1
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Nuôi trồng Thuỷ sản (NTTS) đã và đang là nghành kinh tế mũi nhọn góp
phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Với diện tích nuôi trồng
rộng lớn cùng với thời tiết, khí hậu thuận lợi nên nuôi trồng thuỷ sản nước ta phát
triển khá mạnh với nhiều hình thức nuôi và nhiều đối tượng nuôi.
Vùng ven biển nước ta trước nay thường nuôi đối tượng có giá trò kinh tế lớn
là tôm, nhưng với tình hình khó khăn của tôm như hiện nay thì người nuôi đã chuyển
hướng sang nuôi cua biển. Cua biển là một trong những loài có giá trò kinh tế cao và
là loại thực phẩm đươc ưa chuộng trên thò trường trong và ngoài nước vì vậy nên có
giá trò xuất khẩu rất cao.
Hiện nay nghề nuôi cua ở nước ta đang phát triển mạnh ở các tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long, các tỉnh và thành phố như Hải Phòng, Nam Đònh, Ninh Bình, Thái
Bình, Huế, Phú Yên, Khánh Hoà…. Hình thức nuôi chủ yếu chỉ dừng lại ở nuôi
quảng canh hoặc quảng canh cải tiến. Tuy nhiên người nuôi cũng gặp rất nhiều khó
khăn về con giống cũng như sự hao hụt nhiều trong quá trình nuôi. Nguồn cua giống
có được chủ yếu là do khai thác từ tự nhiên, nguồn cua giốâng có được trong việc sản
xuất nhân tạo vẫn còn rất hạn chế vì tỷ lệ sống của ấu trùng cua trong các đợt ương
nuôi ấu trùng là rất thấp.
Việc sản xuất giống cua biển thành công và việc phát triển rộng rãi nghề sản
xuất cua giống nhân tạo trên toàn quốc hiện nay là một thành tựu lớn góp phần phát
triển đa dạng nghề nuôi thuỷ sản ở Việt Nam. Tuy nhiên, cần có những nghiên cứu
tiếp theo nhằm hoàn thiện quy trình sản xuất nhân tạo giống cua biển. Có nhiều
nguyên nhân khiến cho tỷ lệ sống đến cua giống còn thấp, trong đó nguyên nhân
quan trọng là tỷ lệ chết cao ở giai đoạn Zoea3 – Zoea5. Theo một số tác giả ấu
trùng Zoea3 – Zoea5 chết đã phân lập được nhiều chủng vi khuẩn nhưng chưa xác
lập được mối quan hệ. Sự hoạt động của vi khuẩn đã ảnh hưởng tới ấu trùng cua
khiến ấu trùng cua chết hàng loạt. Như vậy vai trò của vi khuẩn đến hiện tượng chết
2
hàng loạt ở các giai đoạn phát triển của ấu trùng cua biển từ Zoea3 – Zoea5 trong
các trại sản xuất giống hiện nay như thế nào? Xuất phát từ các yêu cầu thực tế và
các lý do trên, khoa Nuôi trồng thuỷ sản trường Đại học Thuỷ sản cùng với sự giúp
đỡ của phòng Bệnh thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản III tôi đã được thực
hiện đề tài:
“Bước đầu tìm hiểu vai trò của vi khuẩn trong hiện tượng chết hàng loạt của ấu
trùngcua biển (Scylla spp) giai đoạn Zoea3 – Zoea5 trong các trại sản xuất giống tại
Nha Trang, Khánh Hoà.”.
* Đề tài thực hiện với các nội dung sau:
• Điều tra tình hình bệnh ở ấu trùng trong các trại sản xuất cua giống tại Nha
Trang _ Khánh Hoà.
• Xác đònh thành phần loài vi sinh vật phân lập từ ấu trùng cua giai đoạn
Zoea3 – Zoea5.
• Xác đònh khả năng gây bệnh của cá loài vi khuẩn phân lập được từ ấu trùng
cua (Zoea3 – Zoea5) với tần số phân lập cao trong quá trình nghiên cứu.
Do khối lượng thông tin, thời gian và khả năng nghiên cứu cùng với trang
thiết bò, cơ sở vật chất còn hạn chế nên đề tài này không tránh khỏi những khuyếm
khuyết. Tôi rất mong được sự góp ý của quý thầy cô cùng các bạn sinh viên để đề
tài này hoàn thiện hơn.
Nha Trang, tháng 11 năm 2005
Sinh viên thực hiện
Bùi Thò Hiên
3
PHẦN 2: TỔNG LUẬN
2.1.Vài nét về đối tượng nghiên cứu.
Hệ thống phân loại của cua biển.
Nghành : Arthropoda
Lớp : Crustacea
Bộ : Decapoda
Họ : Porturidae
Giống : Scylla
Loài :
Tên tiếng Anh : Blue crab, Mud crab, Mangrove crab…
Tên tiếng Việt : Cua xanh, cua bùn, cua biển
2.1.1. Đặc điểm hình thái:
Cua Xanh (còn gọi là cua biển) có kích thước tương đối lớn có thể đạt khối
lượng 2kg cua có màu xanh lục hoặc mầu vàng sẫm, mặt bụng thường có màu sáng
hơn mặt lưng. Cơ thể dẹp theo hướng lưng bụng và chia thành hai phần: phần đầu
ngực lớn nằm trong giáp đầu ngực (mai cua), phần bụng nhỏ và gập lại dưới giáp
đầu ngực (yếm cua) (Hoàng Đức Đạt 1995)
Hình 1: Hình thái bên ngoài của cua
Scylla serrata
S. paramamosain
S. olivacea
S. tranquebarica
4
1 - Anten I 3 - Mắt 5 - Chân bò 7 – Bụng ( yếm)
2 - Anten II 4 - Càng 6 - Chân bơi 8 – Vùng dạ dày
9 - vùng gan tụy 10 - Vùng tim 11 - Vùng mang 12 - vùng tuyến sinh dục
13 – Vùng ruột
2.1.2. Đặc điểm sinh học của cua biển.
• Tập tính sống.
Vòng đời của cua biển trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau và mỗi
giai đoạn có một hình thái và tập tính sống khác nhau.
- Giai đoạn ấu trùng: Ấu trùng Zoea bơi lội trong nước có tính hướng quang
mạnh, ăn các loại tảo đơn bào, luân trùng, Artemia. Sau 5 lần lột xác chuyển thành
ấu trùng Megalope, ấu trùng Megalope bơi lội nhanh nhẹn có thể bò bám trên nền
đáy bắt mồi tích cực. Sau 8 -10 ngày ấu trùng Megalope lột xác thành cua con.
- Giai đoạn cua con: Sống ẩn trong các vật nằm ở đáy, bắt mồi tích cực ăn
động thực vật thủy sinh nhỏ, thức ăn chế biến. Cua lột xác nhiều lần để sinh trưởng
và phát triển.
- Giai đoạn trưởng thành: Cua sống trong hang đất ăn thức ăn chế biến và
thức ăn tươi sống. Cua có tập tính trú ẩn vào ban đêm, di cư vào vùng nước mặn ven
biển để sinh sản.
Từ ấu trùng đến cua trưởng thành phải trải qua nhiều lần lột xác, cua vừa sinh
trưởng vừa biến thái thay đổi về kích thước, hình thái cấu tạo để đạt được hình dạng
và cấu tạo thực thụ.(Hoàng Đức Đạt, 1995)
• Điều kiện sinh thái của cua biển.
Cua sống ở vùng nước lợ có pH từ 7,5 – 9,2. Thích hợp nhất từ 7,5 – 8,2. Tuy
nhiên cua có thể chòu đựng được pH thấp hơn 6,5.
- Cua có thể thích ứng cao với sự thay đổi độ mặn của nước. Độ măn thích
hợp nhất từ 28-30ppt.
- Nhiệt độ thích hợp nhất là từ 25-29
0
C. Nhiệt độ cao có ảnh hưởng xấu đến
hoạt động sinh lý của cua và là một trong những nguyên nhân gây chết cua.
5
- Cua thích sống ở những nơi có nhiều thực vật thủy sinh, có bờ để đào hang trú
ẩn. Rừng ngập mặn ven biển là nơi thích hợp cho cua sinh trưởng và phát triển.
• Tập tính hoạt động.
- Tập tính đào hang: Cua thường đào hang làm nơi trú ẩn, cua đào hang rất giỏi
có hang dài đến 1m, có thể xuyên qua bờ ao (đây là một trong những nguyên nhân
gây hao hụt cua trong quá trình nuôi ).
- Bò qua bờ, rào cản: Cua có thể bò trên cạn, qua rào chắn để thoát khỏi ao,
đầm nhất là thời kỳ thành thục.
- Tính hung dữ và khả năng tự vệ: Tính hung dữ có từ ấu trùng Megalope đến
cua trưởng thành. Khi đói, thiếu thức ăn chúng có thể ăn lẫn nhau. Con khỏe tấn
công con yếu, con mới lột xác. Bộ phận phần phụ bò mất đi của cua có thể được tái
sinh sau lần lột xác mới.
- Hoạt động bắt mồi: Cua là loài ăn thòt và thường kiếm ăn vào ban đêm, cua
bắt tích cực nhưng cũng có thể nhòn đói nhiều ngày trong điều kiện bất lợi.
• Đặc điểm sinh sản.
- Kích thước thành thục: Hầu như toàn bộ những cá thể có chiều rộng giáp đầu
ngực
≥
10cm, tương ứng với trọng lượng trung bình toàn thân
≥
276g đều thành thục
và có khả năng tham gia sinh sản. (Nguyễn Cơ Thạch, 1998)
- Mùa vụ sinh sản: Cua xanh có thể đẻ trứng quanh năm tuy nhiên mùa vụ sinh
sản chính tập chung từ tháng 2 đến tháng 3 và từ tháng 7 đến tháng 8 trong năm
(Nguyễn Cơ Thạch, 1998)
- Di cư sinh sản: Cua có tập tính di cư ra vùng biển có độ mặn cao 30 – 35ppt,
để giao vó đẻ trứng, ấp nở ấu trùng.
2.2. Sơ lược về tình hình sản xuất giống cua biển nhân tạo:
2.2.1. Tình hình sản xuất cua giống trên thế giới.
Trên thế giới đã có những công trình nghiên cứu về: vòng đời, các đặc điểm
sinh lý, sinh hóa, kỹ thuật sinh sản nhân tạo, sự tác động của các yếu tố môi trường
như: nhiệt độ, độ mặn…đến sinh trưởng và phát triển của cua xanh.
6
Từ những kết quả nghiên cứu về đặc điểm sinh học sinh sản nhiều tác giả đã
thử nghiệm cho cua xanh đẻ và ương nuôi ấu trùng trong điều kiện nhân tạo. Năm
1974 Brick đã thử nghiệm tìm hiểu ảnh hưởng của chất lượng nước, thuốc kháng
sinh, phytoplankton và thức ăn đến tỷ lệ sống của ấu trùng cua xanh Scylla cerrata
(Forskal) và thu được kết quả là: ấu trùng cua xanh đã được nuôi thành công khi sử
dụng phối hợp giữa thuốc kháng sinh – Phytoplankton – Nauphius của Artermia.
Tảo chlorella có tác dụng làm tăng tỷ lệ sống của ấu trùng Zoae, Nauplius
của Artemia được coi là thức ăn thích hợp nhất, lọc nước và khử nước bằng tia cực
tím không làm thay đổi tỷ lệ sống của ấu trùng. Nhiệt độ nước từ 26
0
C – 30
0
C, độ
mặn 25 –30ppt và pH từ 7,0 – 8,5 được coi là những điều kiện thích hợp để ương ấu
trùng cua xanh (Cheng; Teng 1980).
Năm 1983 Heasman và Fielder đã thử nghiệm cho đẻ ở phòng thí nghiệm và
nuôi đại trà cua xanh từ giai đoạn Zoae đến cua bột, tác giả cho rằng: cần duy trì
chất lượng nước bằng hệ thống lọc nước tuần hoàn, các điều kiện nhiệt độ nước
27
0
C, độ mặn 28 – 30ppt, mật độ thức ăn (Nauplius của Artemia) từ 5 – 30 con/lít
được coi là các điều kiện thích hợp cho quá trình ương nuôi ấu trùng. Với các điều
kiện như trên thời gian chuyển từ Zoae đến cua bột là 30 ngày, tỷ lệ sống ở giai
đoạn Zoae là 1- 4%.
Các nhà khoa học Đài Loan ương nuôi ấu trùng cua đạt tỷ lệ sống 60% do sử
dụng kháng sinh, bổ sung thức ăn bằng ấu trùng veliger của nhuyễn thểå, copepoda,
rotifer (Cowan Lynda,1984).
2.2.2.Tình hình sản xuất cua giống tại Việt Nam.
Những năm gần đây nghề nuôi tôm gặp phải nhiều khó khăn như dòch bệnh,
giá cả thò trường bấp bênh… người nuôi tôm có hướng chuyển dần sang nuôi cua
hoặc xen canh một vụ tôm một vụ cua. Mô hình nuôi một vụ cua và một vụ tôm sú
được ứng dụng rộng rãi, và đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, phần nào hạn chế dòch
bệnh tôm. Song do nhu cầu phát triển nghề nuôi cua đã nẩy sinh khó khăn lớn là
giải quyết nguồn cua giống. Nguồn cua giống chủ yếu là do khai thác ngoài tự
7
nhiên, nếu chúng ta tiếp tục khai thác nguồn cua giống tự nhiên thì có thể ảnh
hưởng đến nguồn lợi cua tự nhiên.
Để giải quyết vấn đề cua giống, Bộ Khoa Học Công Nghệ - Môi trường và
Bộ Thủy sản đã quan tâm và giao nhiệm vụ cho các viện nghiên cứu triển khai thực
hiện từ năm 1980.
Trong những năm 1980, Nguyễn Văn Chung tập trung nghiên cứu đònh loại
loài và một số đặc điểm sinh học làm cơ sở cho những nghiên cứu sau này. Trong
những năm 1990, Hoàng Đức Đạt, Đoàn Văn Đẩu và Nguyễn Cơ Thạch đã nghiên
cứu các đặc điểm sinh học và sản xuất giống nhằm xây dựng quy trình sản xuất cua
giống nhân tạo, song kết quả vẫn còn nhiều hạn chế. Từ năm 1998, Bộ KHCN –
MT đã giao cho trung tâm NCTS III nay là Viện NCTS III thực hiện đề tài “Nghiên
cứu sinh sản nhân tạo và xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất giống cua xanh
Scylla paramamosain” Kết quả nghiên cứu của đề tài này được ứng dụng vào sản
xuất, nhằm tạo ra nhiều con giống để phát triển nghề nuôi cua trong cả nước.
Năm 2003, Nguyễn Cơ Thạch đã công bố quy trình sản xuất cua giống loài
S.paramamosain Estampado (1949). Công nghệ sản xuất giống nhân tạo cua xanh
đã được chuyển giao tới các trung tâm khuyến ngư của nhiều đòa phương: Nam
Đònh, Ninh Bình, Hải Dương, Khánh Hoà, Cà Mau… và bắt đầu lan rộng, phát triển
rộng khắp trên cả nước. Người dân bắt đầu làm quen và sản xuất đối tượng mới này.
Tuy nhiên trong quá trình sản xuất gặp không ít khó khăn đặc biệt là tình hình dòch
bệnh xẩy ra đã làm cho tỷ lệ sống của ấu trùng thấp, ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu
quả sản xuất. Một vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu để tìm ra biện pháp phòng và trò
bệnh cho ấu trùng cua từ đó sẽ nâng cao được tỷ lệ sống của ấu trùng cũng như tăng
hiệu quả sản xuất.
8
2.3. Tình hình nghiên cứu bệnh cua.
2.3.1 Tình hình nghiên cứu bệnh cua trên thế giới.
Bảng 1: Danh mục các bệnh trên cua xanh. (Sindermann 1983)
Tác nhân gây
bệnh
Vò trí
cảm
nhiễm
Tác hại Phân bố Nguồn tài
liệu
1. Virus
Reo-like virus
disease
( RLV)
Gan, cơ,
hệ thần
kinh, hệ
bạch
huyết
Có thể gây chết
trong 3 ngày
Vònh
Chincoteague
Chesapeake
Johnson &
Bodammese
r, 1975
Rhabdo-like virus
“A”
(RHVA)
Tế bào
thần
kinh, tế
bào máu
và mô cơ
Có thể gây chết
hàng loạt
Đại Tây
Dương
Mê-Hi-Cô
Jharomi,
1977
Hình 2:
Các giai đoạn phát triển của ấu trùng cua xanh
(Scylla spp
)
9
Picorna-like virus
(CBV)
Tế bào
thần, tế
bào biểu
bì, mang
Gây chết trong
khoảng 2 tuần
đến 2 tháng
Vònh
Chesapeake
Johnson,
1983
Herpes-like virus
(HLV)
Tế bào
máu
Tỷ lệ cảm nhiễm
rất cao, gây chết
trong 1-2 tháng
Vònh
Chincoteague
Asswoman
Johnson,
1983
2. Vi khuẩn
Vibrio
parahemolyticus
Hệ bạch
huyết
Gây chết cao ở
giai đoạn lột xác
trong thời gian
ngắn
Vònh
Chesapeake
Krantz 1969
Các loài vi khuẩn
Hệ bạch
huyết
Nhiễm cao Vònh
Chesapeake
Colwell
1975
3. Nấm
Lagennidium
callinectes
Trứng và
ấu trùng
Nhiễm cao từ 25
– 50%
Đại Tây
Dương
Couch,
1942;
Rogers -
Talbert,
1948
4. Protozoa
amesonmichaelis Mô cơ Gây chết nhanh Đại Tây
Dương
Sprague,
1970
Paramoebapernic
iosa
Mô và
bệnh
bạch
huyết
Nhiễm cao, gây
chết trong khoảng
30 ngày
Đại Tây
Dương
Overstret,
1978;
Couch, 1974
Hematodinium
perezi
Hệ bạch
huyết
Nhiễm cao, ở giai
đoạn tiền trưởng
thành có thể gây
chết 100%
Đại Tây
Dương
Mê- hi- cô
Newman &
Johnson,
1975
5. Helminths (worms)
Microphallus và
bệnh chấm tiêu
(Pepper-spot
disease)
Trong
các mô
Không gây chết Đại Tây
Dương
Mê-hi-cô
Overstret,
1978;
Couch,1974
Carcinonemertes
caricinophila
Trứng
Tỷ lệ cảm nhiễm
cao từ 5 – 25%
Đại Tây
Dương
Mê-hi-cô
Humes,
1942
10
• Bệnh do virus:
Virus là tác nhân vô cùng nguy hiểm, khi cua bò nhiễm virus tuỳ từng loài
virus mà thời gian phát hiện bệnh dài hay ngắn có thể từ 3 ngày cho đến 3 tháng.
Cua chết hàng loạt khi bệnh xảy ra. Theo các nghiên cứu ở nước ngoài thì có 8 loại
virus gây bệnh cho cho cua. Trong 8 loại virus được tìm thấy ở cua xanh có 4 loài
được biết như là nguyên nhân gây nên dòch bệnh ở vònh Chesapeake và
Chincoteague. (Johnson, 1983)
Picorna-like virus (CBV) khi nhiễm ở cua với số lượng lớn làm cho cua bò
tress và chết, biểu hiện ra bên ngoài như chân run nhẹ, tê liệt hoặc bò mù, vận động
không bình thường. Bệnh phát triển chậm cua nhiễm bệnh có thể chết sau 2 tuần
đến 2 tháng.
Reolike virus (RLV) có kích thước vô cùng nhỏ, vòng đời rất ngắn và có thể
gây bệnh cấp, thí nghiệm cho thấy cua bò nhiễm sẽ bò chết trong vòng 3 ngày
(Johnson và Bodanmser 1975). Virus này tác động lên hệ thần kinh, làm giảm chức
năng của hệ miễn dòch làm cua hoạt động kém và hệ bạch huyết bò phá huỷ. Bệnh
này trong tự nhiên không kiểm tra được nhưng sự lây nhiễm trong thời gian dài của
RLV sẽ là một sự quan tâm lớn và quan trọng của nghề nuôi cua công nghiệp
(Johnson, 1983).
Herpeslike virus (HLV), virus này thuộc giống Baculavirus dạng không có
thể ẩn nhiễm vào hệ thống sinh dục, phá huỷ biểu mô và cơ quan cảm giác xâm
nhập vào tế bào máu và gây chết trong vòng 1-2 tháng (Anderson and Prior. 1992).
• Bệnh do vi khuẩn.
Vi khuẩn là một trong những tác nhân gây hại rất lớn đến cua nuôi cũng như
các loại động vật thủy sản khác. Vi khuẩn có thể là tác nhân trực tiếp hoặc gián tiếp
làm cho đối tượng nuôi bò chết. Bệnh do vi khuẩn là nhóm đối tượng phổ biến đối
với nuôi trồng, làm ảnh hưởng tới năng suất cũng như sản lượng nuôi. Bệnh do vi
khuẩn phổ biến ở các loài giáp xác là sự bào mòn vỏ kitin, phá hủy vỏ kitin (Benton
1935; Zoobell & Kittenberg 1938, Hock 1940, 1941; Hood & Meyrs 1974). Nhiều
11
nghiên cứu đã xác đònh được hơn 30 loài vi khuẩn là tác nhân gây bệnh hoại tử lớp
vỏ kitin của nhiều loài giáp xác, trong đó có cua.
Theo Kantz (1969) vi khuẩn có tác hại lớn nhất cho cua và thường gây nên
dòch bệnh cho cua là vi khuẩn Vibrio, chúng thường nhiễm vào máu vật chủ dẫn đến
tỷ lệ hao hụt từ 50 ÷70% có khi lên tới 100%. Vibrio parahaemolyticus tác dụng lên
máu và tế bào thần kinh của cua và gây chết chỉ trong 72h. Theo tác giả thì Vibrio
parahaemolyticus là tác nhân chính gây bệnh hoại tử và thối mai ở cua. Vibrio là
chủng vi khuẩn có khả năng tiết ra các men Kitinase, Lipase, Protease gây hiện
tượng ăn mòn, hoại tử. Khi lớp vỏ cứng bò ăn mòn mở đường cho vi khuẩn, tác nhân
khác xâm nhập và gây bệnh cho cua. Vibrio có mặt ở khắp mọi nơi trong môi trường
biển và một vài loài động vật không xương sống bò nhiễm bởi mầm bệnh hoặc bò
truyền nhiễm từ các động vật khác. Vibrio parahemolyticus được tìm thấy khi bùng
nổ dòch bệnh trong khi cua mới lột xác là điều kiện thuận lợi để mầm bệnh xâm
nhập khi vỏ cua còn mềm và gây chết cua. Mầm bệnh vi khuẩn xâm nhập vào máu
qua những chỗ bò tổn thương ở lớp vỏ kitin của cua và sinh sản trong môi trường
giàu dinh dưỡng như máu cua.
Johnson (1974), Nilson cùng ctv (1975), và Fisher (1976) mô tả loại bệnh
khác có tên là bệnh “đóng rong” ở cua và nhiều loài giáp xác khác nguyên nhân là
tập hợp quần thể gồm vi khuẩn có dạng sợi và không có dạng sợi cùng với. Lighner
(1977) khi nghiên cứu bệnh này khẳng đònh thêm rằng tác nhân chính gây bệnh
“đóng rong” là vi khuẩn dạng sợi Leucothrixmurco còn các tác nhân khác chỉ là loài
cơ hội.
Trong 50% mẫu cua nuôi thu vào mùa hè khi phân tích mẫu cua đã tìm thấy
Vibrio parahaemolyticus chiếm 30% mẫu nghiên cứu, V. vulnificus chiếm 9,5%, V.
cholerae chiếm 3,5% nhiễm ở trong máu của cua xanh. V. parahaemolyticus và V.
vulnificus thường phân lập được từ cùng một mẫu cua, còn V. parahaemolyticus và
V.cholerae không khi nào thấy trong cùng mẫu cua. V. parahaemolyticus là nguyên
12
nhân gây chết ở cua và khi con người ăn phải cua nhiễm bệnh có thể bò ngộ độc
thức ăn (Overstreet 1978).
Vài loài Vibrio cũng được phân lập từ cua xanh, David và Sizmore (1982) đã
phân loại được các loài V. cholerae, V. vulnificus, và V. parahaemolyticus từ cua
xanh thu từ vònh Galveston, Texas.
Bower (1996) thông báo rằng bệnh ăn mòn vỏ kitin ở giáp xác là do một số
giống loài vi khuẩn có khả năng tiết ra các men phân hủy như chitinase, protease,
lipase. Các vi khuẩn này có thể thuộc giống Vibrio, Pseudomonas, Aeromonas…
• Bệnh do nấm.
Một số loài nấm đã được tìm thấy trên cua biển. Nấm gây tác hại khác nhau
ở các giai đoạn khác nhau của cua biển. Trứng và ấu trùng chòu ảnh hưởng nặng của
nấm.
Johnson (1983) đã tìm thấy giống nấm Fusarium trên loài cua xanh nuôi
thương phẩm ở Mỹ.
Hatai (2000), đã phân lập từ trứng, ấu trùng cua Scylla serata ở Indonesia
một số loài nấm bậc thấp: Lagenidium callinectes và Haliacrusida baliensis.
• Bệnh do ký sinh trùng.
Có một số ký sinh trùng đã được tìm thấy ở cua như: Giun tròn Nectonema
spp, làm vật chủ rối loạn chức năng sinh lý thoái hóa tuyến sinh dục; Bào tử nhỏ
(Microsporidia) ở trong cơ, gan tụy , tuyến sinh dục; Trùng roi Hematodinium ký
sinh trên máu; Trùng loa kèn (Zoothamnium) ký sinh trên mang cua trưởng thành
và trên toàn bộ cơ thể ấu trùng cua.
Newman and Johnson, 1975; Couch,1983 và Messick, 1994 cho rằng
Hematodinium perezi là một loài trùng roi ký sinh rất ít khi gặp nhưng cũng có thể
xảy ra dòch bệnh trên cua. Hematodinium perezi sống trong máu và tăng số lượng rất
nhanh.Trong suốt thời gian dòch bệnh thì cua lột xác chết tới 70% còn cua bình
thường chết 50%. Dòch bệnh thường bùng phát vào mùa hè và mùa thu. Khi cua bò
13
nhiễm bệnh ký sinh trùng này cua trở nên lờ đờ, ở cua bò nhiễm nặng máu có màu
trắng sữa.
Bower (2003) cũng báo cáo loại bệnh ký sinh trùng do Hematodinium perezi
và Hematodinium sp gây bệnh trong máu cua. Có rất nhiều loài cua cũng như giáp
xác khác bò nhiễm bởi ký sinh trùng này.
2.3.2. Tình hình nghiên cứu bệnh cua ở Việt Nam.
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một công trình nghiên cứu nào về bệnh cua
được công bố chính thức.
Theo Hoàng Đức Đạt (1995) thì những biến đổi bất lợi của môi trường nước
như: nhiệt độ nước, lượng oxy hòa tan, pH, các yếu tố hóa học như kim loại nặng,
biến đổi qua giới hạn, đều là tác nhân gây bệnh cho cua. Kỹ thuật nuôi không phù
hợp, mật độ quá cao, chăm sóc quản lý kém, vận chuyển lâu và xa làm cua yếu,
không thay nước làm nước bò nhiễm bẩn, có thể làm cua bò bệnh và chết. Trong
những năm gần đây cua nuôi trong các ao đất với mật độ cao đã xuất hiện một số
loại bệnh: trên mai cua có nhiều đốm trắng, hoặc xám, đỏ, đường kính khoảng 0,2 –
0,3 cm. Bệnh phát triển làm cho cả phần vỏ lẫn phần thòt bò ung thối, bệnh lây lan
nhanh và cua chết hàng loạt.
2.4. Những nghiên cứu về bệnh trên ấu trùng cua xanh.
* Theo Pitogo và Delapena (2004) thì trên ấu trùng cua thường gặp một số các
bệnh như sau:
- Bệnh do vi khuẩn phát sáng nhóm Vibrio. Do nhiễm vi khuẩn Vibrio phát
sáng, thường gặp Vibrio harvey, ảnh hưởng tới trứng và ấu trùng cua, khi nhiễm
nặng tỷ lệ chết có thể lên tới 100%.
- Bệnh do vi khuẩn dạng sợi. Chúng phân bố rộng rãi trong môi trường nước
và chúng tấn công vào vỏ trứng, và các giai đoạn khác nhau của ấu trùng cua. Sự có
mặt của vi khuẩn dạng sợi là dấu hiệu của sự giảm sút chất lượng nước hay sức khoẻ
của động vật. Số ngày của mỗi giai đoạn một phần quyết đònh để phát hiện ra những
sinh vật gây đóng cáu trên ấu trùng, giai đoạn phát triển của ấu trùng kéo dài hơn
14
bình thường thì sự đóng cáu sẽ tăng theo. Sự đóng cáu tăng làm ảnh hưởng đến sự
ấp nở trứng. Vi khuẩn dạng sợi làm cản trở quá trình hô hấp khi chúng bám trong
mang cua và một số vùng khác trên bề mặt, nó còn làm cho ấu trùng bơi khó khăn
hơn. Những đám sợi là nơi cư trú của các tác nhân gây bệnh là vi trùng và thực vật
hoại sinh (nấm). Nhiều cáu bẩn bám góp phần khó khăn trong quá trình lột xác.
- Bệnh vỏ: Bệnh vỏ được đặc trưng bởi sự ăn mòn của lớp vỏ bên ngoài có
liên quan đến hoạt động của vi khuẩn. Tỷ lệ ăn mòn trên vỏ cua càng lớn gây tác
hại càng lớn. Bệnh vỏ làm cho chuỳ có thể bò ngắn đi do mô bò ăn mòn, có một số
trường hợp ấu trùng bò mất luôn cả phần phụ. Khi lột xác những phần bò ăn mòn ban
đầu cùng với lớp vỏ cũ được loại bỏ.
- Bệnh do nấm bao gồm tác nhân: Lagenidium; Halocrusticida và
Haliphthros. Nấm thường có mặt ở khắp mọi nơi trong nguồn nước, chúng rất rộng
muối. Do bởi toàn bộ lượng trứng phải ngâm và tiếp xúc trực tiếp trong môi trường
nước trong quá trình đẻ trứng và ấp trứng với thời gian rất dài, trứng ít được bảo vệ
và dễ bò tấn công bởi các tác nhân gây bệnh có nguồn gốc từ môi trường nuôi cua
mẹ. Bệnh do nấm ở trứng trong thời kỳ ấp và ấu trùng cua biển là một trong những
bệnh rất nguy hiểm, trong nhiều trường hợp có thể phá huỷ toàn bộ số lượng trứng
và cả bể hoặc cả đợt sản xuất. Trứng bò nhiễm nấm với số lượng lớn có thể đưa bào
tử nấm vào môi trường ương nuôi làm ấu trùng sau này có thể bò nhiễm bệnh. Đối
với ấu trùng thì hầu hết ấu trùng bò nhiễm nấm đều bò chết. Các giai đoạn đầu của
ấu trùng dễ bò nhiễm nấm do bởi vỏ ấu trùng còn non và còn mỏng. Khả năng điều
trò của bệnh này hầu hết không có hiệu quả, chất lượng của những ấu trùng còn sống
sót rất thấp.
- Bệnh do chất huyền phù: Chất huyền phù bao gồm những xác chết của vi
khuẩn hoặc vi trùng và các chất phù dơ bẩn trong môi trườngnước, hoặc các chất
lắng đọng dưới đáy bể. Chất huyền phù bám lên trứng của cua và ấu trùng cua. Sự
tích tụ của các chất cặn bã lên trứng có thể là nguyên nhân dẫn đến việc ấp nở trứng
bò hư. Chúng tích tụ trên mang gây ảnh hưởng đến qúa trình hô hấp và chúng có thể
15
sẽ chết bởi sự làm ngạt. Sự có mặt của chất cặn bã có thể là nguyên nhân phát sinh
mầm bệnh tiềm ẩn trong môi trường ương nuôi. Chất huyền phù còn làm cản trở tới
quá trình lột xác của ấu trùng.
- Bệnh lôït xác không hoàn toàn. Sự lột xác không hoàn toàn là một bệnh
không lây lan giữa các bể ương nuôi ấu trùng mà có thể do nguyên nhân là sự thay
đổi nhiệt độ ở mức thấp. Sự lột xác không đều của lớp vỏ bên ngoài là nguyên nhân
của việc bơi không bình thường và làm tổn thương đến ấu trùng đồng thời chúng rất
dễ bò ăn thòt. Sự lột xác không hoàn toàn cũng có thể là nguyên nhân gây chết cho
ấu trùng.
- Bệnh do sinh vật đơn bào kí sinh. Do Zoothamnium, Acineta và một vài đối
tượng khác. Chúng phân bố rất rộng ở biển và môi trường nước mặn, lợ và chúng có
thể phát triển phủ kín bề mặt vật bám. Chúng làm cản trở quá trình trao đổi khí trên
bề mặt của trứng và ấu trùng, còn làm cho quá trình ấp kéo dài, nhiều sinh vật khác
nhau gắn trên bề mặt trứng. Khi mà nhiễm nặng trên các phần phụ thì làm cho ấu
trùng rất khó bơi lội. Sự lột xác đã loại bỏ hầu hết các sinh vật bám ngoài vỏ. Quá
trình lột xác chậm sẽ là cơ hội để sinh vật phát triển ở lớp vỏ.
- Bệnh do sinh vật hoại sinh và giun tròn. Các sinh vật đơn bào sống tự do
trong nước như Euphlotes sp. và thường những loài giun tròn hoại sinh sống hầu hết
ở trứng của cua. Sự di chuyển của sinh vật đơn bào và giun tròn bên trong trứng có
thể là lý do dẫn đến hư hỏng tới việc ấp nở trứng. Dù giun tròn là động vật ăn thòt và
xuất hiện tương đối cao trong vỏ bọc của cua, nói chung chúng đều có thể gây hạn
chế bằng cách sinh sản với mức độ cao với số lượng lớn. Sự có mặt của sinh vật đơn
bào và giun tròn ở trứng, ấu trùng cho biết sự giảm sút về chất lượng nước đồng thời
tích luỹ các hợp chất hữu cơ. Đúng hơn là sự tự tạo lên đóng cáu, chất lượng nước
kém có thể làm tổn hại cho ấu trùng.
* Theo Hoàng Đức Đạt (1995), trên ấu trùng cua thường gặp hai loại bệnh
sau:
16
- Ấu trùng thường bò bệnh trùng loa kèn: Zoothamium, Epistylis… bám vào
thân, trên đầu. Khi số lượng Zoothamium tăng lên làm cho ấu trùng không co duỗi
thân được, bơi chậm chạp không bắt được thức ăn yếu dần và chết.
- Bệnh phát sáng do Vibrio parahaemolyticus, trong giai đoạn ấu trùng Zoea
ương trong bể, nguồn nước nhiễm khuẩn dẫn đến gây bệnh cho ấu trùng. Khi ấu
trùng mắc bệnh, trong bóng tối phát ra ánh sáng màu xanh nhạt. Ấu trùng yếu, bỏ
ăn, lắng xuống đáy, chết, có thể chết hàng loạt.
Trên đây ta thấy được ấu trùng cua xanh bò nhiễm rất nhiều bệnh, nhìn
chung là ấu trùng cua khi đã mắc bệnh thường khó khắc phục kết quả làm ấu trùng
chết từ rải rác đến hàng loạt. Đặc biệt là các bệnh do vi khuẩn gây ra thì rất nguy
hiểm cho ấu trùng, khi nhiễm nặng thì tỷ lệ chết có thể lên tới 100%.
17
PHẦN 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng, thời gian và đòa điểm nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Ấu trùng cua xanh (Scylla spp) thu từ các trại sản
xuất cua giống tại Nha Trang.
Thời gian nghiên cứu: Từ ngày 09/08/2005 đến ngày 30/11/2005.
Đòa điểm nghiên cứu: Công tác điều tra là phỏng vấn trực tiếp hộ sản xuất
cua giống tại Nha Trang.
Phân tích mẫu tại phòng Bệnh thuộc Viện Nghiên cứu Thuỷ sản III.
3.2. Phương pháp nghiên cứu.
Triệu
chứng
bệnh
lý.
Ng
hiên cứu bệnh do vi khuẩn ở ấu trùng
cua biển giai đoạn Zoea3 – Zoea5.
Điều tra hiện trạng bệnh ấu trùng
cua.
Mẫu bệnh phẩm ấu trùng
cua
(Zoea3 – Zoea5).
Mùa vụ
xuất
hiện
bệnh.
Mức độ
thiệt hại
của
bệnh.
Dấu
hiệu
bệnh
lý.
Phân lập vi
khuẩn
Thí nghiệm
gây nhiễm
trở lại.
Các biện
pháp
phòng trò
bệnh.
Xác đònh
tác nhân
gây bệnh
ĐÁNH GIÁ,
NHẬN XÉT VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN
Đònh danh
vi khuẩn
18
3.2.1. Phương pháp điều tra hiện trạng bệnh ở ấu trùng trong các trại sản xuất
cua giống tại Nha Trang, Khánh Hoà.
- Số liệu thứ cấp: Thông qua các báo cáo tổng kết ngành Thuỷ sản đòa
phương và các cơ quan có liên quan.
- Số liệu sơ cấp: Phỏng vấn trực tiếp các cán bộ kỹ thuật của trại theo mẫu
phiếu điều tra.
3.2.2. Phương pháp thu thập, xử lý và phân tích mẫu bệnh phẩm.
* Phương pháp thu mẫu:
Mẫu thu từ những bể ấu trùng Zoea3 – Zoea5 có dấu hiệu bệnh như là yếu,
bỏ ăn, lắng đáy và chết nhiều. Mẫu ấu trùng thu là còn sống và được vận chuyển
nhanh về phòng thí nghiệm nơi tiến hành phân tích mẫu.
* Phương pháp xử lý mẫu:
Mẫu thu được ghi rõ về dấu hiệu bệnh lý, tình trạng sức khoẻ cũng như tỷ lệ
chết của mẫu.
Mẫu được kiểm tra nhanh bằng phương pháp soi tươi trên kính hiển vi.
Mẫu ấu trùng cua được đưa vào ống nghiệm thuỷ tinh, rồi được rửa qua nước
muối 2% NaCl vô trùng 2 lần, nghiền nát mẫu bằng đũa thuỷ tinh đã tiệt trùng.
19
3.2.3. Phương pháp nghiên cứu vi khuẩn.
a/. Phương pháp phân lập vi khuẩn gây bệnh:
* Các loại môi trường phân lập vi khuẩn gây bệnh ở ấu trùng cua.
+ Môi trường tổng hợp:
- Môi trường Trypticase Soya Agar (TSA) + 2% NaCl
- Môi trường Trypticase Soya Broth (TSB) +2% NaCl
- Môi trường Nutrient Agar (NA) +2% NaCl
+ Môi trường chọn lọc:
- Môi trường Thiosulphate Citrate Bilesalt Sucrose Agar (TCBS). Đây là môi
trường đặc thù, chọn lọc của vi khuẩn Vibrio.
Mẫu ấu trùng cua bệnh
Zoea3 – Zoea5
Phân lập trên môi
trường chon lọc
Nuôi tăng sinh
Nuôi cấy thuần
chủng
Thực hiện các
phản ứng sinh
hoá
Nhuộm Gram
Đònh danh vi
khuẩn
Gây nhiễm trở lại
ấu trùng cua khoẻ
Xác đònh tác
nhân gây bệnh
20
- Môi trường Cytophage Aga (CA) là môi trường đặc thù của vi khuẩn
Pseudomonas + 2% NaCl.
+ Môi trường tăng sinh: Môi trường Peptone + 2% NaCl.
+ Môi trường nuôi cấy thuần chủng: Môi trường NA
b/ Phương pháp đònh danh vi khuẩn.
Từ các kết quả có được từ việc thực hiện các phản ứng sinh hóa, vi khuẩn sẽ
được xác đònh dựa vào một số tài liệu sau.
- “Hệ thống phân loại vi khuẩn của Bergey” (1994).
- “ Đặc điểm của một số vi khuẩn Vibrio” Nguyễn Lân Dũng.
3.2.4. Thí nghiệm gây cảm nhiễm.
a/. Ấu trùng đem cảm nhiễm.
Ấu trùng cua khoẻ mạnh, không có dấu hiệu bệnh lý.
Thí nghiệm có lô đối chứng, cũng nuôi ấu trùng như các lô thí nghiệm khác
nhưng không cảm nhiễm vi khuẩn.
Chủng vi khuẩn đem cảm nhiễm được nuôi cấy trên môi trường TSA trước 24h.
Chủng đem cảm nhiễm là những chủng vi khuẩn có tần số bắt gặp cao trong các
lần thí nghiệm.
Mật độ vi khuẩn được xác đònh bằng phương pháp so độ đục chuẩn của Mc.
Farland.
Số lượng ấu trùng đưa vào cảm nhiễm: 100 con/lô/1 lít.
21
b/ Sơ đồ thí nghiệm:
- Sau khi chuẩn bò xong mô hình thí nghiệm, lấy một số khuẩn lạc của vi
khuẩn cần nghiên cứu cho vào một ống nghiệm chứa NaCl 2% vô trùng, lắc nhiều
lần cho vi khuẩn phân tán đều trong nước. Sau đó so độ đục của dung dòch huyền
phù này với ống có độ đục chuẩn của Mefarlands standards để xác đònh mật độ
khuẩn có trong ống nghiệm. Dùng một ống hút vô trùng đưa vi khuẩn vào các lô thí
nghiệm vơi mật độ khác nhau, sau đó chăm sóc, quản lý và theo dõi sự xuất hiện
bệnh lý.
- Pha các dung dòch bao gồm: Nước biển tiệt trùng + các chủng vi khuẩn có
tần số bắt gặp cao từ mẫu bệnh với các nồng độ ở trên.
- Ngâm ấu trùng cua biển trong các dung dòch trên.
- Lô đối chứng chỉ gồm ấu trùng và nước biển tiệt trùng.
Chủng vi khuẩn
cần nghiên cứu
Lô I Đối
chứng
100 ấu
trùng
Xác đònh mật độ
vi khuẩn
10
5
tbvk/lít
100 ấu
trùng
10
6
tbvk/lít
100 ấu
trùng
10
7
tbvk/lít
100 ấu
trùng
NaCl 2%
Hình 3: Phương pháp gây nuôi cảm nhiễm
22
- Duy trì chế độ xục khí trong suốt quá trình thí nghiệm, tiến hành cho ấu
trùng ăn trong thời gian thí nghiệm.
3.2.5. Phương pháp nghiên cứu độ nhạy kháng sinh (kháng sinh đồ) của vi
khuẩn gây bệnh:
- Dùng phương pháp đóa nhạy kháng sinh có cải tiến của Kirby Bauer (1986)
cho phù hợp với các nghiên cứu về vi khuẩn biển.
3.3. Phương pháp xử lý số liệu:
Sử dụng phương pháp thống kê thông dụng hiện hành.
3.4. Các công thức sử dụng:
- Sử dụng phương pháp tính giá trò trung bình:
∑
=
=
n
i
i
x
n
X
1
____
1
Trong đó: n – Số lần kiểm tra của một yếu tố nào đó (n = 1,2,3 )
X
i
– Giá trò của lần kiểm tra thứ i.
X – Giá trò trung bình của một yếu tố nào đó.
- Tính tỷ lệ sống của ấu trùng theo công thức:
100
2
×=
N
N
A
Trong đó : A – Tỷ lệ sống (%).
N
1
– số ấu trùng còn sống trong mỗi lô sau khi kết thúc thí nghiệm
N
2
– Số ấu trùng đưa vào thí nghiệm trong mỗi lô.
23
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Kết quả điều tra một số bệnh thường gặp trong bể ương nuôi ấu trùng.
Các trại sản xuất cua giống tại Nha Trang hiện nay vẫn còn rất ít, chủ yếu
các trại sản xuất mới hoạt động được khoảng 2 năm và các trại này trước kia là trại
sản xuất tôm giống chuyển sang.
Kết quả điều tra cho thấy trong trên ấu trùng cua thường gặp một số bệnh
như sau. (bảng 2).
Qua bảng 2 có thể thấy rằng, các loại bệnh xuất hiện ở giai đoạn ấu trùng
khá nhiều. Các chủ trại được điều tra cho rằng số lượng các loại bệnh xảy ra ở giai
đoạn ấu trùng cua cũng không thua kém gì các loại bệnh xảy ra trên ấu trùng tôm.
Do vậy các khâu kỹ thuật cần phải được tiến hành đầy đủ và hết sức cẩn thận.
Bệnh “phát sáng” và bệnh “ trùng loa kèn” là hai loại bệnh xuất hiện với tần
số cao nhất (100%). Nó rất phổ biến trong các trại sản xuất giống cua nhân tạo, xuất
hiện ở cả giai đoạn Zoea và Megalope và gây chết từ rải rác đến hàng loạt.
Bệnh “phát sáng” và bệnh “nấm đỏ” là hai loại bệnh có dấu hiệu bệnh lý
khá đặc trưng . Người nuôi có thể dễ dàng nhận biết được trong quá trình chăm sóc.
Bệnh “hoại tử phần vỏ”,ø bệnh “ vi khuẩn dạng sợi” và bệnh “trùng loa kèn”
là nhưng bệnh khó phát hiện, cần phải có thiết bò để quan sát, theo dõi. Những trại
nhận biết được bệnh này thì người chủ trại thường là những người có chuyên môn,
kinh nghiệm và có liên quan đến lónh vực nghiên cứu thuỷ sản (họ là những người
công tác tại Viện NCTS III và trong Chi cục kiểm dòch Thuỷ sản Khánh Hoà).
Hầu hết các bệnh này sảy ra quanh năm tuy nhiên có bệnh “phát sáng”, bệnh
“nấm đỏ”, và bệnh “lộtä xác không dóc” xẩy ra ở mùa có nhiệt độ thấp (mùa mưa ở
Miền Trung).
24
Bảng 2. Một số bệnh thường gặp trong bể ương nuôi ấu trùng cua tại Nha Trang.
(tổng số phiếu điều tra: N=10)
STT
Tên bệnh
người nuôi
thường gọi
Tần số
bắt gặp
(%)
Dấu hiệu bệnh lý Giai đoạn mắc bệnh Tác hại
của bệnh
Mùa vụ
xuất hiện
bệnh
1 “phát sáng” 100 Khi ấu trùng mắc bệnh phát ra ánh sáng
liên tục màu xanh nhạt trong bóng tối.
u trùng yếu, bỏ ăn, lắng đáy nhiều
Xuất hiện cả ở giai đoạn
Zoea và Megalope.
Gây chết
hàng loạt
Mùa mưa
2 “trùng loa
kèn”
100 u trùng bơi chậm chạp, bắt mồi kém có
xu hướng lắng đáy.
Trên thân có những ống sợi thò ra dạng hoa
loa kèn.
Xuất hiện nhiều ở cả
Zoea và Megalope.
Chết từ
rải rác
đến hàng
loạt.
Quanh
năm
3 “lột xác
không róc”
20 Ấu trùng lôït xác không hết, bò dính lại ở
thân.
Bơi lội chậm chạp.
Xuất hiện cả ở giai đoạn
Zoea và Megalope.
Chết từ
rải rác
đến hàng
loạt
Mùa mưa
4 “nấm đỏ” 30 Trên thành và đáy bể thấy xuất hiện những
đám nhỏ màu đỏ.
Xuất hiện ở giai đoạn
Zoea có cả ở Megalope.
Chết rải
rác
Mùa mưa
5 “hoại tử
phần vỏ”
50 Ấu trùng bò mòn cụt phần phụ Xuất hiện cả ở giai đoạn
Zoea và Megalope
Chết rải
rác
Quanh
năm
6 “vi khuẩn
dạng sợi”
20 Rất khó phát hiện, soi kính hiển vi 40X
thấy có nhiều sợi bám trên trứng cũng như
ấu trùng cua. Ấu trùng vận động kém.
Xuất hiện nhiều ở trứng
cũng như ở Zoea và
Megalope
Chết rải
rác
Quanh
năm
25
Những loại bệnh trên đều xuất hiện ở tất cả các giai đoạn phát triển của ấu trùng.
Riêng bệnh “vi khuẩn dạng sợi” còn xuất hiện nhiều ở trên trứng cua trong quá
trình cua mẹ ôm trứng. Tất cả các bệnh này đều có thể gây chết từ rải rác đến hàng
loạt. Tác hại của những bệnh này làm suy yếu vật nuôi tạo ra thể trạng xấu, tăng
trưởng chậm. Tình trạng trên lâu ngày có thể nặng và trở nên nguy hiểm gây chết
gián tiếp làm cho ấu trùng yếu, dễ bò xâm hại bởi các loài đòch hại hay tác động xấu
của môi trường. Vì vậy việc nghiên cứu và tìm ra các giải pháp để hạn chế dòch
bệnh xảy ra là rất cần thiết đối với người sản xuất cua giống.
4.2. Kết quả điều tra các loại hoá chất dùng trong phòng bệnh cho ấu trùng tại
các trại sản xuất cua giống.
Các bệnh gây ra trên ấu trùng cua có thể gây tác hại rất lớn, nên trong quá
trình sản xuất, các trại giống đều tiến hành các biện pháp để phòng bệnh cho ấu
trùng. Kết quả điều tra về một số hoá chất được dùng trong phòng bệnh cho ấu
trùng tại các trại cua giống ở Nha Trang được thể hiện qua bảng 3.
Bảng 3: Một số hoá chất dùng trong phòng bệnh cho ấu trùng.
(tổng số trại điều tra N = 10)
Trường hợp sử
dụng
Tên hoá chất Nồng độ sử dụng
(ppm)
Tần số bắt gặp
(%)
Xử lý nước Chlorine A 15 - 20 100
Formol 30 - 100 90 Phòng bệnh cho
cua mẹ
Malachite Green 0,1- 0,5 10
Chlorine A 20 - 100 100 Vệ sinh bể
Formol 30 – 50 50
Treplan 0.005 – 0.05 40 Xử lý nước trong
bể ương
Formol 30 – 50 40
Formol 5 – 20 50 Khử trùng
Artemia
Chlorine A 10 – 15 20
Để ngăn chặn sự xâm nhập của các mầm bệnh gây hại cho ấu trùng, các trại
sản xuất cua giống đã áp dụng nhiều biện pháp khác nhau như: xử lý nước trước khi
đưa vào bể ương nuôi, sát trùng bể ương, tắm cua mẹ, khử trùng thức ăn tươi sống.