TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA HÀNH CHÍNH – LỚP HC35 – 2
Đề tài tiểu luận:
THẨM QUYỀN XÉT XỬ
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN
Nhóm tiểu luận:
1. Nguyễn Thị Trúc Hương
2. Nguyễn Huỳnh Trúc Khanh
3. Vũ Huy Khôi
4. Phan Thị Thuỳ Linh
5. Nguyễn Thị Kha Ly
6. Đào Hoàng Nam
7. Trịnh Thị Năm
8. Nguyễn Huỳnh Thái Ngân
9. Đặng Thị Nghĩa
10.Diệp Lâm Mỹ Ngọc
- 1055040111
- 1055040122
- 1055040124
- 1055040144
- 1055040153
- 1055040170
- 1055040171
- 1055040182
- 1055040186
- 1055040189
Mục lục
Chương 1: Khái quát về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Toà án nhân dân.
1.1. Khái niệm thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Toà án nhân dân................3
1.1.1. Định nghĩa thẩm quyền...........................................................................................3
1.1.2. Định nghĩa thẩm quyền xét xử vụ án hành chính...................................................6
1.1.3. Sự phát triển của thẩm quyền xét xử vụ án hành chính..........................................8
1.2. Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính theo pháp luật hiện hành.........................12
1.2.1. Thẩm quyền theo loại việc....................................................................................12
1.2.2. Thẩm quyền theo cấp xét xử và theo lãnh thổ......................................................13
1.2.3. Xác định thẩm quyền giữa toà án với toà án và
giữa toà án với cơ quan giải quyết khiếu nại......................................................................15
Chương 2: Thực trạng về thẩm quyền và một số kiến nghị
2.1. Thực trạng về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính......................................17
2.1.1. Thực trạng quy định của pháp luật về thẩm quyền................................................17
2.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính...........24
2.2. Một số kiến nghị về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính.............................30
2.2.1. Kiến nghị về sửa đổi quy định của pháp luật........................................................30
2.2.2.Kiến nghị về áp dụng pháp luật.............................................................................34
2
Danh mục các từ viết tắt
o
o
o
o
o
o
o
o
o
TTHC
QĐ
QĐHC
HVHC
VAHC
TTGQCVAHC
TAND
TANDTC
HĐTPTANDTC
– Tố tụng hành chính
– Quyết định
– Quyết định hành chính
– Hành vi hành chính
– Vụ án hành chính
– Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
– Toà án nhân dân
– Toà án nhân dân tối cao
– Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao
3
Đề tài: Thẩm quyền xét xử hành chính của TAND
CHƯƠNG 1
Khái quát về thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của TAND
1.1 Khái niệm thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của TAND
1.1.1 Định nghĩa thẩm quyền
“Thẩm quyền” là một khái niệm quan trọng, trung tâm của khoa học pháp lý. Có thể
nói, không có thuật ngữ nào được sử dụng phổ biến trong pháp luật như thuật ngữ “thẩm
quyền”. Trong pháp luật nước ngoài, chúng ta còn thường gặp thuật ngữ thẩm quyền
ngay trong tên các văn bản pháp luật, nhất là về tổ chức bộ máy nhà nước, bởi vì nội
dung các văn bản đó thực chất là các quy định về thẩm quyền. Tuy vậy, ngay trong văn
bản pháp luật nước ngoài, thường cũng không có định nghĩa khái niệm thẩm quyền, mặc
dù thực chất vấn đề là quy định về thẩm quyền ở nước ta cũng có tình trạng đó. Có lẽ một
phần do sự phức tạp của khái niệm này nên khó đưa ra một định nghĩa đầy đủ về nó, tuy
các quy định về thẩm quyền chiếm tỉ trọng lớn trong hệ thống văn bản pháp luật và có vị
trí đặc biệt quan trọng.
Thuật ngữ "thẩm quyền" bắt nguồn từ tiếng la tinh "competentia" có hai nghĩa là:
1) Phạm vi các quyền hạn của cơ quan hoặc người có chức vụ nào đó.
2) Phạm vi những kiến thức và kinh nghiệm mà ai đó có.
Ý nghĩa đầu trong khoa học pháp lý và quản lý thường được biểu thị bằng thuật ngữ
“thẩm quyền pháp lý”, ý nghĩa thứ hai – “thẩm quyền chuyên môn”. Cả hai ý nghĩa của
khái niệm đều rất quan trọng đối quản lý nhà nước, bên cạnh thẩm quyền pháp lý còn rất
coi trọng thẩm quyền chuyên môn của người quản lý, của cơ quan nhà nước. “Thẩm
quyền chuyên môn” và “thẩm quyền pháp lý” đều quan trọng đối với quản lý nhà nước
và có quan hệ với nhau rất chặt chẽ. Thẩm quyền chuyên môn của cơ quan thực chất
được bảo đảm thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, bố trí, sắp xếp cán bộ theo
các tiêu chuẩn, yêu cầu nhất định và cũng dần dần được thể chế hoá thành pháp luật ở
một mức độ nào đấy. Tuy nhiên trong khoa học, pháp luật và thực tiễn thuật ngữ “thẩm
quyền” thường vẫn được hiểu với nghĩa là thẩm quyền pháp lý và đó cũng là giới hạn
phạm vi xem xét của bài này.
"Thẩm quyền" với nghĩa thẩm quyền pháp lý cũng không đơn nhất. Do tính phức
tạp và tồn tại nhiều khái niệm gần gũi quan hệ chặt chẽ với nó, nên có rất nhiều quan
điểm khác nhau về khái niệm thẩm quyền. Trong số đó, trước tiên cần kể đến các quan
điểm của các học giả Xô Viết, nơi đã có nhiều công trình nghiên cứu một cách công phu,
4
toàn diện và sâu sắc về khái niệm này. Ngoài ra, rải rác có quan điểm của các học giả
Cộng hoà Dân chủ Đức, Bungari, Ba Lan, Pháp và Việt Nam. Trong khoa học pháp lý Xô
Viết, đến những năm 70 đã có ít nhất hai luận án tiến sĩ khoa học về khái niệm này. Đặc
biệt là các công trình của B.M. Lazarép, trong đó tác giả đã tổng hợp hầu hết các quan
điểm đương thời về khái niệm thẩm quyền ở trong nước và một số nước ngoài như Cộng
hoà Dân chủ Đức, Bungari, Nam Tư, Ba Lan, Pháp, đồng thời chứng minh một cách
thuyết phục quan điểm được thừa nhận rộng rãi của mình:
Một là, do trong các văn bản pháp luật Xô Viết thường có chương/điều về “nhiệm
vụ”, nên trong khoa học pháp lý Xô Viết có quan điểm cho rằng “phạm vi các nhiệm vụ”
của cơ quan là một trong các yếu tố của thẩm quyền cơ quan. Theo đó, khái niệm thẩm
quyền bao hàm các nhiệm vụ và các quyền hạn (các quyền và nghĩa vụ). Quan điểm này
lại khá phổ biến trong luật hành chính Cộng hoà Dân chủ Đức và cũng có ở Bungari. Có
lẽ do sự tiếp nhận giản đơn quan điểm này mà trong hầu hết các văn bản pháp luật về tổ
chức của nước ta từ Hiến pháp 1980 trở lại đây, những điều mà thực chất là quy định về
thẩm quyền cơ quan và người có chức vụ, đều ghi là “nhiệm vụ và quyền hạn”, nhưng
trong các điều đó thật không thể phân biệt đâu là nhiệm vụ, đâu là quyền hạn. Điều này
thể hiện ngay trong Hiến pháp 1980 (các điều 83, 100, 107, 115), Hiến pháp 1992 (các
điều 84, 91, 103, 112, 114) và các luật tổ chức các cơ quan nhà nước.
Nhiệm vụ là đích cần đạt. Có những nhiệm vụ chung, lớn, dài hạn (còn gọi là mục
đích) và những nhiệm vụ cụ thể, ngắn hạn (đích cụ thể, bia ở trường bắn), ví dụ: nhiệm
vụ đến năm 2010 tăng thu nhập đầu người/năm lên 1000 USD và nhiệm vụ năm 2005
tăng 7,5% GDP. Như vậy, nhiệm vụ thực nhất là cái mà cơ quan phải thực hiện được, là
mục đích cụ thể cần đi đến khi thực hiện thẩm quyền của nó chứ không phải là yếu tố của
thẩm quyền. Nhiệm vụ và thẩm quyền là các khái niệm khác hẳn nhau, nhưng chúng lại
có quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Thẩm quyền là phương tiện để thực hiện nhiệm vụ.
Nhiệm vụ góp phần phác họa thẩm quyền, phác họa mục đích, “hướng tác động” của
thẩm quyền, nên cũng có thể nói, nhiệm vụ là tiền đề của thẩm quyền. Đương nhiên,
trước hết nhiệm vụ của cơ quan nhà nước phải được quy định phù hợp với vị trí, vai trò
của nó trong bộ máy nhà nước. Sau đó, khi quy định thẩm quyền, nhà nước thường phải
làm theo trình tự sau: căn cứ vào nhiệm vụ mà quy định chức năng, và căn cứ vào nhiệm
vụ và chức năng mà giao quyền hạn. Thẩm quyền được trao cho cơ quan phải phù hợp
với nhiệm vụ của nó, đủ để thực hiện nhiệm vụ. Theo cách hiểu này thì ở nước ta các
hiến pháp “cũ hơn” lại “chính xác hơn”, vì các điều về thẩm quyền cơ quan nhà nước đều
chỉ ghi “quyền hạn” (các điều 50, 53, 74 Hiến pháp 1959) hoặc “quyền” hay “quyền hạn”
(các điều 36, 49, 52 Hiến pháp 1946).
Hai là, có quan điểm cho rằng “chức năng quản lý” được trao cho cơ quan là yếu tố
của thẩm quyền, theo đó thẩm quyền bao hàm: một là, các chức năng, hai là, các quyền
5
và nghĩa vụ hoặc là quyền hạn. Biến thể của quan điểm này là ý kiến coi chức năng và
thẩm quyền là hai bộ phận tồn tại song song và độc lập với nhau. Quan điểm này cũng
khá phổ biến ở Việt Nam, thể hiện trong câu thông dụng ở tên các văn bản, như các nghị
định về tổ chức bộ máy là “quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn”, coi các khái
niệm này như tách rời nhau. Nhưng là loại hoạt động, chức năng chỉ mới định ra hành
lang chung, loại hoạt động mà cơ quan được tiến hành, con đường mà nó được đi, mà
chưa xác định phạm vi cụ thể của con đường mà cơ quan đi, cách đi... Một chức năng có
thể do một số cơ quan cùng thực hiện, cũng như có thể một số cơ quan cùng đi chung
một con đường, nhưng mỗi cơ quan đi một cách khác nhau (với phạm vi, phương pháp
khác nhau). Thẩm quyền là “mảnh sân riêng” chứ không phải là “con đường chung”. Ví
dụ, giám sát, thanh tra, kiểm tra là chức năng mà tất cả mọi cơ quan nhà nước đều phải
thực hiện, nhưng mỗi cơ quan có hình thức, phương pháp, phạm vi khác nhau trong việc
thực hiện chức năng đó. Chỉ nói riêng chức năng giám sát, thanh tra, kiểm tra trật tự an
toàn giao thông đường bộ đã có khá nhiều loại cơ quan và người có chức vụ tiến hành, và
mỗi chủ thể đó thực hiện chức năng này trong phạm vi thẩm quyền của mình, không thể
chồng chéo lên nhau. Khi pháp luật quy định cho một cơ quan nào đó thực hiện một chức
năng nào đó, tức là đã trao cho nó quyền và đồng thời là nghĩa vụ thực hiện chức năng
đó. Tóm lại, chức năng không phải là yếu tố của thẩm quyền, mà các quyền và nghĩa vụ
thức hiện các chức năng mới là yếu tố của thẩm quyền. Nhưng từ đó cũng thấy rõ chức
năng và thẩm quyền không hoàn toàn độc lập với nhau. Do đó sách báo thường viết “giao
chức năng và thẩm quyền” là không chính xác.
Việc đầu tiên khi quy định thẩm quyền của cơ quan nhà nước là xác định các chức
năng (loại hoạt động) mà nó cần thực hiện và phạm vi của chức năng đó (những vấn đề,
loại hay những khách thể/đối tượng bị quản lý nhất định trong những lĩnh vực đời sống
xã hội nhất định, những hình thức và phương pháp hoạt động nhất định) để thực hiện
những nhiệm vụ nhất định.). Với những lý do này mà B.M. Lazarép đã viết rằng thẩm
quyền là một khái niệm có nội dung chức năng và vỏ bọc pháp lý
Ba là, có quan điểm coi thẩm quyền là tổng thể tất cả quyền, nghĩa vụ (quyền hạn)
và trách nhiệm. Có lẽ là do tầm quan trọng của vấn đề trách nhiệm. Quan điểm này rất
phổ biến ở Việt Nam. Nó không chỉ thể hiện trong các văn bản pháp luật, mà cả trong
sách báo, thậm chí ngay trong các định nghĩa khái niệm “phân cấp quản lý”. Nhưng
“trách nhiệm” có thể được hiểu cả theo hai nghĩa: tinh thần trách nhiệm, quyền và nghĩa
vụ thực hiện công việc nào đó, hoặc sự gánh chịu hậu quả pháp lý khi không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng thẩm quyền được giao. Nếu hiểu theo nghĩa là quyền và nghĩa
vụ thì nó đồng nhất với thẩm quyền; trong các văn bản pháp luật nghĩa này thường được
thể hiện bằng thuật ngữ kép “có trách nhiệm” hay “chịu trách nhiệm” thực hiện công việc
nào đó. Với nghĩa là “tinh thần trách nhiệm” thì chỉ mang tính đạo đức chứ không mang
6
tính pháp lý, và “tinh thần” thì không thể trao, nên không thể là yếu tố của thẩm quyền.
Như vậy, “trách nhiệm” trong tổng thể của quan điểm này chỉ có thể hiểu theo nghĩa thứ
hai là sự gánh chịu hậu quả pháp lý; trong các văn bản pháp luật, nghĩa này thường hay
thể hiện bằng thuật ngữ kép “chịu trách nhiệm trước...” chủ thể nào đó. Do đó, trách
nhiệm không phải là yếu tố của thẩm quyền, mà là hậu quả của việc thực hiện không
đúng thẩm quyền. Trách nhiệm luôn phải được quy định tương xứng với thẩm quyền,
thẩm quyền càng lớn trách nhiệm càng phải cao, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng lạm
quyền, vô trách nhiệm.
1.1.2 Định nghĩa thẩm quyền xét xử vụ án hành chính
1.1.2.1 Định nghĩa thẩm quyền xét xử vụ án hành chính
Thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân là một trong những nội dung
của “thẩm quyền pháp lý”. Vì Luật Hành chính là một ngành luật trong hệ thống pháp
luật nên “thẩm quyền xét xử vụ án hành chính” có phạm vi hẹp hơn “thẩm quyền pháp
lý”. Thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân là phạm vi quyền của Tòa án
trong việc thụ lý và giải quyết các vụ án hành chính.
Sau khi làm rõ các cơ sở lý luận và thực tiễn của yêu cầu thiết lập Toà án hành
chính, xác định tính đặc thù và các nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo của quá trình nghiên
cứu các vấn đề liên quan đến sự ra đời và hoạt động của hệ thống cơ quan tài phán hành
chính nước ta, thì vấn đề quan trọng đầu tiên phải được giải quyết, đó là: xác định thẩm
quyền xét xử của Toà án hành chính. Thẩm quyền xét xử hành chính bao gồm:
1) Thẩm quyền theo loại việc bị kiếu kiện. (Điều 28 Luật Tố Tụng Hành Chính)
2) Thẩm quyền theo cấp Tòa án.
3) Thẩm quyền theo lãnh thổ.
(Điều 19 Luật Tố Tụng Hành Chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố trục thuộc tỉnh.
Điều 30 Luật Tố Tụng Hành Chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương.)
Khi xem xét để thụ lý vụ án, Tòa án nhất định phải xem xét cả ba căn cứ này.
Khái niệm thẩm quyền xét xử hành chính là căn cứ để phân biệt với thẩm quyền xét
xử dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân – gia đình… và cũng là một trong những căn cứ để
phân định ngành Luật Tố Tụng Hành Chính với các ngành luật quy định về tố tụng khác
trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Vì vậy không được nhầm lẫn thẩm quyền xét xử
hành chính được quy định cho Tòa Hành chính nói chung với quyền hạn của Tòa án ở
các giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án (chẳng hạn quyền quyết định đối với yêu
cầu của ngưởi khởi kiện tại cấp sơ thẩm, quyền quyết định đối với kháng cáo ở cấp ở cấp
7
phúc thẩm, quyền quyết định đối với kháng nghị giám đốc với kháng nghị giám đốc
thẩm, kháng nghị tái thẩm ở cấp giám đốc thẩm, tái thẩm).
1.1.2.2 Ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền:
Việc xác định thẩm quyền xét xử hành chính có các ý nghĩa sau đây:
Đối với Tòa án: thẩm quyền là cơ sở để xác định vụ án sẽ được giải quyết theo thủ
tục tố tụng hành chính hay không và tại Tòa án cụ thể nào. Trong trường hợp không
thuộc thẩm quyền thì Tòa án hành chính sẽ không thụ lý. Nếu thụ lý sai thì phát sinh các
hậu quả như đình chỉ việc giải quyết các vụ án hành chính, chuyển vụ án cho Tòa án
khác.
Thẩm quyền xét xử cũng là một trong những căn cứ quan trọng khi xem xét, kiểm
tra việc bảo đảm về mặt tố tụng trong hoạt động giải quyết các vụ án hành chính.
Đối với cá nhân, tổ chức: nắm vững thẩm quyền thì cá nhân, tổ chức sẽ khởi kiện
đúng loại việc, tránh vi phạm các điều kiện khởi kiện; tránh đượng những hậu quả bất lợi
cho mình, giúp họ bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình kịp thời và hiệu quả. Nói cách
khác là giúp họ khởi kiện đúng vụ án, đúng thủ tục tố tụng hành chính; đúng loại việc.
Trong thực tiễn xét xử, việc xác định sai thẩm quyền có thể dẫn đến việc người khởi
kiện mất quyền khởi kiện, Tòa án vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, bản án bị hủy để
xét xử lại, kéo dài thời gian giải quyết vụ án,…
Theo quy định của pháp luật hiện hành, ở nước ta hiện nay đang tồn tại nhiều cơ chế
kiểm tra, giám sát về tính hợp pháp của hoạt động hành chính. Toà án hành chính ra đời
là thêm một cơ chế nữa thông qua việc giải quyết các khiếu kiện của công dân. Mặt khác,
phải tính đến sự tồn tại và hoạt động từ rất lâu của hệ thống các Toà án nhân dân (Toà án
tư pháp) có thẩm quyền xét xử các vụ kiện dân sự, kinh tế, lao động mà về mặt lý luận có
sự khác biệt với các tranh chấp hành chính trong thực tế nền pháp luật nước ta, đối với vụ
việc cụ thể không dễ gì có sự nhận định rõ ràng. Chính vì vậy, việc xác định thẩm quyền
của Toà án hành chính có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn đối với hoạt động của nó
trong tương lai.
Đồng thời, hệ thống pháp luật nói chung và đặc biệt là pháp luật về quản lý (luật
hành chính) hiện nay chưa phát triển, chúng ta không phân chia hệ thống pháp luật ra làm
hai nhánh: luật công và luật tư. Mặt khác, có một số vấn đề đặt ra khá nan giải là trong hệ
thống chính trị của ta, ngoài các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, còn có
một số hoạt động gần với hoạt động quản lý nhà nước, có nghĩa là ngoài các quy tắc, điều
lệ của tổ chức, họ cũng áp dụng các quy phạm pháp luật hành chính. Vì vậy, xác định thế
nào là một tranh chấp hành chính thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án hành chính là một
vấn đề khá phức tạp và nên coi tất cả các tranh chấp có tính chất hành chính thuộc thẩm
quyền xét xử của Toà án hành chính. Tuy nhiên, cần có những quy định rõ ràng trong văn
bản pháp luật để tạo thuận lợi cho công dân và cả Toà án hành chính xác định được
8
những vụ việc thuộc thẩm quyền của mình. Toà án hành chính có thẩm quyền giải quyết
các khiếu kiện đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước hoặc nhân viên cơ
quan hành chính nhà nước khi thi hành công vụ. Như vậy, đối tượng chủ yếu của xét xử
hành chính là hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, bởi lẽ, Toà án hành chính
thiết lập là để giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân.
1.1.3. Sự phát triển của thẩm quyền xét xử vụ án hành chính
Ở các nước thuộc hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa trước đây, tồn tại quan
điểm cho rằng tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhà nước xã hội chủ nghĩa là
đại diện cho quyền lực của nhân dân. Do quan điểm này mà các nước thuộc hệ thống xã
hội chủ nghĩa cho rằng quyền lợi của nhà nước và nhân dân về cơ bản là thống nhất,
không thừa nhận sự tồn tại các tranh chấp giữa nhà nước và công dân. Các quốc gia này
cũng không có sự phân định rạch ròi giữa công pháp và tư pháp, các tranh chấp hành
chính được giải quyết theo cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính (thủ tục hành chính).
Ở Việt Nam, trước khi Tòa hành chính được thành lập (01/07/1996) thì vấn đề
giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ
quan công quyền đã được quan tâm ở mức độ nhất định. Tuy nhiên do chịu ảnh hưởng
của mô hình hệ thống pháp luật cũng như tư tưởng lập pháp xã hội chủ nghĩa trước đây
nên trong thời kỳ này pháp luật nước ta chỉ thừa nhận các tranh chấp hành chính như
những khiếu nại thông thường, được giải quyết theo thủ tục giải quyết khiếu nại hành
chính mà không được giải quyết theo thủ tục tố tụng tại Tòa án.
Ngày 28/10/1995, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, khoá
IX, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật tổ chức Toà
án nhân dân, trong đó Toà án nhân dân được trao chức năng xét xử các vụ án hành
chính. Theo đó hệ thống Toà hành chính đã được thành lập bên cạnh các Toà chuyên
trách khác của Tòa án nhân dân. Đây có thể coi là sự chuyển biến căn bản về tư tưởng
lập pháp trong việc giải quyết các tranh chấp hành chính ở nước ta, là dấu mốc đánh
dấu sự ra đời của ngành luật hành chính ở Việt Nam.
* Giai đoạn trước khi thành lập hệ thống Tòa hành chính và Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các vụ án hành chính có hiệu lực pháp luật:
Sắc luật số 04/SLT ban hành năm 1957 về bầu cử Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
hành chính các cấp đã trao cho Toà án nhân dân thẩm quyền giải quyết khiếu kiện về
danh sách cử tri nếu người khiếu kiện không đồng ý với việc giải quyết của cơ quan lập
danh sách cử tri (Điều 15). Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng của mô hình hệ thống pháp luật
xã hội chủ nghĩa trước đây nên pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận các khiếu nại hành
chính mà không thừa nhận khiếu kiện hành chính phát sinh giữa công dân, cơ quan, tổ
9
chức với các cơ quan công quyền và các khiếu nại này chỉ được giải quyết theo thủ tục
hành chính
Trong giai đoạn này người có thẩm quyền giải quyết các khiếu nại hành chính là
các cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ có thẩm quyền của các cơ quan đó trong quá
trình thực hiện công vụ đã ban hành quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành
chính bị khiếu nại. Như vậy các cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong các cơ
quan đó vừa là người bị khiếu nại, vừa là người giải quyết khiếu nại, đây được xem là cơ
chế “bộ trưởng – quan tòa”.
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, tại Điều 10 cũng quy
định cho Toà dân sự thẩm quyền xét xử cả các tranh chấp về lập danh sách cử tri, hộ tịch,
lao động... những tranh chấp hành chính liên quan chặt chẽ đến các quyền cơ bản của
công dân được giải quyết theo trình tự tư pháp dân sự.
* Giai đoạn sau khi thành lập hệ thống Tòa hành chính và Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính có hiệu lực pháp luật đến nay:
Từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, nhu cầu của thực tiễn đòi hỏi phải
thiết lập hệ thống cơ quan tài phán hành chính độc lập để giải quyết các tranh chấp hành
chính bằng con đường tư pháp. Đáp ứng nhu cầu đó, các chuyên gia pháp lý đã tập
trung nghiên cứu và tiến hành khảo sát thực tế các mô hình tài phán hành chính cũng
như kinh nghiệm thực tiễn giải quyết khiếu kiện hành chính trên thế giới để đưa ra mô
hình phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (23/01/1995) đã quyết định về việc thành lập
Toà hành chính trong hệ thống Toà án nhân dân
Ngày 21/5/1996, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính (có hiệu lực từ ngày 01-7-1996) làm cơ sở cho hoạt động
xét xử các vụ án hành chính. Trong quá trình thực thi, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
vụ án hành chính, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã được sửa đổi, bổ sung hai lần vào năm
1998 và năm 2006.
Theo Pháp lệnh năm 1996 thì Toà án có thẩm quyền giải quyết 8 loại khiếu kiện
(Điều 11). Pháp lệnh sửa đổi năm 1998 đã bổ sung thêm 2 loại khiếu kiện và đến Pháp
lệnh năm 2006 thì số lượng các khiếu kiện đã được mở rộng lên tới 22 loại (Điều 11).
Qua những lần sửa đổi, bổ sung "thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các khiếu kiện
hành chính đã được mở rộng"
Theo Pháp Lệnh Số: 10/1998/PL-UBTVQH10 năm 1998 Toà án có thẩm quyền
giải quyết các vụ án hành chính sau đây:
1. Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính;
2. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp
buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác;
10
3. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi
hành biện pháp xử lý hành chính với một trong các hình thức: giáo dục tại xã, phường, thị
trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản
chế hành chính;
4. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức giữ chức vụ từ Vụ
trưởng và tương đương trở xuống;
5. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai;
6. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp giấy phép, thu
hồi giấy phép về xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh;
7. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc trưng dụng, trưng
mua, tịch thu tài sản;
8. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc thu thuế, truy thu
thuế;
9. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc thu phí, lệ phí;
10. Các khiếu kiện khác theo quy định của pháp luật."
Theo pháp lệnh của Ủy ban thường vụ quốc hội số 29/2006/PL-UBTVQH11 ngày
05 tháng 4 năm 2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính, tòa án có thẩm quyền giải quyết như sau:
1. Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính;
2. Khiếu kiện quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi
phạm hành chính;
3. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính;
4. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi
hành biện pháp xử lý hành chính bằng một trong các hình thức giáo dục tại xã, phường,
thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh;
quản chế hành chính;
5. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp
buộc tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác;
6. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp, thu hồi giấy
phép về xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh; giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và
chứng chỉ hành nghề hoặc khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính khác
liên quan đến hoạt động kinh doanh, tài chính của thương nhân;
7. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến thương mại hàng
hoá quốc tế hoặc trong nước;
8. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến chuyển giao tài
chính trong nước và quốc tế, dịch vụ và cung ứng dịch vụ;
11
9. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc trưng dụng, trưng
mua, tịch thu tài sản;
10. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng thuế, thu
thuế, truy thu thuế;
11. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng phí, thu
phí, lệ phí; thu tiền sử dụng đất;
12. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về sở
hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ;
13. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về đầu
tư;
14. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hải quan, công
chức hải quan;
15. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý hộ tịch;
16. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính đối với việc từ chối công
chứng, chứng thực;
17. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường
hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; gia hạn thời hạn sử dụng đất;
18. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân;
19. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức giữ chức vụ từ Vụ
trưởng và tương đương trở xuống;
20. Khiếu kiện quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng,
kỷ luật của Đoàn luật sư;
21. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;
22. Các khiếu kiện khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”
Luật TTHC 2010, tại Điều 28 quy định những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án:
1. Khiếu kiện quyết định hành chính (QĐHC), hành vi hành chính (HVHC), trừ các
QĐHC, HVHC thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh,
ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các quyết định, hành vi hành chính
mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
2. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân.
12
3. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng cục
trưởng và tương đương trở xuống.
4. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.
Như vậy, phạm vi thẩm quyền của Toà hành chính đã được làm rõ bằng việc loại
trừ khỏi đối tượng khởi kiện vụ án hành chính các "Quyết Định Hành Chính, Hành Vi
Hành Chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức" và các QĐHC, HVHC thuộc phạm
vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Theo quy định tại khoản 1
Điều 28 Luật TTHC thì những QĐHC, HVHC này không thuộc thẩm quyền giải quyết
của Toà hành chính.
1.2. Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính theo pháp luật hiện hành
1.2.1. Thẩm quyền theo loại việc
Theo điều 28 Luật Tố Tụng Hành Chính thì những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án bao gồm:
1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết định hành chính,
hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an
ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các quyết định hành chính,
hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
2. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân.
3. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục
trưởng và tương đương trở xuống.
4. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.
*Quyết định hành chính
Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ
chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định
về một vấn đề cụ thể trong hoạt động hành chính được áp đụng một lần đối với một hoặc
một số đối tượng cụ thể (khoản 1, điều 3, luật TTHC).
Điều này cho thấy quyết định hành chính mà Toà án có thẩm quyền giải quyết là
quyết định hành chính cá biệt do cơ quan hành chính nhà nước hoặc cá nhân có thẩm
quyền ban hành để giải quyết một vấn đề trong quản lý hành chính nhà nước và được thể
hiện dưới hình thức văn bản. Theo nghị quyết 02 của HĐTPTANDTC thì tên văn bản đó
không nhất thiết phải là quyết định mà nó có thể được biểu đạt dưới tên gọi khác như
công văn, thông báo, và một số tên gọi khác, trong đó thể hiện sự quyết định về một vấn
đề liên quan đến hoạt động khiếu kiện, đều có quyền khiếu kiện và thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án ngoại trừ các quyết định trong luật định.
*Hành vi hành chính
13
Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước,cơ quan, tổ chức,
khác hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực
hiện nhiệm vụ công vụ, theo pháp luật.
*Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.
Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh thuộc đối
tượng khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính là quyết định của Hội
đồng cạnh tranh và Bộ trưởng Bộ công thương khi giải quyết khiếu nại quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh được quy định tại mục 7 chương V của Luật cạnh tranh, bao gồm:
1. Quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng cạnh tranh đối với quyết định của Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh khi xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến hành vi hạn
chế cạnh tranh;
2. Quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng bộ công thương đối với quyết định của
Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh khi xử lý vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi
cạnh tranh không lành mạnh.
*Quyết định kỷ luật buộc thôi việc.
Quyết định kỷ luật buộc thôi việc là văn bản thể hiện dưới hình thước quyết định
của người đứng đầu cơ quan tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với
công chức thuộc quyền quản lý của mình.
Quyết định này phải được thể hiện dưới hình thức văn bản và hình thức kỷ luật phải
là buộc thôi việc, người bị áp lụng hình thức kỷ luật này phải là công chức giữ chức vụ từ
Tổng cục trưởng và tương đương trở xuống ( bởi vì đối với các chức danh trên Tổng cục
trưởng, như thứ trưởng và bộ trưởng do Thủ tướng bổ nhiệm, và do Quốc hội, cơ quan
quyền lực cao nhất giám sát).
*Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Khiếu kiện về danh sách cử tri tại Toà án nơi lập danh sách cử tri, lưu ý, Toà án chỉ
có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện đối với danh sách cử tri, không giải quyết các khiếu
kiện liên quan đến danh sách ứng viên.
1.2.2. Thẩm quyền theo cấp xét xử và theo lãnh thổ
*Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.
Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Toà
án cấp huyện) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:
1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước từ cấp
huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án hoặc của người có
thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó;
14
2. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức từ
cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án đối với công chức
thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó;
3. Khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân của cơ quan lập danh sách cử tri trên cùng phạm vi địa giới hành
chính với Toà án.
Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện của cá nhân tổ
chức mà người bị kiện trong vụ án là cơ quan nhà nước cấp huyện trở xuống, đồng thời
giải quyết khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử Đại biểu Quốc hội và danh sách cử tri
bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân.
*Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Toà
án cấp tỉnh) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:
1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán nhà
nước, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính,
hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi
cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án; trường
hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam
thì thẩm quyền giải quyết thuộc Toà án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định
hành chính, có hành vi hành chính;
2. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan thuộc một trong
các cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản này và quyết định hành chính, hành vi
hành chính của người có thẩm quyền trong các cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư
trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án; trường
hợp người khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam
thì thẩm quyền giải quyết thuộc Toà án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định
hành chính, có hành vi hành chính;
3. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh
trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án và của người có thẩm quyền trong cơ
quan nhà nước đó;
4. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan đại diện ngoại giao
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc của người có thẩm
quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú trên cùng phạm vi địa giới hành
chính với Toà án. Trường hợp người khởi kiện không có nơi cư trú tại Việt Nam, thì Toà
án có thẩm quyền là Toà án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Toà án nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh;
15
5. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp
tỉnh, bộ, ngành trung ương mà người khởi kiện có nơi làm việc khi bị kỷ luật trên cùng
phạm vi địa giới hành chính với Toà án;
6. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh mà
người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành
chính với Toà án;
7. Trong trường hợp cần thiết, Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết khiếu kiện
thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện. Các trường hợp Toà án tỉnh có thể lấy lên để
giải quyết bao gồm: Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban
nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện liên quan đến nhiều đối tượng,
phức tạp, khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án cấp huyện mà các Thẩm phán của Toà án cấp huyện đó đều thuộc
trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi, vụ án có đương sự hoặc tài
sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ quan đại diện ngoại giao của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc cơ quan có thẩm quyền của
nước ngoài.
1.2.3. Xác định thẩm quyền giữa Tòa án với Tòa án và giữa Tòa án với cơ quan
giải quyết khiếu nại.
*Xác định thẩm quyền giữa Toà án với Toà án
Theo khoản 2, điều 32 luật TTHC thì tranh chấp về thẩm quyền giữa các Toà án cấp
huyện trong cũng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Chánh án Toà án nhân
dân cấp tỉnh giải quyết.
Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Toà án cấp huyện
thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau hoặc giữa các Toà án cấp tỉnh
do Chánh án Toà án nhân dân tối cao giải quyết.
*Xác định thẩm quyền giữa Toà án nhân dân với cơ quan giải quyết khiếu nại.
(hình như là cơ quan NN mà, hỏi lại Linh)
Theo điều 5, Nghị quyết số 02/2011thì:
Trường hợp khởi kiện có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại thì thẩm quyền giải quyết theo sự lựa chọn của người khởi kiện.
1. Trường hợp người khởi kiện có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm
quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì Toà
án phải yêu cầu người khởi kiện làm văn bản lựa chọn cơ quan giải quyết; trường hợp
người khởi kiện không làm được văn bản lựa chọn thì Toà án phải lập biên bản về việc
người khởi kiện lựa chọn cơ quan giải quyết.
16
2. Trường hợp quyết định hành chính, hành vi hành chính chỉ có liên quan đến một người
mà người đó vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, đồng thời có đơn
khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì việc giải quyết theo sự lựa
chọn của người khởi kiện. Trường hợp người khởi kiện lựa chọn Toà án giải quyết thì
Toà án thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung, đồng thời thông báo cho người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại biết và yêu cầu chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho
Toà án (nếu có). Trường hợp người khởi kiện lựa chọn người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại giải quyết thì Toà án căn cứ vào điểm g khoản 1 Điều 109 của Luật TTHC
2010 trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo cho người khởi kiện. Nếu hết thời hạn
giải quyết khiếu nại mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng
người khiếu nại không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại và có đơn khởi kiện vụ án
hành chính thì Toà án xem xét để tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung.
3. Trường hợp quyết định hành chính, hành vi hành chính có liên quan đến nhiều người
thì phân biệt như sau:
a) Trường hợp chỉ có một người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm
quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, những
người khác còn lại không khởi kiện vụ án hành chính và cũng không khiếu nại đến người
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thẩm quyền giải quyết được thực hiện như trường
hợp được hướng dẫn tại khoản 2 Điều này;
b) Trường hợp có nhiều người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm
quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và tất cả
những người này đều lựa chọn một trong hai cơ quan có thẩm quyền giải quyết (Toà án
hoặc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại) thì thẩm quyền giải quyết được thực hiện
như trường hợp được hướng dẫn tại khoản 2 Điều này;
c) Trường hợp có nhiều người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm
quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, trong
đó có một hoặc một số người lựa chọn Toà án giải quyết và một hoặc một số người lựa
chọn người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại giải quyết hoặc trường hợp chỉ có một
hoặc một số người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, một hoặc một
số người khác chỉ khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì phân biệt
như sau:
Trường hợp quyền lợi, nghĩa vụ của người khởi kiện và người khiếu nại độc lập
với nhau thì việc giải quyết yêu cầu của người khởi kiện thuộc thẩm quyền của
Toà án, còn việc giải quyết khiếu nại của những người khiếu nại thuộc thẩm quyền
của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Trong trường hợp này, Toà án thụ
lý giải quyết đối với yêu cầu của người khởi kiện, đồng thời thông báo cho người
17
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại biết về việc Toà án đã thụ lý giải quyết đối với
yêu cầu của người khởi kiện;
Trường hợp quyền lợi, nghĩa vụ của người khởi kiện và người khiếu nại không
độc lập với nhau thì Toà án thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung, đồng thời
thông báo cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại biết và yêu cầu chuyển
toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Toà án (nếu có).
CHƯƠNG 2
Thực trạng về thẩm quyền và một số kiến nghị
2.1. Thực trạng về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính
2.1.1. Thực trạng quy định của pháp luật về thẩm quyền:
Qua thực tiễn tiếp nhận và giải quyết các khiếu kiện hành chính tại các TAND cho
thấy trong những năm qua các vụ khởi kiện VAHC không ngừng thay đổi, trong các
khiếu kiện thì tập trung nhiều nhất là khiếu kiện về đất đai. Và trong nhiều năm qua,
chúng ta có thể nhận thấy số lượng vụ án hành chính không những không tăng mà còn
giảm, chất lượng xét xử chưa cao, lượng đơn kiện gửi đến Tòa án rất lớn, bao gồm nhiều
lĩnh vực nhưng đa số là các vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, vụ
việc đã hết thời hiệu khởi kiện hoặc chưa đủ điều kiện khởi kiện, vụ việc hành chính tập
trung vào một số lĩnh vực nóng như đất đai, thuế, hải quan, xử phạt hành chính…
Luật TTHC 2010 được ban hành thay thế Pháp lệnh TTGQCVAHC theo hướng
ngày càng mở rộng thẩm quyền xét xử hành chính của TAND, cụ thể như sau: Điều 11
Pháp lệnh TTGQCVAHC quy định thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Thực tiễn cho thấy
Pháp lệnh TTGQCVAHC được sửa đổi bổ sung năm 2006 mặc dù có mở rộng hơn so với
trước đây, song chỉ mới quy định 22 loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
theo thủ tục TTHC trong khi các vụ việc hành chính thì rất đa dạng. Việc quy định theo
phương pháp liệt kê là không khoa học, rườm rà, dễ dẫn đến việc bỏ sót những loại việc
lẽ ra phải được giải quyết tại Tòa án.
Luật TTHC 2010 ra đời đã có những quy định mới về thẩm quyền giải quyết VAHC
của TAND. Theo Điều 28 Luật TTHC 2010 đã mở rộng những loại khiếu kiện thuộc
thẩm quyền giải quyết của TAND bao gồm: Quyết định hành chính, hành vi hành chính,
khiếu kiện về danh sánh cử tri, bầu cử đại biểu quốc hội, danh sách cử tri bầu cử hội đồng
nhân dân, khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ tổng cục
trưởng và tương đương trở xuống, khiếu kiện quyết định giải quyết về khiếu nại về quyết
định giải quyết vụ việc cạnh tranh. Đồng thời, điều 28 quy định theo hướng vừa loại trừ,
vừa liệt kê các kiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND. Việc quy
18
định theo phương pháp loại trừ sẽ tạo thuận lợi cho cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc
xác định quyền khởi kiện VAHC, bảo đảm sự công bằng cho người dân.
Như đã nêu ở phần 1.2. Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính theo pháp luật hiện
hành, cho thấy có những quy định chưa thật rõ ràng, cụ thể dẫn đến các tòa án có những
cách hiểu khác nhau, áp dụng không thống nhất. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến hạn
chế trong việc xét xử trong thực tiễn. Sau đây, chúng ta sẽ cùng nhau phân tích những
điểm hạn chế trong quy đinh của pháp luật hiện hành:
*Vấn đề xét xử thẩm quyền theo loại việc.
Theo quy định tại điều 28 luật tố tụng hành chính quy định về những khiếu kiện
thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án, cụ thể như sau:
1. Quyết định hành chính (QĐHC): một QĐHC để được xem là đối tượng khởi kiện trong
VAHC phải đảm bảo những điều kiện sau:
Xét về mặt hình thức: quyết định đó phải được thể hiện dưới dạng văn bản. Do việc quy
định về việc giải thích như trên đã dẫn đến những cách hiểu khác nhau, có ý kiến cho rằng
QĐHC phải là văn bản thể hiện dưới hình thức quyết định, các loại văn bản thể hiện dưới
hình thức khác như công văn, thông báo, kết luận thì không được coi là QĐHC và không
thuộc đối tượng khởi kiện VAHC, có ý khác lại cho rằng QĐHC bao gồm cả văn bản thể
hiện dưới hình thức quyết định, các loại văn bản thể hiện dưới hình thức khác…Chính vì
cách hiểu khác nhau như trên dẫn đến việc thi hành trên thực tế chưa thống nhất.
VD: Trong trường hợp khi cá nhân hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa ra
một quyết định trong quá trình quản lý nhưng không được thể hiện dưới dạng văn bản thì
QĐ đó đã không đáp ứng yêu cầu về mặt hình thức của quản lý hành chính và về nguyên
tắc thì đối tượng quản lý không phải thi hành QĐ đó. Trong trường hợp các nhân, tổ chức
muốn khởi kiện QĐ sai hình thức như vừa nêu thì cơ quan có thẩm quyền giải quết khiếu
nại và tòa án sẽ không thụ lý để giải quyết vì không đúng đối tượng có thể khởi kiện.
Thực ra về thể thức, QĐHC trong trường hợp trên vẫn mang bản chất của một quyết định,
chỉ có điều nó được ban hành sai thể thức mà thôi.
Vấn đề này làm ảnh hưởng đến hiệu lực điều chỉnh bởi pháp luật về quản lý hành
chính, nhưng liệu rằng có nên xem là hợp lý hay không khi mà QĐHC không thể bị khởi
kiện bởi nó được thể hiện không đúng thể thức.
Quyết định phải là QĐHC cá biệt:
Trong quá trình giải quyết VAHC, khi xác định loại việc là QĐHC có phải là đối
tượng trong VAHC hay không thì Toà án rất khó xác định. Theo quy định tạo Khoản 1
Điều 3 Luật TTHC chỉ có QĐHC cá biệt mới là đối tượng khởi kiện VAHC, nhưng hiểu
thế nào là QĐHC cá biệt cũng không đơn giản. Về vấn đề này hiện nay vẫn chưa được
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn áp dụng đặc biệt là trong Luật TTHC
2010 cũng chưa có quy định cụ thể, nên trong quá trình giải quyết, thụ lý Tòa án rất khó
19
phân biệt và xác định được quyết định nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, dẫn
đến xác định sai thẩm quyền thụ lý của Tòa án theo thủ tục TTHC.
QĐHC đó có thể là QĐHC được ban hành lần đầu tiên để xử lý một vụ việc cụ thể
trong hoat động quản lý hành chính hoặc có thể là QĐHC được ban hành sau khi có khiếu
nại và có nội dung sửa đổi, bổ sung , thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ QĐHC được
ban hành trước đó.
QĐHC không thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong lĩnh vưc quốc phòng, an ninh,
ngoại giao theo danh mục do chính phủ quy định và mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
Luật TTHC 2010 có quy định các QĐHC, HVHC thuộc phạm vi bí mật nhà nước
trong lĩnh vưc quốc phòng, an ninh, ngoại giao sẽ do Chính phủ ban hành theo danh mục.
Tuy nhiên từ khi Luật TTHC 2010 có hiệu lực đến nay Chính phủ vẫn chưa ban hành
danh mục các QĐHC, HVHC thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong lĩnh vưc quốc phòng,
an ninh, ngoại giao mà không thuộc thẩm qyền xét xử của TAND theo thủ tục TTHC
nên gây khó khăn trong việc thụ lý giải quyết tranh chấp hành chính. Chính vì vậy mà
việc xác định các QĐHC, HVHC nào mang tính nội bộ cơ quan cũng rất khó xác định.
2. Hành vi hành chính (HVHC): Theo giải thích của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì
“hành vi hành chính là đối tượng khiếu kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết VAHC bao
gồm các hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong
cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo
trong các lĩnh vực được quy định tại các khoản 3 đến khoản 17 Điều 11 của pháp lệnh”.
Như vậy, nếu trong các lĩnh vực còn lại của điều 11 pháp lệnh TTGQCVAHC phải chăng
không có hành vi hành chính? Nếu có thì vì lý do gì mà không được phép khiếu kiện?
Cách quy định trên vừa hạn chế quyền được tiếp cận Tòa án vủa cá nhân, tổ chức vừa
khó vận dụng.
3. Khiếu kiện về danh sánh cử tri, bầu cử đại biểu quốc hội, danh sách cử tri bầu cử hội
đồng nhân dân.
Luật TTHC quy định Toàn án có thẩm quyền giải quyết đối với khiếu kiện về danh
sánh cử tri, bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử hội đồng nhân dân là chưa
phù hợp với thực tiễn hiện nay. Theo khoản1 điều 28 Luật TTHC 2010 quy định khiếu
kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án: “Khiếu kiện về danh sánh cử tri, bầu cử đại
biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử Hội đồng nhân dân”. Như vậy người dân chỉ
được khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử Hội đồng nhân dân
tức là khiếu kiện về việc có hay không có tên trong danh sách cử tri tham gia bầu cử mà
không có quyền khởi kiện liên quan đến tư cách hay kết quả bầu cử.
20
4. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng cục
trưởng và tương đương trở xuống.
Về vấn đề này còn nhiều bất cập xảy ra trong thực tiễn. Khiếu kiện về kỷ luật cán bộ
là một trong những vấn đề bức xúc trong các loại khiếu kiện, vì vấn đề này trực tiếp tác
động đến quyền và lợi ích của công dân, ảnh hưởng đến đời sống của họ. Đây là một khía
cạnh nhạy cảm và phức tạp nhất trong các VAHC.
Như vậy, xét về đối tượng kỷ luật trong trường hợp này có hai vấn đề đặt ra:
Thứ nhất, người bị kỷ luật buộc thôi việc có thể khiếu kiện chỉ là cán bộ, công chức
giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống. Cán bộ giữ chức vụ cao hơn Vụ
trưởng có thể sẽ không bị kỷ luật buộc thôi việc và giả sử rằng những người này bị kỷ
luật buộc thôi việc thì quyết định kỷ luật họ do Thủ tướng Chính phủ quyết định, mà
quyết định của Thủ tướng sẽ do Quốc hội giám sát nên không thuộc đối tượng khởi kiện.
Thứ hai, những người làm việc trong các tổ chức chính trị (ví dụ như nhân viên văn
phòng quận ủy, tỉnh ủy…) có thuộc phạm vi điều chỉnh của trường hợp này hay không
cũng là một vấn đề cần được xác định rõ?
Ngoài cán bộ, đối với công chức và viên chức trong đơn vị sự ngoài nghiệp công
lập thì chỉ có công chức mới có quyền khởi kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc theo
thủ tục TTHC, còn viên chức thì không có quyền khởi kiện, cũng như Tòa án không có
thẩm quyền thụ lý theo thủ tục TTHC.
Hơn nữa, đối với những người cũng giữ một chức vụ trong cơ quan nhà nước khi họ
bị kỷ luật buộc thôi việc có người khởi kiện được có người lại không khởi kiện được.
VD: Đối với chức danh Trưởng công an cấp xã là các sỹ quan khi họ bị buộc thôi
việc thì không được khởi kiện vì theo quy định tại khoản 2 điều 4 Luật Cán bộ, công
chức họ không phải là công chức. Tuy nhiên đối với chức danh Trưởng công an cấp
không phải là sỹ quan mà là công chức cấp xã theo quy định tại điều 63 Luật Cán bộ,
công chức thì lại được quyền khởi kiện.
Thực tiễn thực hiện thẩm quyền xử hành chính của TAND đối với khiếu kiện quyết
định kỷ luật buộc thôi việc công chức đã tạo ra sự không công bằng và bình đẳng trong
lao động, điều đó làm cho quyền và lợi ích chính đáng của công dân không được đảm
bảo.
5. Khiếu kiện quyết định giải quyết về khiếu nại về quyết định giải quyết vụ việc cạnh
tranh.
Cách xác định khiếu kiện trong vụ việc cạnh tranh thủ tục TTHC còn nhiều bất cập,
khoản 4 điều 28 Luật TTHC 2010 quy định khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án: “Khiếu kiện quyết định giải quyết về khiếu nại về quyết định giải quyết vụ việc
cạnh tranh” dẫn đến không xác định đúng bản chất của việc tranh chấp trong VAHC ở lý
21
do và mục đích khởi kiện cũng như đối tượng xem xét, đánh giá quyết định cuả Tòa án
khi giải quyết vụ án.
Tóm lại, pháp luật quy định 5 loại việc khiếu kiện nhưng trên thực tế người dân có
thể khiếu kiện hàng trăm loại việc khác nhau. Thẩm quyền theo loại việc có phạm vi rất
rộng, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện trên tất cả các lĩnh vực, trừ hai trường
hợp ngoại lệ (thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh,
ngoại giao theo danh mục do chính phủ quy định và mang tính nội bộ của cơ quan, tổ
chức).
*Thẩm quyền theo các cấp Tòa án và theo lãnh thổ
Thẩm quyền theo các cấp Tòa án và theo lãnh thổ được quy định tại Điều 29 và
Điều 30 Luật TTHC năm 2010. Việc quy định lại thẩm quyền theo cấp tòa án và theo
lãnh thổ phần nào đã giải quyết được những bất cập trong các pháp lệnh thủ tục TTHC
trước đó. Tuy nhiên, nó vẫn còn những hạn chế nhất định.
Về thực trạng thẩm quyền theo các cấp Tòa án:
Mô hình tổ chức Tòa án nhân dân theo đơn vị Hành chính như hiện hành có nhiều bất
cập trong việc xét xử. Tòa án cấp nào thì xét xử các QĐHC và HVHC có vi phạm của cơ
quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước ở cấp đó. Tòa án nhân
dân và Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, những người có thẩm quyền ban hành
các QĐHC, HVHC có mối quan hệ nhất định. Mối quan hệ đó sẽ tác động phần nào đến tính
độc lập của Tòa án, nó ảnh hưởng không chỉ đến kết quả của vụ án mà còn ảnh hưởng đến cả
quá trình xem xét, thụ lý, giải quyết vụ án. Điều này làm cho quyền lợi của người khởi kiện
bị xâm hại.
Thẩm quyền xét xử vụ án vừa theo lãnh thổ vừa theo vụ việc cho nên Tòa án cấp huyện
xét xử sơ thẩm, Tòa án cấp trên đều xét xử hỗn hợp vừa xét xử phúc thẩm vừa xét xử Giám
đốc thẩm (TANDTC) hoặc có cả ba thẩm quyền xét xử (sơ thẩm, Phúc thẩm, Giám đốc
thẩm). Vì vậy nó không thể hiện đúng tính chất, hoạt động, vai trò, vị trí của mỗi cấp quy
định trong hệ thống Tòa án.
Thẩm quyền xét xử Tòa án cấp huyện không đảm bảo tính độc lập, không phát huy tối
đa vai trò của mình. Theo Điều 29 Luật TTHC 2010 quy định: “Tòa án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Tòa án cấp huyện) giải quyết theo
thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:
1. Khiếu kiện QĐHC, HVHC của cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng
phạm vi địa giới hành chính với Tòa án hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà
nước đó.
2. Khiếu kiện quyêt định buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức từ cấp
huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án đối với công chức thuộc
quản lý của cơ quan, tổ chức đó;
22
3. Khiếu nại về danh sách cử tri bầu cử đai biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử Hội
đồng nhân dân của cơ quan lập danh sách cử tri trên cùng phạm vi địa giới hành chính với
Tòa án.”
Thực tiễn quy định của Điều 29 Luật TTHC 2010 cho thấy thẩm quyền Tòa án cấp
huyện trong xét xử các khiếu kiện đối với hoạt động quản lý hành chính do các cơ quan
hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước trên cùng
lãnh thổ thực hiện là một thách thức khó vượt qua của tòa án
Bên cạnh đó có điều thiếu hợp lý về quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa
án cấp tỉnh với tòa án cấp huyện làm cho vai trò của Tòa án cấp huyện bị lu mờ. Tòa án
cấp tỉnh vừa thực hiện chức năng xét xử theo thủ tục phúc thẩm đối với các vụ án quyết
định sơ thẩm của tòa án cấp huyện chưa có hiêu lực; vừa phải thực hiện chức năng Giám
đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án của tòa án cấp huyện đã có hiệu lực đã kháng nghị.
Như vậy, Tòa án cấp tỉnh đồng thời phải thực hiện chức năng xét xử theo thủ tục sơ thẩm
với phạm vi rộng, cả về phạm vi thẩm quyền và phạm vi lãnh thổ tài phán. Ngoài ra, Tòa
án cấp tỉnh có thể lấy những vụ án của cấp huyện trong những trường hợp vụ án phức tạp
lên để giải quyết. Tòa án cấp huyện trong hệ thống Tòa án không được xem trọng, thiết
lập nhằm giải quyết vụ án đơn giản.
Thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án cấp tỉnh quy định tại điều 30 Luật tố
tụng hành chính hơi quá tầm. Các QĐHC, HVHC của cơ quan, người có thẩm quyền
trong cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương sẽ do Tòa án cấp tỉnh với cùng nơi
người khởi kiện cư trú, làm việc hoặc có trụ sở giải quyết. Việc Tòa án cấp dưới giải
quyết các tranh chấp liên quan đến cơ quan, người có thẩm quyền cấp trên mà đặc biệt
cấp trung ương nên gặp nhiều khó khăn với công tác chuyên môn, nghiệp vụ giải quyết
tranh chấp. Tòa án cấp tỉnh sẽ không đủ chuyên môn giải quyết vụ án lớn đối với những
người có địa vị cao trong cơ quan hành chính nhà nước. Bên cạnh đó quan hệ cấp trên và
cấp dưới có khi sẽ dẫn đến không công bằng trong, không đúng trong xét xử.
VD: Chánh thanh tra ủy ban chứng khoán nhà nước đã ra quyết định xử phạt công ty
cổ phần V có trụ sở tại quận 1 Tp. Hồ Chí Minh về hành vi phân phối chứng khoán
không đúng quy định với mức tiền phạt là 70.000.000 đồng. Không đồng ý, công ty V đã
khởi kiện. Văn bản chứng khoán có trụ sở tại Hà Nội. Tòa án có thẩm quyền là Tòa án
nhan dân TP. Hồ Chí Minh.
Như vậy, từ ví dụ trên có thể thấy những khó khăn của Tòa án cấp tỉnh khi giải
quyết các QĐHC, HVHC của cở quan, người có thẩm quyền cấp Trung ương dẫn đến
quyền khởi kiện không được đảm bảo thực hiện, thẩm quyền của Tòa án không được
thực thi một cách triệt để, đúng với tinh thần pháp luật.
Về thực trạng thẩm quyền xét xử của Tòa án theo cấp lãnh thổ
23
Việc xác định thẩm quyền quy định tại Điều 12 PLTTCVAHC năm 2006, vấn đề đặt ra
lại là cách hiểu thuật ngữ không thống nhất, đó là thuật ngữ “trên cùng lãnh thổ”. Có ý kiến
cho rằng “trên cùng lãnh thổ” tức là Tòa án thụ lý đơn kiện đóng trụ sở cùng địa bàn với nơi
cư trú của người khởi kiện. Có quan điểm khác hiểu là Tòa án và cơ quan ban hành QĐHC,
HVHC đóng trụ sở cùng với người khởi kiện. Cách hiểu trên đã gây nhiều trở ngại cho việc
xét xử. Vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp lãnh thổ nào?
Pháp lệnh TTCVAHC còn bỏ xót đói với các cá nhân nước ngoài (không có nơi cư trú
tại Việt Nam), tổ chức nước ngoài (không có trụ sở tại Việt Nam) khi khởi kiện các QĐHC,
HVHC của Bộ, Cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ... thì Tòa án nào có thẩm
quyền giải quyết, Pháp lệnh chưa có quy định. Tuy nhiên, với số lượng giải quyết vụ án hành
chính cấp huyện, cấp tỉnh thì câu hỏi đặt ra là nếu một năm cả nước chỉ xét xử sơ thẩm có
trên dưới 1000 vụ án hành chính thì có cần để tất cả các Tòa án cấp tỉnh đều có thẩm quyền
xét xử vụ án hành chính không? Có nhất thiết các Tòa án cấp huyện đều có thẩm quyền giải
quyết các vụ án hành chính không? Bởi lẽ, một số Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện cả
một năm không hề xét xử vụ án hành chính nào, như thế thì chẳng bao giờ co những thẩm
phán giỏi vì họ không có cơ hội giải quyết các vụ án hành chính thì dĩ nhiên sẽ khó có nhiều
kiến thức về quyết định quản lý hành chính nhà nước.
Trong luật tố tụng hành chính năm 2010, khiếu kiện hành chính trong quan đội đã được
mở rộng hơn trước. Tuy nhiên, điều 29, điều 30 không phù hợp với hệ thống cơ quan Quân
đội. Luật không quy định thẩm quyền giải quyết theo lãnh thổ hành chính đối với khiếu kiện
hành chính của cơ quan, đơn vị Quân đội không tổ chức theo lãnh thổ hành chính. Vì vậy,
việc thực thi quyết định này trên thực tế còn nhiều vướng mắc, bất cập, rất khó xác định
thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với QĐHC, HVHC của cơ quan, đơn vị Quân đội. Ví
dụ: Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính của hải đội trưởng, hải đội
cảnh sát biển, đội trưởng nghiệp vụ cảnh sát biển.... Việc không giao cho Tòa án Quân sự
thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính là một hạn chế. Do Tòa án Quân sự không có
thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính nên hiện nay các cá nhân, tổ chức (trong và
ngoài Quân đội) muốn khởi kiện vụ án hành chính đối với những QĐHC, HVHC của cơ
quan, đơn vị Quân đội hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, đơn vị Quân đội thì chỉ có
một lựa chọn duy nhất là khởi kiện ra Tòa án nhân dân. Do đó theo lý luận thì TANDTC Hà
Nội mới có thẩm quyền giải quyết các QĐHC, HVHC của Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham
mưu, Tổng cục chính trị Quân đội, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.... Xét về mặt pháp luật đây là
một kẻ hở của pháp luật hiện hành gây khó khăn, phức tạp trong thực tiễn giải quyết khiếu
kiện hành chính và khởi kiện vị án hành chính trong Quân đội. Vì vậy, nên chăng cần giao
thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính cho Tòa án Quân Sự.
*Thực trạng giải quết tranh chấp về thẩm quyền.
Tranh chấp về thẩm quyền hành chính giữa các TAND và CQNN:
24
Trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại, tại TAND có thẩm quyền,vừa có đơn khiếu
nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thẩm quyền giải quyết tùy theo từng
trường hợp thì thuộc thẩm quyền của Tòa án hoặc của người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại lần hai. Việc quyết định trao quyền giải quyết cho Toàn án hay cơ quan cấp
trên là không hợp lí, trong trường hợp thẩm quyền giải quyết thuộc về TAND các cấp thì
khi không đồng ý với kết quả giải quyết của Tòa án, đương sự sẽ không có quyền khởi
kiện với CQ hành chính có thẩm quyền. Nếu thẩm quyền thuộc về CQ, người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại thì nếu người khởi kiện không đồng ý với quyết định giải
quyết khiếu nại của CQNN cso thẩm quyền thì họ có quyền khởi kiện ra Tòa án. Trong
khi người khiếu nại thì tự quyết định việc khiếu nại lần hai hay khởi kiện VAHC thì nhà
làm luật lại chọn thay cho họ, quy định như vậy đã gây khó khăn cho Tòa án trong việc
thụ lý vì không biết vụ việc đó có thuộc thẩm quyền giải quyết cảu mình hay không? Hơn
nữa là hạn chế quyền khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Người đi khởi kiện khó
xác định Tòa án hay cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết vụ án, dẫn đến tình trạng đùn
đẩy trách nhiệm giải quyết.
Thực trạng pháp luật về thẩm quyền giữa Tòa án và các cơ quan hành chính nhà nước,
Tòa án với nhau trong việc tranh chấp thẩm quyền xét xử VAHC
Ngoài loại việc giải quyết theo các loại việc, theo các cấp Tòa án và lãnh thổ thì luật Tố
tụng hành chính năm 2010 đã có quy định quan trọng về thẩm quyền giữa Tòa án với cơ
quan nhà nước trong việc tranh chấp thẩm quyền xét xử VAHC.
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp giữa các Tòa án với nhau. Các quy định của luât Tố
tụng hành chính vẫn xảy ra tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các
Tòa án như việc tranh chấp vụ án giữa Tòa án này với Tòa án khác trên cùng một lãnh thổ,
tranh chấp vụ án giữa Tòa án này với Tòa án khác khác địa giới hành chính, tranh chấp thẩm
quyền xét xử giữa Tòa án cấp trên và Tòa án cấp dưới. Việc tranh chấp về thẩm quyền là một
hoạt động mang tính chất chuyên môn, nghiệp vụ liên quan đến việc phân định thẩm quyền
theo cấp và theo lãnh thổ. Vì vậy phương án phân định thẩm quyền cần được nghiên cứu,
hoàn thiện hơn nữa, tránh trường hợp phân tranh thẩm quyền dẫn tới sự chậm trễ trong việc
giải quyết vụ án gây thiệt thòi cho đương sự.
2.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính
Như đã trình bày ở phần trên, thực trạng quy định của pháp luật về thẩm quyền giải
quyết các vụ án hành chính của tòa án nhân dân đã được quy định cụ thể rõ ràng hơn,
đem lại những hiệu quả nhất định, tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề hạn chế trong việc áp
dụng pháp luật. Thẩm quyền giải quyết các cơ chế khiếu kiện hành chính còn mang tính
hình thức, kém hiệu quả, Tòa án vẫn chưa thể hiện hết vai trò của mình.
25