, nghèo nàn về đời sống vật chất. Quan niệm trên lại càng không đúng trong

các lónh vực tính ngưỡng, tôn giáo, đạo đức, đạo làm người của các nước phương
đông. Trong tư tưởng Ấn Độ và Trung Hoa cổ đại, người ta rất coi thường vật chất
và đề cao tinh thần.
Trong cuộc đời mỗi người, mỗi thể xác và tinh thần đâu có đối lập, tách rời
nhau, mà chúng nằm trong mối liên hệ biện chứng khắn khích. Thể xác quy định,
chi phối tinh thần, nhưng ngược lại, tinh thần cũng có tác động không nhỏ, nếu
không muốn nói là đôi khi có tính chất quyết định, đối với thể xác. Nếu trong tư
tưởng phương Tây có sự đối lập giữa vật và tâm thì trong tư tưởng phương đông lại
hầu như không đặt ra vấn đề đó. Và ngay sự đối lập này ở phương Tây cũng chỉ có
ý nghóa tuyệt đối trong một phạm vi hết sức hạn hẹp, còn phần lớn sự đối lập này
chỉ có tính chất tương đối. Điều này, trong chủ nghóa duy vật và chủ nghóa kinh
nghiệm phê phán, V.I. Lênin đã chỉ rõ sự đối lập vật chất và ý thức chỉ có ý nghóa
tuyệt đối trong những phạm vi hết sức hạn chế: trong trường hợp này, chỉ giới hạn
trong những vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trước và cái
gì là cái có sau ? Ngoài những giới hạn đó, thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự
đối lập đó là tương đối. Ở đây, V.I. Lênin đã chỉ ra phạm vi hạn chế đó là gì, đó là
vấn đề nhận thức luận cơ bản.

Hvth: Nguyễn Duy Kiệt

Trang 14


Tiểu Luận Triết Học

Nhưng một số người đã không hiểu điều đó, đã tuyệt đối hóa cái gọi là vật
chất quyết định ý thức, xem nó là vạn năng, đúng ở mọi lúc mọi nơi. Điều đó đã
đẩy họ vào Chủ nghóa duy vật máy móc, siêu hình. Họ quên mất điều căn dặn của
V.I.Lênin rằng chủ nghóa duy tâm thông minh còn gần chủ nghóa duy vật biện
chứng hơn là chủ nghóa duy vật thô thiển, máy móc, ngu xuẩn.

Họ cũng quên rằng ngay chủ nghóa duy vật biện chứng còn cho rằng ý thức
cũng có tác động lại đối với vật chất, ý thức xã hội còn góp phần cải biến xã hội.
Những quan niệm đó đã đẩy họ tới, một lối sống về vật chất, vì tiền, lối
sống thực dụng, lạnh lùng, không tình nghóa, lối sống hưởng thụ, vị kỷ cá nhân.
Mục đích của họ là vật chất, của cải tiền bạc, vì theo họ, có cái đó là có tất cả, nên
họ bất chấp mọi dư luận, luân lý, đạo đức trong nền kinh tế hiện nay, có một
nguyên nhân bắt nguồn từ quan niệm đó. Bởi vậy, để góp phần làm trong sạch bầu
không khí tinh thần, làm lành mạnh xã hội, chúng ta cần phải phê phán, lên án
mạnh mẽ quan niệm duy vật thô thiển, máy móc này. Trong công việc đó, những
chỉ dẫn của V.I Lênin trong chủ nghóa duy vật và chủ nghóa kinh nghiệm phê phán
cho đến nay hầu như vẫn còn nguyên giá trị của nó.
B. VAI TRÒ CỦA TRI THỨC
I. ĐỊNH NGHĨA NỀN KINH TẾ TRI THỨC KINH TẾ TRI THỨC
Là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra phổ cập và sử dụng trí thức giữ vai trò
quan trọng quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế tạo ra của cải nâng cao
chất lượng cuộc sống.
Trong nền kinh tế tri thức vẫn còn nông nghiệp và công nghiệp nhưng hai
ngành này chiếm tỷ lệ thấp. Cũng như trong nền kinh tế công nghiệp vẫn còn nông
nghiệp như nông nghiệp nhỏ bé. Trong nền kinh tế tri thức chiếm đa số là các nền
kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học và công
nghệ.
Đó có thể là những ngành mới như công nghiệp thông tin (công nghiệp phần
cứng và công nghiệp phần mềm ), các ngành công nghiệp và dịch mới dựa vào
công nghệ cao và cũng có thể là ngành truyền thống (nông nghiệp, công nghiệp,
dịch vụ) được cải tạo bằng khoa học công nghệ cao.
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NỀN KINH TẾ TRI THỨC :
1. Vai trò của tri thức đối với phát triển :
Hvth: Nguyễn Duy Kiệt

Trang 15



Tiểu Luận Triết Học

Tri thức, thông tin, công nghệ luôn có vai trò thúc đẩy phát triển sản xuất, vai
trò ấy tăng dần trong quá trình phát triển. Trong nền kinh tế nông nghiệp vốn tri
thức con người còn quá ít, công nghệ hầu như không đổi mới, tác động của tri thức
công nghệ chưa rõ rệt. Nền kinh tế nông nghiệp kéo dài sáu bảy nghìn năm, tiến
bộ hết sức chậm chạp .
Những thành tựu khoa học thế kỷ 17 dẫn tới cuộc cách mạng kỹ thuật lần
thứ nhất ( cuối thế kỷ thứ 18) thúc đẩy sự chuyển biến từ nền kinh tế nông nghiệp
sang nền kinh tế công nghiệp) Kinh tế công nghiệp đã phát triển nhanh trong hơn
200 năm qua, của cải của loài người đã tăng lên hàng trăm lần, khoa học và công
nghệ ngày càng đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội và ngày càng
phát triển nhanh hơn .
Những thành tựu nổi bật cuả khoa học đầu thế kỷ 20 với vai trò dẫn đầu
của thuyết tương đối và thuyết lượng tử là tiền đề cho cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ ra đời và phát triển bắt đầu từ giữ thế kỷ 20, và trong ¼ thế kỷ cuối
cùng đã bước sang giai đoạn mới – giai đoạn bùng nổ thông tin, tri thức và công
nghệ – đặc biệt là công nghệ cao như công nghệ thông tin

( nhất là siêu xa lộ

thông tin, internet, multimedia tương tác, thực tế ảo.. .), công nghệ sinh học (đặc
biệt là công nghệ gen ,công nghệ tế bào ) , công nghệ vật liệu mới, công nghệ
năng lượng .. . làm tăng nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế, dịch chuyển mạnh cơ
cấu kinh tế, tạo sự nhảy vọt trong lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất bước sang
giai đoạn mới về chất trong đó tri thức, thông tin trở thành yếu tố hàng đầu của sản
xuất, khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đây không chỉ
là cuộc cách mạng trong khoa học công nghệ, trong phát triển lực lượng sản xuất

mà còn là cách mạng trong các quan niệm, các cách tiếp cận, nó đòi hỏi con ngừơi
phải đổi mới trong cách nghó , cách làm để thích nghi và làm chủ sự phát triển .
Chưa bao giờ vai trò động lực của tri thức, khoa học và công nghệ đối với sự
phát triển kinh tế xã hội trở nên rõ ràng, nổi bật như ngày nay.
Trứơc kia người ta thường coi các yếu tố sản xuất chỉ bao gồm lao động và
vốn , còn tri thức , công nghệ, giáo dục .. . là các yếu tố ben ngoài sản xuất có ảnh
hưởng tới sản xuất. Gần đây các nghiên cứu kinh tế (Romer , Schumpeter ,
R.Solow . . .) đều thừa nhận công nghệ và tri thức là yếu tố bên trong của hệ thống
kinh tế . Romer coi tri thức và công nghệ là yếu tố thứ ba của sản xuất , bên cạnh
vốn và lao động. Lập luận này đã được các nhà nghiên cứu chấp nhận .
Hvth: Nguyễn Duy Kieät

Trang 16


Tiểu Luận Triết Học

Tri thức ngày càng trở thành nhân tố trực tiếp của chức năng sản xuất . Đầu
tư vào tri thức trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng trửơng kinh tế dài hạn . Trong
các nước phát triển đầu tư vô hình (vào giáo dục , khoa học công nghệ, văn hoá,
phát triển con người … ) tăng nhanh hơn đầu tư hữu hình. Ở Mỹ đầu tư vô hình tăng
nhanh hơn đầu tư hữu hình .
Chính K.Marx đã coi tri thức là nhân tố trực tiếp của chức năng sản xuất,
người khẳng định khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Ngày nay luận
điểm đó đã được chứng minh : khoa học không tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất bằng việc tạo ra công nghệ, tạo ra phương pháp tổ chức quản lý ý thức sản
xuất để nâng cao năng suất chất lượng hiệu quả của sản xuất , đổi mới sản phẩm
mà còn trực tiếp tạo ra sản phẩm ( như sản phẩm phần mềm), các ngành công
nghiệp công nghệ cao …) Khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và
quan trọng hàng đầu .

Engels cũng viết : “ Trong một chế độ hợp lý vượt lên trên sự chia rẽ về lợi
ích, thì đương nhiên yếu tố tinh thần sẽ được liệt kê là một trong số các yếu tố của
sản xuất và sẽ tìm được vị trí của nó trong các hạng mục chi phí sản xuất của chính
trị kinh tế học . Đến lúc ấy đương nhiên chúng ta sẽ vui mừng thấy rằng chỉ một
thành quả khoa học như máy hơi nước của James Walt, trong 50 năm đầu tồn tại
của nó đã đem lại cho thế giới lơi ích nhiều hơn so với những giá phải trả cho công
cuộc phát triển khoa học kể từ lúc bắt đầu (Toàn tập Marx-Engels, tập 1 tr 607) .
Tri thức là một yếu tố của sản xuất, nhưng nó khác biệt về cơ bản với các
yếu tố vốn hay lao động ở chỗ người có kiến thức cho người khác thì kiến thức của
anh ta không mất đi mà lại được sử dụng tốt hơn càng tạo cho nhiều người thì khả
năng sử dụng nó để tạo ra cuả cải càng nhiều mặt khác chi phí cho việc phổ biến
tri thức ra công chúng để làm tăng số người sử dụng là gần bằng không.
2. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại nhất là cách mạng về
thông tin thúc đẩy sự ra đời của nền kinh tế tri thức :
Quá trình phát triển về lực lượng sản xuất của loài người có thể chia ra làm
ba thời kỳ: Thứ nhất là nền kinh tế nông nghiệp cũng có thể gọi là nền kinh tế sức
lao động chủ yếu đặc trưng là sản xuất và lao động thủ công năng suất thấp đất đai
là tài nguyên chủ yếu . Thứ hai là nền kinh tế công nghiệp gọi là nền kinh tê tài
nguyên chủ yếu dựa vào máy móc và tài nguyên thiên nhiên hiện nay khi thiên
niên kỷ mới bắt đầu loài ngưởi đang bước vào nến kinh tế chủ yếu dựa vào tri
Hvth: Nguyễn Duy Kiệt

Trang 17


Tiểu Luận Triết Học

thức chủ yếu và thông tin tri thức và thông tin trở thành yếu tố sản xuất quan trọng
trong cả vốn và lao động .
So với sự chuyển biến về kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp và từ công

nghiệp sang tri thức có ý nghiã sâu sắc và trọng đại trước hết là sự chuyển đổi từ
tài nguyên lao động là chính sang nền sản xuất dựa vào trí tuệ con người là chính
cũng tức là từ lực lượng sản xuất vật chất là chủ yếu sang tinh thần là chủ yếu .
Thứ hai là sự thay đổi mọi lónh vực mà trước hết là công nghệ và sản xuất kinh
doanh diễn ra hết sức nhanh chóng dồn dập thập kỷ sau nhanh hơn thập kỷ trước,
năm sau nhanh hơn năm trước thành tựu kỳ diệu nhất của loài người trong thế kỷ
20 tập trung chủ yếu trong thập kỷ 90 nhất là những năm cuối thập kỷ 30 ta vẫn
chưa dự báo được sự phát triển Internet thương mại diện tử như ngày nay và hiện
nay sẽ khó dự báo được những thành tựu sẽ đạt được trong những năm tới phần lớn
là các chiến lược qui hoạch phát triển của các quốc gia được điều chỉnh cho nhanh
hơn ) chưa có thời kì mà trong lịch sử mà sự thay đổi, đảo lộn trong xã hội diễn ra
nhanh chóng, to lớn, sâu sắc và toàn diệân như hiện nay. Nhiều khái niệm cũng như
phương thức, qui tắc hoạt độâng, xử lý bị đảo lộ, buộc người ta phải đổi mới tư duy,
phải hành động nhanh, “làm việt theo tốc độ tư duy “(Bill Gates).
Các công nghệ cao, trước hết là công nghệ thông tin, là nguồn góc của sự
biến đổi mới lớn hiện nay. Máy hơi nước, động cơ điện mở đầu cho cuộc cách
mạng công nghiệp, thúc đẩy sự ra đời của nển kinh tế nông nghiệp , nội dung chủ
yếu là thay thế lao động chân tay bằng máy móc. Đó là cuộc cách mạng sâu sắc
nhưng diễn ra chậm chạp trong thời gian dài. Còn máy tính và mạng máy tính có
chức năng kỳ diệu là có thể thay thế một phần lao động trí óc con người nâng cao
trí thức giúp con người nâng cao khả năng tư duy khả năng sáng tạo từ đó đẩy
mạnh sự đổi mới công nghệ đổi mới tổ chức quản lý cải thiên điều kiện lao động
rút ngắn khoảng cách tạo điều kiên thuận lợi cho quốc tế hoá sản xuất thương mai
lưu thông tiền tệ làm cho quá trình toàn cầu hoá gia tăng mạnh mẽ trong những
năm gần đây. Máy tímh phát triển rất nhanh không có công nghệ nào khác sánh
kịp. Chúng nhanh chóng đi vào cuộc sống, có mặt ở mọi nơi trong mọi lónh vực
hoạt động. Sở dó như thế ngoài chức năng còn có đặc điểm của nó nữa là năng lực
của nó tăng rất nhanh cứ 18 tháng tăng gấp đôi Chẳng bao lâu mạng máy tính tốc
độ cao sẽ nối với các hộ gia đình các trường học cơ quan, doanh nghiệp, nhà máy,
trang trại, hộ gia đình và đến từng thiết bị từng công cụ xã hội thông tin rồi xã hội

tự động hoá sẽ hình thành.
Hvth: Nguyễn Duy Kiệt

Trang 18


Tiểu Luận Triết Học

III. NỀN KINH TẾ TRI THỨC VÀ CÔNG CUỘC CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN
ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA .
1. Thời Cơ Và Thách Thức
Đại hội Đảng lần thứ VIII dã quyết định phải đẩy mạnh nền công nghiệp hoá
hiện đại hoá để điến năm 2020 nước ta chính thức trở thành nước công nghiệp hoá.
Trong thời gian hai thập kỷ đó kinh tế thế giới có những biến động to lớn không
lường trước được theo chiều hướng chuyển mạnh sang nền kinh kinh tế tri thức, tốc
động tăng trưởng kinh tế rất cao, khoảng cách giữa các nước giàu nghèo còn tiếp tục
gia tăng, đó là thách thức gay gắt đối với các nước đang phát triển nói chung cũng
như đối với nước ta. Nếu không biết tận dụng cơ hội nâng cao năng lực nội sinh đổi
mới cách nghó cách nhìn, bắt kịp tri thức mới của thời đại, đi thẳng vào các ngành
kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao, thực sự đi tắt đón đầu thì sẽ tụt hậu ra xa.
Chúng ta không thể rập khuôn theo mô hình công nghiệp hoá mà các nước đi
trước đã đi. Cũng không nên hiểu công nghiệp hoá là xây dựng công nghiệp, mà
phải hiểu đây là nền kinh tế từ tình trạng lạc hậu năng suất chất lượng hiệu quả thấp
dựa vào phương pháp sản xuất nông nghiệp lao động thủ công là chính sang nền kinh
tế có năng suất chất lượng hiệu qủa cao theo phương pháp sản xuất công nghệ mới
nhất, vì vậy công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa Như vậy kinh tế tri thức là
vận hội ngàn vàng để ta đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đai hoá.
Nước ta không thể chần chừ bỏ lỡ cơ hội lớn mà phải đi thẳng vào nền kinh tế
tri thức để rút ngắn khoảng cách với các nước, cho nên công nghiệp hoá nước ta
đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ cực kỳ lớn lao : chuyển biến từ kinh tế nông nghiệp

sang kinh tế công nghiệp và từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Không thể
chờ công nghiệp hóa hoàn thành cơ bản rồi mới chuyển sang kinh tế tri thức như các
nước đi trước đã phải trãi qua. Đây là lợi thế của các nước đi sau .
Để có thể làm được việc đó cần phải có đủ năng lực trí tuệ có khả năng sáng
tạo làm chủ được tri thức mới nhất và chủ động hội nhập vào quốc tế phát huy lợi
thế so sánh mìn. Khoảng cách giữa các nước giàu nghèo là khoảng cách về tri thức .
2. Chiến Lược
Nước ta hiện nay GDP bình quân đầu người bằng ½ bình quân của thế giới
xếp thứ 180 trong 110 nước, (nếu theo PPthì thứ 164) thuộc nhóm những nước
nghèo nhất không cách nào đuổi kịp các nước phát triển nhưng phải cố gắng nhanh
chóng để nâng cao trình độ tri thức tăng cường năng lực nội sinh về khoa học công
Hvth: Nguyễn Duy Kieät

Trang 19


Tiểu Luận Triết Học

nghệ mới nhất để hoàn thành thắng lợi nền công nghiệp hóa hiên đại hoá, thực
hiện được mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh .
Chúng ta có thế mạnh về tiềm năng con người, chỉ số phát triển con người.
Chỉ số phát triển con người (HDI) nứơc ta đứng thứ 110 và thuộc nhóm trung bình
của thế giới. Thực tế đã chứng minh người Việt Nam nắm bắt và làm chủ nhanh
các tri thức mới và các ngành công nghệ hiện đại. Nhiều ngành mới xây dựng nhờ
sử dụng công nghệ mới đã theo kịp trình độ các nùc trong khu vực ( Bưu chính
viễn thông, năng lượng, cầu đường, dầu khí …). Cho nên chúng ta cần thực hiện
một chính sách phát triển bằng và dựa vào con người, khoa học và công nghệ, như
nghị quyết TW2 khóa 8 đã chỉ ra. Chiến lược phát triển đất nước dựa vào tri thức
và thông tin, chiến lược đi tắt, đón đầu với mũi nhọn là công gnhệ thông tin .
Về công nghệ thông tin, ngành đang là động lực chủ yếu thúc đẩy nền kinh

tế tri thức và xã hội thông tin, thì người Việt Nam có nhiều khả năng. Những học
sinh Việt Nam thi giải tin học quốc tế đoạt giải rất cao, lực lượng người Việt Nam ở
nước ngoài làm tin học khá đông và giữ nhiều vị trí quan trọng. Riêng tại thung
lũng Silicon hiện có hơn 10.000 người làm công nghệ thông tin. Việt Nam cần tập
trung phát triển công nghệ thông tin để thúc đẩy phát triển và hiện đại hoá các
ngành, các lónh vực sản xuất dịch vụ, nâng vao hiệu quả tổ chức và quản lý, đồng
thời để phát triển các ngành công nghệ thông tin là những ngành có giá trị gia tăng
cao nhất, những ngành trụ cột trong xã hội tương lai. Công nghệ thông tin trở thành
ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển nước ta .
Nền kinh tế nước ta phải phát triển theo mô hình hai tốc độ : Một mặt phải
lo phát triển nông nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất những ngành công nghiệp cơ
bản, lo giải quyết nhữnh nhu cầu cơ bản và bức xúc của người dân, mặt khác đồng
thới phải phát triển nhanh những ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao,
nhất là công nghệ thông tin để hiện đại hóa và nâng cao năng lực cạnh tranh cuả
nền, tạo ngành nghề mới, việc làm mới, tốc độ tăng trưởng cao, hội nhập có hiệu
quả vào nền kinh tế thế giới. Không thể làm đồng loạt dàn hàng ngang cùng tiến .
Trong nhiều lónh vực của nền kinh tế chúng ta còn sử dụng các ngành công
nghệ truyền thống nhưng được cải tiến bằng các tri thức mới để tạo nhiều việc làm,
tận dụng lao động, đất đai, tài nguyên, đẩy mạnh công nghiệp hóa nông nghiệp và
nông thôn, xóa đói giảm nghèo .

Hvth: Nguyễn Duy Kiệt

Trang 20


Tiểu Luận Triết Học

Trong khi đó phải giành lực lượÏng thích đáng để phát triển các ngành kinh tế
sử dụng tri thức và công nghệ tiên tiến nhất. Đã đầu tư xây dựng mới là phải sử

dụng công nghệ tiên tiến nhất. Phải nhanh chóng xây dựng cơ sở hạ tầng, công
nghệ thông tin, hình thành mạng xa lộ thông tin quốc gia, ứng dụng công nghệ
thông tin rộng rãi trong tất cả các lónh vực, phát triển công nghiệp thông tin, nhất là
công nghiệp phần mềm, như thế sẽ thúc đẩy phát triển nhanh tất cả các lónh vực
dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế, nâng cao tốc độ tăng trưởng, hiệu quả và chất
lượng nền kinh tế. Phát triển các ngành công nghiệp sinh học (các ngành nông
nghiệp công nghệ cao, công nghiệp dược phẩm , công nghiệp môi trường ) , các
ngành vật liệu mới … Sử dụng các công nghệ cao để phát triển các ngành công
nghiệp then chốt : Chế tạo máy (sử dụng CDA , CMA , tự động hoá ), … Các ngành
xây dựng, giao thông, năng lượng phải sử dụng công nghệ tiên tiến nhất và đảm
bảo hiệu quả đầu tư cao nhất .

Hvth: Nguyễn Duy Kiệt

Trang 21



×