Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Phân tích tài sản tài chính doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.81 KB, 73 trang )

MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
MỤC LỤC
1 Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu.........................................................................................50
1.1 Khái niệm..................................................................................................................................50
1.2 Mục tiêu:....................................................................................................................................50
1.3 Phương pháp nghiên cứu:.........................................................................................................51
1.3.1 Đi tìm mối liên hệ giữa dự phóng và các phân tích khác:............................................51
1.3.2 Kỹ thuật dự phóng: ......................................................................................................51
1.3.3 Khởi đầu: điểm xuất phát..............................................................................................52
1.3.3.1 Hành vi của tăng trưởng doanh số:.............................................................................53
1.3.3.2 Hành vi của thu nhập..................................................................................................54
1.3.3.3 Hành vi của thu nhập cổ phần....................................................................................55
1.3.3.4 Hành vi của các nhân tố trong ROE...........................................................................57
2 Nội dung nghiên cứu......................................................................................................................58
2.1 Dự phóng doanh thu..................................................................................................................58
2.2 Dự phóng chi phí và thu nhập...................................................................................................61
2.3 Dự phóng bảng cân đối kế toán................................................................................................62
2.4 Dự phóng lưu chuyển tiền tệ.....................................................................................................66
2.5 Phân tích độ nhạy cảm..............................................................................................................68
3 KẾT LUẬN.....................................................................................................................................73
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 1
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, thay mặt nhóm 03 em xin gửi lời cảm ơn tới cô hướng dẫn đề tài nghiên
cứu của nhóm, Tiến sĩ Nguyễn Thị Uyên Uyên, đă tạo mọi điều kiện, động viên và
giúp đỡ nhóm hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu này, Sự hiểu biết sâu sắc về Kinh Tế,
cũng như kinh nghiệm của cô chính là tiền đề giúp nhóm đạt được những thành tựu
và kinh nghiệm quý báu. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các bạn trường đại học
ngoại ngữ đã giúp chúng tôi dịch một số từ khó và chỉnh câu cho phù hợp,cuối cùng


tôi cũng xin cảm ơn các bạn trong nhóm đã cùng nhau phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau
để cùng đi đến kết quả cuối cùng là hoàn thành bài nghiên cứu này.
Xin chân thành cảm ơn!
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 2
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
PHẦN 1: PHÂN TÍCH TÀI SẢN
1. Khái niệm, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu
1.1 Khái niệm
Tài sản là những nguồn lực thuộc sở hữu của một công ty và có khả năng mang lại lới ích kinh
tế trong tương lai, đồng thời có giá trị có thể xác định được một cách đáng tin cậy.
Tài sản có thể biểu hiện dưới nhiều dạng bao gồm: tiền mặt, chứng khoán thị trường, khoản thu
khách hàng, hàng tồn kho, tài sản cố định, các khoản đầu tư dài hạn vào các công ty khác, và tài
sản vô hình.
1.2 Mục tiêu
Mục tiêu thứ nhất của việc phân tích tài sản là xác định kinh phí bỏ ra cần được ghi nhận là một
tài sản trong báo cáo tài chính của công ty hay nên được báo cáo như khoản chi phí hiện tại.
Mục tiêu thứ hai của việc phân tích tài sản là đánh giá các giá trị tài sản được báo cáo trong báo
cáo tài chính, đòi hỏi phải có một đánh giá khấu hao, dự phòng và xóa sổ.
Để thực hiện hai mục tiêu trên đòi hỏi các nhà phân tích tìm hiểu những người nào có quyền sở
hữu nguồn lực đó, liệu nó có tạo ra lợi ích trong tương lai, và liệu những lợi ích đó có đo lường
được một cách chắc chắn và hợp lý hay không.
1.3 Phương pháp
Bài nghiên cứu đề cập đến hai phương pháp nghiên cứu là: Nguyên tắc giá gốc và Nguyên tắc
thận trọng
1.3.1 Nguyên tắc giá gốc
Nguyên tắc giá gốc được phân tích dựa trên bảng cân đối kế toán, vì bảng cân đối kế toán cung
cấp thông tin trên giá trị của các nguồn lực nhà quản lý mua lại hoặc phát triển. Hầu hết các quốc
gia tài sản được báo cáo trong bảng cân đối kế toán có giá trị là nguyên giá. Nguyên giá chứ không

phải là giá trị hợp lý, giá trị thay thế, hoặc giá trị sử dụng, được sử dụng để ghi lại các tài sản bởi vì
chúng thường có thể được kiểm tra dễ dàng hơn.
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 3
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Quan điểm phân tích dựa vào giá gốc của các nhà đầu tư rất quan trọng bởi vì các nhà quảng lý
có động cơ để đưa ra một cách nhìn triển vọng của việc quản lý các nguồn tài nguyên của công ty.
Bằng cách yêu cầu các giao dịch được ghi nhận với nguyên giá, kế toán có thể hạn chế khả năng
của nhà quản lý trong việc phóng đại giá trị tài sản mà họ đã mua hoặc nâng cấp.
Tuy nhiên, nguyên tắc giá gốc cũng hạn chế các thông tin hiện hữu cho các nhà đầu tư biết về
tiềm năng của tài sản công ty, vì giá trao đổi thường khác từ giá trị hợp lý: thể hiện số tiền mà các
bên (a) có hiểu biết về tài sản được trao đổi, (b) có mong muốn trao đổi, (c) sẽ trao đổi như là trong
các giao dịch bình thường giữa các bên bình thường hoặc giá trị sử dụng.
1.3.2 Nguyên tắc thận trọng
Phương pháp nguyên tắc thận trọng đưa ra một ngoại lệ cho việc sử dụng các giá trị theo
nguyên giá. Phương pháp này đòi hỏi các nhà quản lý phải điều chỉnh giá trị tài sản về giá trị hợp
lý, tức là giá đã bị suy giảm so với ban đầu. Chi phí thấp hơn hoặc quy tắc thị trường dùng để định
giá hàng tồn kho, việc lập dự toán thiệt hại dự kiến từ những khoản nợ khó đòi, và việc điều chỉnh
giảm giá trị của những tài sản hoạt động không dự kiến sẽ phục hồi chi phí là tất cả các trường hợp
ứng dụng nguyên tắc này.
Do đó, nguyên tắc thận trọng đảm bảo hơn cho các nhà đầu tư rằng ước tính của các nhà quản lý
về giá trị các nguồn lực công ty không phải là phóng đại. Kết quả là, giá trị tài sản báo cáo trên
bảng cân đối kế toán có thể được coi là thấp hơn giá trị của lợi ích trong tương lai mang lại từ
chiến lược quản lý kinh doanh hiện tại.
2. Nội dung nghiên cứu
Các tiêu chí chủ yếu để ghi nhận một tài sản
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 4

MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
2.1 Những khó khăn khi xác định tài sản
2.1.1 Quyền sở hữu nguồn lực không chắc chắn
Đối với hầu hết các nguồn lực được sử dụng trong một công ty thì quyền sở hữu được xác
định một cách rõ ràng: công ty sử dụng nguồn lực thì sẽ sở hữu tài sản đó. Tuy nhiên, trong một
vài giao dịch( nghiệp vụ kinh tế), có thể khó thấy được ai là chủ sở hữu nguồn lực. Chúng tôi thảo
luận hai trường hợp là ví dụ cho khó khăn trong việc xác định quyền sở hữu.
• Trường hợp thứ nhất: đối với nguồn lực đi thuê. Ai sẽ là người sở hữu thực sự của tài sản
– người cho thuê hay người thuê tài sản?
• Trường hợp thứ hai: đối với việc huấn luyện nhân viên. Ai thực sự có lợi ích từ việc này –
công ty tổ chức huấn luyện hay chính nhân viên.
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 5
Ghi nhận một tài sản
Những khó khăn giao dịch
1.Quyền sở hữu tài nguyên là không chắc chắn
2.Những lợi ích tương lai từ việc chi tiêu là không chắc chắn
hoặc khó đo lường
3.Giá trị nguồn lực đã thay đổi
Tiêu chuẩn đầu tiên
Tài nguyên là thuộc
sở hữu của
công ty.
Tiêu chuẩn thứ
hai
Tài nguyên
được dự kiến ​sẽ
cung cấp những
lợi ích kinh tế

trong tương lai
đủ để phục hồi
chi phí của họ.
Tiêu chuẩn thứ
ba
Lợi ích kinh tế
trong tương lai
phải được đo
lường với mức
độ chắc chắn hợp
lý.
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Ví dụ 1: Nguồn lực đi thuê
Vào ngày 31/12/1998, hãng hàng không American Airlines đã báo cáo rằng 42% trên tổng số
máy bay của công ty này (273 chiếc) là tài sản thuê với thời hạn khoảng 10 đến 25 năm. American
Airline cho biết công ty có nghĩa vụ với các hợp đồng thuê tài sản này là hơn 1 tỷ USD cho mỗi
năm trong năm năm đầu và 13.4 tỷ USD cho khoảng thời gian tiếp theo. Trong báo cáo hàng năm,
công ty lưu ý rằng “các hợp đồng thuê máy bay thông thường có thể được gia hạn theo tỷ lệ dựa
trên giá thị trường vào cuối thời hạn thuê 1-5 năm.
Hầu hết các hợp đồng thuể máy bay có các lựa chọn cho mua lại vào hoặc gần thời điểm kết
thúc thời hạn thuê theo giá trị thị trường, nhưng thường không vượt quá một tỷ lệ phần trăm trên
chi phí máy bay do bên cho thuê ấn định hoặc một số tiền cố định được xác định trước.” Chủ sở
hữu thực sự của các máy bay này là ai? Liệu American Airlines có thực sự mua chúng bằng cách
sử dụng nguồn tài chính được cung cấp bởi bên cho thuê, hay đây thực tế chỉ là những cam kết vay
mượn? Đánh giá liệu một thỏa thuận cho thuê là tương đương với hợp đồng mua hàng hay thuê
mượn là chủ đích. Nó phụ thuộc vào việc bên đi thuê liệu đã thực sự chấp nhận rủi ro của việc sở
hữu tài sản, chẳng hạn như lỗi thời và hao mòn tự nhiên.
Với nỗ lực chuẩn hóa các báo cáo về giao dịch thuê tài sản, chuẩn mực kế toán đã đưa ra tiêu
chí rõ ràng để phân biệt giữa hai dạng trên. Theo SFAS 13, một giao dịch cho thuê tương đương để
mua tài sản nếu thỏa các điều kiện sau đây: (1) quyền sở hữu tài sản được chuyển giao cho bên đi

thuê khi kết thúc thời hạn thuê, (2) bên đi thuê có lựa chọn để mua tài sản với một mức giá thỏa
thuận vào cuối thời hạn thuê, (3) thời hạn thuê là từ 75% trở lên thời gian sử dụng hữu ích ước tính
của tài sản, và (4) giá trị hiện tại của khoảngthanh toán cho thuê là từ 90% trở lên giá trị hợp lý của
tài sản. Như đã nói ở trên, American Airlines đã có các lựa chọn mua lại máy bay với giá thị
trường ước tính. Ngoài ra, công ty đã báo cáo rằng thời gian sử dụng ước tính cho máy bay mà nó
sở hữu là 25 năm. Những hợp đồng thuê tài sản đáp ứng các tiêu chí của một giao dịch mua bán
thực sự được ghi nhận là hợp đồng thuê vốn ở giá trị hiện tại của khoảngthanh toán cho thuê. Số
tiền này được xem tương tự một khoản nợ phải trả, để phản ánh việc tài trợ mua tài sản.
Trong giai đoạn tiếp theo, thiết bị đi thuê khấu hao dần trong suốt thời hạn của hợp đồng thuê
tài sản, và khoản thanh toán tiền thuê được coi là các khoản thanh toán nợ và tiền lãi. Trong năm
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 6
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
1998, American Airlines đã vốn hóa cho các hợp đồng thuê 187 máy bay và ghi nhận một khoản
nợ phải trả cho việc thuê các máy bay này với số tiền 1.671 triệu USD.
Những hợp đồng thuê không đủ điều kiện xem như là một giao dịch mua bán có hiệu lực cho
các mục đích kế toán được gọi là thuê hoạt động. Bên đi thuê sau đó báo cáo chi phí cho thuê trong
suốt thời hạn hợp đồng. American Airlines cho biết công ty chỉ có 86 thỏa thuận thuê tài sản là
thuê hoạt động vào năm 1998.
Tất nhiên, vì các tiêu chí để báo cáo hoạt động thuê tài sản là khách quan, chúng tạo ra cơ hội
cho ban quản lý phá vỡ các đặc trưng của sự khác biệt giữa hợp đồng thuê tài chính và thuê hoạt
động. Ví dụ, quản lý của hãng hàng không American Airline có thể viết các điều khoản trong hợp
đồng thuê tài sản theo một giao dịch đáp ứng các định nghĩa của cả tài sản thuê hoạt động hay tài
sản thuê tài chính.
Ngoài ra, thực hiện các tiêu chuẩn báo cáo về việc thuê tài sản yêu cầu nhà quản lý dự báo
khoảng thời gian sử dụng hữu ích và giá trị hợp lý của các máy bay mà họ đi thuê. Bằng cách so
sánh các khoản nợ phải trả từ thuê tài chính (1.671 triệu USD) với tổng các khoản thanh toán cho
nghĩa vụ của tất cả hợp đồng đi thuê của công ty từ 1999 đến 2003, các nhà phân tích có thể thấy
rằng mặc dù công ty có nhiều hợp đồng thuê tài chính hơn là hợp đồng thuê hoạt động, hãng hàng

không Mỹ dùng các hợp đồng thuê hoạt động cho các thiết bị đắt tiền nhất của công ty. Đây có
phải là chiến lược điều hành có chủ đích của công ty, hay là công ty tìm cách để giữ cho các khoản
nợ phải trả cho việc tài trợ cho các máy bay đắt hơn của họ ra khỏi bảng cân đối kế toán?
Ví dụ 2: Nguồn nhân lực
Các công ty chi tiêu một lượng đáng kể cho phát triển chuyên môn và đào tạo cho nhân viên của
họ. Công tác đào tạo nhân viên chính thức của các công ty ở Hoa Kỳ ước tính chi phí từ 30 đến 148
tỷ USD mỗi năm. Nếu một trong các nhân tố không chính thức, những chi phí cho công việc đào
tạo tại chỗ sẽ gia tăng 2-3 lần một nhân tố.
Các chương trình đào tạo bao gồm từ mục đích củng cố cho sự tăng trưởng của công ty – đào
tạo những kỹ năng cụ thể mà có thể không được chuyển giao cho các công việc khác, cho đến đào
tạo nâng cấp những kỹ năng nói chung của nhân viên và vẫn có thể sử dụng các kỹ năng này cho
các công việc khác. Các công ty có thể sẵn sàng tổ chức đào tạo chỉ khi nhân viên cam kết sẽ ở lại
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 7
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
công ty một khoảng thời gian sau khi hoàn thành khóa đào tạo. Đây là loại cam kết là điển hình cho
các công ty phải trả chi phí cho nhân viên tham dự chương trình Thạc sỹ Quản trị Kinh doanh
(MBA).
Các công ty dành nhiều nguồn lực cho đào tạo chính quy thường làm như vậy với dự đoán rằng
họ sẽ có lợi ích lâu dài cho công ty thông qua tăng năng suất và / hoặc sản phẩm hoặc chất lượng
dịch vụ. Các chi phí này nên được ghi lại như thế nào? Chúng có nên được xem như là một tài sản
và hoàn lại dần trong khoảng thời gian dự kiến mà nhân viên làm việc tại công ty? Hoặc có chăng
chúng nên được ghi nhận là chi phí ngay lập tức? Kế toán lập luận rằng các kỹ năng tạo ra thông
qua đào tạo không thuộc sở hữu của công ty nhưng được sở hữu bởi nhân viên công ty.
Vì vậy, các nhân viên có thể rời bỏ một công ty và có một vị trí khác mà không có sự chấp
thuận của người sử dụng lao động hiện thời. Nó cũng là khó khăn để đánh giá ảnh hưởng của công
tác đào tạo lên hiệu suất trong tương lai. Kết quả là, các chuẩn mực kế toán ở Mỹ và những nơi
khác yêu cầu chi phí đào tạo được ghi nhận phí tổn ngay lập tức. Với cách xử lý kế toán về chi phí
đào tạo, phân tích tài chính có thể tăng thêm giá trị bằng cách phân biệt giữa các công ty thành

công và thất bại trong việc tạo ra giá trị thông qua đào tạo nhân viên. Điều này có thể là yếu tố
quan trọng cho các công ty nơi mà con người vốn là một nguồn lực quan trọng. Đó là trường hợp
các công ty chuyên nghiệp. Đào tạo cũng có thể tạo ra một tài sản có giá trị cho các công ty dựa
vào đội ngũ nhân viên bán hàng với kiến thức chuyên môn về các chi tiết kỹ thuật của các sản
phẩm mà công ty đang bán. Công tác đào tạo trong các dạng công ty này có thể rất quan trọng
trong việc tạo ra giá trị cho khách hàng và mang lại danh tiếng cho công ty trong thị trường sản
phẩm của họ.
2.1.2 Lợi ích kinh tế không chắc chắn hay khó để đo lường
Thách thức thứ hai: trong việc quyết định xem liệu một khoản chi phí bỏ ra có đủ tiêu chuẩn để
ghi nhận là tài sản hay không phát sinh khi lợi ích kinh tế tương lai ước tính mang lại từ khoản chi
phí này khó đo lường hoặc rất không chắc chắn. Gần như luôn khó dự báo chính xác lợi ích nào
trong tương lai liên quan đến kinh phí bỏ ra vì thế giới thì không chắc chắn. Một công ty không
biết được liệu đối thủ cạnh tranh có tung ra sản phẩm mới hay dịch vụ mới khiến sản phẩm của họ
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 8
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
bị lỗi thời hay không. Họ cũng không biết liệu sản phẩm sản xuất tại nhà máy mới có phải là loại
khách hàng muốn mua. Họ không biết liệu thay đổi giá dầu làm có làm thiết bị khoan dầu giảm đi
giá trị. Khi nào thì kế toán viên nhận thấy những điều không thể đoán trước được và những vấn đề
về đo lường giá trị đủ để ghi nhận những khoản kinh phí có lợi ích trong nhiều gia đoạn là phí tổn?
Khi nào thì những khoản chi phí như vậy có thể được vốn hóa?
Giá trị kinh tế của hầu hết các nguồn lực đều dựa trên ước tính của lợi ích kinh tế tương lai
không chắc chắn. Chẳng hạn như, giá trị của khoản phải thu là khoản ròng sau khi trừ đi các khoản
không thu hồi được, tài sản sở hữu và tài sản thuê có giá trị còn lại trong tương lai, và kinh phí tiếp
thị và R&D tạo ra giá trị cho thương hiệu. Bên dưới chúng tôi thảo luận báo cáo cho ba loại kinh
phí trên để biết kế toán viên xem xét sự không chắc chắn trong ghi nhận tài sản như thế nào: tín
nhiệm, nhãn hiệu, và tài sản thuế hoãn lại.
Ví dụ 1: Lợi thế thương mại
Vào ngày 9/2/1996, Công ty Walt Disney mua lại công ty Capital Cities / ABC với 10.1 tỉ USD

tiền mặt và 155 triệu cổ phần của Disney trị giá 8.8 tỷ USD dựa trên giá cổ phiếu tại ngày giao dịch
được công bố. Cap Cities sở hữu và điều hành mạng Truyền hình ABC, 8 đài truyền hình, mạng
rađiô ABC và 21 đài phát thanh, và 80 phần trăm công ty ESPN, và nó cung cấp chương trình cho
truyền hình cáp. Công ty này cũng phát hành nhật báo và tuần báo, hướng dẫn mua sắm, rất nhiều
tạp chí chuyên sâu và tạp chí kinh doanh xuất bản định kỳ, và sách kế toán. Phần lớn tài sản này là
tài sản vô hình. Vào năm 1994, ngay trước khi bị mua lại, Cap Cities ước tính khoảng 85% tổng
thu nhập phát sóng (5.3 tỷ USD) và 70 % tổng thu nhập xuất bản (1.1 tỷ USD) đến từ hoạt động
cung cấp quảng cáo, chứ không phải là bất cứ sản phẩm hữu hình hoặc dịch vụ nào khác.
Disney ước tính trị giá thực tế của tài sản hữu hình của ABC là 4.0 tỷ USD (1.5 tỷ USD dưới
dạng tiền mặt) và các khoản nợ của nó là 4.3 tỷ USD. Việc mua lại được ghi nhận trên sổ sách kế
toán của Disney như thế nào? Sự khác biệt giữa 18.9 tỷ USD giá mua và 0.3 tỷ USD các khoản nợ
thuần có nên được ghi nhận như tài sản vô hình trên sổ sách kế toán của Disney? Nếu vậy, lợi ích
Disney mong nhận được từ hoạt động mua lại này là gì? Còn bằng không thì, sự khác biệt 19.2 tỷ
USD có nên ghi nhận bút toán xóa sổ?
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 9
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Trước khi Disney đưa ra lời đề nghị, thị giá vốn sở hữu của ABC là gần 9 tỷ USD. Điều này
hàm ý Disney trả hơn 100 phần trăm trội thêm cho tài sản vô hình của ABC. Đây là nơi vấn đề kế
toán trở thành thủ thuật. Nếu giá mua lại đầy đủ được ghi nhận để xem như một tài sản, kiểm toán
viên và quản lý của Disney phải tin chắc là kinh phí này là có thể thu hồi. Nhưng điều gì làm
những tài sản vô hình của ABC đáng giá với Disney nhiều gấp đôi so với người sở hữu trước của
công ty ABC? Hay Disney chỉ đơn giản trả lố cho Cap Cities /ABC, hàm ý rằng nó khó có thể khôi
phục 19 tỷ USD bằng lợi thế thương mại?
Kế toán viên trong hầu hết quốc gia bây giờ yêu cầu công ty như Disney ghi nhận giá trị tài sản
hữu hình mua được và các khoản nợ theo giá trị thực tế của chúng và để cho thấy 19 tỷ USD đầy
đủ của lợi thế thương mại từ hoạt động mua lại như một tài sản. Lý lẽ cho cách thức này là đã có
giao dịch theo giá thị trường giữa người mua và người bán. Có suy đoán cho rằng việc thâu tóm
của ban quản lý của Disney không làm giảm giá trị của cổ đông của chính công ty này, và họ có

thông tin tốt nhất trên giá trị được tạo ra từ kế hoạch của họ cho công ty mới. Suy đoán này là cơ
sở cho sự định giá lợi thế thương mại, trừ phi có những bằng chứng ngược lại. Sau khi mua lại,
Disney được yêu cầu theo kế toán Hoa Kỳ phải phân bổ giá trị lợi thế thương mại trong khoảng
thời gian tối đa là bốn mươi năm (xem Chương 7).
Hai thách thức phát sinh từ hình thức này của kế toán. Trước tiên, vì thật khó có thể đánh giá
liệu việc sáp nhập có đạt được lợi ích mong đợi, nên thật khó có thể ước tính liệu lợi thế thương
mại có trở thành bất lợi. Vấn đề này phức tạp là do động cơ của ban quản lý. Nếu sáp nhập không
diễn ra đúng như kế hoạch, ban quản lý khó có thể muốn thú nhận là đã phạm lỗi. Hai là, sự hình
thành thời kỳ để khấu hao dần lợi thế thương mại mang lại khó khăn cho những công ty mà có
thương vụ sáp nhập thành công trong việc phân biệt chính mình với các công ty thực hiện những
thương vụ trung lập. Nếu cả hai đều sử dụng thời kỳ phân bổ trong 40-50 năm, thì công ty đã gia
tăng giá trị cổ đông cũng sẽ báo cáo về hoạt động mua bán sáp nhập giống hệt với những công ty
mà không tạo thêm được giá trị.
Ví dụ 2: Thương hiệu
Công ty Coca-Cola báo cáo giá trị sổ sách của vốn là 8.4 tỷ USD và giá trị thị trường là 165 tỷ
USD. Phần lớn sự khác biệt này là có thể quy cho trị giá thương hiệu của Coca-Cola. Coca-Cola
tạo ra thương hiệu sau nhiều năm đầu tư cho quảng cáo, chiêu thị, truyền thông quảng bá. Các
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 10
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
thương hiệu nổi tiếng khác như Marlborough, Nescafe, Kodak, Microsoft, Budweiser, của Kellogg,
Gillette, cửa hàng McDonald, Gucci, Mercedes, và Baccardi. Sản phẩm có thương hiệu có thể tạo
ra giá trị cho chủ sở hữu của chúng: (a) cho phép công ty tiếp thị ít hơn đối thủ cạnh tranh, do nhận
thức trong thị trường cao, (b) tạo tác động với nhà phân phối và nhà bán lẻ, vì khách hàng mong họ
mang sản phẩm có thương hiệu đến với mình, và (c) khả năng đưa ra mức giá cao hơn đối thủ cạnh
tranh, do khả năng nhận thức cao hơn của khách hàng về giá trị sản phẩm. Không giống với bản
quyền hay bằng phát minh, thương hiệu không có giới hạn về thời gian tồn tại là bao lâu. Nếu
thương hiệu được quản lý tốt, chúng có thể tài sản dài hạn.
Như lưu ý trong chương 7, hoạt động quảng cáo, chiêu thị, quảng bá tạo nên thương hiệu là

những chi phí đặc thù. Yếu tố này được bỏ qua vì khó liên kết chi phí quảng cáo với tạo dựng
thương hiệu. Vì những khó khăn trong việc định giá thương hiệu khi khởi đầu, và khó khăn trong
công tác đánh giá khi nào và bằng cách nào quảng cáo cải tiến giá trị thương hiệu và chỉ tác động
lên doanh thu của thời điểm hiện tài, nên kế toán viên đã tránh thể hiện giá trị của thương hiệu như
một tài sản. Ở Hoa Kỳ, kể cả các thương hiệu đã được mua lại cũng không được ghi nhận độc lập
mà được đưa vào như một phần của tài sản vô hình.
Tuy nhiên, tại Úc và Vương quốc Anh, các công ty được phép báo cáo tài sản thương hiệu trên
sổ sách của họ. Động lực thúc đẩy sự chấp thuận này chính là hoạt động mua bán và sáp nhập.
Công ty sau khi hợp nhất đã đánh giá và tái định giá thương hiệu trên sổ sách của họ. Chẳng hạn
như, vào năm 1989, khi xem xét lợi ích gia tăng từ General Cinema – một thương hiệu đáng giá mà
Cadbury Schweppes đã mua lại từ năm 1985. Tài sản này đã không được ghi nhận khấu hao nhưng
được xem xét hàng năm cho bất kỳ sự giảm bớt nào trong giá trị. Vào năm 1997 Cadbury báo cáo
về tài sản vô hình thương hiệu trên bảng cân đối kế toán của họ với giá trị là 1.575 tỷ bảng Anh,
chiếm một phần ba tổng tài sản của công ty này.
Thể hiện thương hiệu trên sổ sách như là tài sản cung cấp cho ban quản lý một cách truyền đạt
giá trị của công ty đến nhà đầu tư. Nó cũng báo hiệu nhà quản lý nhận ra tầm quan trọng của những
tài sản này và cung cấp dấu hiệu về hoạt động quản lý thường niên có tốt hay không. Thương hiệu
nếu được quản lý tốt có thể giữ nguyên giá trị của nó, trong khi với những thương hiệu quản lý
kém sẽ phải được ghi nhận giá trị giảm đi. Tuy nhiên, bao gồm thương hiệu trên bảng cân đối kế
toán cũng gia tăng cơ hội cho những quyết định quản lý sai lầm. Từ những khó khăn trong ước tính
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 11
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
giá trị thương hiệu, nhà đầu tư đang có thể lo lắng việc ban quản lý cường điệu giá trị của thương
hiệu và không nhận ra sự sụt giảm giá trị theo thời gian. Ban quản trị có thể giảm nhẹ mối quan
tâm này bằng cách sử dụng các chuyên gia thẩm định độc lập để định giá thương hiệu và ý kiến
kiểm toán viên chấp thuận với kết quả thẩm định đó. Tuy nhiên, ngay cả khi đã có những giấy tờ
xác minh này vẫn khó có thể hoàn toàn loại bỏ mối quan ngại của nhà đầu tư.
Với những công ty mà thương hiệu không được báo cáo như tài sản (hầu hết các công ty), thách

thức cho nhà quản lý là làm thế nào để thuyết phục nhà đầu tư về giá trị của thương hiệu. Chẳng
hạn như, trong bản báo cáo tài chính năm 1998, Coca-Cola cung cấp dữ liệu tình hình hoạt động
sau cho thương hiệu chính của nó ở Bắc Mỹ:
Nguồn: Báo cáo thường niên Coca-Cola năm 1998
Coca-Cola cũng phác thảo những chương trình khuyến mãi để hỗ trợ thương hiệu của công ty.
Ở Bắc Mỹ, chương trình bày bao gồm tài trợ quảng cáo của NASCAR và phân phối 50 triệu thẻ
chiết khấu sản phẩm Cola-Cola cho hơn 10,000 nhà bán lẻ trên khắp nước Mỹ. Ngoài ra, công ty
công bố kế hoạch mở rộng thương hiệu vào năm 1999 bằng việc thêm hương vị mới là
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 12
*Phần còn lại của ngành công nghiệp chỉ
bao gồm nước ngọt.
HỒ SƠ NHÓM
Dân số 305 triệu;
Bình quân đầu người 377 ;
Bình quân đầu người cao:
Rome, Georgia, tại 821 ;
Bình quân đầu người thấp:
Quebec, Canada, tại 142
Tiêu điểm thương
hiệu
1998 so với 1997
Đơn vị
Tăng trưởng doanh số
bán hàng
Coca-Cola Classic 3%
Diet Coke 4%
Sprite 9%
Cũng đáng chú ý:

Fruitopia 105%
POWERaDE 33%
Minute Maid soft drinks
29%
Nestea 20%
Barq’s 18%
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
POWERaDE (Arctic Shatter và Dark Downburst), và hương vị mới cho Fruitopia (Kiwiberry
Ruckus), đồng thời tung ra sản phẩm Dasani – sản phẩm nước tinh khiết với nhiều khoáng chất.
Những chương trình tương tự cũng được đưa tại các thị trường khác của Coca-Cola. Chẳng hạn, ở
Argentina, chiến dịch tiếp thị mới đã được đề xướng để khuyến khích người tiêu dùng sử dụng sản
phẩm Coca-Cola trong bữa ăn. Ở châu Á công ty tập trung vào gia tăng số lượng tiêu thụ của các
sản phẩm đã có mặt trên thị trường thông qua mở rộng sử dụng máy bán hàng tự động. Ở Mehico
hình ảnh quảng cáo sử dụng môn bóng rổ được dùng để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm Sprite. Thách
thức cho nhà đầu tư và người dùng báo cáo tài chính chính là việc đánh giá liệu những sáng kiến
tiếp thị này và ý định mở rộng thương hiệu có thể thành công và tạo ra giá trị cho Coca-Cola
không.
Ví dụ 3: Tài sản hoản thuế
Luật thuế ở Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác cho phép các công ty có kết quả kinh doanh thua lỗ
có thể dời khoản thuế trong năm cho các kỳ kế toán sau cho đến khi công ty có lợi nhuận. Việc
chuyển lỗ này có tiềm năng cung cấp lợi ích kinh tế tương lai dưới dạng giảm bớt nghĩa vụ thuế.
Chẳng hạn vào năm 1998, Amazon.com - nhà bán lẻ sách, nhạc, và sản phẩm video trên Internet -
đã có khoản lỗ trong kinh doanh là 207 triệu USD, tương đương đến 73.1 triệu USD tiền tiết kiệm
từ việc đóng thuế trong tương lai kể từ lúc công ty khởi sự. "Khoản thuế chuyển lỗ” cung cấp lợi
ích kinh tế tiềm năng trong tương lai cho Amazon.com. Tất nhiên, chuyển lỗ chỉ là thực sự mang
lại lợi ích nếu Amazon.com thực sự kiếm được lợi nhuận tương lai. Công ty cho biết chỉ có thể
thực hiện chuyển lỗ cho đến năm 2011.
Làm thế nào bản báo cáo tài chính ghi nhận lại việc chuyển lỗ kinh doanh của Amazon.com?
Chúng có nên được báo cáo như tài sản trong bảng cân đối kế toán? Nếu vậy, giá trị của chúng có
khả năng không bao giờ được sử dụng nếu công ty tiếp tục thua lỗ? Theo SFAS (Chuẩn mực kế

toán về báo cáo tài chính) 109, các công ty ở Mỹ được yêu cầu phải ghi nhận tài sản thuế hoãn lại
cho giá trị của việc chuyển lỗ kinh doanh, bằng ròng của dự phòng định giá cho phần tài sản khó có
thể ghi nhận. FASB (Ủy ban chuẩn mực kế toán tài chính) nói rõ rằng tài sản thuế hoãn lại với trên
50% khả năng có thể không thu được nên được đưa vào dự phòng định giá. Biện pháp này giống
với định giá tài khoản hoặc phiếu nợ phải thu. Các khoản phải thu được thể hiện bằng tổng giá trị
của chúng, trừ đi khoản dự phòng nợ khó đòi.
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 13
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Tài sản thuế hoãn lại cũng có thể xuất hiện nếu bản báo cáo thuế ghi nhận thu nhập trước báo
cáo tài chính. Chẳng hạn như, doanh thu trả trước thường được công nhận cho mục đích thuế thay
vì báo cáo tài chính. Chi phí bảo hành được tích lũy cho mục đích báo cáo tài chính nhưng được
ghi nhận khi xuất hiện nghĩa vụ phải gánh chịu cho mục đích thuế. Do sự khác biệt tạm thời này
giữa thu nhập báo cáo và thu nhập chịu thuế, thuế có thể được thanh toán trước khi ghi nhận thu
nhập trong báo cáo tài chính. Nguyên tắc phù hợp đòi hỏi phải phân bổ khi ghi nhận khoản trả
trước này. Chuẩn mực SFAS 109 quy định nguyên tắc ghi lại khoản trả trước này giống với trường
hợp báo cáo chuyển lỗ kinh doanh. Tài sản thuế bị hoãn lại được tạo ra và dự phòng đánh giá được
thiết lập để ghi lại phần tài sản khó có thể được nhận ra.
Báo cáo tài chính cho tài sản thuế hoãn lại cung cấp cho nhà quản lý cơ hội để thực hiện đánh
giá ước tính dự phòng định giá. Cơ sở cho ước tính này là dự báo của quản lý về việc công ty có
thể kiếm được lợi nhuận tương lai hay không và, nếu có, liệu lợi nhuận đó có đủ để trang trải hoàn
toàn khoản chuyển lỗ kinh doanh và thuế trả trước. Nghiên cứu gần đây thấy rất ít bằng chứng cho
việc nhà quản lý sử dụng cách nhìn này để quản lý thu nhập.
2
Amazon.com cho biết họ có 12.8 triệu USD lợi ích từ khoản thuế hoãn lại thu được từ sự khác
biệt tạm thời giữa phương pháp ghi nhận thu nhập trong báo cáo tài chính và báo cáo thuế. Cùng
với 73.1 triệu USD từ chuyển lỗ kinh doanh, tài sản thuế hoãn lại của công ty có tổng là 85.9 triệu
USD. Thách thức cho báo cáo tài chính là ước tính những phần nào của tài sản này là thật sự có thể
được có thể ghi nhận được. Công ty chưa bao giờ kiếm được lợi nhuận. Từ năm 1996 hoạt động

kinh doanh của công ty đã thực sự xuống dốc, họ thua lỗ 6.2 triệu USD vào năm 1996, 31.0 triệu
USD vào năm 1997, và 124.5 triệu USD vào năm 1998.
Ngoài ra, kể từ ngày 19/3/1999, nhà phân tích tài chính không liệu trước việc công ty báo cáo
lợi nhuận trong cả năm 1999 lẫn 2000. Dự báo cho những năm này lần lượt khoản lỗ 400 triệu
USD và 140 triệu USD. Trên cơ sở này dường như Amazon.com sẽ không có thể tận dụng tài sản
thuế hoãn lại của nó.
3
Vì vậy, công ty báo cáo nó bao gồm giá trị đầy đủ của tài sản thuế bị hoãn lại
vào dự phòng đánh giá, để lại giá trị ròng trên sổ sách bằng không.
2.1.3 Thay đổi lợi ích kinh tế
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 14
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Khó khăn cuối cùng trong việc ghi nhận tài sản là làm sao để phản ánh thay đổi giá trị của
chúng qua thời gian. Loại tài sản nào, nếu có thay đổi thì nên ghi nhận tăng lên hay giảm xuống để
phù hợp với giá trị hợp lý của nó? Dưới đây chúng tôi thảo luận vấn đề này cho sự thay đổi giá trị
của tài sản hoạt động, công cụ tài chính, và sự biến động của tỷ giá hối đoái.
Ví dụ 1: Thay đổi giá trị của tài sản hoạt động.
Thay đổi giá trị tài sản hoạt động được phản ánh trong báo cáo tài chính bằng nhiều cách.
Chẳng hạn như, thay đổi giá trị khoản phải thu được phản ánh trong khoản dự phòng nợ khó đòi,
thay đổi giá trị của danh mục vốn cho vay được phản ánh trong dự phòng tổn thất, sự điều chỉnh lại
về thời gian sử dụng hữu ích của tài sản và giá trị còn lại được phản ánh trong ước tính phân bổ
khấu hao, và suy giảm giá trị hàng tồn kho và giá trị tài sản dài hạn được phản ánh trong điều chỉnh
giảm.
Chuẩn mực kế toán ở Hoa Kỳ không cho phép ghi nhận bất kỳ gia tăng nào trong giá trị tài sản
hoạt động so với nguyên giá của chúng. Tuy nhiên, khi lưu ý trong chương 7, SFAS 121 đòi hỏi
những tài sản hoạt động có giá trị bị suy giảm phải được điều chỉnh bằng với giá trị thị trường của
chúng, tức dưới giá vốn. Biện pháp này phù hợp với nguyên tắc thận trọng. Tất nhiên, thách thức
trong việc áp dụng chuẩn mực này là thường khó mà đánh giá liệu tài sản có bị sụt giảm giá trị, và

nếu có, lượng mất mát là bao nhiêu. Kết quả, nhà quản lý dường như phải thận trọng suy xét để
quyết định rằng giá trị tài sản có bi sụt giảm và phải ghi nhận sụt giảm là bao nhiêu. Câu hỏi đặt ra
là liệu công ty có trì hoãn ghi lại sự sụt giảm giá trị tài sản hay đánh giá thấp ảnh hưởng của sự sụt
giảm này. Mặt khác, một vài người cũng đặt ra câu hỏi rằng nhà quản lý có sử dụng giá trị bị sụt
giảm để khấu hao tài sản một cách thái qua nhằm cải thiện hình ảnh báo cáo trong tương lai.
Ở một số những vùng khác trên thế giới, quản lý được phép định giá tài sản bằng giá trị hợp lý
của chúng. Chẳng hạn, theo tiêu chuẩn của Úc và Vương quốc Anh, cho phép nhà quản lý tái định
giá tài sản cố định và tài sản vô hình nếu chúng đã tăng giá. Do đó, trong bản báo cáo tài chính
năm 1998, tập đoàn News, một công ty thông tin và truyền thông Úc dưới sự điều hành của Rupert
Murdoch, cho biết các tài sản vô hình của công ty gồm Quyền xuất bản, các Chủ đề và Giấy phép
truyền hình đã được nâng giá cho phù hợp với giá trị hợp lý của chúng. Giá trị hợp lý đã được ước
lượng bằng "chiết khấu thuần của luồng tiền mặt mong muốn thu vào phát sinh từ việc tiếp tục sử
dụng hoặc bán các tài sản này." (Xem chú thích 1 trong bản báo cáo thường niên của tập đoàn
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 15
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
News). Kết quả là, công ty cho thấy các tài sản vô hình trị giá 7,283 triệu AUD (đôla Úc) của mình
có giá trị hợp lý là 12,030 triệu AUD.
Do cho phép các công ty tái định giá tài sản, các chuẩn mực của Vương quốc Anh và Úc cho
phép nhà quản lý truyền đạt ước tính của họ về giá trị những tài sản quan trọng đến với nhà đầu tư.
Tuy nhiên, chúng cũng mang lại cơ hội gia tăng việc phóng đại giá trị tài sản.
4
Ví dụ 2: Thay đổi giá trị công cụ tài chính.
Nhiều tài sản tài chính được trao đổi trên một thị trường vốn có tính thanh khoản cao, cho phép
đạt được một giá trị khách quan tương đối. Đối với chứng khoán nợ, kể cả thị trường có thể không
phải là quá trầm hay quá thanh khoản, mô hình định giá tài chính vẫn cho phép ước tính một cách
đáng tin cậy giá trị tương đối của loại chứng khoán này. Lý thuyết tài chính công nhận rằng các
công ty (hoặc cá nhân) có thể thường mua hoặc bán công cụ tài chính trong thị trường tài chính với
giá thị trường hiện tại, với điều kiện là không có bất cân xứng thông tin. Kết quả là vì giá trị hợp lý

có thể bị định giá thấp, có thể độc lập kiểm tra, và có liên quan hơn với người dùng báo cáo tài
chính hơn là nguyên giá, nên đây là lý lẽ tốt có thể đưa ra để tiến hành ghi tăng hay giảm giá trị tài
sản theo giá thị trường.
Tất nhiên, nếu người sở hữu của công cụ tài chính thực hiện kiểm soát công ty, người sở hữu
khó có thể giao dịch với giá thị trường. Nỗ lực bán công cụ tài chính của những người này sẽ khiến
các nhà đầu tư khác nghĩ rằng đây là dịp tốt để bán, dẫn đến giảm giá. Điều này đưa đến nhận định
rằng ghi nhận giá trị những tài sản này theo thị trường là ít phù hợp.
Hình 4-2 tóm tắt những ảnh hưởng định giá của kế toán lên thay đổi giá trị của công cụ tài
chính. Nó cho thấy rằng ảnh hưởng của các báo cáo lệ thuộc chủ yếu vào động cơ của người sở
hữu.
Chuẩn mực kế toán Hoa Kỳ không cho phép công cụ tài chính được ghi lại với giá trị hợp lý của
chúng nếu chúng được sở hữu với mục đích kiểm soát. Thay vào đó, đầu tư được ghi nhận sử dụng
phương pháp vốn chủ sở hữu hoặc một phương pháp kết hợp. Phương pháp vốn chủ sở hữu được
sử dụng khi công ty sở hữu 20-50% cổ phiếu của công ty khác và được coi là có quyền kiểm soát
từng phần nhưng chưa phải là toàn bộ công ty kia (gọi là công ty liên doanh). Đầu tư sau đó được
định giá bằng chi phí ban đầu của nó cộng với lợi nhuận chia sẻ của người sở hữu có được từ tích
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 16
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
luỹ trong thay đổi lợi nhuận giữ lại của công ty liên doanh kể từ lúc việc đầu tư có hiệu lực. Với
khoản đầu tư vượt quá 50%, người sở hữu được coi là có đầy đủ quyền kiểm soát công ty con. Bên
đầu tư sau đó kết hợp tài sản của chi nhánh với tài sản của riêng mình. Hai phương pháp hợp nhất
được sử dụng. Nếu chi nhánh được mua bằng giao dịch tiền mặt, kế toán mua hàng được sử dụng.
Tài sản của chi nhánh sau đó có trong bảng cân đối kế toán của người sở hữu tại giá trị hợp lý của
họ tại thời điểm mua lại và sau đó phân bổ dần. Bất kỳ sự khác biệt nào giữa giá mua và giá trị hợp
lý của tài sản hữu hình thuần đều được ghi nhận là lợi thế thương mại và phân bổ trong thời hạn sử
dụng hữu ích của nó trong khoảng thời gian tối đa là bốn mươi năm. Nếu chi nhánh được mua bán
bằng cổ phiếu, phương pháp cộng vốn được dùng để ghi lại nghiệp vụ mua lại. Tài sản của chi
nhánh sau đó có trong bảng cân đối kế toán của người sở hữu với giá trị trên sổ sách ban đầu của

họ. Không có lợi thế thương mai trong trường hợp này.
Nếu người sở hữu của công cụ tài chính không thực hiện kiểm soát công ty kia, kế toán viên có
khuynh hướng sẽ định giá công cụ tài chính theo giá trị thị trường hợp lý. Chẳng hạn như, nếu mục
đích quyền sở hữu là để phòng ngừa thay đổi giá trị hợp lý của tài sản hoặc để phòng ngừa biến
động trong luồng tiền mặt thu vào hay sự chảy ra trong tương lai, công cụ tài chính sẽ được báo
cáo theo giá trị hợp lý. Nếu công ty giữ công cụ tài chính như là cách để dự trữ tiền mặt và bao
gồm dự định bán nó hoặc có sẵn nó để bán, công cụ tài chính sẽ được báo cáo theo giá trị hợp lý.
Chỉ khi nào quản lý mong rằng công cụ tài chính sẽ được nắm giữ cho đến kỳ đáo hạn thì nó được
ghi nhận theo nguyên giá.
2.1.4 Định giá các công cụ tài chính
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 17
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Ví dụ: Thay đổi giá trị các chi nhánh nước ngoài.
Nhiều công ty có các chi nhánh nước ngoài, giá trị tài sản của họ phải chịu sự ảnh hưởng từ thay
đổi bất thường của tỷ giá hối đoái. Những biến động này được nhận ra như thế nào? Tài sản của
các chi nhánh nước ngoài có được chuyển đổi sang đồng tiền địa phương ở tỉ lệ lịch sử khi tài sản
đươc mua lại hay không? Nếu không thì, có phải chúng được chuyển đổi theo tỷ giá hiện hành?
Chuẩn mực của Hoa Kỳ về báo cáo ảnh hưởng ngoại tệ lên giá trị tài sản yêu cầu nhà quản lý
phải ra quyết định về nguy cơ tỷ giá hối đoái có từ dự án làm ăn nước ngoài mới vào thời điểm nó
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 18
Q: Điều gì là động lực cho quyền sở hữu
các công cụ tài chính ?
A: Được sử dụng như là
một cách để thực hiện
một số mức độ kiểm
soát

qua một công ty khác.
Nếu vậy,mức độ kiểm
soát là gì?
A: Thay thế ngắn hạn cho
việc giữ tiền mặt
1. Có ý định bán hoặc có
sẵn để bán.
Phương pháp định giá: giá
trị hợp lý
2. Ý định nắm giữ đến
ngày đáo hạn.
Phương pháp định giá: Giá
gốc
A: Được sử dụng như là một
phần của chiến lược để tự
bảo hiểm giá trị hợp lý
của tài sản hoặc nợ phải
trả, hoặc tự phòng ngừa
sự không chắc chắn dòng
tiền trong tương lai
Phương pháp định giá:
giá trị hợp lý
A: Sở hữu từ 20% đến
50% của công ty khác.
Phương pháp định giá:
phương pháp vốn chủ
sở hữu: Đầu tư sau đó
được định giá bằng chi
phí ban đầu của nó
cộng với lợi nhuận chia

sẻ của người sở hữu có
được từ tích luỹ trong
thay đổi lợi nhuận giữ
lại của công ty liên
doanh
A: sở hữu hơn 50% các
công ty khác.
Định giá Các phương
pháp:
Kế toán mua hàng: tài sản
hữu hình được ghi nhận
giá trị hợp lý lúc mua lại,
và sau đó được khấu hao.
Lợi thế thương mại được
ghi nhận tại sự khác biệt
giữa giá mua và giá trị hợp
lý của tài sản ròng, và sau
đó phân bổ dần
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
được cam kết. Chi nhánh nước ngoài là được xem là cách ly chủ yếu khỏi ảnh hưởng của tỷ giá hối
đoái nếu doanh thu, chi phí của nó, và nguồn tài chính chủ yếu là bằng đồng tiền địa phương chứ
không phải là đồng tiền của công ty mẹ, và có rất ít giao dịch giữa công ty mẹ và chi nhánh. Trong
trường hợp này, tài sản có và nợ của chi nhánh cung cấp công cụ phòng ngựa tự nhiên chống lại
phần lớn sự không ổn định tỷ giá hối đoái. Chỉ có giá trị tài sản ròng là có thể phải chịu ảnh hưởng
từ biến động tỷ giá hối đoái. Do đó, SFAS 52 yêu cầu tài sản của chi nhánh (và nợ) để được
chuyển đổi theo tỉ giá hiện thời. Công mẹ sẽ chỉ chịu chi phối bởi ảnh hưởng của thay đổi tỷ giá
trên tài sản ròng. Những ảnh hưởng này được phản ánh trong vốn sở hữu của cổ theo đánh giá
chuyển đổi.
5
Rủi ro ngoại tệ cho các công ty kết hợp đang được xem là cao hơn nếu doanh thu hoặc chi phí

của chi nhánh được ghi nhận theo đồng tiền của công ty mẹ hoặc nếu có giao dịch thường xuyên
giữa hai bên. SFAS 52 sau đó yêu cầu tài sản có và nợ của chi nhánh phải được đánh giá sử dụng
phương pháp tiền tệ/phi tiền tệ. Bằng các phương pháp này, tài sản có và tài sản nợ tiền tệ (như là
tiền mặt, các khoản phải thu, khoản phải trả, và tài chính) được chuyển đổi theo tỉ giá hiện thời,
trong khi tài sản có và tài sản nợ phi tiền tệ (như là hàng tồn kho, tài sản cố định, và những tài sản
vô hình) được định giá theo tỉ giá lịch sử (khi giao dịch xảy ra).
2.2 Những quan niệm sai lầm thường thấy về kế toán tài sản
2.2.1 Nguồn lực được công ty trả tiền phải là tài sản.
Lôgic này thường được dùng để chứng minh lợi thế thương mại là tài sản. Nó tạo cho nhà quản
lý lợi ích trong việc ghi lại giá trị đầy đủ kinh phí hình thành là tài sản, giả định rằng nhà quản lý sẽ
không tiêu tốn kinh phí này nếu mang lại triển vọng về một số lợi ích tương lai.
Tuy nhiên, lôgic này lờ đi khả năng nhà quản lý đầy thiện chí vẫn có thể phạm lỗi hay một số
nhà quản lý hành động không mang lại lợi ích tốt nhất cho cổ đông. Hoạt động mua bán và sáp
nhập là đại diện của trường hợp này. Bằng chứng gần đây cho thấy sáp nhập và thôn tính thường
không tạo ra giá trị cho cổ đông. Giá trị của lợi thế thương mại ghi lại cho giao dịch này rất có thể
không phải là tài sản, mà chỉ đơn giản phản ánh sự chi trả quá lố của nhà quản lý cho mục tiêu hay
đánh giá quá cao của lợi ích liên doanh liên kết. Thực ra, thu nhập cổ phiếu sụt giảm cho nhiều nhà
thâu tóm khi có thông báo về việc mua lại cho thấy nhà đầu tư nghi ngờ lợi ích có được từ hoạt
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 19
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
động liên doanh liên kết này. Tuy nhiên, kế toán viên không phản ánh hoài nghi này trong giá trị
lợi thế thương mại cho đến khi có bằng chứng nó suy giảm.
Cũng đáng lưu ý là logic mà đề cập thanh toán là bằng chứng của việc ghi nhận tài sản không
luôn luôn được dùng trong kế toán. Chẳng hạn như, kinh phí cho nghiên cứu và phát triển không
được xem là tài sản, mặc dù nhà quản lý cũng làm kinh phí cho R&D với mong muốn tạo ra lợi ích
tương lai. Một vài lời giải thích cho mâu thuẫn này cũng được đề xuất. Một là có nguy cơ thất bại
cao cho bất cứ dự án nghiên cứu đơn độc nào. Tuy nhiên, một chương trình nghiên cứu có vẻ tạo ra
thành công. Thực ra, nó không rõ ràng là trường hợp nào mạo hiểm hơn-một chương trình nghiên

cứu hay một chương trình tiếp quản. Biện minh thứ hai cho phương pháp ghi nhận khác nhau là
R&D khó để kiểm tra hơn lợi thế thương mại. Tuy nhiên, điều này không phải là rõ ràng. Tóm lại,
với nhiều thương vụ mua lại thì không thể xác định rõ ràng được lợi ích nào thu được từ hoạt động
này, làm cho nó trở nên khó khăn để kiểm tra liệu lợi thế thương mai có bị sụt giảm. Ngược lại,
chương trình nghiên cứu có đầu ra có thể nhận biết được để kiểm tra liệu rằng chi phí được sử
dụng có tạo ra sản phẩm thành công không.
2.2.2 Nguồn lực không thể loại trừ thì không thể là tài sản
Quan điểm này thường dùng để chứng minh sự ghi giảm nhanh giá trị hoặc sự loại trừ của tài
sản vô hình khỏi bảng cân đối kế toán. Chắc chắn là có thể sẽ khó ước tính lợi ích kinh tế từ một số
tài sản vô hình. Như nêu trên, điều này là đặc biệt đúng với lợi thế thương mại. Tuy nhiên, bản chất
vô hình của một số tài sản không có nghĩa là chúng không có giá trị. Thực ra, đối với nhiều công ty
thì dạng tài sản này chiếm trị giá lớn nhất. Chẳng hạn như, hai tài sản quý giá nhất của công ty
Merck là khả năng nghiên cứu mà cho phép nó tạo ra loại thuốc mới, và đội ngũ nhân viên bán
hàng giúp công ty bán các loại thuốc này cho bác sĩ. Tuy nhiên chúng chưa bao giờ được ghi lại
trên bảng cân đối kế toán của Merck.
Từ quan điểm của nhà đầu tư, sự miễn cưỡng của kế toán viên khi định giá tài sản vô hình
không làm giảm tầm quan trọng của chúng. Nếu chúng không được ghi nhận trong báo cáo tài
chính, nhà đầu tư phải nhìn vào những nguồn thông tin khác về các tài sản này.
2.2.3 Nguồn lực được mua là tài sản, phát triển một nguồn lực thì không phải là tài sản
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 20
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Lời tuyên bố này thường xuyên dùng để chứng minh việc ghi nhận các tài sản vô hình có được
từ hoạt động mua lại, như là R&D và thương hiệu, nhưng không ghi nhận tài sản cho chi phí của
những tài sản vô hình phát sinh nội bộ. Lôgic cho phân biệt này là những tài sản vô hình đã hoàn
thiện, như là chương trình R&D đã hoàn tất và thương hiệu đã được xây dựng, có thể được định
giá nhanh chóng hơn so với các tài sản vô hình đang phát triển. Khi lập luận này có thể là đúng, nó
cho phép hai công ty sở hữu cùng loại tài sản vô hình để có phương pháp kế toán rất khác nhau cho
hoạt động của họ. Công ty tạo ra những tài sản này trong nội bộ không ghi nhận bất kỳ giá trị nào

cho tài sản, trong khi công ty mua lại các tài sản này sẽ phản ánh chúng trên bảng cân đối kế toán.
Câu hỏi thực sự cho nhà đầu tư trong phân biệt mua và phát triển tài sản nội bộ là liệu có sự
khác biệt nào trong lợi ích chắc chắn và mong đợi trong tương lại của hai tài sản. Nếu không có sự
khác biệt, nhà đầu tư sẽ xem cả hai như tài sản có giá trị và quan tâm đến định giá giá trị của
chúng, làm cách nào chúng được quản lý, và liệu chúng có sụt giảm giá trị theo thời gian. Vì vậy,
nếu kế toán viên không chọn ghi nhận tài sản phát sinh nội bộ, nhà đầu tư sẽ buộc phải tìm nguồn
thông tin khác cho những tài sản này.
2.2.4 Giá trị thị trường có liên quan nếu tài sản dự định được bán.
Quan điểm này rất phổ biến, kế toán viên thường chỉ xét đến giá trị hợp lý tài sản khi người sở
hữu dự định bán chúng. Chẳng hạn như, khi thảo luận trên, chuẩn mực của Hoa Kỳ, về định giá
những chứng khoán dễ giao dịch mà được nắm giữ nhưng một cách dự trữ tiền, yêu cầu người sở
hữu phải ghi nhận giá trị tài sản này theo giá trị hợp lý của chúng chỉ khi họ dự định bán chúng
hoặc các công cụ này sẵn sàng để bán. Nếu nhà quản lý dự định nắm giữ những công cụ này cho
đến kỳ đáo hạn, chúng được định giá theo nguyên giá.
Lôgic này ngụ ý rằng có thể tránh gánh chịu thiệt hại kinh tế bằng cách chỉ cần không bán tài
sản. Nhà kinh tế học sẽ coi những quan điểm thế này là lố bịch. Nếu bạn sở hữu cổ phiếu trong
Microsoft và giá trị hợp lý của nó gia tăng, theo đó vốn sở hữu của bạn cũng gia tăng phù hợp.
Điều này hiển nhiên bất kể dù bạn có dự định bán cổ phiếu Microsoft hay không. Giá trị hợp lý
của cổ phiếu phản ánh ước tính tốt nhất của thị trường về nguồn lực sẽ sẵn sàng nếu bạn bán tài
sản. Kế hoạch của bạn về việc bán hoặc giữ tài sản thì không liên quan cho giá trị của nó. Lưu ý
rằng điều này có thể không phải là đúng cho tài sản hoạt động. Giá trị hợp lý của một thiết bị có
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 21
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
thể ít hơn giá trị sử dụng của nó. Hơn nữa, tài sản với giá trị sử dụng cao chính xác là loại tài sản
mà công ty có thể nắm giữ. Do đó, giá trị hợp lý của tài sản hoạt động có thể tách rời có thể không
phải phản ánh đầy đủ trong giá trị của chúng với công ty.
2.3 Phân tích cơ cấu vốn
2.3.1 Phân tích cơ cấu bảng cân đối

Bảng cân đối kế toán của một công ty phản ánh bức tranh về tất cả các nguồn ngân quỹ nội bộ
(được gọi là nợ và vốn của chủ sở hữu) và việc sử dụng nguồn ngân quỹ đó tại một thời điểm nhất
định. Phương trình cơ bản xác định bảng cân đối kế toán được trình bày như sau:
Tổng tài sản = tổng nợ + vốn chủ sở hữu (vốn cổ phần)
• Phân tích cơ cấu tài sản:
Các khoản mục trong phần tài sản của bảng cân đối kế toán được sắp xếp theo thứ tự tính thanh
khoản giảm dần. Chúng bao gồm: tiền mặt, các chứng khoán thị trường, các khoản phải thu,
nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang và thành phẩm. Những tài sản này gọi là tài sản lưu động. Tài
sản còn lại trong bảng cân đối kế toán gồm các tài sản dài hạn, thường ít có tính thanh khoản như
văn phòng, nhà kho, thiết bị.
Bảng cân đối kế toán không bao gồm hết tất cả tài sản của công ty. Một vài tài sản có giá trị
nhất lại là tài sản vô hình như bản quyền, danh tiếng, kỹ năng quản lý và lực lượng lao động lành
nghề thường không được phản ánh trong bảng cân đối kế toán. Các kế toán viên thường cân nhắc
khi ghi tài sản này vào bảng cân đối kế toán trừ khi chúng được xác định và đánh giá.
Tỷ trọng từng loại tài sản trong tổng tài san và xu hướng biến động.
Lập Bảng phân tích cơ cấu tài sản. So sánh số đầu kỳ và cuối kỳ. Từ Bảng phân tích cho thấy
điều gì?
• Phân tích cơ cấu nguồn vốn:
Phần bên phải của bảng cân đối kế toán cho thấy nguồn tiền nào dùng để mua tài sản. Trước
tiên đó là những khoản nơ gồm nợ phải trả trong năm gọi là nợ ngắn hạn. Chênh lệch giữa tài sản
lưu động và nợ ngắn hạn gọi là vốn luân chuyển ròng. Tiếp theo là các khoản nợ dài hạn của công
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 22
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
ty do phát hành trái phiếu hay vay trực tiếp ở ngân hàng. Phần còn lại là vốn cổ phần. Vốn cổ
phần của công ty đơn giản chỉ là tổng giá trị của vốn luân chuyển ròng và tài sản cố định trừ cho
nợ dài hạn. Một phần của vốn cổ phần có được là do bán cổ phần cho các nhà đầu tư, phần còn lại
là từ lợi nhuận giữ lại của các cổ đông để tái đầu tư vào công ty.
Lập Bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn. So sánh số đầu kỳ và cuối kỳ. Từ Bảng phân tích cho

thấy điều gì?
• Phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn
o Hệ số nợ so với tài sản: Phản ánh mức tài trọ tài sản của doanh nghiệp bằng các
khoản nợ.
o Hệ số nợ so với tài sản = Nợ phải trả / Tài sản.
o Hệ số tài sản so với nguồn vốn chủ sở hữu = Tài sản / VCSH
2.3.2 Phân tích cơ cấu báo cáo kết quả kinh doanh.
• Nếu bảng cân đối kế toán cho thấy bức ranh về tài sản công ty tại một thời điểm cụ thể thì
báo cáo thu nhập lại giống như một cuộn băng video, nó chiếu lại trong năm vừa qua công
ty đã thu lợi như thế nào.
• Báo cáo kết quả kinh doanh của DN độc lập ở nhiều cấp độ khách nhau cũng như nhiều
lĩnh vực khác nhau. Vì vậy cơ cấu của chúng thường được coi là bí mật kinh doanh.
Thường phân tích báo cáo kết quả kinh doanh ở mức độ tổng quát toàn doanh nghiệp trong
một giai đoạn nhất định.
• Cách lập bảng cơ cấu: Doanh thu ròng: 100%, tính tỷ lệ phần trăm cho các chỉ tiêu cụ thể.
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 23
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
2.4 Phân tích các tỷ số tài chính
2.4.1 Tỷ số thanh toán : đo lường khả năng thanh toán của công ty
• Khả năng thanh toán hiện thời:
Rc= TSLĐ / Nợ ngắn hạn
Tỷ số Rc cho thấy công ty có bao nhiêu tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt để đảm bảo
thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tỷ số này đo lường khả năng trả nợ của công ty.
Nếu tỷ số thanh toán hiện hành giảm cho thấy khả năng thanh toán giảm và cũng là dấu hiệu
báo trước những khó khăn ài chính sẽ xảy ra.
Nếu tỷ số thanh toán hiện hành cao điều đó có nghĩa là công ty luôn sẵn sang thanh toán cá
khoản nợ. Tuy nhiên, nếu tỷ số thanh toán hiện hành quá cao sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động vì
công ty đã đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động hay nói cách khác việc quản lý tài sản lưu động

không hiệu quả. Một công ty dự trữ hàng tồn kho thì sẽ có tỷ số thanh toán hiện hành cao, mà ta đã
biết hàng tồn kho là tài sản khó hoán chuyển thành tiền, nhất là hàng tồn kho ứ đọng, kém phẩm
chất. Vì thế, trong nhiều trường hợp, tỷ số thanh toán hiện hành không phản ánh chính xác khả
năng thanh toán của công tỵ.
• Khả năng thanh toán nhanh
Rq = (TSLD – Hàng tồn kho)/ Nợ ngắn hạn
Tỷ số thanh toán nhanh được tính toán dựa trên những tài sản lưu động có thể nhanh chóng
chuyển đổi thành tiền, đôi khi chúng được gọi là “Tài sản có tính thanh khoản’ bao gồm tất cả tài
sản lưu động trừ hàng tồn kho.
2.4.2 Tỷ số hoạt động : đo lường mức độ hoạt động lien quan đế tài sản của công ty
Các tỷ số hoạt động đo lường hoạt động kinh doanh của một công ty. Để nâng ca tỷ số hoạt
động, các nhà quản trị phải biết những tài sản chưa dung hoặc không dung tạo ra thu nhập. Vì thế
công ty cần phải biết cách sử dụng chúng có hiệu quả hoặc loại bỏ chúng đi. Tỷ số hoạt động đôi
khi còn gọi là tỷ số hiệu quả hoặc tỷ số luân chuyển.
• Số vòng quay các khoản phải thu: (Hiệu suất sử dụng khoản phải thu)
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 24
MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Các khoản phải thu là những hóa đơn bán hàng chưa thu tiền về do công ty thực hiện chính sách
bán chịu và các khoản tạm ứng chưa thanh toán, khoản trả trước cho người bán.
Số vòng quay các khoản phải thu được sử dụng để xem xét cẩn thận việc thanh toán các khoản
phải thu. Khi khách hàng thanh toán tất cả các hóa đơn của họ, lúc đó các khoản phải thu quay
được một vòng.
Vòng quay khoản phải thu = Doanh thu thuần/ Các khoản phải thu
Số vòng quay các khoản phải thu cao hay thấp phụ thuộc vào cách chính sách bán chịu của công
ty. Nếu số vòng quay thấp thì hiệu quả sử dụng vốn kém do vốn bị chiếm dụng nhiều. Nhưng số
vòng quay của các khoản phải thu cao quá sẽ làm giảm sức cạnh tranh dẫn đến giảm doanh thu.
• Số vòng quay hàng tồn kho
Số vòng quay hàng tồn kho là một tiêu chuẩn đánh giá công ty sử dụng hàng tồn kho của mình

hiệu quả như thế nào.
Vòng quay hàng tồn kho = Doanh thu thuần / Hàng tồn kho
Số vòng quay hàng tồn kho cao hay thấp tùy thuộc vào đặc điểm ngành kinh doanh.
• Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Tỷ số này nói lên 1$ tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu $ doanh thu. Qua đó đánh giá hiệu
quả sử dụng tài sản cố định ở công ty.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Doanh thu thuần / Tài sản cố định
• Hiệu suất sử dung toàn bộ tài sản
Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản đo lường 1$ tài sản tham gia vào quá trình sản xuất kinh
doanh sẽ tạo ra bao nhiêu $ doanh thu.
Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản = Doanh thu thuần / Toàn bộ tài sản
• Hiệu suất sủa dụng vốn cổ phần
Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần đo lường mối quan hệ giữa doanh thu và vốn cổ phần.
Hiệu suất sủa dụng vốn cổ phần = Doanh thu thuần / Vốn cổ phần.
Lớp: Tài Chính Doanh Nghiệp 01
Khóa: K13
Nhóm:03 25

×