Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Một số giải pháp tăng cường huy động vốn tại NHNo & PTNT Hà Nội trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.9 KB, 102 trang )

LuËn v¨n tèt nghiÖp
LỜI MỞ ĐẦU
Trước tình hình kinh tế xã hội đang có nhiều diễn biến phức tạp, đan
xen giữa khó khăn và thuận lợi, nguy cơ và thời cơ. Để tiến hành CNH - HĐH
đất nước phải đẩy mạnh cách mạng công nghệ, phát huy tối đa mọi nguồn lực
mà quan trọng nhất là vốn.
Theo kinh nghiệm của các nước đi trước, có nước đã sử dụng nguồn
vốn bên ngoài làm chủ lực, nguồn vốn trong nước làm bổ trợ cho sự phát
triển, tận dụng được lợi thế chuyển giao công nghệ tiên tiến, rút ngắn thời
gian bắt kịp với các nước phát triển. Có nước lại lựa chọn nguồn vốn nội địa
làm chủ đạo, bằng cách này tốc độ phát triển thường chậm, nhưng hạn chế
được sự phụ thuộc vào bên ngoài, tạo thế chủ động trong việc thực hiện các
mục tiêu chiến lược, đảm bảo sự phát triển vững chắc của nền kinh tế xã hội
trong lâu dài.
Nằm trên vòng cung kinh tế đang phát triển năng động nhất thế giới,
Châu Á Thái Bình Dương, trong công cuộc đổi mới, Việt Nam còn vấp phải
nhiều khó khăn, trở ngại. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu thốn, lạc hậu, trình
độ đội ngũ cán bộ, lao động còn nhiều hạn chế, nền tảng cho mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh (vốn) còn thiếu rất nhiều. Đứng trước xu thế mở cửa hợp
tác của thế giới, để vững bước tiến lên CNXH theo định hướng của Đảng,
chúng ta phải biết nắm bắt thời cơ, đi tắt đón đầu, tận dụng khai thác mọi
nguồn lực trong và ngoài nước. Với chủ trương đề ra ở Đại Hội Đại Biểu toàn
quốc lần thứ 8 và được khẳng định lại ở Đại hội Đại Biểu toàn quốc lần 9:
“Vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn nước ngoài có ý nghĩa quan
trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có thể tranh thủ
bên ngoài”. Nhưng bằng cách nào để khơi thông, thu hút được nguồn lực
trong điều kiện nền kinh tế cạnh tranh hiện nay. Câu hỏi được giải đáp bằng
sự ra đời của các trung gian tài chính, đặc biệt là ngân hàng thương mại. Với
vai trò tập trung vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế vào mục đích cho vay, đầu
tư…đôi khi hoạt động ngân hàng còn làm thay đổi cơ cấu nguồn vốn xã hội,
cải biến dòng lưu chuyển và mục tiêu sử dụng vốn, góp phần giải quyết căn


bản các mâu thuẫn về cung cầu tiền tệ.
Là một doanh nghiệp nhà nước đặc biệt NHNo & PTNT Hà Nội, một
chi nhánh của NHNo & PTNT Việt Nam, cơ sở quan trọng về huy động vốn,
1
LuËn v¨n tèt nghiÖp
vừa thực hiện chức năng kinh doanh vừa thực hiện vai trò thành viên đóng
góp một phần vốn điều hoà cho cả hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp, đã đạt
được một số thành công trong công tác huy động vốn để phát triển kinh tế đất
nước nói chung và kinh tế thủ đô nói riêng. Tuy nhiên công tác này vẫn còn
một số hạn chế cần được tiếp tục hoàn thiện. Để thực hiện tốt vai trò và chức
năng của mình, việc tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu để làm tốt hơn công tác
huy động vốn tại ngân hàng trong thời gian tới là rất cần thiết.
Sau một thời gian thực tập tại NHNo & PTNT Hà Nội, rất quan tâm
đến hoạt động huy động vốn, với phương châm “kinh doanh nguồn vốn huy
động để nâng cao hoạt động kinh doanh” em xin chọn đề tài:
“Một số giải pháp tăng cường huy động vốn tại NHNo & PTNT Hà
Nội trong giai đoạn hiện nay”.
Luận văn được xây dựng trên cơ sở những kiến thức cơ bản về kinh tế
học và nghiệp vụ ngân hàng, kết hợp với việc tìm hiểu thực tế và tham khảo
một số tài liệu khác. Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong giai
đoạn 2000 – 2005.
Kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động huy động vốn của ngân hàng
thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại NHNo & Phát triển
Nông thôn Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường huy động vốn tại NHNo & PTNT
Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
Với thời lượng thực tập, kiến thức còn hạn chế, kinh nghiệm chưa có,
nhìn nhận một vấn đề sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận

được sự bổ sung, đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để bài viết của mình
được tốt hơn.
2
LuËn v¨n tèt nghiÖp

Lời cảm ơn
Sau thời gian học tập và nghiên cứu dưới mái trường Kinh Tế
Quốc Dân, và khoa Ngân hàng – Tài chính, được sự giúp đỡ nhiệt
tình của thầy cô giáo, em đã có thêm nhiều hiểu biết về kinh tế xã
hội. Đặc biệt sau thời gian thực tập tại Ngân Hàng Nông Nghiệp và
Phát Triển Nông Thôn Hà Nội, một chi nhánh hàng đầu của hệ thống
Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển nông Thôn Việt Nam, được
sự hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình của đội ngũ cán bộ ngân hàng, nhất
là các chú, các anh, các chị phòng Kế hoạch và phòng Kinh doanh,
em đã có thêm những hiểu biết về thực tế hoạt động ngân hàng, nhất
là hoạt động huy động vốn. Cùng với định hướng và sự chỉ bảo tận
tình của thầy giáo PGS – TS Nguyễn Văn Nam, người trực tiếp
hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Qua đây em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy giáo
PGS – TS Nguyễn Văn Nam, cùng các cán bộ ngân hàng Nông
Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Hà Nội, trong đó có các chú, các
anh chị phòng Kế Hoạch, đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành luận văn
này. Em xin gửi tất cả tình yêu thương nhất tới gia đình, bè bạn
những người luôn bên cạnh động viên giúp đỡ em về mọi mặt trong
quá trình học tập.
Sinh viên: Lương Thị Tâm, NH41A
3
LuËn v¨n tèt nghiÖp
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại.
Ngày nay khi nói đến ngân hàng là ta nghĩ ngay đến vai trò trung gian
tài chính, một huyết mạch lưu thông dòng máu tiền tệ, góp phần quan trọng
trong việc phát triển kinh tế xã hội. Vì thế bất kể khi nào đề cập tới NHTM ta
không thể bỏ qua lịch sử ra đời và phát triển của nó.
Tiền thân của nghiệp vụ ngân hàng hiện đại bắt đầu từ khi sản xuất
hàng hoá phát triển, trao đổi và lưu thông hàng hoá được mở rộng, tiền tệ ra
đời. Trong giai đoạn đầu này do mỗi vùng có một đồng tiền riêng nên khi
giao lưu hàng hoá phát triển nhu cầu đổi tiền trở nên bức xúc, một số thương
nhân đã đứng ra thực hiện việc đổi tiền đúc cho các nhà buôn, họ thường
được gọi là các nhà kinh doanh tiền tệ. Việc sản xuất kinh doanh ngày càng
phát triển đã xuất hiện nhiều thương gia giàu có, họ có một lượng tiền dư
thừa, muốn cất giữ ở một nơi an toàn, khi đó hoạt động nhận tiền gửi xuất
hiện. Cùng với hoạt động này hoạt động chi trả hộ cũng hình thành do sự khác
biệt về thời gian mua bán và thanh toán tiền hàng. Nắm trong tay một lượng
tiền lớn, lợi dụng tính vô danh của tiền tệ các nhà kinh doanh tiền tệ đã sử
dụng lượng tiền dư thừa này để cung cấp cho các nhà kinh doanh có nhu cầu
và sẵn sàng trả một lượng phí nhất định, thế là hoạt động cho vay ra đời. Lúc
này các nhà kinh doanh tiền tệ được gọi dưới tên nhà ngân hàng.
Như vậy hoạt động ngân hàng sơ khai đầu tiên chỉ bao gồm những
nghiệp vụ cơ bản: đổi tiền, nhận tiền gửi, giữ hộ tiền, thanh toán và cho vay.
Trong đó nghiệp vụ cho vay mang tính chất cho vay nặng lãi, vì thế thời kỳ
này thường được gọi là ngân hàng cho vay nặng lãi.
Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá ngành ngân hàng cũng
không ngừng hoàn thiện và phát triển. Quá trình này có thể chia ra làm 4 giai
đoạn:
4
LuËn v¨n tèt nghiÖp

 Trước thế kỷ 15: Là thời kỳ của “các ngân hàng vụ bản”. Trong thời
kỳ này các nhà kinh doanh vàng bạc đã phát triển một số hoạt động như: đổi
tiền, thanh toán hộ, giữ tiền hộ và cho vay, điều này chỉ thực hiện được với
những thợ vàng có uy tín lớn.
 Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18: Đây là giai đoạn của những ngân hàng
cổ điển. Các ngân hàng thợ vàng phát triển cách mạng hoá thành các tổ chức
kinh doanh tiền tệ. Các ngân hàng tồn tại dưới dạng riêng lẻ, độc lập, cùng
tiến hành một hoạt động giống nhau như: đổi tiền, giữ hộ tiền, thanh toán, cho
vay và đặc biệt cùng phát hành ra một loại giấy bạc của ngân hàng để cho
vay. Trợ giúp thương nhân và hỗ trợ cho lưu thông.
 Từ cuối thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 19: Nền sản xuất tại các quốc gia
lớn đã đạt được những bước tiến vĩ đại, lưu thông hàng hoá được mở rộng
đáng kể. Trong điều kiện đó việc tồn tại một số lượng lớn các loại tiền giấy
khác nhau đã gây ra những tác động tiêu cực cho nền kinh tế. Do vậy chính
phủ đã can thiệp thông qua đạo luật về hạn chế số lượng các ngân hàng phát
hành. Các ngân hàng đã tồn tại với tư cách là một hệ thống có sự phân công
lao động rõ ràng. Trong hệ thống đó đã tách ra một số ngân hàng phát hành,
chuyên phát hành ra giấy bạc để cho vay. Đây là các ngân hàng lớn và chủ
yếu là các ngân hàng tư nhân. Các ngân hàng còn lại nằm trong hệ thống các
ngân hàng chuyên doanh, được phân công lao động xã hội sâu sắc vào các
lĩnh vực cụ thể: các ngân hàng công nghiệp chuyên cho vay trung và dài hạn;
các ngân hàng thương nghiệp cho vay vốn ngắn hạn; các ngân hàng địa ốc
cho vay lĩnh vực bất động sản; ngân hàng để dành, chỉ huy động vốn của dân
chúng sau đó cho vay hoặc mua chứng khoán; ngân hàng cầm cố cho vay
bằng nghiệp vụ cầm cố (gần giống cửa hiệu cầm đồ).
Trong thời kỳ này ngân hàng thâm nhập sâu vào lĩnh vực sản xuất vật
chất, các ngân hàng phát triển rực rỡ và trở thành lực lượng có thế lực vạn
năng.
 Từ cuối thế kỷ 19 đến nay: Cuộc khủng hoảng 1929- 1933 xảy ra do
nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân chủ yếu là công tác quản

lý trong lĩnh vực tài chính tiền tệ của chính phủ chưa chặt chẽ, các ngân hàng
5
LuËn v¨n tèt nghiÖp
phát hành đa phần là các ngân hàng tư nhân đã hạn chế sự quản lý của chính
phủ. Sau cuộc khủng hoảng này hầu hết các quốc gia đã tiến hành Quốc hữu
hoá ngân hàng phát hành, NHTW ra đời thay thế cho ngân hàng phát hành giữ
chức năng phát hành và quản lý lưu thông tiền tệ. Hoạt động dưới sự kiểm
soát chặt chẽ của pháp luật. Hệ thống ngân hàng chuyển thành ngân hàng 2
cấp:
. NHTW
. Ngân hàng thương mại đa năng (thực hiện nghiệp vụ kinh doanh tiền
tệ và dịch và dịch vụ ngân hàng).
Cùng với sự phát triển của thế giới, ngân hàng đầu tiên xuất hiện ở
Việt Nam là Ngân hàng Đông Dương do toàn quyền Pháp thành lập năm 1875
tại Sài Gòn. Sau khi Cách Mạng tháng 8 thành công năm 1946 nước ta tiến
hành quốc hữu hoá ngân hàng Đông Dương.
Năm 1951 chủ tịch nước đã ký sắc lệnh số 15 thành lập ngân hàng
Quốc gia, sau đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1954. Thời
kỳ này Miền Bắc chỉ có Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa là NHTW vừa là
NHTM, có chi nhánh tại các tỉnh và khu vực. Miền nam có một số ngân hàng:
ngân hàng Phát triển Nông nghiệp, ngân hàng Phát triển Kỹ nghệ và một số
chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Năm 1975 đất nước hoàn toàn giải phóng, các ngân hàng nước ngoài đã
rút khỏi Việt Nam.
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1988 hệ thống ngân hàng được
chuyển từ 1 cấp thành 2 cấp: Ngân hàng Nhà nước và Hệ thống các ngân hàng
thương mại.
Từ năm 1988-1990 chủ yếu chỉ có 4 NHTM quốc doanh hoạt động
trong lĩnh vực của mình.
Đến nay trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường định hướng

XHCN, mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền
sở hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể đan xen với nhau
hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Theo hướng này nền kinh tế hàng
hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra tiền đề cần thiết đòi hỏi sự ra đời nhiều loại
6
LuËn v¨n tèt nghiÖp
hình ngân hàng và tổ chức tín dụng, tạo ra một môi trường cạnh tranh ngày
càng bình đẳng và gay gắt hơn.
Là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế
thị trường, một động lực quan trọng cho sự phát triển của nền sản xuất xã hội,
ngân hàng không thể đứng ngoài hoạt động của bất cứ quốc gia nào. Vì vậy
mỗi nước đều xây dựng cho mình những khung pháp lý giới hạn hoạt động
của ngân hàng. Mỗi nước có một khái niệm khác nhau về ngân hàng :
Theo luật ngân hàng Ấn Độ năm 1959 bổ xung: “Ngân hàng là cơ sở
nhận các khoản tiền ký thác để cho vay, tài trợ, đầu tư ...”
Theo pháp luật Mỹ: “Bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền
gửi, cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu và cho vay đối với các tổ chức
kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là ngân hàng”.
Tựu chung lại tất cả đều có điểm chung là tổ chức nhận tiền ký thác,
tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, sử dụng cho vay chiết khấu và các nghiệp
vụ kinh doanh khác.
Việt Nam, pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài
chính năm 1990 quy định: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt
động thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay hay thực hiện các nghiệp vụ
chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam quy định: “NHTM là loại hình tổ
chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động kinh doanh có liên quan”.
Trong đó “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng, với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền đó

để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
NHTM thực hiện 3 chức năng cơ bản:
-Thủ quỹ của các doanh nghiệp.
-Tạo tiền.
-Trung gian tài chính.
7
LuËn v¨n tèt nghiÖp
1.1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại từ khi bắt đầu hình thành mới chỉ thực hiện
chức năng giữ tiền hộ khách hàng, nhưng đến nay do tình hình kinh tế chính
trị thay đổi, để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, hoạt động ngân hàng không
ngừng cải tiến và phát triển ở trình độ cao hơn song ngân hàng vẫn thực hiện
ba chức năng cơ bản: ngân hàng thương mại là thủ quỹ của các doanh nghiệp,
chức năng tạo tiền và làm trung gian tài chính. Trên cơ sở đó ngân hàng thực
hiện 3 nghiệp vụ cơ bản sau:
1.1.2.1. Nghiệp vụ huy động vốn:
Đây là nghiệp vụ cơ bản, đầu tiên và quan trọng nhất của một ngân
hàng. Để tạo nguồn vốn cho mình các ngân hàng thực hiện các hoạt động huy
động vốn sau:
 Vốn chủ sở hữu: Nguồn này được hình thành từ nguồn đóng góp
của các cổ đông và các quỹ của ngân hàng hình thành trong quá trình kinh
doanh thể hiện dưới hình thức lợi nhuận để lại.
 Nghiệp vụ huy động tiền gửi: Phản ánh các khoản tiền ngân hàng
huy động từ các khoản tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế
nhằm mục đích thanh toán, hưởng lãi, khoản tiền nhàn rỗi của các cá nhân
hay hộ gia đình gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi.
 Nghiệp vụ đi vay: Phản ánh quá trình tạo ra nguồn vốn bằng
cách vay của các tổ chức tín dụng, vay trên thị trường tệ và vay Ngân hàng
Trung Ương (NHTW) dưới các hình thức tái chiết khấu, vay có bảo đảm
...mục đích tạo sự cân đối trong điều hành vốn của NHTM khi họ không tự

cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ.
 Nghiệp vụ huy động bằng cách phát hành giấy tờ có giá: Ngân
hàng sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có tính chất dài hạn đối
với ngân hàng vào nền kinh tế. Ngoài ra, nghiệp vụ này còn giúp NHTM tăng
cường tính ổn định của đồng vốn trong hoạt động kinh doanh của mình.
 Nghiệp vụ huy động vốn khác: NHTM có thể tạo vốn cho mình
thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ chức cá nhân trong
và ngoài nước.
8
LuËn v¨n tèt nghiÖp
1.1.2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn:
Ngân hàng là một tổ chức tài chính “đi vay để cho vay”. Do vậy mối
quan tâm hàng đầu của ngân hàng sau khi đã huy động được một lượng vốn là
làm sao sử dụng nguồn vốn để đạt được hiệu quả cao nhất mà không bị rơi
vào tình trạng kẹt vốn. Vì thế ngân hàng phải nghiên cứu và đưa ra chiến lược
sử dụng vốn của mình, bằng các hoạt động:
 Dự trữ: Với mục đích đảm bảo khả năng thanh toán của ngân
hàng. NHTM phải duy trì một lượng vốn bằng tiền mặt thực hiện nghĩa vụ dự
trữ, mức dự trữ này tuỳ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc (do nhà nước quy
định) và tỷ lệ dự trữ vượt quá mà ngân hàng giữ lại để đảm bảo khả năng chi
trả cũng như thực hiện hoạt động khác của mình.
 Cho vay: Theo quy định “Cho vay là hình thức tín dụng mà trong
đó ngân hàng ký hợp đồng với người đi vay, cam kết cho người đó vay một
khoản tiền trong một khoảng thời gian nhất định, khách hàng có nghĩa vụ
hoàn trả vốn và lãi tại thời điểm đáo hạn của khoản cho vay”.
Đây là nghiệp vụ chủ yếu của các ngân hàng thương mại. Theo thống
kê, nhìn chung khoảng 65 - 70% thu nhập của ngân hàng từ hoạt động cho
vay. Thành công hay thất bại phụ thuộc vào chính sách cho vay của ngân
hàng. Đây cũng là hoạt động mang nhiều rủi ro và phức tạp nhất .
Nếu phân chia:

-Theo mục đích: có cho vay bất động sản, cho vay thương mại, cho vay
cá nhân, cho vay thuê mua và cho vay khác.
-Theo kỳ hạn: có cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn.
-Theo hình thức bảo đảm:
+ Cho vay có bảo đảm (cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm
cố, có bảo lãnh của người thứ 3).
+ Cho vay không có bảo đảm: cho vay dựa trên uy tín của bản thân
khách hàng.
-Theo phương thức hoàn trả: cho vay trả góp, cho vay phi trả góp, hoàn
trả theo thoả thuận, cho vay hoàn trả theo yêu cầu (khách hàng có thể hoàn trả
bất kỳ lúc nào khi có thu nhập trong thời hạn).
9
LuËn v¨n tèt nghiÖp
 Đầu tư: Ngoài nghiệp vụ cho vay ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu
tư. Có 2 hình thức đầu tư chủ yếu:
 Đầu tư chứng khoán: Ngân hàng mua chứng khoán vì mục đích
thanh khoản và đa dạng hoá hoạt động, nâng cao lợi tức và phục vụ như các
vật ký quỹ cho các tài sản nợ khác. Nghiệp vụ này mang lại lợi nhuận khá lớn
cho ngân hàng sau cho vay nhưng cũng hàm chứa rất nhiều rủi ro. Tuỳ luật
pháp mỗi quốc gia mà việc tham gia vào thị trường chứng khoán của các ngân
hàng ở mức khác nhau, song ngân hàng phải luôn xem xét kỹ lưỡng trước khi
lựa chọn danh mục và cơ cấu chứng khoán để đầu tư. Thường ngân hàng hay
chú ý vào trái phiếu Chính phủ và trái phiếu công ty (chứng khoán có độ rủi
ro thấp).
 Đầu tư khác: Bên cạnh đầu tư vào chứng khoán, nguồn vốn của
ngân hàng còn được sử dụng để đầu tư vào các mục đích sinh lời khác như:
góp vốn liên doanh, hùn vốn, ký thác…
1.1.2.3. Câc nghiệp vụ trung gian:
Nền kinh tế ngày càng phát triển, các dịch vụ của ngân hàng theo đó
cũng phát triển theo để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của

công chúng, ngân hàng thực hiện nghiệp vụ trung gian và nhận thu nhập từ
nguồn phí hoặc hoa hồng.
Các hoạt động trung gian phản ánh mức độ phát triển của ngân hàng. Ở
các nước phát triển ngân hàng thương mại thực hiện rất nhiều hoạt động trung
gian, tức là luôn có dịch vụ cung cấp tiện nghi cho khách hàng. Thu nhập từ
các hoạt động trung gian chiếm khoảng 30% đến 35% tổng thu nhập của ngân
hàng. Nghiệp vụ trung gian phát triển còn giúp ngân hàng tránh được rủi ro,
ngân hàng sẽ được hoạt động ở vùng an toàn.
Ở Việt Nam các nghiệp vụ trung gian còn nghèo nàn, chưa phong phú,
đa dạng, chưa tạo ra tiện ích cho khách hàng. Vì thế cần phải phát triển các
dịch vụ ngân hàng để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế xã hội đất
nước.
Ngân hàng thực hiện một số nghiệp vụ trung gian sau: Dịch vụ chuyển
tiền, chuyển khoản, thanh toán hộ, phát hành séc, bảo lãnh cho khách hàng,
10
LuËn v¨n tèt nghiÖp
thu chi hộ, quản lý tài sản hộ, mua bán hộ, các dịch vụ uỷ thác với các cá
nhân và tổ chức, doanh nghiệp.
Bên cạnh đó NHTM còn có các hoạt động ngoại bảng chưa được coi là
tài sản hay nguồn vốn như: bảo lãnh công nợ, hoạt động liên quan đến lãi suất
(SWAP lãi suất), các giao dịch về hối đoái như SWAP, OPTION, FUTURE
các chứng từ có giá. Là một nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh
doanh, nó có tác động mạnh mẽ tới độ an toàn của NHTM. Vì vậy khi phân
tích hoạt động của NHTM các nhà quản trị cần phải quan tâm tới hoạt động
này.
1.1.3. Vai trò của NHTM.
Khi nói về vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị thị trường nhiều nhà
kinh tế học đã ví NHTM là trái tim của nền kinh tế. Từ hoạt động của mình
ngân hàng thu hút vốn nhàn rỗi rồi cung cấp nguồn vốn đó cho nền kinh tế,
làm cho huyết mạch lưu thông tiền tệ được thông suốt, đồng thời thực hiện tốt

3 chức năng của mình.
1.1.3.1. Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế:
Trong nền kinh tế vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của
mỗi cá nhân, doanh nghiệp và nhà nước. Để có nhiều vốn phải tăng thu nhập
quốc dân, điều đó đồng nghĩa với việc mở rộng quy mô cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Song khi đẩy mạnh sự phát
triển của các ngành trong nền kinh tế cần phải có vốn. Ngân hàng từ hoạt
động của mình huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế
thông qua các nghiệp vụ đặc biệt là tín dụng, ngân hàng chuyển vốn cho nền
kinh tế, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất, góp
phần nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế, giải quyết sự thiếu vốn và thừa
vốn trong nền kinh tế giúp các doanh nghiệp có điều kiện sản xuất kinh
doanh.
1.1.3.2. Ngân hàng thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp cũng như nền
kinh tế:
Như chúng ta đã biết, trong quá trình vận động nền kinh tế thị trường
chịu sự tác động của nhiều quy luật kinh tế khách quan như: quy luật cung,
11
LuËn v¨n tèt nghiÖp
cầu, cạnh tranh. Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế này cũng
không nằm ngoài sự tác động của các quy luật đó. Họ luôn phải đối mặt với
những khó khăn, không những phải đáp ứng nhu cầu thị trường về phương
diện giá cả, khối lượng, chất lượng, chủng loại mà còn đòi hỏi phải thoả mãn
trên cả phương diện thời gian và địa điểm. Do vậy nâng cao chất lượng lao
động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý cải tiến máy móc, trang thiết bị,
tìm tòi sử dụng nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích
hợp chính là nhân tố quan trọng giúp doanh nghiệp đáp ứng một cách tốt nhất
các yêu cầu của thị trường. Để làm được điều đó đòi hỏi phải có một lượng
vốn lớn, mà khả năng vốn của doanh nghiệp thì có hạn. Song khi đến với
ngân hàng, các khó khăn này sẽ được giải tỏa. Bên cạnh đó việc ngân hàng

cung cấp các dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, tư vấn đầu tư ... sẽ giúp cho các
doanh nghiệp có sự lựa chọn đúng đắn, tận dụng được thời cơ và khai thác hết
khả năng của mình trong kinh doanh, đồng thời họ phải ý thức được việc làm
ăn của mình để đảm bảo có lãi hoàn trả ngân hàng cả vốn lẫn lời. Bởi thế các
nhà kinh doanh phải tiết kiệm tối đa và có phương án sản xuất kinh doanh
hiệu quả nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí, tăng khả năng
sinh lợi. Một bộ phận của nền kinh tế khoẻ mạnh sẽ giúp cho cả nền kinh tế
phát triển.
Mặt khác ngân hàng còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân bổ và
phát triển kinh tế vùng, xoá dần sự cách biệt về kinh tế giữa các vùng lãnh
thổ.
1.1.3.3. Vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô:
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường. Hoạt động của NHTM
nếu có hiệu quả sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết
vĩ mô nền kinh tế. Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các
NHTM trong hệ thống, các NHTM đã góp phần mở rộng hay thu hẹp lượng
tiền trong lưu thông, thực hiện tốt chính sách tiền tệ góp phần vào việc ổn
định tiền tệ và kinh tế đất nước, trợ giúp chính phủ thực hiện tốt chính sách tài
khoá cũng như các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
12
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Hơn nữa, bằng việc cấp khoản tín dụng cho nền kinh tế, NHTM thực
hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp, phân chia vốn của thị trường, điều
khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết vĩ mô đúng theo
phương châm “Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”.
1.1.3.4. Ngân hàng là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính
quốc tế:
Trong điều kiện hiện nay, kinh tế “đóng” đã phải nhường bước cho
kinh tế “mở”, bởi phát triển kinh tế luôn gắn liền với giao lưu trên thị trường
thế giới. NHTM với các hoạt động nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán, nghiệp

vụ hối đoái và các hoạt động khác đã góp phần thúc đẩy ngoại thương, đồng
thời nhờ nguồn tín dụng bên ngoài để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thực hiện tốt vai trũ điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận
động và phát triển của nền tài chính quốc tế.
1.2. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm về vốn của NHTM.
NHTM là một trung gian tài chính, ở mỗi nước khác nhau trung gian tài
chính được phân chia khác nhau. Tuy nhiên luôn tồn tại một diểm chung là
vai trũ chủ đạo của các NHTM đóng góp khối lượng tài sản và tầm quan trọng
đối với nền kinh tế. Để có được vị trí đó NHTM phải đặt yếu tố lợi nhuận lên
hàng đầu và công cụ duy nhất mà NHTM phải có trước tiên là vốn.
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy
động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh doanh
khác.
Về thực chất vốn của ngõn hàng là một bộ phận thu nhập quốc dõn tạm
thời nhàn rỗi trong quỏ trỡnh phõn phối và tiờu dựng mà người chủ sở hữu để
thực hiện các mục đích khác nhau gửi vào ngân hàng.
1.2.2. Nguồn vốn của NHTM.
Khi bàn về vốn của NHTM chỳng ta cú nhiều cách phân chia nguồn
vốn NHTM khác nhau. Có thể phân chia nguồn vốn theo thời gian (ngắn hạn,
dài hạn), theo loại tiền (nội tệ, ngoại tệ) hoặc theo đặc điểm của nguồn vốn
13
LuËn v¨n tèt nghiÖp
(tiền nợ hoặc tiền vay). Tiếp cận theo bảng tổng kết tài sản nguồn vốn của
NHTM bao gồm:
1.2.2.1. Vốn chủ sở hữu:
Vốn chủ sở hữu của ngõn hàng cú vai trũ quan trọng rong quỏ trỡnh
hoạt động kinh doanh, nó thuộc sở hữu của ngân hàng và chiếm một tỷ trọng
rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, song giữ vai trũ rất quan trọng, nú cú 3 chức
năng: chức năng bảo vệ, chức năng điều chỉnh và chức năng hoạt động. Vốn

chủ sở hữu gồm:
 Vốn tự có ban đầu: Nguồn vốn hỡnh thành từ ban đầu khi mới thành
lập. Tuỳ theo luật pháp các nước và loại hỡnh ngõn hàng nguồn vốn này cú
thể được hỡnh thành từ vốn gúp của cỏc cổ đông (vốn cổ phần) hay vốn ngân
sách cấp.
 Nguồn vốn tự cú bổ sung trong quỏ trỡnh hoạt động: Trong quá
trỡnh hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức
khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể nguồn vốn có thể hỡnh thành từ:
+ Nguồn lợi nhuận: phần lợi nhuận để lại.
+ Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm để
mở rộng quy mô hoạt động, để đổi mới trang thiết bị hoặc để đáp ứng yêu cầu
gia tăng vốn của chủ do ngân hàng Nhà nước quy định. Đây là nguồn không
thường xuyên, song nó giúp ngân hàng có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc
cần thiết.
+ Nguồn bổ xung từ các quỹ: quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ dự
phũng rủi ro, quỹ thặng dư vốn (phần chênh lệch đánh giá tài sản mang lại).
Nó phụ thuộc vào khả năng đầu cơ của mỗi hoạt động ngân hàng.
 Nguồn vay nợ chuyển đổi thành cổ phần:
Nguồn vốn này được hỡnh thành từ những khoản vay trung và dài hạn
của NHTM cú khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần. Nó có đặc điểm là sử
dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả
khi đến hạn.
14
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Thông thường tỷ lệ vốn chủ sở hữu/ tổng nguồn vốn = 1/20. Theo tiêu
chuẩn quốc tế hệ số Cook: Vốn chủ sở hữu/ tổng tài sản rủi ro
= 8% là hệ số an toàn.
Ở Việt Nam vốn điều lệ (vốn chủ sở hữu) của ngân hàng Công Thương,
ngân hàng Ngoại Thương, ngân hàng Đầu Tư Phát Triển là 1100 tỷ VND,
ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông thôn là 2200 tỷ VND, NHTM cổ

phần Quân đội là 100 tỷ...
1.1.2.2. Vốn huy động:
Nếu vốn tự có để đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh doanh của
các NHTM thỡ vốn huy động chính là nhân tố thúc đẩy hoạt động kinh doanh
của ngân hàng, mở rộng hay thu hẹp quy mô. Trong tổng nguồn vốn của
NHTM, đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất, có vai trũ quan trọng nhất.
Nú bao gồm cỏc nguồn:
 Nguồn tiền gửi: gồm có tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, của
dân cư và các tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
 Nguồn vốn vay gồm:
+ Vay của NHTW.
+Vay của NHTM và cỏc tổ chức tớn dụng khỏc.
+Vay bằng cỏch phỏt hành giấy nợ.
1.2.2.3. Nguồn vốn khác:
Nguồn này được hỡnh thành trong quỏ tỡnh hoạt động của ngân hàng
gồm:
 Nguồn uỷ thác: Ngân hàng thực hiện các dịch vụ uỷ thác như: uỷ
thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ...Các hoạt động này
tạo nên nguồn vốn uỷ thỏc của ngõn hàng.
 Nguồn vốn trong thanh toán: Nguồn vốn được hỡnh thành từ
việc ngõn hàng thực hiện cỏc hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt (séc
trong quỏ trỡnh chi trả, tiền ký quỹ để mở L/C…). Những ngân hàng là đầu
mối trong đồng tài trợ có kết số dư tiền của ngân hàng thành viên chuyển về
để thực hiện cho vay.
15
LuËn v¨n tèt nghiÖp
 Nguồn khác: Các khoản nợ khác như: nợ ngân sách nhà nước (nợ
thuế), nợ lương...
1.2.3. Sự cần thiết phải tăng cường hoạt động huy động vốn của NHTM.
1.1.3.1. Đối với nền kinh tế:

Trong bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào, vốn cũng là yếu tố
hàng không thể thiếu. Như cây cần chất dinh dưỡng, các cơ sở sản xuất kinh
doanh muốn hoạt động phải có vốn để mua máy móc thiết bị, nhà xưởng, đất
đai, văn phũng, vận hành sản xuất. Bởi vậy nú là yếu tố luôn được các nhà
đầu tư sản xuất và nhiều đối tượng khác có liên quan quan tâm. Trong phạm
vi quốc gia, vốn không chỉ đóng vai trũ như một yếu tố tham gia vào quá
trỡnh sản xuất kinh doanh của mỗi chủ thể kinh tế đơn lẻ mà cũn ảnh hưởng
đến mối quan hệ nhiều chiều, phức tạp giữa các chủ thể, do vậy ảnh hưởng
đến toàn bộ nền kinh tế. Đặc biệt là khi nước ta đang bước vào thời kỳ CNH-
HĐH đất nước thỡ vốn là cơ sở tiền đề, là điều kiện cần thiết không thể thiếu.
Theo dự báo của Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, trong giai đoạn 5 năm 2001-2005,
để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế bỡnh quõn 7,2% / năm đũi hỏi một
lượng vốn đầu tư toàn xó hội khoảng 50 đến 60 tỷ USD. Hơn nữa, để trở
thành một nước công nghiệp phát triển vào năm 2020 với thu nhập bỡnh quõn
đầu người 5000- 6000 USD thỡ nhu cầu đầu tư đũi hỏi ngày càng lớn. Đặc
biệt trong giai đoạn tới, khi Việt Nam gia nhập AFTA điều kiện cạnh tranh
ngày càng trở nên gay gắt giữa các doanh nghiệp với nước ngoài, thỡ lượng
vốn để đảm bảo sản xuất kinh doanh ngày càng cần nhiều. Đặc biệt là ngân
hàng làm sao để hoạt động hiệu quả nhất, chiến thắng trong canh tranh khi tự
do hoá tài chính được thực hiện, vốn sẽ là yếu tố quan trọng mang tính chất
quyết định. Để thu hút được lượng vốn nói trên, chúng ta cần phải thu hút đầu
tư nước ngoài và phát triển nguồn vốn trong nước. Đồng thời để đảm bảo
tính tự chủ và khai thác hết tiềm năng trong nước thỡ huy đồng vốn trong
nước là chủ yếu. Điều này được ghi rừ trong nghị quyết ĐH 8 của Đảng:
“Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo đường lối đổi mới,
Đảng và Nhà nước chủ trương huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước
16
LuËn v¨n tèt nghiÖp
để đầu tư phát triển. Trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn
nước ngoài có ý nghĩa quan trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bờn trong với

khả năng có thể tranh thủ bên ngoài”.
Vốn có thể huy động qua nhiều kênh khác nhau, tuy nhiên có 3 kênh
chủ yếu là: Kênh ngân sách nhà nước, qua thị trường chứng khoán và qua các
tổ chức trung gian tài chính.
Ở nước ta hiện nay việc huy động vốn qua kênh ngân sách Nhà nước là
rất hạn chế, do mức động viên tài chính vào ngân sách nhà nước chỉ ở mức
20% - 21%GDP cũn lại gần 80% GDP được phân phối trong các thành phần
kinh tế và khu vực. Hơn nữa gánh nặng trả nợ của ngân sách nhà nước là rất
lớn, do từ năm 1991 trở về trước để đáp ứng nhu cầu chi đầu tư phát triển và
chi thường xuyên, nhà nước đó phải vay rất nhiều, đến nay các khoản nợ đó
đến hạn thanh toán, nếu không trả được sẽ dẫn đến nợ ngân sách nhà nước
ngày càng chồng chất, tất yếu sẽ kỡm hóm sự phỏt triển kinh tế xó hội. Do
vậy, trong những năm tới khả năng vốn ngân sách nhà nước không thể đáp
ứng đầy đủ các yêu cầu kinh tế đặt ra.
Mặt khác thị trường chứng khoán ở nước ta mới đi vào hoạt động, hàng
hoá cũn nghốo nàn. Hơn nữa sự hiểu biết của dân chúng về thị trường chứng
khoán cũn rất hạn chế “thậm chớ cũn nhiều người chưa biết đến khái niệm thị
trường chứng khoán là gỡ), hệ thống luật phỏp cũn chưa đầy đủ. Vỡ thế mà
việc phát huy tối đa hoạt động huy động vốn thông qua thị trường chứng
khoán là rất khó khăn. Bởi vậy chỉ cũn một kờnh duy nhất là huy động vốn
qua NHTM.
1.2.3.2. Đối với hoạt động kinh doanh của NHTM:
 Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh:
Vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng, vỡ khỏc với
doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bỡnh thường, hoạt động kinh
doanh tiền tệ của ngân hàng có những đặc trưng riêng. Vốn không chỉ là
phương tiện kinh doanh chính mà cũn là đối tượng kinh doanh chủ yếu.
Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền
tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài
17

LuËn v¨n tèt nghiÖp
hạn). Quá trỡnh kinh doanh tiền tệ được mó hoỏ bằng cụng thức T-T

, trong
đó T là nguồn vốn bỏ ra ban đầu, T’ là nguồn vốn thu về sau một quá trỡnh
đầu tư, tiến hành hoạt động kinh doanh T’ >T. Từ đó có thể thấy rằng ngân
hàng nào trường vốn ngân hàng đó có nhiều thế mạnh trong cạnh tranh. Vỡ
vậy ngoài nguồn vốn ban đầu cần thiết (vốn điều lệ) theo quy định thỡ ngõn
hàng luụn phải chăm lo tới việc tăng trưởng nguồn vốn trong suốt quỏ trỡnh
hoạt động của mỡnh.
 Vốn quyết định quy mô tín dụng và các hoạt động khác của ngân
hàng:
Trong điều kiện bỡnh thường, đầu vào luôn ảnh hưởng trực tiếp tới đầu
ra. Đối với ngân hàng vốn là yếu tố đầu vào, tín dụng, đầu tư... là yếu tố đầu
ra. Vì vậy, so với cỏc ngõn hàng lớn cỏc ngõn hàng nhỏ có khoản mục đầu tư
và cho vay kém đa dạng hơn. Trong khi các ngân hàng lớn có nhiều vốn cho
vay được cả thị trường trong nước và quốc tế thỡ cỏc ngõn hàng nhỏ thường
không có đủ vốn nên việc cho vay bị giới hạn trong phạm vi hẹp hơn, chủ yếu
trong cộng đồng. Hơn nữa, vốn hạn hẹp nên các ngân hàng nhỏ thường không
phản ứng nhanh nhạy với những đợt biến động về lói suất, ảnh hưởng trực
tiếp khả năng thu hút vốn đầu tư từ tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế,
đồng thời sẽ khó có điều kiện mở rộng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, công nghệ để
tăng sức cạnh tranh, cũng như việc đầu tư vào các danh mục đầu tư dài hạn,
tham gia vào thị trường chứng khoán trong điều kiện như hiện nay. Khó có
thể đầu tư vào các dự án lớn do những quy định về pháp luật trong việc cho
vay như ngân hàng không được phép cho vay vượt quá 15% vốn tự có của
ngân hàng đối với 1 khách hàng hay tổng số cho vay không được vượt quá 20
lần vốn tự có.
 Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân
hàng trên thương trường:

Ngân hàng vừa là chủ nợ vừa là con nợ do đặc điểm đi vay để cho vay
của mỡnh. Để đáp ứng nhu cầu chi trả của ngân hàng cho các khoản vay đến
hạn, ngoài dự trữ bắt buộc, ngân hàng cũn phải đảm bảo khả năng thanh toán
18
LuËn v¨n tèt nghiÖp
dưới dạng tiền mặt, tín phiếu kho bạc, các giấy tờ có giá khác hoặc tài sản có
tính lỏng hơn.
Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng phải giữ
được chữ tín. Uy tín thể hiện ở khả năng chi trả của ngân hàng khi đáo hạn.
Vốn khả dụng càng cao thỡ khả năng thanh toán lớn. Nguồn vốn lớn sẽ giúp
ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động, tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao uy
tín và vì thế trên thị trường. Tiềm năng vốn lớn là điều kiện đối với ngân hàng
trong việc mở rộng quan hệ tín dụng đối với các thành phần kinh tế xét về cả
quy mô lẫn khối lượng tín dụng, chủ động về tiền, thời hạn cho vay, lói suất
cho vay cú thể thấp hơn các ngân hàng khác, từ đó sẽ thu hút được nhiều
khách hàng, doanh số kinh doanh tăng, đây là điều kiện tiền đề làm tăng lợi
nhuận của ngân hàng, tăng vốn tự có, tăng khả năng cạnh tranh giữ được chữ
tín và nâng cao thanh thế của ngân hàng trên thị trường.
 Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng:
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh giúp các doanh nghiệp tự hoàn thiện mỡnh hơn. Với ngân hàng
vốn chính là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh. Thực tế đó chứng minh:
quy mụ vốn, trỡnh độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại là điều kiện
tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn và nguồn vốn lớn sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng đối với các thành phần
kinh tế. Giúp ngân hàng kinh doanh đa năng trên thị trường, phân tán rủi ro,
tạo thêm vốn cho ngân hàng. Khi đó trên thương trường tất yếu sức mạnh
cạnh tranh sẽ tăng lên.
1.2.4. Các hình thức huy động vốn.
1.2.4.1. Hình thức huy động tiền gửi không kỳ hạn:

Tiền gửi của khỏch hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của
NHTM. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở tài
khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân
hàng huy động tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư. Đây là
nguồn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng.
19
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Để tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền
gửi có chất lượng ngày càng cao các ngân hàng đó đưa ra và thực hiện nhiều
hỡnh thức huy động khác nhau:
 Tiền gửi khụng kỳ hạn:
Đây là tiền gửi với thời gian không xác định, người gửi tiền có thể rút
ra bất cứ lúc nào. Là tiền gửi của các cá nhân hay tổ chức, doanh nghiệp gửi
vào ngân hàng chủ yếu để hưởng những tiện ích mà ngân hàng cung cấp chứ
không phải nhằm mục đích hưởng lói. Ngõn hàng thường chỉ trả lói suất rất
thấp hay khụng trả lói suất cho số dư tài khoản tiền gửi này, vỡ vậy chi phớ
huy động rất thấp. Đây là một ưu điểm của nguồn vốn này. Để thu hút nguồn
vốn này ngân hàng không ngừng cải tiến, đổi mới các hỡnh thức dịch vụ phục
vụ cho hoạt động này.
Trong tiền gửi khụng kỳ hạn chia làm 2 loại:
 Tiền gửi thanh toỏn:
Đây là tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân gửi vào ngân hàng nhờ
ngân hàng giữ hộ và thanh toán hộ. Do khách hàng gửi vào đây nhằm mục
đích thanh toán là chính chứ không phải vỡ mục đích hưởng lói nờn họ cú thể
rỳt ra để chi trả, thanh toán bất cứ lúc nào mà ngân hàng không được phép từ
chối. Vỡ thế tớnh ổn định của nó là thấp nhất.
Biến động của tiền gửi thanh toán phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh
doanh, thời vụ hoặc địa bàn hoạt động của ngân hàng. Để đáp ứng nhu cầu
của khách hàng ngân hàng thường mở 2 loại tài khoản:
 Tài khoản thanh toán (tài khoản séc): Là loại tài khoản mà chủ nhân

của tài khoản có thể sử dụng số tiền trong phạm vi số dư tiền gửi. Tài khoản
này có số dư bên có.
 Tài khoản vóng lai: Tài khoản này thường được sử dụng cho các tổ
chức kinh tế. Nó có thể có số dư bên nợ hoặc bên có. Số dư có thể hiện tiền
gửi của khách hàng, cũn số dư nợ thể hiện khoản tín dụng ngân hàng cấp cho
khách hàng. Lói suất đối với mỗi bên dư nợ hoặc dư có cũng như hạn mức đối
với số dư nợ do 2 bên thoả thuận.
20
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Trên thực tế các ngân hàng đó dần xoỏ bỏ sự khỏc biệt giữa 2 loại tài khoản
này.
Do tiền gửi không kỳ hạn có chi phí thấp, nếu thu hút được số lượng
khách hàng lớn, đảm bảo luôn có một số dư ổn định, ngân hàng có thể dễ
dàng đa dạng hoá nghiệp vụ của mỡnh. Song sử dụng nguồn tiền này ngõn
hàng phải luụn thận trọng nếu khụng rủi ro chi trả xảy ra cú thể làm giảm uy
tớn của ngõn hàng hoặc phải tốn nhiều chi phớ để đi vay, thậm chí có thể dẫn
đến phá sản. Đồng thời nó luôn phải chịu dự trữ bắt buộc, điều này tạo nên
một chi phí thực cao hơn danh nghĩa.
Đối với Việt Nam loại tiền gửi này tồn tại thông qua các hỡnh thức sau:
Tài khoản tiền gửi của cỏc tổ chức kinh tế và tài khoản tiền gửi của cỏc
cỏ nhõn. Việt Nam là nước cú tỷ trọng thanh toỏn khụng dựng tiền mặt thấp,
để khuyến khích việc thanh toán qua ngân hàng các NHTM Việt Nam đó từng
ỏp dụng việc trả lói cho loại tiền gửi này là 0,5 %/tháng.
 Tiền gửi khụng kỳ hạn thuần tuý:
Đây là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của khách hàng, họ gửi vào ngân
hàng không mang tính chất để thanh toán mà nhằm mục đích an toàn tài sản,
khi cần khách hàng có thể rút để chi tiêu.
1.2.4.2. Hình thức huy động tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế và
doanh nghiệp:
Đây là loại tiền gửi vào ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận về thời

gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Khách hàng chỉ được phép rút
tiền khi đến hạn thoả thuận.
Mục đích của khách hàng gửi loại tiền này là hưởng lói chứ không phải
là hưởng các tiện ích trong thanh toán.
Đặc điểm của loại tiền này là không dùng để thanh toán. Ngân hàng có
toàn quyền sử dụng lượng vốn này trong thời hạn. Khi khách hàng cần rút tiền
phải báo trước cho ngân hàng và phải được sự đồng ý của ngõn hàng. Do vậy
nú mang lại tớnh chủ động trong việc sử dụng vốn của ngân hàng, nên hiệu
quả sử dụng nguồn vốn này là rất cao. Chi phí để huy động đối với ngân hàng
21
LuËn v¨n tèt nghiÖp
là khá đắt vỡ lói suất huy động thường cao (thường lói suất huy động tỷ lệ
thuận theo thời gian), nhưng bù lại tính ổn định của nguồn cao.
Tiền gửi cú kỳ hạn ở Mỹ chiếm khoảng 40% tiền gửi ngân hàng, đặc
điểm là các chứng chỉ tiền gửi được ghi rừ hạn định và giá trị thanh toán, việc
rút trước hạn sẽ bị phạt, đôi khi mức phạt vượt quá tiền lói được hưởngđến
ngày rút tiền. Ở Đức họ đó khắc phục việc rỳt tiền trước hạn gây bất lợi cho
khách hàng bằng cách cấp cho họ một khoản tín dụng và coi khoản tiền gửi có
kỳ hạn là đảm bảo cho khoản tín dụng đó. Lói suất cho cỏc khoản tiền gửi cú
kỳ hạn cú thể cố định hoặc linh hoạt tuỳ theo sự lựa chọn của khách hàng.
Với loại tiền gửi có lói suất linh hoạt, khỏch hàng cú thể gửi thêm tiền trước
hạn định.
Ở Việt Nam hiện nay thời hạn của tiền gửi có kỳ hạn đó được đa dạng
hoá từ kỳ hạn 1 tháng đến 1 năm, đó phỏt huy được vai trũ trong việc huy
động vốn cho các ngân hàng.
1.2.4.3. Hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm dân cư:
Tiền gửi tiết kiệm do dân cư gửi vào ngân hàng với mục đích an toàn và
sinh lợi. Đây là công cụ huy động vốn lưu truyền từ lâu. Vốn huy động từ các
tài khoản tiết kiệm thường chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng tiền gửi của các
ngân hàng. Người gửi tiền nhằm mục đích thu lợi, vỡ vậy lói suất là yếu tố rất

được người gửi tiền quan tâm. Lói suất huy động tỷ lệ với thời gian gửi tiền
sẽ khuyến khích khách hàng gửi tiền với thời gian dài hơn.
Ngân hàng thường phân chia loại tiền này thành:
 Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: chủ tài khoản có thể rút tiền bất cứ
lúc nào mà không phải báo trước, số dư tài khoản này thường không lớn. Ưu
điểm hơn tài khoản tiền gửi giao dịch là số dư này ít biến động hơn nhưng
ngân hàng phải trả lói suất cao hơn tiền gửi thanh toán.
 Tiền gửi tiết kiệm cú kỳ hạn: Nguyờn tắc của loại tiền này là một khi
khỏch hàng đã gửi tiền vào họ sẽ khụng rỳt tiền ra (cả gốc và lói) trừ khi đó
hết hạn gửi tiền. Tuy nhiờn, do yếu tố cạnh tranh thu hỳt tiền gửi, một số
ngõn hàng vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước hạn, đồng thời để hạn chế
22
LuËn v¨n tèt nghiÖp
việc khách hàng rút tiền trước hạn, ngân hàng thực hiện việc khấu trừ một
phần lói mà khỏch hàng được hưởng (có thể ngân hàng không chấp nhận trả
lói cho một số thỏng nào đó hoặc có thể khách hàng chỉ được hưởng mức lói
suất tiền gửi tiết kiệm khụng kỳ hạn cho khoảng thời gian gửi tiền). Đây là
loại hỡnh tiết kiệm mà ngõn hàng cần tận dụng để tạo các nguồn có tính ổn
định cao phục vụ cho hoạt động cấp tín dụng dài hạn.
Để huy động nguồn này ngõn hàng cần phải chỳ ý cỏc yếu tố thuộc về
khỏch hàng: nhu cầu tiết kiệm, thu nhập và xu hướng tiết kiệm, các đặc tính
về dân số, xó hội, tỡnh hỡnh kinh tế.
1.2.4.4. Huy động bằng hình thức vay nợ của các ngân hàng và tổ chức tín
dụng khác:
Tiền gửi là nguồn tiền do khách hàng chủ động mang đến cho ngân
hàng, ngân hàng sử dụng nguồn vốn này để kinh doanh tiền tệ như cho vay,
đầu tư ...Nếu khi hoạt động mà nguồn tiền gửi không đáp ứng đủ yêu cầu của
ngân hàng thỡ NHTM cú thể đi vay từ các nguồn sau:
 Vay từ NHTW:
NHTW với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, luôn luôn đóng vai

trũ là chủ nợ và là “người cho vay cuối cùng” đối với các ngân hàng thương
mại.
NHTM và một số tổ chức tín dụng được hưởng quyền vay từ NHTW
trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (vay bắt buộc), bù đắp phần thiếu hụt trong
thanh toán bù trừ tại NHTW, đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong quá trỡnh
hoạt động kinh doanh (vay nóng trong trường hợp khó khăn trong thanh toán
khẩn cấp), NHTW cho NHTM vay với thời gian trung và dài hạn nhằm thực
hiện chính sách của nhà nước.
Lói suất mà NHTM phải trả cho NHTW hoàn toàn phụ thuộc vào ý trớ
chủ quan của NHTW:
- Lói suất thấp khi NHTW đang thực hiện chính sách lới lỏng tiền tệ
kích thích cho vay, đầu tư.
- Lói suất cao khi NHTW đang thắt chặt cung tiền tệ để chống lạm
phát, hay thực hiện lói suất phạt trong trường hợp thiếu DTBB.
23
LuËn v¨n tèt nghiÖp
Lói suất cao buộc cỏc NHTM phải tỡm cỏch trả nợ rất nhanh và khoản
cho vay chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động.
NHTW thực hiện việc cho các NHTM vay trên cơ sở chiết khấu, tái chiết
khấu các giấy tờ có giá, trong đó chủ yếu là thương phiếu và trái phiếu chính
phủ. Tạo được nguồn tiền giúp ngân hàng trong những lúc khó khăn nhất.
Song ngân hàng nên hạn chế hỡnh thức huy động này vỡ lói suất quỏ cao và
khụng phải lỳc nào cũng diễn ra suụn sẻ.
 Vay cỏc NHTM và tổ chức tớn dụng khỏc:
Đây là hỡnh thức huy động vốn quan trọng đối với các NHTM. Việc vay
vốn giữa các NHTM và các tổ chức tín dụng khác nhằm giải quyết tỡnh trạng
thừa vốn và thiếu vốn so với nhu cầu của một ngõn hàng.
Ở Việt Nam theo chỉ thị số 07/CT–NH1 của thống đốc NHNN thỡ vốn
vay giữa cỏc ngõn hàng và tổ chức tớn dụng được tiến hành theo thoả thuận
bằng hợp đồng tín dụng. Vốn cho vay được bảo đảm bằng hỡnh thức thế chấp

hay cầm cố tài sản của ngõn hàng đi vay bao gồm: Tiền mặt tại quỹ, tiền gửi
tại NHTW, tiền gửi tại ngân hàng khác, các chứng từ có giá. Ngân hàng có
thể xin ngân hàng khác bảo lónh để vay vốn của ngân hàng khác.
NHTM có thể vay thông qua thị trường tiền tệ. Nghiệp vụ này sẽ tạo ra
thị trường liên ngân hàng trong nước và quốc tế. Lói suất đi vay thường cao
hơn vay từ NHTW. Quy mô các món vay phụ thuộc vào thị trường liên ngân
hàng tức là khả năng cho vay của các liên ngân hàng. Về kỳ hạn có thể co
gión, cú thể rất ngắn, cú thể tới 3-5 năm.
Nguồn tiền vay không phải chịu DTBB, không cần bảo hiểm tiền gửi,
nhưng lói suất lại cao. Song quy mụ và thời gian xỏc định trước, và có thể đáp
ứng kịp thời nhu cầu của ngân hàng.
Ngoài ra, các ngân hàng có chi nhánh nằm chung trong một hệ thống
như Ngân hàng Nụng Nghiệp và phỏt triển Nụng thụn Việt Nam cũn cú vốn
điều chuyển trong hệ thống. Vốn này khá quan trọng đối với các chi nhánh
nhằm đảm bảo kinh doanh mở rộng thị trường, đa dạng hoá sản phẩm.
24
LuËn v¨n tèt nghiÖp
1.2.4.5. Vay bằng cách phát hành công cụ nợ:
Đây là nguồn vốn chủ động thu gom của ngân hàng trên thị trường tài
chính bao gồm: thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Trong quá trỡnh hoạt
động, khi thiếu vốn đầu tư ngân hàng có thể phát hành giấy tờ có giá để huy
động vốn trên thị trường tài chính. Giấy tờ này là giấy tờ vay nợ ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn.Tuỳ theo thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng mà
các chứng chỉ này có thể được chuyển đổi từ chủ sở hữu này sang chủ sở hữu
khác. Đây là hỡnh thức huy động vốn chủ động với những ưu điểm riêng biệt
mà những hỡnh thức huy động trên không có được.
Ngõn hàng cú thể phỏt hành cỏc loại giấy tờ cú giỏ sau: trỏi phiếu ngõn
hàng và kỳ phiếu ngõn hàng.
 Trái phiếu ngân hàng: là một giấy tờ có giá, xác nhận khoản nợ của
ngân hàng đối với người chủ sở hữu trái phiếu, với những cam kết như thanh

toán một số tiền xác định vào một ngày xác định trong tương lai với thời hạn
xác định trước. Căn cứ vào những tiêu thức khác nhau người ta có thể chia
trái phiếu ngân hàng ra:
 Theo khả năng chuyển đổi: trái phiếu vô danh, trái phiếu kớ danh.
 Theo thời hạn: trỏi phiếu ngắn hạn và dài hạn.
Trái phiếu được phát hành trong toàn bộ hệ thống ngân hàng chủ yếu là
để huy động vốn trung và dài hạn phục vụ cho các kế hoạch kinh doanh có
quy mô lớn và dài hạn. Lói suất trỏi phiếu ngõn hàng cũng rất hấp dẫn,
thường lớn hơn các công cụ nợ khác và tỷ lệ thuận với kỳ hạn của khoản nợ.
 Kỳ phiếu: Kỳ phiếu ngõn hàng là một loại giấy nhận nợ ngắn hạn do
ngõn hàng phỏt hành nhằm huy động vốn trong dân, chủ yếu để thực hiện cho
những kế hoạch kinh doanh xác định của ngân hàng như một dự án, một
chương trỡnh kinh tế ...Kỳ phiếu ngõn hàng được phát hành theo từng đợt và
cũn gọi là kỳ phiếu cú mục đích. Việc phát hành được thực hiện trên cơ sở
tỡnh hỡnh nguồn vốn và nhu cầu sử dụng vốn trong thời kỳ trước mắt của
ngõn hàng.
Kỳ phiếu là một hỡnh thức huy động vốn khá linh hoạt, có tính lỏng cao,
dễ chuyển đổi sang tiền hoặc hỡnh thức khỏc. Mệnh giỏ, loại tiền sử dụng và
25

×