Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

phát triển thẻ tín dụng quốc tế tại ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam chi nhánh đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.56 KB, 95 trang )

1

Chương 1

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN
THẺ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1 TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm Ngân hàng thương mại
Trong một nền kinh tế hàng hóa, tại một thời điểm nhất định luôn tồn tại một
thực tế là có những người tạm thời đang có một số tiền nhàn rỗi, trong khi đó có
những người đang rất cần khối lượng tiền như vậy (để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
hay những cuộc đầu tư có hiệu quả) và họ có thể trả một khoản chi phí để có quyền
sử dụng số tiền này. Theo quy luật cung - cầu, họ sẽ gặp nhau và khi đó tất cả
(người cho vay, người đi vay, và cả xã hội) đều có lợi, sản xuất lưu thông được phát
triển và đời sống được cải thiện. Cách thức gặp nhau rất đa dạng, và theo đà phát
triển ngân hàng thương mại ra đời như một tất yếu và là một cách thức quan trọng,
phổ biến nhất.
Thông qua các ngân hàng, những người có tiền có thể dễ dàng có được một
khoản lợi tức còn người cần tiền có thể có được số tiền cần thiết với mức chi phí
hợp lý.
Có thể nói các ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính ngân hàng nói chung
đang ngày càng chiếm một vị trí quan trọng và vô cùng nhạy cảm trong nền kinh tế,
liên quan tới hoạt động của đời sống kinh tế xã hội.
Ngày càng có nhiều người quan tâm tới hoạt động của ngân hàng, vậy thực ra
ngân hàng là gì. Theo pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của Hội đồng Nhà nước
Việt Nam xác định: “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt
động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn
trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương
tiện thanh toán”.
2



Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, với
nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán.
1.1.2 Chức năng hoạt động của Ngân hàng thương mại
Do nhu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường, các ngân hàng không ngừng
tăng cường mở rộng các danh mục các sản phẩm ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu
ngày càng đa dạng của khách hàng, sử dụng nguồn vốn có hiệu quả và thu lợi nhuận
cao. Tuy nhiên, về cơ bản chúng ta có thể sắp xếp các hoạt động đó vào một trong
ba nhóm sau:
- Hoạt động huy động tiền gửi.
- Hoạt động tín dụng.
- Hoạt động cung cấp các dịch vụ.
* Huy động tiền gửi:
Ngân hàng tập trung huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế quốc dân. Bên
cạnh đó, khi cần vốn cho nhu cầu thanh khoản hay đầu tư cho vay, các Ngân hàng
thương mại có thể đi vay từ các tổ chức tín dụng khác, từ các công ty khác, các tổ
chức tài chính trên thị trường tài chính.
Trong quá trình thu hút nguồn vốn Ngân hàng phải bỏ ra những chi phí giao
dịch, chi phí trả lãi tiền gửi, trả lãi Ngân hàng vay và các khoản chi phí khác có liên
quan. Những khoản chi này đòi hỏi Ngân hàng phải sử dụng những đồng vốn huy
động được có hiệu quả để có thể bù đắp các khoản chi phí và đem lại lợi nhuận cho
Ngân hàng.
* Hoạt động tín dụng
- Cho vay
+ Cho vay thương mại: Ngay thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương
phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản
phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó bước chuyển tiếp từ chiết khấu
thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua), giúp họ
có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.

3

+ Cho vay tiêu dùng: Trong giai đoạn đầu, các ngân hàng không tích cực cho
vay đối với cá nhân và hộ gia đình do tính rủi ro cao. Sự gia tăng thu nhập của
người tiêu dùng và sự cạnh tranh đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu
dùng như một khách hàng tiềm năng. Sau thế chiến thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã
trở thành loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất tại các nước có nền kinh tế phát
triển.
+ Tài trợ cho dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các
ngân hàng cũng ngày càng quan tâm vào việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc
biệt là tài trợ trong các ngành công nghệ cao. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu
tư vào bất động sản. Tất nhiên, loại hình tín dụng này rủi ro tương đối cao.
Các khoản cho vay, nơi tiềm ẩn những rủi ro hơn cả, luôn chiếm phần lớn
trong tổng tài sản của Ngân hàng. Nếu không được kiểm soát chặt chẽ các khoản
vay rất dễ bị thất bại, trực tiếp ảnh hưởng tới lợi nhuận, thậm chí đe doạ sự tồn tại
của ngân hàng khi những nhu cầu rút tiền gửi của khách hàng không được đáp ứng.
Vậy thì, cho ai vay như thế nào, quản lý việc sử dụng tiền vay, tiến hành thu nợ gốc
và lãi ra sao là những vấn đề mà ngân hàng phải giải quyết trước và trong quá
trình cho vay, nhằm có được những khoản cho vay an toàn và hiệu quả. Chính vì
thế, giai đoạn xem xét trước khi cho vay, xem xét người vay tiền và việc sử dụng
tiền vay mà người ta gọi là thẩm định tín dụng luôn chiếm vị trí quyết định.
- Đầu tư
Hoạt động đầu tư chủ yếu của Ngân hàng trên thị trường tài chính thông qua
việc mua bán các chứng khoán: công trái và tín phiếu. Thu nhập của Ngân hàng từ
hoạt động này là khoản chênh lệch giữa giá bán và giá mua. Ngoài ra, Ngân hàng
còn hùn vốn liên doanh với các doanh nghiệp, trong quá trình đó Ngân hàng sẽ
được chia lợi nhuận từ hoạt động này.
* Hoạt động cung cấp các dịch vụ
Tận dụng vị trí uy tín, chuyên môn của mình là một trung gian tài chính có
nhiều quan hệ với khách hàng, có khả năng tiếp cận với nhiều nguồn thông tin, các

ngân hàng ngày nay cung cấp rất nhiều các dịch vụ khác nhau từ dịch vụ thanh toán,
4

bảo lãnh, làm đại lý cho đến việc lập két giữ tiền, của cải phục vụ cho khách hàng.
Các dịch vụ này có thể hoàn toàn độc lập hoặc có thể liên quan hỗ trợ cho các hoạt
động huy động vốn, hoạt động tín dụng ( đặc biệt là hoạt động thanh toán) nhưng
chúng đều đem lại thu nhập cho ngân hàng dưới dạng phí dịch vụ. Đối với hầu hết
các ngân hàng, thu nhập từ việc cung cấp các dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng thu nhập.
1.2 TỔNG QUAN VỀ THẺ TÍN DỤNG QUỐC TẾ
Một trong những phát minh quan trọng nhất của con người có tính chất đột
phá, đẩy nền văn minh của nhân loại tiến một bước dài là sự phát minh ra tiền tệ. Từ
khi ra đời, công cụ tiền tệ không ngừng được hoàn thiện nhằm hai mục tiêu chính là
sự tiện lợi và an toàn. Bằng kĩ thuật và phát triển như vũ bão của công nghệ thông
tin, thẻ tín dụng chính là sản phẩm của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật. Thẻ tín
dụng không những đáp ứng được hai mục tiêu trên mà còn thể hiện được sự văn
minh, hiện đại của xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá như hiện nay.
1.2.1 Quá trình hình thành và phát triển
Nhiều người trong chúng ta hẳn cũng đã gặp phải những tình huống khó xử
khi trong người không có tiền mặt. Chiếc thẻ đầu tiên đánh dấu cuộc cách mạng về
thẻ tín dụng ra đời từ một tình huống tương tự. Đó là buổi tối năm 1949, sau khi ăn
tối ở một nhà hàng, ông Frank MC Namara một doanh nhân người Mỹ bỗng phát
hiện ra mình không mang theo tiền mặt và ông buộc phải gọi điện về nhà để người
nhà mang đến thanh toán. Tình thế khó xử lần đó khiến ông nảy ra ý tưởng về một
hình thức thanh toán gọn nhẹ mà không cần mang theo tiền mặt bên cạnh và ông đã
mày mò sáng tạo ra một phương tiện không dùng tiền mặt trong những trường hợp
tương tự. Thế là lần đầu tiên MC Namara đã cho ra đời loại thẻ mang tên “Diners
Club”. Với lệ phí hằng năm là 5 USD, những người mang thẻ “Diners Club” có thể
ghi nợ khi ăn ở 27 nhà hàng nằm trong hoặc ven thành phố New York.
Xuất phát từ một ý tưởng trong tình huống khó xử, nhưng với những tiện ích

đi kèm, thẻ tín dụng đã nhanh chóng chinh phục được khách hàng. Đến năm 1951
hơn 1 triệu dollars được tính nợ và số lượng thẻ ngày càng tăng lên, công ty phát
5

hành thẻ “Diners Club” nhanh chóng thu lãi. Tiếp nối thành công của thẻ “Diners
Club” năm 1955 hàng loạt thẻ mới ra đời như: Trip Charge, GoldenKey, Gourment
Club, Esquire Club. Đến năm 1958 Carte Blanche và American Expree ra đời và
thống lĩnh thị trường. Và hiện nay tổ chức thẻ Amex (American Express) đang là tổ
chức thẻ du lịch giải trí (Travel & Entertianment – T&E) lớn nhất thế giới. Tổng số
thẻ phát hành gấp 5 lần Diners Club và gấp 2 lần JCB. Năm 1990 tổng doanh thu
của thẻ Amex là 111,5 triệu USD với số lượng 35,4 triệu thẻ lưu hành, nhưng chỉ 3
năm sau đó vào năm 1993 tổng doanh thu đã tăng lên 124 tỷ USD với 36,5 triệu thẻ
lưu hành, tại 36 triệu cơ sở chấp nhận thẻ. Khác với loại thẻ khác tổ chức thẻ Amex
tự phát hành và trực tiếp quản lý chủ thẻ. Qua đó nắm bắt được thông tin cần thiết
về khách hàng để đưa ra các chương trình phát triển như phân loại khách hàng để
cung cấp dịch vụ.
Visa tiền thân là Bank Americard do Bank of American phát hành vào năm
1960 khi các Ngân hàng nhận thấy rằng phần lớn thẻ lúc bấy giờ chỉ dành cho giới
doanh nhân giàu có trong khi đó những người có thu nhập trung bình khá trong xã
hội mới là đối tượng sử dụng thẻ chủ yếu cho thị trường tương lai. Ngày nay Visa
Card là loại thẻ có quy mô phát triển lớn nhất toàn cầu. Tính đến năm 1990 tổng
doanh thu là 345 tỷ USD với 257 triệu thẻ lưu hành, nhưng đến năm 1993 tổng
doanh thu đã đạt 542 tỷ USD. Hệ thống rút tiền tự động củaVisa có khoảng 164.000
máy ATM ở 65 nước trên thế giới. Visa không trực tiếp phát hành mà giao cho nhân
viên, chính vì thế giúp Visa mở rộng được thị trường hơn so với các loại khác.
JCB xuất phát từ Nhật Bản và ra đời vào năm 1961 bởi Ngân hàng Sanwa.
Mục tiêu là hướng vào thị trường du lịch và giải trí, hiện nay JCB là loại thẻ cạnh
tranh với Amex và người nhật đã chứng tỏ công nghệ thẻ không phải là độc quyền
tuyệt đối của các tổ chức Mỹ. Điều đó được thể hiện qua số liệu sau: năm 1990 tổng
doanh thu đạt 16,5 tỷ USD với 17 triệu thẻ lưu hành và năm 1993 doanh số đã tăng

lên 38,1 tỷ USD với 27,5 triệu thẻ được chấp nhận ở 400.000 nơi, tiêu thụ trên 109
quốc gia.
6

Masters Casd ra đời vào năm 1966 với tên gọi ban đầu là Master Charge do
hiệp hội Ngân hàng gọi tắt là ICA (Interbank Card Assciation) phát hành thông qua
các thành viên trên thế giới. Năm 1993 tổng doanh thu là 320,6 USD với 215 triệu
thẻ được chấp nhận ở 220 quốc gia, có hệ thống ATM lớn nhất thế giới tại 9 triệu
điểm chấp nhận thẻ.
Chính sự phát triển của hệ thống NHTM, những ứng dụng của cuộc cách
mạng thông tin trong lĩnh vực Ngân hàng đã góp phần tạo ra những sản phẩm dịch
vụ nhằm mục tiêu phục vụ lợi ích khách hàng mà một trong những sản phẩm dịch
vụ đó là thẻ với các tên gọi khác nhau: Thẻ séc, thẻ rút tiền mặt, thẻ ghi nợ, thẻ tín
dụng… Với lợi thế về vốn, chuyên môn trong nghiệp vụ thẩm định, cơ sở hạ tầng
sẵn có phục vụ cho hoạt động phát hành và thanh toán thẻ. Chính vì thế ngày nay
thanh toán bằng thẻ đã trở thành vấn đề hết sức phổ biến, lợi nhuận thu được từ hoạt
động kinh doanh thẻ và các sản phẩm dịch vụ khác đã chiếm 2/3 tổng lợi nhuận
hoạt động của NH. Sự phát triển của thẻ gắn liền với sự ổn định và tăng trưởng của
nền kinh tế toàn cầu.
Hiện nay thẻ tín dụng được xem như một công cụ thanh toán hiện đại, văn
minh thuận tiện đặc biệt là ở các nước phát triển. Sự phát triển không ngừng của
khoa học công nghệ đã liên tục cải tiến và hoàn thiện hơn tính năng của thẻ tín
dụng, giúp cho thẻ tín dụng trở thành phương thức thanh toán nhanh gọn, chính xác,
an toàn, tiện lợi.
1.2.2 Lịch sử phát triển thẻ tín dụng tại Việt Nam
Việc chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa đã thúc
đẩy mạnh mẽ các loại hình dịch vụ mới trong hoạt động ngân hàng, đáp ứng yêu
cầu về tài chính ngân hàng cho mọi thành phần xã hội. Kinh nghiệm cho thấy, kinh
tế xã hội càng phát triển, tỷ lệ thanh toán dùng tiền mặt sẽ giảm và tỷ lệ sử dụng các

công cụ thanh toán phi tiền mặt, trong đó có thẻ thanh toán ngày càng tăng lên.
Ở Việt Nam, ngay từ những năm đầu đổi mới hoạt động ngân hàng và thực
hiện hai pháp lệnh ngân hàng, các ngân hàng trong nước đã tiếp cận với các nghiệp
7

vụ về thẻ thanh toán. Năm 1990, Ngân hàng Ngoại thương Việt nam là ngân hàng
đầu tiên của nước ta triển khai nghiệp vụ thanh toán thẻ. Tuy vậy vào thời điểm đó,
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chưa phải là thành viên chính thức của một Tổ
chức thẻ Quốc tế mà mới chỉ làm đại lý thanh toán thẻ cho các đối tác nước ngoài.
Cũng vào thời kỳ này, các Tổ chức thẻ Quốc tế bắt đầu chú ý đến thị trường
Việt Nam đầy tiềm năng với hơn 70 triệu dân. Từ 1990 - 1996, mức tăng trưởng
doanh số thanh toán thẻ ở Việt Nam rất lớn, trung bình khoảng 200%/ năm. Đến
1995, sau khi Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận thì nhiều ngân hàng trong nước và nước
ngoài có chi nhánh tại Việt nam đã bắt đầu quan tâm đến loại hình dịch vụ mới mẻ
này. Thị trường thanh toán thẻ ở Việt Nam sôi động hẳn lên, Ngân hàng Ngoại
thương không còn giữ vai trò độc tôn nữa mà có thêm gần chục ngân hàng thương
mại cũng tham gia vào hoạt động kinh doanh thẻ. Tháng 4/1995, có bốn Ngân hàng
thương mại Việt Nam được kết nạp là thành viên chính thức của Tổ chức thẻ Quốc
tế MasterCard là: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng
thương mại cổ phần Á Châu (ACB), Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất nhập
khẩu (EXIMBANK) và ngân hàng FirstVina Bank.
Năm 1996 có hai ngân hàng trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thẻ
Quốc tế Visa là Vietcombank và ACB. Tiếp đó hai ngân hàng này với tư cách là
thành viên chính thức của cả MasterCard và Visa đã bắt đầu triển khai nghiệp vụ
phát hành thẻ tín dụng quốc tế và thực hiện thanh toán trực tiếp (On-line) với các tổ
chức thẻ quốc tế này. Từ đó ngày càng có nhiều ngân hàng tham gia vào thị trường
này. Ngoài các Ngân hàng thương mại Việt Nam còn có các chi nhánh Ngân hàng
nước ngoài như UOB, Hong Kong Bank, ANZ Bank Vì là một thị trường có sức
hấp dẫn cao nên sự cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra rất sôi động.
Để bảo vệ lợi ích của các Ngân hàng thương mại trong nước, Hiệp hội các

Ngân hàng thanh toán thẻ Việt Nam vào tháng 8/1996 đã được thành lập với 6
thành viên: Vietcombank, ACB, Eximbank, FirstVina Bank, Ngân hàng Sài Gòn
công thương và ANZ. Sau khi ra đời, hiệp hội đã ấn định mức phí tối thiểu cho các
Ngân hàng thương mại cùng áp dụng đối với các cơ sở chấp nhận thẻ tại Việt Nam,
8

làm cho thị trường thẻ Việt Nam đi vào cuộc cạnh tranh lành mạnh. Đây là một
hành động được các tổ chức thẻ quốc tế đánh giá cao.
Vào năm 2007, tại Việt Nam đã phát hành thêm được 90 triệu thẻ quốc tế,
tổng giá trị thanh toán lên đến 17 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng trong năm này đạt
đến 78% so với các năm trước, và dự tính sẽ tăng đến 104% trong năm 2010. Con
số này còn rất khiêm tốn so với các nước trong khu vực và cũng chỉ chiếm tỷ trọng
không đáng kể trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt. Số lượng thẻ
phát hành và đối tượng sử dụng thẻ của các ngân hàng thương mại Việt Nam thời
gian qua có gia tăng nhưng so với tiềm năng còn hạn chế.
Bên cạnh đó, mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ được ngân hàng thương mại mở
rộng cả về số lượng và các loại hình chấp nhận thẻ. Ngoài các loại hình cơ sở chấp
nhận và thanh toán thẻ truyền thống như khách sạn, nhà hàng… các đại lý bán vé
máy bay, công ty du lịch, các cửa hàng bán lẻ, siêu thị… cũng tham gia vào mạng
lưới chấp nhận thẻ. Tuy vậy, mạng lưới chấp nhận thẻ tại Việt Nam hiện nay chưa
đa dạng và phát triển để phục vụ cho chủ thẻ là người Việt Nam do đó cũng có ảnh
hưởng đến việc mở rộng sử dụng thanh toán thẻ tại Việt Nam.
Như vậy, gần 20 năm đưa vào sử dụng thẻ tại Việt Nam, hoạt động kinh
doanh thẻ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng
khích lệ. Thị trường thẻ Việt Nam là một thị trường đầy triển vọng, chắc chắn có
những bước tiến lớn trong quá trình hội nhập vào cộng đồng thanh toán quốc tế.
1.2.3 Khái niệm, đặc điểm cấu tạo và phân loại thẻ tín dụng
1.2.3.1 Khái niệm thẻ tín dụng
Thẻ tín dụng là loại thẻ cho phép chủ thẻ được sử dụng trong hạn mức tín
dụng tuần hoàn được cấp mà chủ thẻ phải thanh toán ít nhất mức trả nợ tối thiểu vào

ngày đến hạn.
Đây là loại thanh toán hiện đại do Ngân hàng phát hành cho phép chủ thẻ
thanh toán hàng hoá - dịch vụ bằng thẻ với hạn mức chi tiêu nhất định. Hạn mức chi
tiêu này được Ngân hàng quy định cho từng chủ thẻ dựa trên khả năng tài chính, số
tiền ký quỹ hoặc tài sản thế chấp làm giá trị đảm bảo. Thực chất đây là hình thức
9

thanh toán không dùng tiền mặt cho phép chi tiêu trước trả tiền sau với thời hạn ưu
đãi cuối tháng không tính lãi từ 15 đến 45 ngày. Vào cuối mỗi kì tín dụng, chủ thẻ
thanh toán với Ngân hàng toàn bộ hoặc một phần số tiền đã chi tiêu theo sau khi
hạch toán ( bảng kê chi tiết các khoản chi tiêu của chủ thẻ trong tháng).
Xét về bản chất kinh tế, thẻ tín dụng là sự cam kết thanh toán của Ngân hàng
phát hành sẽ thanh toán cho những khoản tiền mà chủ thẻ đã chi tiêu. Tức là Ngân
hàng phát hành cam kết cho chủ thẻ vay tiền của mình để mua hàng hoá - dịch vụ,
rút tiền mặt qua máy thanh toán tiền tự động ATM ( Automated Teller Machine)
trong số tiền Ngân hàng cho phép. Tuy nhiên việc chi tiêu bằng thẻ tín dụng bị giới
hạn bởi đơn vị chấp nhận thẻ và điểm ứng tiền mặt. Do chủ thẻ sử dụng thẻ để chi
tiêu thay vì phải mang theo một lượng tiền mặt nhất định nên thẻ tín dụng như một
phương tiện thanh toán thay tiền mặt nhưng thẻ tín dụng không phải là tiền tệ. Nó
không mang đặc tính, tính chất và chức năng của tiền tệ.
1.2.3.2 Đặc điểm cấu tạo của thẻ
Kể từ khi ra đời cho đến nay, cấu tạo của thẻ tín dụng đã có những thay đổi khá
lớn nhằm tăng độ an toàn và tính tiện dụng cho khách hàng. Ngày nay, với những
thành tựu của kĩ thuật vi điện tử, một số loại thẻ được gắn thêm một con chip điện
tử nhằm tăng khả năng ghi nhớ thông tin và tính bảo mật cho thẻ.
Hầu hết các loại thẻ tín dụng quốc tế ngày nay đều được cấu tạo bằng nhựa cứng
(plastic), có kích cỡ 84mm x 54mm x 0,76mm, có góc tròn gồm hai mặt:
* Mặt trước của thẻ bao gồm:
- Tên, biểu tượng thẻ và huy hiệu của tổ chức phát hành thẻ.
- Số thẻ: là số dành riêng cho mỗi chủ thẻ. Số này được dập nổi trên thẻ và sẽ

được in lại trên hóa đơn khi chủ thẻ đi mua hàng. Tuỳ theo từng loại thẻ mà có số
chữ số khác nhau và cách cấu trúc theo nhóm cũng khác nhau.
- Ngày hiệu lực của thẻ: là thời hạn mà thẻ được lưu hành.
- Họ và tên của chủ thẻ.
- Số mật mã đợt phát hành (chỉ có ở thẻ AMEX).
10


* Mặt sau của thẻ bao gồm:
- Dãy băng từ có khả năng lưu trữ những thông tin như: số thẻ, ngày hiệu lực, tên
chủ thẻ, tên ngân hàng phát hành, số PIN.
- Băng chữ ký mẫu của chủ thẻ.

1.2.3.3 Phân loại thẻ tín dụng
• Phân loại theo phạm vi sử dụng thẻ :
- Thẻ tín dụng trong nước: Là loại thẻ có phạm vi sử dụng và thanh toán trong
một nước. Ngân hàng phát hành và cơ sở chấp nhận thẻ cùng trong một nước. Đồng
tiền của thẻ chỉ duy nhất là đồng nội tệ.
- Thẻ tín dụng quốc tế: Là các loại thẻ do các NH, tổ chức tài chính trong nước và
quốc tế ( là thành viên của của tổ chức thẻ quốc tế) phát hành. Thẻ này có thể thanh
toán ở tất cả các đơn vị chấp nhận thẻ trên thế giới.
• Phân loại theo đối tượng sử dụng.
- Thẻ cá nhân: Là thẻ được phát hành cho các cá nhân có nhu cầu và đáp ứng
được được đủ các điều kiện phát hành thẻ. Chủ thẻ chịu trách nhiệm thanh toán các
khoản chi tiêu thẻ bằng nguồn tiền của bản thân mình. Thẻ cá nhân có hai loại thẻ
chính và thẻ phụ.
+ Thẻ chính: Do cá nhân đứng tên xin phát hành thẻ cho chính mình sử dụng
và cá nhân đó là chủ thẻ chính.
11


+ Thẻ phụ: Chủ thẻ chính xin phát hành thẻ phụ cho người khác sử dụng ( chủ
thẻ phụ). Chủ thẻ chính chịu trách nhiệm toàn bộ chi tiêu của chủ thẻ phụ.
- Thẻ công ty: Là loại thẻ tín dụng dùng cho công ty thanh toán trong hoạt động
kinh doanh của mình. Công ty đứng tên ký hợp đồng sử dụng thẻ và uỷ quyền cho
người đứng tên trong thẻ tín dụng để sử dụng, đồng thời mọi thanh toán liên quan
đến thẻ đều do công ty thanh toán với ngân hàng phát hành.
• Phân loại theo mức tín dụng.
Có hai loại: Thẻ vàng và thẻ chuẩn.
* Thẻ vàng ( Gold card): là loại thẻ được phát hành cho những đối tượng "cao
cấp", những khách hàng có mức sống, thu nhập và nhu cầu tài chính cao.
Loại thẻ này có thể có những điểm khác nhau tuỳ thuộc vào tập quán, trình độ phát
triển của mỗi vùng, nhưng chung nhất vẫn là thẻ có hạn mức tín dụng cao (trên
5000 USD) hơn thẻ thường.
* Thẻ chuẩn ( Standard Card): Đây là loại thẻ căn bản nhất, là loại thẻ mang tính
chất phổ biến, đại chúng, được hơn 142 triệu người trên thế giới sử dụng mỗi ngày.
Hạn mức tối thiểu tuỳ theo Ngân hàng phát hành qui định (thông thường khoảng
1000 USD)
Trong đó, hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà chủ thẻ được phép sử dụng
trong một chu kỳ tín dụng.
• Phân loại thẻ theo công nghệ sản xuất.
- Thẻ dập nổi (Embossed Card): hiện giờ hầu như không còn sử dụng.
- Thẻ từ tính (Magnetic Card): được sản xuất dựa trên kỹ thuật từ tính với 1 băng
từ chứa 2 rãnh thông tin ở mặt sau của thẻ. Thẻ này được sử dụng phổ biến trong
vòng 20 năm nay. Tuy nhiên nó có một số nhược điểm sau:
+ Khả năng bị lợi dụng cao do thông tin ghi trong thẻ không tự mã hóa được,
người ta có thể đọc thẻ dễ dàng bằng thiết bị đọc gắn với máy vi tính.
+ Thẻ mang tính thông tin cố định, khu vực chứa thông tin hẹp không áp dụng
các kỹ thuật mã đảm bảo an toàn. Do đó, trong những năm gần đây đã bị lợi dụng
lấy cắp tiền.
12


- Thẻ thông minh (IC/Smard Card): là thế hệ mới nhất của thẻ thanh toán, thẻ
thông minh dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học nhờ gắn vào thẻ "chip" điện tử có cấu
trúc giống như một máy tính hoàn hảo. Thẻ thông minh an toàn và hiệu quả hơn thẻ
băng từ do "chip" có thể chứa thông tin nhiều hơn 80 lần so với dãy băng từ. Thẻ
này đang được sử dụng phổ biến hiện nay.
1.2.4 Các khái niệm liên quan đến thẻ tín dụng
- Cơ sở chấp nhận thẻ. (Merchant)
Là đơn vị bán hàng hoá dịch vụ có ký kết với Ngân hàng thanh toán về việc
chấp nhận thẻ thanh toán thẻ như: Cửa hàng, khách hàng …Các đơn vị này được
trang bị máy móc kỹ thuật để tiếp nhận thẻ thanh toán tiền hàng, dịch vụ, trả nợ thay
tiền mặt.
- Ngân hàng phát hành (Issuing Bank)
Ngân hàng phát hành là thành viên chính thức của tổ chức thẻ quốc tế, là Ngân
hàng chuẩn bị (cung cấp) thẻ cho khách hàng. Ngân hàng có trách nhiệm tiếp nhận
hồ sơ xin cấp thẻ, xử lý và phát hành thẻ, mở và quản lý tài khoản, đồng thời thực
hiện việc thanh toán cuối cùng với chủ thẻ, cung cấp các thiết bị máy móc đơn vị
chấp nhận thẻ. Ngoài ra, Ngân hàng phát hành, trong một số trường hợp còn đóng
vai trò là Ngân hàng thanh toán. Vì vậy nó có thêm trách nhiệm và quyền hạn của
Ngân hàng thanh toán trong những trường hợp đó.
- Ngân hàng thanh toán hay ngân hàng đại lý (Aquirer)
Ngân hàng thanh toán là Ngân hàng trực tiếp ký hợp đồng với cơ sở tiếp nhận
và thanh toán các chứng từ giao dịch do cơ sở chấp nhận thẻ xuất trình. Một Ngân
hàng có thể vừa đóng vai trò Ngân hàng thanh toán vừa đóng vai trò là Ngân hàng
phát hành.
- Chủ thẻ (Cardholedr)
Là người có tên ghi trên thẻ được dùng thẻ để chi trả, thanh toán tiền hàng,
dịch vụ thay tiền mặt. Chỉ có chủ thẻ mới sử dụng thẻ của mình mà thôi. Mỗi khi
thanh toán cho cơ sở chấp nhận thẻ về hàng hoá, dịch vụ hoặc trả nợ, chủ thẻ phải
13


xuất trình thẻ để nơi đây kiểm tra theo quy định và lập biên lai thanh toán. Một chủ
thẻ có thể sử dụng một hoặc nhiều thẻ.
- Danh sách Bulletin.
Danh sách Bulletin còn gọi là danh sách báo động khẩn cấp, là danh sách liệt
kê những số thẻ không được phép thanh toán. Đó là những thẻ tiêu dùng quá hạn,
thẻ giả mạo đang lưu hành, thẻ bị lộ mật mã cá nhân (Pin), thẻ bị mất cấp, thất lạc,
thẻ bị loại bỏ. Danh sách này được lập ra nhằm mục đích thông báo cho những cơ
sở chấp nhận thẻ trên toàn thế giới, không chấp nhận thanh toán cho những thẻ
“đen” có số trong danh sách trên. Danh sách Bulletin được lập ra trên cơ sơ tập hợp
từ những dữ liệu các thành viên phát hành trong hệ thống từng loại thẻ. Danh sách
được cập nhật liên tục và gửi đến cho tất cả các Ngân hàng thanh toán để họ thông
báo kịp thời cho các cơ sở chấp nhận thẻ.
- Hạn mức tín dụng ( Credit limit)
Hạn mức tín dụng được hiểu là tổng số tín dụng tối đa mà Ngân hàng phát
hành cấp cho chủ thẻ sử dụng đối với từng loại thẻ.
- Tài khoản thẻ ( Card acount)
Là tài khoản được mở riêng cho cho việc sử dụng và thanh toán thẻ của chủ thẻ.
- Số PIN ( Personal Identificate Number)
Là mã số cá nhân riêng của chủ thẻ để thực hiện giao dịch rút tiền tại máy
ATM. Mã số này do Ngân hàng phát hành. Cá nhân phải giữ bí mật, chỉ một mình
mình biết.
- BIN ( Bank Identificate Number)
Là mã số để chỉ Ngân hàng phát hành thẻ.Trong hiệp hội thẻ có nhiều Ngân
hàng thành viên, mỗi Ngân hàng thành viên có một mã số riêng giúp thuận lợi trong
việc thanh toán và truy xuất.
- Ngày hiệu lực
* Ngày sao kê: Là ngày Ngân hàng phát hành thẻ lập các sao kê về tài khoản
chi tiêu mà chủ thẻ phải thanh toán trong tháng.
14


(6)
(1a)
(5)
(4)
(3)
(2)
(8)
(1b)
(7)
(3)
* Ngày đáo hạn: là ngày Ngân hàng phát hành thẻ quy định cho chủ thẻ thanh
toán toàn bộ hay một phần tổng trị giá trên sao kê.
- Trung tâm thẻ : Là phòng quản lý thẻ trung tâm. Chịu trách nhiệm điều hành
hoạt động phát hành, cấp phép, tra soát thanh toán thẻ và quản lý rủi ro.
- Tổ chức thẻ quốc tế: Là hiệp hội các tổ chức tài chính, tín dụng tham gia phát
hành và thanh toán quốc tế.
- Điểm ứng tiền mặt: Là các đơn vị, Ngân hàng thanh toán uỷ quyền ứng tiền mặt
cho chủ thẻ. Điểm ứng tiền mặt cũng phải ký hợp đồng chấp nhận ứng tiền mặt
bằng thẻ. Ngoài ra mỗi máy ATM cũng là một điểm ứng tiền mặt tự động.
1.2.5 Quy trình thanh toán thẻ tín dụng
Sơ đồ 1.1 : Quy trình thanh toán thẻ tín dụng

Chú thích :
(1a) Các tổ chức, cá nhân (người sử dụng thẻ) liên hệ với ngân hàng phát hành
thẻ, ký quỹ hoặc xin vay để được sử dụng thẻ thanh toán.
(1b) Ngân hàng phát hành thẻ phát hành và cung cấp thẻ thanh toán cho khách
hàng theo từng loại phù hợp với đối tượng và điều kiện đã quy định. Sau khi đã xử
Ngân hàng
phát hành thẻ

Ngân hàng đại
lý thanh toán
th


Người sử
dụng thẻ thanh
toán

Cơ sở chấp
nhận thẻ
A.T.M
15

lý kỹ thuật, ký hiệu mật mã và thông báo bằng hệ thống thông tin chuyên biệt cho
các ngân hàng đại lý và các cơ sở tiếp nhận thẻ.
(2) Người sử dụng thẻ mua hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức đồng ý tiếp nhận
thanh toán bằng thẻ. Đồng thời giao thẻ cho cơ sở chấp nhận thẻ để thanh toán tiền
hàng hóa, dịch vụ đã cung ứng bằng máy chuyên dùng trừ vào giá trị của thẻ, sau đó
cơ sở chấp nhận thẻ trao lại thẻ cho người sử dụng.
(3) Người sử dụng thẻ cũng có quyền đề nghị ngân hàng đại lý cho rút tiền mặt
hoặc tự mình rút tiền mặt tại quầy trả tiền tự động.
(4) Trong phạm vi 10 ngày làm việc cơ sở chấp nhận thẻ cầm biên lai nộp vào
ngân hàng đại lý để đòi tiền kèm theo các hóa đơn hàng hóa có liên quan.
(5) Trong phạm vi 01 ngày làm việc kể từ khi nhận được biên lai và chứng từ
hóa đơn của cơ sở chấp nhận thẻ nộp vào, ngân hàng đại lý tiến hành trả tiền cho cơ
sở chấp nhận thẻ theo số tiền đã phản ánh ở biên lai bằng cách ghi Có vào tài khoản
của cơ sở chấp nhận thẻ hoặc cho lĩnh tiền mặt.
(6) Ngân hàng đại lý thanh toán thẻ, lập bảng kê và chuyển biên lai đã thanh
toán cho ngân hàng phát hành thẻ.

(7) Ngân hàng phát hành thẻ hoàn lại số tiền mà ngân hàng đại lý đã thanh toán
trên cơ sở các biên lai hợp lệ.
(8) Khi người sử dụng thẻ không còn sử dụng thẻ hoặc đã sử dụng hết số tiền
của thẻ thì hai bên : ngân hàng phát hành thẻ và người sử dụng thẻ sẽ hoàn tất qui
trình sử dụng thẻ (trả lại tiền ký quỹ còn thừa, trả nợ ngân hàng, bổ sung hạn mức
mới…)
1.2.6 Quản lý chi tiêu và thanh toán sao kê của chủ thẻ
1.2.6.1 Tại trung tâm thẻ.
- Quản lý chi tiêu
+ Trung tâm thẻ quản lý và theo dõi hạn mức tín dụng chung, hạn mức tín
dụng ngày, hạn mức chi tiêu của chủ thẻ.
+ Một số quy tắc trong quản lý hạn mức tín dụng thẻ.
16

* Hạn mức tín dụng chung: Là mức dư nợ tối đa mà chủ thẻ được phép sử dụng
trong một kỳ tín dụng. Hạn mức này năm ngoài hạn mức tối đa cho vay của Ngân
hàng đối với khách hàng theo quy định của pháp luật. Đây là hạn mức tuần hoàn,
khi chủ thẻ chi tiêu số tiền sẽ bị trừ ngay vào hạn mức tín dụng chung. Sau đó khách
hàng thanh toán sao kê, số tiền vừa thanh toán sẽ được cập nhập vào tài khoản thẻ.
* Hạn mức chi tiêu hàng hoá - dịch vụ: Là phần còn lại của hạn mức tín dụng
được cấp sau khi trừ đi tổng giá trị giao dịch ứng tiền mặt đã sử dụng trong kỳ. Hạn
mức tín dụng không sử dụng sẽ được tự động chuyển sang hạn mức chi tiêu hàng
hoá dịch vụ.
- Cập nhập dữ liệu phát sinh hàng ngày vào hệ thống quản lý thẻ. Trung tâm thẻ
thường xuyên theo dõi và cập nhập thông tin mới về tình hình sử dụng thẻ, tình
trạng thẻ. Sớm phát hiện những trường hợp gian lận, mất cắp…và kịp thời thông
báo cho chi nhánh thanh toán, đơn vị chấp nhận thẻ, điểm ứng tiền mặt.
- Tính lãi và phí trên tài khoản thẻ: lãi bắt đầu được tính từ khi phát sinh giao dịch
được thanh toán với đơn vị chấp nhận thẻ cho đến khi lập sao kê. Nếu khách hàng
thanh toán đúng hạn mức thì sẽ được miễn lãi đó.

- Lập sao kê và gửi cho chi nhánh phát hành :
Sao kê là bản kê chi tiết và trả nợ của chủ thẻ cùng lãi và phát sinh trong một
chu kỳ sử dụng thẻ. Sao kê được gửi cho chủ thẻ hàng tháng ngay sau ngày sao kê
làm căn cứ trả nợ và ghi nợ chi nhánh. Cập nhập dữ liệu thanh toán của chủ thẻ.
1.2.6.2 Tại chi nhánh phát hành
- Nhận sao kê từ trung tâm thẻ và gửi cho khách hàng tháng. Nếu khách hàng có
gì thắc mắc về sao kê thì liên hệ với chi nhánh phát hành trong vòng 7 ngày.
- Nhận giấy báo nợ từ trung tâm thẻ, thanh toán sao kê, trả nợ của chủ thẻ.
1.2.7 Ưu, nhược điểm của hình thức thanh toán thẻ tín dụng tại Việt Nam
1.2.7.1 Ưu điểm của hình thức thanh toán thẻ tín dụng
Thẻ tín dụng ra đời đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của công nghệ
Ngân hàng hoà chung với sự phát triển về kinh tế- xã hội của thế giới, thẻ tín dụng
đã phát huy vai trò tích cực của mình:
17

* Thứ nhất: Góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Những
nước phát triển thanh toán tiêu dùng bằng thẻ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các
phương tiện thanh toán. Nhờ vậy mà khối lượng thanh toán cũng như áp lực tiền
mặt trong lưu thông giảm đáng kể, từ đó làm giảm các chi phí vận chuyển, phát
hành, kiểm kê tiền trong nền kinh tế, đồng thời giúp hạn chế được nạn tiền giả.
* Thứ hai: Góp phần tăng nhanh tốc độ chu chuyển thanh toán. Hầu hết mọi giao
dịch thẻ trong phạm vi quốc gia hay toàn cầu đều được thực hiện và thanh toán trực
tuyến, vì vậy tốc độ chu chuyển thanh toán nhanh hơn nhiều so với những giao dịch
sử dụng phương tiện thanh toán khác. Thay vì thực hiện giao dịch trên giấy tờ, với
giao dịch thẻ mọi thông tin đều được xử lý qua hệ thống máy móc điện tử thuận
tiện.
* Thứ ba: Thực hiện chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước. Việc sử dụng thẻ
được thực hiện thông qua mạng trực tuyến dưới sự kiểm soát của Ngân hàng đã tạo
điều kiện quan trọng cho việc kiểm soát khối lượng tiền giao dịch thanh toán của
dân cư và của cả nền kinh tế, do đó giảm được các hoạt động kinh tế ngầm, đồng

thời qua đó có thể tính toán được lượng tiền cung ứng, tăng cường tính chủ đạo của
nhà nước trong nền kinh tế vĩ mô.
* Thứ tư: Cải thiện môi trường văn minh thương mại, thu hút khách du lịch và
đầu tư nước ngoài. Thanh toán bằng thẻ tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho việc hội
nhập nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới trong lĩnh vực: tài
chính Ngân hàng thông qua các tổ chức thẻ quốc tế. Từ đó tạo ra môi trường văn
minh thương mại thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài và khách du lịch. Thanh toán
thẻ an toàn, hiệu quả, chính xác, nhanh chóng cũng sẽ tạo ra niềm tin đối với dân
chúng vào hoạt động của hệ thống Ngân hàng. Với tấm thẻ nhỏ trong tay, ta có thể
thanh toán hàng hoá dịch vụ tại các điểm chấp nhận thẻ trên toàn thế giới bằng bất
kỳ loại tiền nào.
+ Không bị giới hạn bởi lượng tiền mang theo người, có thể giải quyết được
những nhu cầu phát sinh đột xuất.
18

+ Được cấp một hạn mức tín dụng để chi tiêu trước trả tiền sau ( Đây chính là
tính tín dụng của sản phẩm).
+ Có thể rút tiền mặt khi cần thiết tại các ngân hàng thanh toán thẻ hay tại
các máy rút tiền tự động ATM ở khắp nơi trên thế giới.
+ Có thể kiểm tra số, điểm ứng tiền mặt thông qua các thiết bị của Ngân hàng.
+ Được hưởng mộ số dịch vụ khác do Ngân hàng phát hành và triển khai áp
dụng cho chủ thẻ như: Dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ y tế, trợ giúp toàn cầu.
+ An toàn về tài sản, chỉ duy nhất chủ thẻ được sử dụng và biết mật mã riêng (số
PIN) để sử dụng, vì vậy an toàn trong quản ký tài chính của các đơn vị chấp nhận
thẻ vì thông tin về giao dịch được lưu lại nên không thất thoát được tiền mặt cũng
như tránh được tiền giả, giảm thiểu sự nhầm lẫn trong thanh toán.
1.2.7.2 Nhược điểm của thanh toán bằng thẻ tín dụng
Thanh toán bằng thẻ tín dụng đem lại rất nhiều tiện ích cho khách hàng, lợi
nhuận cho Ngân hàng và hiệu quả kinh tế- xã hội song tấm huy chương nào cũng có
mặt trái của nó. Thanh toán bằng thẻ tín dụng cũng có một số nhược điểm sau.

+ Do thẻ tín dụng có giới hạn thanh toán nhất định nên khách hàng không thể rút
tiền mặt hoặc mua sắm hàng hoá dịch vụ vượt quá giới hạn thanh toán của thẻ.
+ Thẻ tín dụng không khuyến khích rút tiền mặt nên nếu rút tiền mặt tại các máy
ATM khách hàng sẽ chịu một khoản phí nào đó. Sử dụng thẻ tín dụng bị giới hạn
hơn sử dụng tiền mặt do thẻ tín dụng chỉ được sử dụng tại các đơn vị chấp nhận thẻ.
+ Ngân hàng muốn thu hút được lợi nhuận thì phải phát hành được một số lượng
thẻ đáng kể. Trong khi đó Ngân hàng phát hành phải bỏ nhiều chi phí để sử dụng
công nghệ thông tin, trang bị hệ thống ATM, thiết lập mạng lưới đơn vị chấp nhận
thẻ và Ngân hàng thanh toán thẻ.
1.2.7.3 Những rủi ro trong thanh toán bằng thẻ tín dụng
Về khía cạnh rủi ro thì thẻ tín dụng có độ an toàn cao hơn nhiều dạng đầu tư và
cho vay khác. Tính an toàn thể hiện ngay ở hình thức phát hành của nó. Hiện nay
thẻ tín dụng được phát hành dưới ba hình thức đó là:
_ Thế chấp.
19

_ Tín chấp.
_ Kết hợp cả hai.
Trong lần phát hành đầu tiên chủ thẻ phải thế chấp 125% hạn mức tín dụng
được cấp. Đương nhiên hình thức này thì an toàn tuyệt đối cho Ngân hàng. Nhưng
nếu phát hành theo cách này sẽ gây khó khăn cho nỗ lực phát triển thị trường thẻ và
nó chỉ phù hợp trong giai đoạn thử nghiệm.
Tín chấp được quan tâm đến như mộ nhân tố mở rộng thị trường thẻ. Ngân hàng
căn cứ vào nhân thân, mức thu nhập hằng năm để quyết định hạn mức tín dụng. Tuy
nhiên trường hợp này chứa nhiều rủi ro, nhất là khi chủ thẻ không thể thanh toán
được do nguyên nhân chủ quan từ phía chủ thẻ hay nguyên nhân khách quan ảnh
hưởng đến việc trả nợ của chủ thẻ. Và trên thực tế thì các ngân hàng hiện nay đều
kết hợp sử dụng cả hai biện pháp trên, đó là thẩm định khách hàng và yêu cầu ký
quỹ rồi từ đó quy định hạn mức tín dụng.
Hoạt động của thẻ tín dụng góp phần tạo ra cho Ngân hàng những đối tác lâu dài

và mang tính ổn định cao vì nó là hình thức tín dụng tiêu dùng và mang tính ngắn
hạn nên ít chịu biến động của chu kỳ kinh tế. Và khi hợp đồng thẻ tín dụng được ký
kết sẽ gắn Ngân hàng với khách hàng, trong quá trình kinh doanh thẻ số lượng
khách hàng của Ngân hàng chỉ tăng chứ không giảm (rất ít khi chủ thẻ chủ động
chấm dứt hợp đồng sử dụng thẻ trừ khi họ bị ngân hàng rút hợp đồng). Việc tạo lập
được những quan hệ tín dụng, thanh toán lâu dài trong bối cảnh môi trường kinh
doanh luôn biến động và tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay là môt lợi thế
lớn mạnh của kinh doanh thẻ.
- Rủi ro tín dụng: Ngân hàng phát hành thẻ cho khách hàng có đơn xin phát hành
thẻ với đơn xin giả mạo (Fraudulen Applications). Thẻ do không thẩm định kỹ các
thông tin khách hàng trên hồ sơ xin phát hành thẻ. Trường hợp này có dẫn đến rủi
ro về tín dụng cho Ngân hàng phát hành khi chủ thẻ sử dụng thẻ mà không có khả
năng về tài chính, không có khả năng thanh toán.
- Rủi ro khi sử dụng thẻ: Thẻ giả (Couterfeit Card). Thẻ do các tổ chức tội phạm
hoặc cá nhân làm giả căn cứ từ những thông tin có được từ các chứng từ giao dịch
20

thẻ hoạc thẻ mất cắp thất lạc. Thẻ giả được sử dụng tạo ra các giao dịch giả mạo sẽ
gây tổn thất cho Ngân hàng phát hành, chịu hoàn toàn trách nhiệm với mọi giao
dịch có mã số (Pin) của Ngân hàng phát hành.
- Tài khoản thẻ bị lợi dụng (Account takeover). Đến kỳ phát hành lại thẻ, Ngân
hàng phát hành nhận được thông báo thay đổi địa chỉ của chủ thẻ và được yêu cầu
gửi thẻ mới về địa chỉ mới. Không kiểm tra tính xác thực của thông báo nên Ngân
hàng phát hành gửi thẻ cho người không phải là chủ thẻ theo địa chỉ đó. Tài khoản
của chủ thẻ bị người khác sử dụng chỉ được phát hiện khi chủ thẻ đích thực không
nhận được thẻ liên lạc với Ngân hàng phát hành hoặc khi ngân hàng yêu cầu chủ thẻ
thanh toán sao kê.
- Chủ thẻ thật không nhận được thẻ phát hành: thẻ bị đánh cắp trên đường gửi từ
ngân hàng phát hành đến chủ thẻ. Chủ thẻ không hề biết là thẻ đã được gửi cho
mình trong khi đó thẻ được sử dụng. Rủi ro này ngân hàng sử dụng phải chịu.

- Giao dịch giả trên thẻ đã mất: thẻ bị đánh cấp, thất lạc, bị người khác sử dụng.
- Rủi ro khi thanh toán thẻ: bồi hoàn giao dịch không theo quy định của tổ chức
thẻ quốc tế.
Thanh toán giao dịch giả mạo: Nếu ngân hàng vẫn không thanh toán cho những
giao dịch giả mạo thì ngân hàng đó phải chịu rủi ro này.
Nhân viên Dịch vụ chấp nhận thẻ in nhiều hoá đơn thanh toán cho một thẻ
(Multiple irmiisnt): khi thực hiện giao dịch nhân viên của đơn vị chấp nhận thẻ cố
tình in nhiều bộ hoá đơn thanh toán nhưng chỉ cho chủ thẻ ký một bộ hoá đơn để
hoàn thành giao dịch. Sau đó anh ta sẽ giả mạo chữ ký chủ thẻ để nộp hoá đơn
thanh toán cho ngân hàng.
- Tạo băng từ giả (skimming) : Lấy cắp thông tin trên băng từ của thẻ thật để tạo
băng từ trên thẻ giả.
- Rủi ro trong hệ thống : Khi hệ thống vi tính không hoạt động hoặc có lỗi trong
sử lý dữ liệu.
Một nhược điểm nữa của chủ thẻ tín dụng là nó kích thích sự tiêu dùng quá mức
của khách hàng. Nếu sử dụng tiền mặt để mua hàng, khách hàng ý thức được số tiền
21

mang theo là giới hạn, vì vậy sẽ chọn những mặt hàng cần thiết, phù hợp với số tiền
mang theo. Nếu sử dụng thẻ để mua hàng hoá - dịch vụ, do số tiền trên thẻ có giá trị
rất lớn nên khi mua hàng bạn dễ dàng lâm vào tình trạng mua bất cứ thứ gì mà mình
thích dẫn đến lãng phí.
1.2.8 Hiệu quả kinh doanh thẻ của Ngân hàng Thương mại
Thẻ đã mang lại cho ngân hàng nhiều nguồn thu khác nhau. Đầu tiên, phải kể đến
đó là những khoản phí thu được bao gồm :
- Thứ nhất: Các khoản phí mà chủ thẻ phải trả. Tuy số phí áp dụng cho mỗi thẻ là
không lớn, trong nhiều trường hợp phí thu là để bù chi, nhưng với nhiều thẻ ngân
hàng có thể tích lại được một nguồn thu.
- Thứ hai: các khoản phí cho giao dịch rút tiền mặt, phí chậm trả đối với khách
hàng sử dụng thẻ tín dụng để ứng trước tiền của ngân hàng. Thông thường loại phí

này cao hơn lãi suất cho vay dài hạn của ngân hàng. Như trong trường hợp rút tiền
mặt phí có thể lên tới 4% cho Ngân hàng phát hành và ngân hàng vẫn tính lãi khi
khách hàng không trả tiền đúng hạn. Với thẻ tín dụng lãi chậm trả có thể vượt mức
2.5%.
- Thứ ba: phí thu từ các cơ sở chấp nhận thẻ khi họ muốn ngân hàng là người
thanh toán cuối cùng mà nhờ việc thanh toán đó họ đã thu hút được nhiều hơn
khách hàng, đem lại phần tăng trong doanh thu.
Kế đến, lợi nhuận mà ngân hàng thu được là từ hoạt động làm đại lý hay chi
nhánh thanh toán cho tổ chức phát hành thẻ. Đây có thể nói là nguồn thu lớn nhất,
như là một chiết khấu thương mại khi ngân hàng thanh toán lại tiền cho tổ chức phát
hành.
Phần lớn các ngân hàng ở Việt Nam đều làm chi nhánh thanh toán cho tổ chức
thẻ quốc tế và đã thu đươc một khoản phí lớn cho hoạt động này.
Tập trung lại, ngân hàng có thể thu 6 loại phí khác nhau:
* Chiết khấu thương mại: Khoản thu phát sinh trên doanh số thanh toán của
các cơ sở chấp nhận thẻ. Khi các cơ sở chấp nhận thẻ trình hoá đơn thanh toán thẻ
tín dụng lên ngân hàng, ngân hàng sẽ tính chiết khấu một khoản trên doanh thu.
22

* Lệ phí thường niên: khoản phí mà chủ thẻ phải trả cho quyền sử dụng thẻ tín
dụng.
* Phí rút tiền mặt: Khoản phí thu được trên mỗi giao dịch rút tiền trực tiếp tại
quầy giao dịch hoặc các máy ATM. Khoản phí 4% này chủ thẻ trực tiếp phải trả.
* Các khoản thu tài trợ:
Tín dụng là một dạng thức cho vay. Lãi sẽ được tính trên số dư tuần hoàn.Tại
ngày đáo hạn nếu chủ thẻ thanh toán ít hơn số dư thực tế sẽ phải chịu lãi suất theo
lãi suất hiện hành của ngân hàng trên phần dư nợ còn thiếu. Trường hợp chủ thẻ
không thanh toán đủ số tiền thanh toán tối thiểu theo quy định, còn phải chịu khoản
phí chậm trả trên phần số dư thanh toán tối thiểu còn lại.
* Phí đại lý thanh toán: Với các giao dịch thẻ mà ngân hàng thanh toán hộ Ngân

hàng phát hành, Ngân hàng sẽ được hưởng một phần chiết khấu trên doanh số thanh
toán hộ.
Các khoản thu khác:
- Phí tăng hạn mức tín dụng tạm thời.
- Phí tra soát.
- Phí cấp lại thẻ mất cắp.
- Phí cập nhật thẻ mất cắp, thất lạc lên danh sách cấm lưu hành.
Tất cả những khoản thu từ nghiệp vụ thẻ đem lại một tỉ suất sinh lời lên tới 20%
/ năm cho ngân hàng. Vì vậy, dễ hiểu tại sao thẻ tín dụng có một sức hấp dẫn lớn
như vậy với những tổ chức kinh doanh thẻ.
Bên cạnh lợi ích làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng, việc kinh doanh thẻ còn góp
phần đa dạng hoá các hình thức dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Mà điều này có tác
động không nhỏ đến uy tín của ngân hàng. Rõ ràng, khi lựa chọn một ngân hàng
phục vụ mình khách hàng sẽ chọn ngân hàng nào có khả năng cung ứng nhiều hình
thức dịch vụ hơn, giao dịch tiện lợi hơn. Vì vậy kinh doanh thẻ chính là một hướng
đi đúng đắn cho các ngân hàng hiện đại để nâng cao uy tín và khả năng cạnh tranh
trên thị trường…


23

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN
THẺ TÍN DỤNG QUỐC TẾ TẠI BIDV
CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG

2.1 VÀI NÉT VỀ NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM CHI
NHÁNH ĐÀ NẴNG
2.1.1 Tổng quan về BIDV – Đà Nẵng

2.1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Để đảm bảo nhiệm vụ quản lý cho vay và thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ
bản nhằm khắc phục hậu quả của chiến tranh, đầu tư xây dựng quê hương mới.
Ngày 15/11/1976 Ngân hàng Kiến thiết Quảng Nam – Đà Nẵng được thành lập.
Nhiệm vụ của Ngân hàng Kiến thiết Quảng Nam – Đà Nẵng là việc cấp phát tín
dụng, thanh toán và quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam – Đà Nẵng.
Ngày 24/6/1981 Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam được thành lập
thì Ngân hàng Kiến thiết Quảng Nam – Đà Nẵng cũng được đổi tên thành Ngân
hàng Đầu tư và Xây dựng Quảng Nam – Đà Nẵng.
Ngày 20/11/1994, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Quảng Nam – Đà Nẵng
hoạt động như một Ngân hàng thương mại khi việc cấp phát vốn chuyển sang Cục
Đầu tư và Phát triển.
Ngày 01/01/1997, do việc tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành tỉnh Quảng
Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Quảng Nam – Đà Nẵng được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thành
phố Đà Nẵng cho đến nay.


24

2.1.1.2 Chức năng, nhiệm vụ
- Tổ chức, thực hiện tiếp nhận vốn, huy động vốn, cho vay khuôn khổ, điều
lệ Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển theo chính sách, chế độ Nhà Nước.
- Tổ chức hạch toán, kiểm soát và quyết toán trong và ngoài hệ thống Ngân
hàng Đầu Tư và Phát Triển.
- Thực hiện nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài hệ thống Ngân hàng Đầu
Tư và Phát Triển.
- Chấp hành chế độ kho quỹ, bảo đảm an toàn tiền mặt, vàng bạc, kim khí
quý, đá quý, chứng từ có giá trị, ấn chỉ quan trọng.

- Đại diện cho Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam trong những
vấn đề có liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành tại địa
phương.
2.1.1.3 Cơ cấu tổ chức quản lý














25



























×