1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
* * *
PHAN THỊ BÌNH
CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP XÂY LẮP TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ
VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Hà Nội, Năm 2010
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
* * *
PHAN THỊ BÌNH
CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
XÂY LẮP TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT
TRIỂN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính Ngân hàng
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ĐỨC HƯỞNG
Hà Nội, Năm 2010
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BIDV: Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
CBTD: Cán bộ tín dụng
DNXL: Doanh nghiệp xây lắp
SXKD: Sản xuất kinh doanh
NHTM: Ngân hàng thương mại
TCTD: Tổ chức tín dụng
4
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
1. Sơ đồ 2.1- Mô hình tổ chức hệ thống BIDV 32
2. Sơ đồ 2.2- Cơ cấu bộ máy quản lý của BIDV 33
3. Bảng 2.3- Kết quả kinh doanh giai đoạn 2007-2009 34
4. Bảng 2.4- Cơ cấu nguồn vốn huy động của BIDV giai đoạn 2007-2009 35
5. Bảng 2.5- Một số chỉ tiêu quy mô và cơ cấu tín dụng của BIDV 37
6. Bảng 2.6- Cơ cấu dư nợ tín dụng theo ngành nghề 38
7. Bảng 2.7- Nợ quá hạn, nợ xấu của BIDV 39
8. Bảng 2.8- Thu dịch vụ ròng của BIDV giai đoạn 2007-2009 40
9. Bảng 2.9- Tình hình dư nợ của DNXL giai đoạn 2007-2009 44
10. Bảng 2.10- Tỷ lệ nợ quá hạn của DNXL giai đoạn 2007-2009 45
11. Bảng 2.11- Phân loại nợ quá hạn của DNXL theo thời gian 46
12. Bảng 2.12- Nhóm nợ 48
13. Bảng 2.13- Nợ xấu của DNXL 49
14. Bảng 2.14- Tỷ lệ dư nợ DNXL có TSBĐ 50
15. Bảng 2.15- Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng đối với DNXL 51
16. Bảng 2.16- Quy mô lợi nhuận từ hoạt động cho vay đối với DNXL 52
5
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là Ngân hàng thương mại Nhà nước có
bề dày lâu đời nhất trong hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam. Qua chặng đường
53 năm xây dựng và trưởng thành, từ một ngân hàng chuyên ngành có nhiệm vụ chủ yếu
là cấp phát, cho vay và quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản tất cả các lĩnh vực của nền
kinh tế thuộc kế hoạch nhà nước, đến nay Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã
trở thành Ngân hàng thương mại Nhà nước hàng đầu Việt Nam, hoạt động theo mô hình
tổng công ty nhà nước hạng đặc biệt với tính hệ thống cao. Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam đã khẳng định được vai trò chủ lực và thế mạnh trong việc cho vay vốn
phục vụ đầu tư phát triển, góp phần Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
Doanh nghiệp xây lắp từ lâu đã là khách hàng truyền thống của Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam, dư nợ đối với loại hình doanh nghiệp này luôn chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng dư nợ của Ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hoạt động cho vay đối
với Doanh nghiệp xây lắp còn tồn tại nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến chất lượng tín
dụng và thu nhập của ngân hàng. Một trong những biểu hiện của tình trạng trên là tỷ lệ
nợ quá hạn cao, nợ xấu còn ở mức cao…Chính vì vậy, việc chỉ ra những hạn chế,
nguyên nhân dẫn đến hạn chế trên, từ đó đề ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho
vay đối với doanh nghiệp xây lắp là việc cần thiết. Xuất phát từ mong muốn trên, đề tài
“Nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam” đã được tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về chất lượng cho vay đối với Doanh
nghiệp xây lắp của Ngân hàng thương mại.
6
- Từ lý thuyết nghiên cứu kết hợp với thực trạng hoạt động cho vay đối với
Doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam để đánh giá những
ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp xây lắp
tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp tại Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong bài viết chỉ xét trên giác độ ngân hàng và tập trung
nghiên cứu chất lượng cho vay dưới giác độ cho vay đối với các doanh nghiệp xây lắp
để phục vụ hoạt động thi công xây lắp tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
trong giai đoạn 2007-2009.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp thống kê kinh tế, điều tra chọn mẫu, tổng hợp so
sánh một cách logic để làm sáng tỏ các vấn đề đặt ra nhằm tìm ra các giải pháp nâng cao
chất lượng cho vay đối với các doanh nghiệp xây lắp.
5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài lời mở đầu và kết luận, Luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp của ngân hàng thương
mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp tại Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp xây lắp tại Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
7
CHƯƠNG 1: CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP XÂY LẮP CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của doanh nghiệp xây lắp
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp xây lắp
Để hiểu một cách đầy đủ về doanh nghiệp xây lắp, trước tiên chúng ta cần đưa ra
định nghĩa về lĩnh vực hoạt động thi công xây lắp.
Hoạt động thi công xây lắp được hiểu một cách cơ bản là những công việc thuộc
quá trình xây dựng và lắp đặt thiết bị các công trình, hạng mục công trình. Công trình
xây dựng là sản phẩm của công nghệ lắp đặt gắn liền với đất (bao gồm cả khoảng không,
mặt nước, mặt đất, mặt biển, thềm lục địa) được tạo thành bởi vật liệu xây dựng, thiết bị
và lao động.
Doanh nghiệp xây lắp là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được
thành lập theo quy định của pháp luật, có đăng ký ngành nghề kinh doanh trong lĩnh vực
thi công, xây lắp.
DNXL có hai lĩnh vực hoạt động chủ yếu là (1) hoạt động tìm kiếm hợp đồng xây
dựng và (2) hoạt động bàn giao công trình hoàn thành và thanh quyết toán hợp đồng xây
dựng với chủ đầu tư công trình. Các Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp có
trách nhiệm:
- Đăng ký hoạt động xây dựng tại các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật và Chủ đầu tư về các nội dung đã cam kết
trong hợp đồng, bao gồm cả số lượng, chất lượng, tính chính xác của sản phẩm theo thời
gian thực hiện hợp đồng, có quy định và hướng dẫn sử dụng công trình trước khi bàn
giao công trình xây dựng, thực hiện bảo hành chất lượng sản phẩm xây dụng và công
trình theo quy định.
8
- Thực hiện chế độ bảo hiểm công trình xây dựng, thực hiện an toàn lao động,
bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình xây dựng. Thông tin rộng rãi về năng lực
hoạt động của doanh nghiệp để Chủ đầu tư biết và lựa chọn.
1.1.1.2. Đặc trưng của doanh nghiệp xây lắp
So với các ngành sản xuất khác, ngành XDCB có những đặc điểm về kinh tế - kỹ
thuật riêng biệt, thể hiện rất rõ nét ở sản phẩm xây lắp và quá trình tạo ra sản phẩm của
ngành. Những đặc điểm riêng của ngành và đặc điểm sản phẩm xây lắp sẽ chi phối công
tác tổ chức quản lý, điều hành. Việc nghiên cứu nắm rõ các đặc điểm này, giúp Ngân
hàng đưa ra những quyết định chính xác, nắm rõ được những hạn chế và đề ra những
phương án khắc phục nhằm nâng cao chất lượng cho vay, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
a. Về sản phẩm xây lắp
- Sản phẩm xây lắp có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc:
Mỗi sản phẩm đều có thiết kế riêng theo yêu cầu của nhiệm vụ thiết kế, mặc dù
sản phẩm xây lắp có thể giống nhau về hình thức song về kết cấu, quy phạm thì không
giống nhau hoàn toàn nếu xây dựng ở những địa điểm khác nhau, nên mặc dù có thể sản
xuất hàng loạt theo mẫu thiết kế thống nhất nhưng chi phí xây dựng không thống nhất.
Bên cạnh đó, với đặc điểm quy mô (thể tích) lớn và phức tạp của sản phẩm xây lắp dẫn
đến chu kỳ sản xuất dài, vốn đầu tư bỏ vào để xây dựng dễ bị ứ đọng, gây lãng phí, hoặc
ngược lại nếu thiếu vốn sẽ làm công tác thi công bị gián đoạn, kéo dài thời gian xây
dựng.
Do đó, từ đặc điểm này, yêu cầu công tác quản lý tài chính phải có kế hoạch, tiến
độ thi công, dự toán cụ thể cho từng công trình, từng hạng mục công trình và dự toán chi
tiết theo thiết kế tổ chức thi công, có biện pháp kỹ thuật thi công tốt để rút ngắn thời gian
xây dựng, tiết kiệm vật tư, lao động, tiết kiệm chi phí quản lý để hạ giá thành xây dựng.
- Sản phẩm xây lắp có tính chất cố định, nơi sản xuất gắn liền với nơi tiêu thụ sản
phẩm:
9
Các tư liệu sản xuất (các máy móc, thiết bị thi công, công nhân,...) phải di chuyển
theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc điểm này làm khó khăn cho công tác tổ chức sản xuất.
Việc bố trí các công trình tạm phục vụ thi công (lán trại, kho tàng…) phối hợp với các
phương tiện, máy móc thiết bị nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp và tốn kém. Do đó, để
giảm thiểu lãng phí, thất thoát trên đòi hỏi trước khi khởi công xây dựng công trình phải
làm thật tốt công tác chuẩn bị đầu tư và chuẩn bị xây dựng; hiệu quả kinh doanh sẽ phụ
thuộc rất lớn vào trình độ tổ chức quản lý của đơn vị xây lắp.
- Sản phẩm xây lắp chịu ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, khí hậu, địa chất,
thuỷ văn...
Chất lượng và giá cả (chi phí xây dựng) sản phẩm xây lắp phụ thuộc trực tiếp của
các điều kiện tự nhiên. Các Doanh nghiệp xây lắp không thể lường trước được hết
những khó khăn do tác động của thời tiết, khí hậu. Rủi ro xảy ra tác động tới tiến độ thi
công công trình, giá thành công trình, thậm chí cả chất lượng công trình. Do đó, các
doanh nghiệp xây lắp phải lập tiến độ thi công, tổ chức thi công hợp lý, có phương án sử
dụng cũng như bảo quản nguyên, nhiên vật liệu để tránh bị tác động xấu của các điều
kiện tự nhiên và quản lý hiệu quả chi phí.
- Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thỏa thuận với chủ đầu
tư (giá đấu thầu), do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm xây lắp không thể hiện rõ. Đối
tượng hạch toán chi phí cụ thể trong xây lắp là các hạng mục công trình, các giai đoạn
của hạng mục hay nhóm hạng mục. Do đó, DNXL phải lập dự toán chi phí và tính giá
thành theo từng hạng mục công trình hay giai đoạn của hạng mục công trình.
- Sản phẩm xây lắp liên quan đến nhiều ngành khác nhau trong quá trình xây dựng
và sử dụng: Tài sản cố định của các ngành khác nhau là sản phẩm của ngành xây lắp. Do
vậy, chất lượng sản phẩm xây lắp liên quan đến chất lượng đầu tư của các ngành và hiệu
quả đầu tư trong nền kinh tế.
b. Đặc điểm về tổ chức quản lý và sản xuất kinh doanh
10
- Hoạt động kinh doanh của DNXL là hoạt động mang tính đặc thù, sản phẩm của
họ là những công trình xây dựng (từ công trình xây dựng công nghiệp đến dân dụng, cầu
đường, cơ sở hạ tầng, xây lắp điện…), các DNXL chỉ sản xuất những sản phẩm mà chủ
đầu tư đặt hàng và được tiêu thụ khi chủ đầu tư chấp thuận theo các điều kiện đã ký kết.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của DNXL phần nào phụ thuộc vào khả năng phát triển,
đầu tư và mở rộng của nền kinh tế, nếu đầu tư của nền kinh tế tăng trưởng cao thì thị
trường tiêu thụ của DNXL có khả năng được mở rộng. Trên cơ sở đó, hoạt động cho vay
của Ngân hàng đối với khách hàng DNXL để tham gia thi công các công trình phục vụ
cho nhu cầu phát triển của nền kinh tế cũng có khả năng mở rộng.
- Kết quả sản xuất kinh doanh của DNXL được thực hiện khi các công trình xây lắp
(sản phẩm xây lắp) được chủ đầu tư chấp thuận và thanh toán, và chỉ khi đó DNXL mới
có khả năng trả nợ ngân hàng. Vì vậy, quan hệ tín dụng giữa DNXL và Ngân hàng, hay
nói cách khác chất lượng cho vay đối với DNXL sẽ phụ thuộc lớn vào mối quan hệ giữa
chủ đầu tư (bên A) và DNXL (bên B), mối quan hệ này thể hiện ở: Chất lượng thực hiện
công trình, phương thức nghiệm thu thanh toán của chủ đầu tư, tiến độ xây dựng, nguồn
vốn xây dựng cơ bản của chủ đầu tư…
c. Về tình hình tài chính của doanh nghiệp xây lắp
- Nhu cầu vốn lưu động thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nhu cầu vốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh:
Do tính chất hoạt động của DNXL nên cơ cấu vốn có đặc thù riêng khác với ngành
công nghiệp và các ngành khác, cụ thể là nhu cầu vốn lưu động (vốn kinh doanh doanh
ngắn hạn) cho hoạt động SXKD chiếm tỷ trọng lớn nhất. Các Ngân hàng thường cho
vay các DNXL chủ yếu để tài trợ vốn lưu động phục vụ thi công các công trình. Đối với
nhu cầu đầu tư mới, thay thế và cải tiến máy móc thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất,
Ngân hàng chỉ tham gia tài trợ một phần, phần còn lại các DNXL phải bỏ vốn tự có của
mình.
- Tốc độ chu chuyển vốn trong các DNXL thường không cao:
11
Do đặc điểm xây dựng một đơn vị sản phẩm đòi hỏi phải bỏ nhiều chi phí, thời
gian thi công kéo dài dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn sản xuất ở các hạng mục công trình
thi công dở dang. Khi công trình hoàn thành, công tác nghiệm thu, quyết toán và thanh
toán còn phải phụ thuộc vào chủ đầu tư. Các DNXL thường xuyên bị chiếm dụng vốn
trong thời gian dài nên tốc độ quay vòng vốn lưu động thường rất thấp, nhu cầu vốn lưu
động cần thiết cho thi công lớn. Trong khi đó vốn chủ hữu chiếm tỷ lệ nhỏ trên tổng
nguồn vốn nên để đủ vốn hoạt động, các DNXL phải huy động vốn bên ngoài mà chủ
yếu là vốn vay ngân hàng.
- Khả năng tự chủ về tài chính thấp:
Thực tế hiện nay, vốn chủ sở hữu của DNXL thường chỉ chiếm khoảng 5-20%
trong tổng nguồn vốn, còn lại là vốn vay ngân hàng và vốn chiếm dụng khác. Do đó
gánh nặng về chi phí lãi vay lớn gây áp lực đến hiệu quả kinh doanh và tình hình tài
chính của doanh nghiệp. Lợi nhuận đạt được không cao nên khả năng bổ sung vốn chủ
sở hữu và đầu tư nâng cao năng lực sản xuất thi công thường hạn chế. Trong khi đó, do
sản lượng thi công tăng lên cùng với yêu cầu cao về chất lượng công trình đòi hỏi phải
có những thiết bị thi công hiện đại nên nhu cầu vốn (cả vốn lưu động và vốn đầu tư
trung dài hạn) ngày càng tăng. Vì vậy, các DNXL phải vay ngân hàng ngày càng nhiều
để tài trợ cho nhu cầu vốn của mình.
- Ngoài ra, trong thực tế hiện nay, để phát triển hoạt động, tăng năng lực tài chính,
hiệu quả kinh doanh nhiều DNXL không chỉ hoạt động dưới hình thức nhà thầu thi công
mà còn tiến hành đầu tư các dự án đầu tư bất động sản, thủy điện, kinh doanh nhà hàng
khách sạn… Do đó, nhu cầu vốn vay của các doanh nghiệp này ngày càng tăng cả về
vốn ngắn hạn và trung dài hạn; các ngân hàng khi thẩm định, tài trợ vốn cho DNXL
cũng phải chú trọng đến tính chất hoạt động đa ngành, đa nghề của DNXL để quyết định
mức cho vay, điều kiện cho vay phù hợp.
12
1.1.2. Cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Những nét đặc thù trong hoạt động cho vay đối với DNXL
Xuất phát từ đặc trưng hoạt động của Doanh nghiệp xây lắp, nghiệp vụ cho vay
phục vụ thi công xây lắp cũng có những đặc điểm riêng:
Thứ nhất, DNXL với vai trò Nhà thầu thi công có nhu cầu vay vốn lưu động để
thanh toán các chi phí phát sinh cho Nhà cung cấp đầu vào khi dòng tiền chủ đầu tư
thanh toán cho các Nhà thầu và dòng tiền Nhà thầu phải thanh toán cho các Nhà cung
cấp là không trùng khớp nhau.
Đối tượng cho vay vốn lưu động phục vụ thi công xây lắp là những chi phí trực
tiếp liên quan và phục vụ cho doanh nghiệp thực hiện các Hợp đồng thi công xây lắp, cụ
thể như sau:
- Chi phí nguyên vật liệu phục vụ thi công xây lắp: cát, đá sỏi, thuê xe vận
chuyển, xi măng, sắt thép và các chi phí nguyên vật liệu khác.
- Chi phí nhân công: Lương Cán bộ nhân viên, công nhân xây dựng, nhân công
thuê ngoài và các chi phí nhân công khác.
- Chi phí thuê thiết bị máy móc thi công, chi phí sửa chữa nhỏ thiết bị, công cụ
phân bổ vào công trình.
- Chi phí ban đầu triển khai thi công công trình như: Chi phí lán trại, chuyển máy
móc thiết bị và các chi phí khác.
- Chi phí chung.
- Thanh toán cho nhà thầu phụ (B’) trong trường hợp khách hàng là Nhà thầu
chính.
- Các chi phí khác phục vụ thi công công trình xây lắp trong dự toán xây lắp công
trình.
Thứ hai, việc cho vay phải căn cứ trên cơ sở Hợp đồng giao nhận thầu xây lắp đã
được ký kết giữa Bên nhận thầu và Bên giao thầu; Bên giao thầu có thể chính là Chủ đầu
tư hoặc là người được Chủ đầu tư ủy quyền. Đồng thời, để xác định doanh số cho vay
13
đối với một công trình cần dựa vào các yếu tố: Giá trị hợp đồng xây lắp công trình; Vốn
tự có và huy động khác tham gia vào công trình là bao nhiêu? Lợi nhuận định mức của
công trình là bao nhiêu? vốn chủ đầu tư ứng trước tiền là bao nhiêu?... từ đó xác định
doanh số cho vay đối với một công trình.
Xuất phát từ đặc điểm này, để đảm bảo chất lượng khoản vay, quản lý được rủi
ro tín dụng, các ngân hàng thường phải thực hiện cho vay theo từng công trình, đánh giá
hiệu quả kinh doanh, khả năng trả nợ của từng công trình để đưa ra quyết định cho vay
hay không.
Thứ ba, Thời gian cho vay vốn lưu động thường kéo dài hơn thời gian cho vay
của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khác (Doanh nghiệp thương mại, sản
xuất kinh doanh khác). Vì đặc điểm của ngành xây lắp là thời gian thi công, nghiệm thu,
thanh toán và quyết toán của công trình thường kéo dài, vòng quay vốn lưu động của các
doanh nghiệp xây lắp thường lâu hơn vòng quay vốn lưu động của các doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực khác.
Thứ tư, Nguồn trả nợ vay ngân hàng của DNXL là nguồn vốn thanh toán giá trị
khối lượng hoàn thành công trình, do vậy trước khi cho vay, ngân hàng phải xác định rõ
nguồn vốn thanh toán của từng công trình về cơ cấu nguồn vốn (vay Ngân hàng, Vốn tự
có, nguồn vốn khác), thời gian thanh toán, điều kiện thanh toán. Sau khi cho vay phải
theo dõi chặt chẽ tiến độ thi công, kiểm soát dòng tiền thanh toán để thu hồi nợ vay. Vì
vậy, ngoài DNXL, ngân hàng phải tăng cường mối liên hệ đối với Chủ đầu tư, thường
xuyên tiến hành đối chiếu công nợ giữa Chủ đầu tư và Nhà thầu để biết được nguồn thu
của Công trình.
Ngoài ra, để bám sát nguồn tiền thanh toán công trình, Ngân hàng cho vay có thể
yêu cầu Chủ đầu tư thực hiện chuyển tiền thanh toán cho nhà thầu thi công về tài khoản
tiền gửi của Nhà thầu tại Ngân hàng cho vay. Biên bản xác nhận chuyển tiền về tài
khoản của khách hàng tại Ngân hàng có thể ký giữa hai bên đó là Khách hàng và Chủ
đầu tư và xuất trình Biên bản đó cho Ngân hàng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp để
14
đề phòng Khách hàng và Chủ đầu tư ký lại Xác nhận chuyển tiền thì Biên bản xác nhận
chuyển tiền sẽ được ký 3 Bên giữa Ngân hàng, Khách hàng và Chủ đầu tư.
Thứ bảy, khi cho vay phải thường xuyên kiểm tra tình hình thi công công trình,
tiến độ thi công, thanh toán có đúng theo quy định trong Hợp đồng giao nhận thầu hay
không để từ đó phát hiện ra những khó khăn vướng mắc và có biện pháp ứng xử kịp
thời. Chất lượng cho vay đối với DNXL sẽ phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn xây dựng
của chủ đầu tư (Bên A) thanh toán cho nhà thầu thi công và chất lượng công trình,
phương thức nghiệm thu thanh toán của chủ đầu tư, tiến độ xây dựng...
1.1.2.2. Các hình thức cho vay DNXL
Hoạt động cho vay đối với DNXL của ngân hàng có nhiều hình thức đa dạng,
việc phân loại chỉ có tính chất tương đối. Tuỳ thuộc vào tiêu thức phân loại mà có thể
chia ra các hình thức cho vay khác nhau.
a. Căn cứ vào thời hạn cho vay
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng với ngân hàng vì liên quan mật thiết
đến tính an toàn và sinh lợi của hoạt động tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của
khách hàng. Dựa vào căn cứ này, có thể phân chia cho vay đối với DNXL thành các loại
như sau:
* Cho vay ngắn hạn: Là các khoản cho vay có thời hạn đến 12 tháng. Cho vay
ngắn hạn đối với DNXL thường bao gồm hai loại sau:
- Cho vay từng lần (cho vay theo món):
+ Đối tượng áp dụng: Đối với khách hàng có quan hệ không thường xuyên, có
nguồn thu không ổn định và một số khách hàng có nhu cầu vay theo món khác như vay
bù đắp thiếu hụt tài chính tạm thời, vay bắc cầu…
+ Mức cho vay thường được xác định như sau:
Mức cho vay
= Chi phí cần thiết cho
SXKD
- Vốn tự có - Vốn khác
15
Chi phí cần thiết cho
SXKD
=
Giá trị
hợp đồng thi
công xây lắp
-
Khấu hao
cơ bản
- Thuế -
Lợi nhuận
định mức
+ Mức trả nợ và kỳ hạn trả nợ có thể được xác định dựa trên cơ sở từng chu kỳ sản
xuất kinh doanh, hoặc khả năng thu tiền tại thời điểm gần nhất của khách hàng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng:
+ Đối tượng áp dụng: Đối với các khách hàng có sản xuất kinh doanh ổn định, có
hiệu quả và có quan hệ vay thường xuyên, tín nhiệm với ngân hàng và có nhu cầu vay
vốn theo hạn mức.
CF SX cần thiết
trong năm KH Vốn tự có Các khoản
Hạn mức TD = ------------------- - và coi như - huy động
Vòng quay VLĐ tự có khác
Chi phí SX = Tổng giá trị sản lượng - Khấu hao - Thuế - Lợi nhuận
Cần thiết (doanh thu thuần) theo KH cơ bản định mức
+ Việc xác định thời hạn cho vay, kỳ hạn trả nợ, mức trả nợ phải căn cứ vào chu kỳ
sản xuất kinh doanh, vòng quay vốn lưu động, dòng tiền của doanh nghiệp để xác định
thời hạn cho vay, kỳ hạn trả nợ phù hợp. Đối với cho vay thường xuyên thì mức trả nợ
được xác định dựa vào mức độ luân chuyển, chu kỳ sản xuất, và do ngân hàng và khách
hàng thoả thuận với nhau.
+ Trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng cho vay theo hạn mức, khách hàng có thể
vừa rút vốn vay, vừa trả nợ tiền vay song phải đảm bảo số dư nợ không được vượt hạn
mức tín dụng đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng hạn mức.
* Cho vay trung dài hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở lên.
Trong đó các khoản cho vay có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng là cho vay trung
hạn, thời hạn từ 60 tháng trở lên là cho vay dài hạn. Cụ thể:
+ Cho vay trung hạn đối với DNXL: Từ trên 12 tháng đến 60 tháng tài trợ cho các
tài sản cố định như phương tiện vận tải, máy móc thiết bị thi công...
16
+ Cho vay dài hạn đối với DNXL: Từ trên 60 tháng trở lên tài trợ cho các công
trình xây dựng đầu tư cơ sở hạ tầng như nhà, sân bay, cầu đường, cấp nước đô thị... có
giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu.
b. Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển vốn của DNXL
- Cho vay vốn lưu động: Là hình thức cho vay để tài trợ cho tài sản lưu động của
DNXL như chi phí nguyên vật liệu phục vụ thi công xây lắp, chi phí nhân công, chi phí
thuê thiết bị máy móc thi công, chi phí sửa chữa nhỏ thiết bị, công cụ phân bổ vào công
trình...
- Cho vay vốn cố định: Là hình thức cho vay để tài trợ cho tài sản cố định của
DNXL như phương tiện vận tải, máy móc thiết bị thi công, văn phòng, trụ sở...
c. Căn cứ vào hình thức bảo đảm tiền vay
- Cho vay không có bảo đảm (cho vay tín chấp): Là loại hình cho vay mà ngân
hàng cho vay chủ yếu dựa vào uy tín của khách hàng, không đòi hỏi phải có tài sản bảo
đảm.
- Cho vay có bảo đảm: Là loại hình cho vay mà ngân hàng đòi hỏi người vay phải
có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba hoặc bảo đảm bằng tài sản hình
thành từ vốn vay.
1.1.2.2. Quy trình cho vay DNXL
Qui trình cho vay là tổng hợp các nguyên tắc, qui định của ngân hàng trong việc
cho vay. Trong đó xây dựng các bước đi cụ thể theo một trình tự nhất định, có mối liên
hệ chặt chẽ với nhau. Quy trình tín dụng được bắt đầu từ khi cán bộ tín dụng bộ phận
quan hệ trực tiếp với khách hàng tiếp nhận hồ sơ khách hàng và kết thúc khi tất toán
thanh lý hợp đồng tín dụng, được tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Nhận và kiểm tra hồ sơ vay vốn của khách hàng
Khi một khách hàng có nhu cầu đề nghị ngân hàng cung cấp các sản phẩm tín
dụng, cán bộ tín dụng trao đổi với khách hàng, tìm hiểu sơ bộ về ngành nghề sản xuất
kinh doanh của khách hàng, nhu cầu vay, mục đích vay vốn…từ đó CBTD xác định xem
17
liệu dự án, phương án vay vốn đó có nằm trong phạm vi và khả năng tổ chức của khách
hàng hay không, đề xuất vay vốn có phù hợp với chiến lược phát triển, chính sách tín
dụng của ngân hàng không. Nếu phù hợp, CBTD hướng dẫn khách hàng hoàn thiện hồ
sơ vay vốn, đầu mối tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra tính đầy đủ, hợp pháp, hợp lệ của các tài
liệu trong hồ sơ.
Thông thường hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp gồm có:
- Đề nghị vay vốn
- Hồ sơ pháp lý của doanh nghiệp (Quyết định thành lập, điều lệ doanh nghiệp,
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, mã số thuế, các quyết định bổ nhiệm các chức
danh…)
- Hồ sơ về khoản vay (hồ sơ về tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của
khách hàng vay vốn hoặc người bảo lãnh; hồ sơ về dự án, phương án vay vốn…).
- Hồ sơ về bảo đảm tiền vay
Qua các hồ sơ trên, ngân hàng bước đầu có những thông tin sơ bộ về khách hàng để
từ đó bắt đầu tiến hành việc thẩm định cho vay.
Bước 2. Thẩm định trước khi cho vay
* Thẩm định khách hàng vay vốn
Cán bộ tín dụng thẩm định khách hàng vay vốn theo những nội dung sau:
- Tìm hiểu và phân tích về khách hàng, tư cách và năng lực pháp lý, năng lực điều
hành, quản lý sản xuất kinh doanh, mô hình tổ chức, bố trí lao động trong doanh nghiệp.
- Thẩm định đánh giá năng lực tài chính của khách hàng.
- Phân tích quan hệ tín dụng của khách hàng với ngân hàng mình và với các TCTD
khác.
- Chấm điểm và xếp loại khách hàng
* Thẩm định dự án/phương án vay vốn của khách hàng
18
Đây là bước quan trọng nhằm đưa ra kết luận về tính khả thi hiệu quả về mặt tài
chính của phương án sản xuất kinh doanh/dự án đầu tư, khả năng trả nợ và những rủi ro
có thể xảy ra để phục vụ cho việc quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay.
Đối với cho vay ngắn hạn:
- Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kỳ trước
- Khả năng tăng trưởng doanh thu, sản lượng kỳ này
- Tình hình nghiệm thu, thanh quyết toán các công trình đã thi công kỳ trước.
- Kế hoạch bố trí vốn của các công trình dự kiến thi công ký tới.
- Tính toán khả năng tham gia vốn tự có, huy động các nguồn vốn kinh doanh ngắn
hạn khác của DNXL.
Đối với cho vay trung dài hạn:
- Đánh giá sơ bộ dự án đầu tư:
• Mục tiêu đầu tư
• Sự cần thiết đầu tư
• Quy mô vốn đầu tư: tổng vốn đầu tư, cơ cấu vốn đầu tư
• Phương án tiêu thụ sản phẩm
• Dự kiến tiến độ triển khai thực hiện dự án
- Đánh giá thị trường mục tiêu và khả năng tiêu thụ sản phẩm
- Đánh giá khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào của phương án/dự án
- Đánh giá các nội dung về phương diện kỹ thuật, tổ chức quản lý thực hiện
- Thẩm định tổng vốn đầu tư và tính khả thi phương án nguồn vốn
- Xác định nhu cầu vốn đầu tư theo tiến độ thực hiện dự án
- Đánh giá hiệu quả về mặt tài chính của dự án.
- Đánh giá rủi ro của dự án
* Phân tích đánh giá các biện pháp bảo đảm tiền vay
Bảo đảm tiền vay là việc khách hàng dùng các loại tài sản của mình hoặc của bên
thứ ba để cầm cố, thế chấp, bảo lãnh nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ với ngân hàng.
19
Tài sản bảo đảm là cơ sở để xác lập trách nhiệm người vay, được coi là nguồn trả nợ thứ
hai trong cho vay. Cần lưu ý không coi đây là điều kiện duy nhất để quyết định cho vay,
không xem là phương tiện duy nhất để bảo đảm an toàn vốn vay.
Việc thẩm định bảo đảm tiền vay phải đảm bảo các nội dung chính sau:
- Kiểm tra tình trạng thực tế của tài sản bảo đảm tiền vay.
- Phân tích, thẩm định bảo đảm tiền vay: Tuỳ thuộc vào loại tài sản bảo đảm mà
kiểm tra các yếu tố thích hợp (về nguồn gốc pháp lý, giấy tờ về quyền sở hữu...) và định
giá bảo đảm tiền vay.
Bước 3. Xét duyệt cho vay, ký hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền
vay.
Sau khi thẩm định, cán bộ tín dụng phải ra quyết định chấp thuận hay không chấp
thuận cho vay, lập tờ trình trình lãnh đạo phê duyệt.
Việc quyết định cho vay trên cơ sở các thông tin thu thập, phân tích từ khâu thẩm
định, ngoài ra còn phải dựa trên các thông tin thu thập được từ thị trường và các cơ quan
có liên quan, chính sách tín dụng của ngân hàng, khả năng nguồn vốn của ngân hàng…
- Ký kết hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, giao nhận giấy tờ và tài
sản bảo đảm. Sau khi thực hiện các công việc này, cán bộ tín dụng chuyển hồ sơ đã được
phê duyệt và toàn bộ tài liệu cho bộ phận quản lý giải ngân.
- Làm thủ tục giao, nhận giấy tờ và tài sản bảo đảm tiền vay
Bước 4. Giải ngân, theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn vay
- Giải ngân: Là việc phát tiền vay cho khách hàng trên cơ sở mức cho vay đã cam
kết theo hợp đồng tín dụng. Trước khi thực hiện giải ngân như phê duyệt, CBTD quản lý
giải ngân phải xác nhận rằng các tài liệu và điều kiện đã được đáp ứng đầy đủ. CBTD
quản lý giải ngân chịu trách nhiệm nhận hồ sơ kèm chứng từ thanh toán của khách hàng,
kiểm tra các căn cứ phát tiền vay theo qui định. Việc phát tiền vay phải đảm bảo nguyên
tắc có hàng hoá, dịch vụ đối ứng, phù hợp với mục đích vay vốn, có hoá đơn, chứng từ
cung cấp hàng hoá, dịch vụ của bên bán hàng…
20
- Kiểm tra và giám sát khoản vay là quá trình thực hiện các bước công việc sau khi
cho vay nhằm hướng dẫn, đôn đốc người vay sử dụng vốn đúng mục đích, đảm bảo hiệu
quả và hoàn trả nợ gốc, lãi vay đúng hạn, đồng thời thực hiện các biện pháp thích hợp
nếu người vay không thực hiện đầy đủ, đúng hạn các cam kết. Việc kiểm tra giám sát có
thể được thực hiện định kỳ hoặc đột xuất, một lần hoặc nhiều lần tuỳ theo độ an toàn của
khoản vay.
Bước 5. Thu nợ, lãi, phí và xử lý phát sinh
- Theo dõi trả nợ gốc, lãi, phí: CBTD theo dõi việc thu nợ, thu lãi, phí (nếu có) theo
từng hợp đồng tín dụng đã ký. Định kỳ thống kê các khoản vay đến hạn trả.
- Xử lý các phát sinh trong quá trình cho vay:
+ Trả nợ trước hạn: CBTD xem xét yêu cầu trả nợ trước hạn của khách hàng hoặc
yêu cầu khách hàng trả nợ trước hạn trong các trường hợp sau: Khách hàng cân đối được
nguồn vốn trả nợ trước hạn theo qui định trong hợp đồng tín dụng; bám sát quá trình
luân chuyển vốn của khách hàng, nếu vật tư hàng hóa hình thành từ vốn vay kết thúc quá
trình luân chuyển có thể yêu cầu khách hàng trả nợ trước hạn; phát hiện khách hàng sử
dụng vốn vay không đúng mục đích.
+ Gia hạn.
+ Chuyển nợ quá hạn.
+ Xử lý thu hồi nợ quá hạn.
+ Xử lý các phát sinh khác: giãn nợ, khoanh nợ, xóa nợ.
+ Phát mại tài sản cầm cố, thế chấp.
Bước 6. Thanh lý hợp đồng tín dụng
Khi khoản cho vay được thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi vay thì coi như nghĩa vụ
của khách hàng với ngân hàng đã được thực hiện, ngân hàng sẽ làm thủ tục thanh lý hợp
đồng tín dụng, giải chấp tài sản, lập biên bản giao nhận tài sản (nếu có), đồng thời tất
toán khoản vay, chuyển hồ sơ cho vay vào lưu trữ.
21
1.2. Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp
Chất lượng cho vay đối với DNXL của ngân hàng thương mại là một thuật ngữ
phản ảnh mức độ an toàn và khả năng sinh lời của hoạt động cho vay đối với doanh
nghiệp xây lắp mang lại cho ngân hàng; đồng thời nó cũng phản ảnh sự thỏa mãn của
khách hàng là DNXL về nhu cầu vốn, thời gian đáp ứng, tiện ích… trong hoạt động cho
vay của ngân hàng.
Để đánh giá chất lượng cho vay đối với DNXL của ngân hàng thương mại một
cách hoàn toàn chính xác là một công việc không dễ bởi nó đòi hỏi phải xem xét trên
nhiều mặt, thông qua sự tổng hợp kết quả phân tích nhiều chỉ tiêu khác nhau. Trong
phạm vi bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu, phân tích chất lượng cho vay đối với
DNXL nhằm phục vụ hoạt động thi công xây lắp dưới giác độ của ngân hàng:
+ Chất lượng cho vay trước hết được đánh giá qua tính an toàn của khoản cho vay
hay khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng. Vốn cho vay ra phải được hoàn trả đầy
đủ, đúng hạn.
+ Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền
tệ, thu nhập từ hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của ngân hàng,
do đó ngoài việc đảm bảo an toàn vốn vay thì việc gia tăng lợi nhuận là mục tiêu mà các
NHTM luôn hướng tới. Vì vậy Ngân hàng phải xem xét sao cho cân bằng giữa lợi nhuận
thu được và rủi ro dự kiến xảy ra.
+ Chất lượng cho vay còn được đánh giá trên cơ sở vốn vay của ngân hàng hỗ trợ
và thúc đẩy các DNXL phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó, tín dụng ngân
hàng góp phần mở rộng khách hàng, mở rộng thị phần để đẩy mạnh hoạt động kinh
doanh dịch vụ, tối ưu hoá lợi nhuận ngân hàng.
22
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay đối với DNXL
1.2.2.1. Các chỉ tiêu định tính
- Cho vay DNXL được thực hiện theo đúng qui trình cho vay: Qui trình cho vay là
tổng hợp các nguyên tắc, qui định của ngân hàng trong việc cho vay. Việc thực hiện
đúng qui trình cho vay hay không sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến tính an toàn và khả năng
sinh lời của khoản vay, do đó, đây là một tiêu thức để đánh giá chất lượng cho vay của
ngân hàng.
- Thời gian xét duyệt một khoản cho vay đối với DNXL kể từ khi tiếp nhận hồ sơ:
Các DNXL thường xuyên phải vay vốn ngân hàng (nhất là vốn ngắn hạn) để đáp ứng
nhu cầu vốn thu mua nguyên nhiên vật liệu, trả lương công nhân… phục vụ cho việc thi
công công trình. Vì vậy, thời gian xét duyệt các khoản cho vay cũng là nhân tố ảnh
hưởng đến tiến độ hoàn thành công trình, đến khả năng thực hiện hợp đồng, khả năng
hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh của DNXL.
- Mức độ hài lòng của DNXL đối với hoạt động cho vay của ngân hàng.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu định lượng
- Tổng dư nợ cho vay DNXL và tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay DNXL:
Chỉ tiêu tổng dư nợ cho vay DNXL phản ánh quy mô cho vay đối với DNXL, là
con số tuyệt đối nói lên quy mô của hoạt động này tại ngân hàng. Trong khi đó, tốc độ
tăng trưởng dư nợ cho vay DNXL lại thể hiện khả năng mở rộng quy mô và các hình
thức cho vay qua các thời kỳ. Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay DNXL được tính theo
công thức:
Dư nợ kỳ n – Dư nợ kỳ (n-1)
Tốc độ tăng trưởng dư nợ DNXL= x 100%
Dư nợ kỳ (n-1)
23
Nếu tổng dư nợ cho vay DNXL cao cho thấy ngân hàng đã tạo được uy tín đối với
các DNXL, đã và đang mở rộng thị phần trong ngành XDCB và có khả năng tiếp thị
khách hàng DNXL tốt hơn. Tuy nhiên tăng trưởng cho vay đối với DNXL phải phù hợp
với khả năng về vốn, quản lý rủi ro cũng như các nguồn lực về con người, công nghệ của
ngân hàng. Việc tăng trưởng dư nợ cho vay đối với DNXL vượt quá khả năng của ngân
hàng sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro và việc ngân hàng không đủ điều kiện nguồn lực để kiểm
soát chặt chẽ các khoản vay sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng hoạt động cho vay.
- Tỷ trọng dư nợ cho vay DNXL/ Tổng dư nợ
Đây là chỉ tiêu khá quan trọng, phản ánh vị trí của hoạt động cho vay đối với
DNXL trong hoạt động cho vay chung của ngân hàng. Tổng dư nợ cho vay đối với
DNXL cao và tăng trưởng cho thấy ngân hàng đã và đang mở rộng thị phần trong ngành
xây lắp. Ngược lại, dư nợ cho vay đối với DNXL qua các năm giảm chứng tỏ chính sách
thu hẹp tín dụng đối với doanh nghiệp xây lắp của ngân hàng.
Chỉ tiêu tổng dư nợ đối với DNXL cần xem xét kết hợp với chỉ tiêu tỷ trọng dư nợ
DNXL/tổng dư nợ để đánh giá đầy đủ hơn về tình hình tăng trưởng cho vay DNXL. Bởi
vì chỉ tiêu dư nợ cho vay mới chỉ phản ánh sự tăng trưởng tuyệt đối nhưng nếu dư nợ
cho vay DNXL tăng với tốc độ thấp hơn tổng dư nợ thì tỷ trọng này lại giảm. Điều này
còn phụ thuộc chủ yếu vào chính sách cho vay của ngân hàng giai đoạn đó là mở rộng
hay thu hẹp cho vay DNXL.
- Tỷ lệ nợ quá hạn của DNXL
Tỷ lệ nợ quá hạn của DNXL = Dư nợ quá hạn DNXL /Tổng dư nợ DNXL
Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN : “nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần
hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn”. Một khoản vay không trả đầy đủ, đúng
hạn như thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng thì trở thành nợ quá hạn.
Theo thời gian, Nợ quá hạn được chia thành: nợ quá hạn dưới 90 ngày; nợ quá
hạn từ 90 - 180 ngày; nợ quá hạn từ 180 - 360 ngày; nợ quá hạn trên 360 ngày.
24
Theo khả năng thu hồi, có thể chia nợ quá hạn thành nợ quá hạn có thể thu hồi
(nợ quá hạn thông thường), nợ quá hạn có thể thu hồi một phần (nợ khó đòi) và nợ quá
hạn không có khả năng thu hồi.
Tỷ lệ nợ quá hạn là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng
tín dụng của ngân hàng, phản ánh những rủi ro trong hoạt động tín dụng mà ngân hàng
phải đối mặt. Nếu tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao cho thấy sự an toàn của các
khoản vay không được bảo đảm, rủi ro là lớn làm đình trệ quá trình luân chuyển vốn,
như vậy sẽ khiến ngân hàng không hoàn thành được nhiệm vụ hỗ trợ cho các hoạt động,
dự án hay các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, phải thừa nhận sự tồn tại của nợ quá hạn là
tất yếu, không thể tránh khỏi trong hoạt động tín dụng; Ngân hàng phải chấp nhận nợ
quá hạn, cố gắng kiểm soát tỷ lệ này ở mức độ hợp lý.
Tỷ lệ nợ quá hạn được xem là cao hay thấp cần so sánh với tỷ lệ chung của ngành
và tỷ lệ chấp nhận của chính ngân hàng. Theo các nghiên cứu và khuyến nghị của
WorldBank thì tỷ lệ nợ quá hạn có thể chấp nhận được là dưới 3%, có nghĩa rằng đó là
mức tối đa đặt ra cho các nhà quản lý chú ý cân bằng giữa rủi ro và hiệu quả của khoản
cho vay.
- Lãi treo: Càng thấp càng tốt. Tương tự như chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn, chỉ tiêu
này cũng thể hiện chất lượng và hiệu quả của công tác cho vay DNXL. Chỉ tiêu này càng
cao thì chất lượng cho vay DNXL càng thấp và ngược lại. Tỷ lệ này cao có nghĩa là số
lãi cho vay đến hạn trả chưa thu được từ các dự án là cao dẫn đến chất lượng thu nợ lãi
thấp, ảnh hưởng đến hoạt động khác của Ngân hàng. Lãi treo và nợ quá hạn cao là một
trong các biểu hiện của chất lượng thẩm định, cho vay đầu tư dự án kém. Quá trình tìm
hiểu các dự án thiếu thông tin minh bạch, cán bộ thẩm định thiếu kinh nghiệm cũng như
tìm hiểu không kỹ càng về khả năng tài chính, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, dự
án. Tất cả dẫn đến các quyết định cho vay và giải ngân sai, khiến cho nguồn vốn bị sử
dụng không hiệu quả, gây lãng phí và tổn thất. Nghiên cứu và cải thiện 2 chỉ tiêu này là
25
nhiệm vụ quan trọng của Ngân hàng, không chỉ giúp ngân hàng hoạt động tốt hơn mà
còn tạo môi trường đầu tư xuất nhập khẩu hiệu quả và minh bạch hơn.
- Tỷ lệ nợ xấu của DNXL
Tỷ lệ nợ xấu DNXL = Dư nợ xấu DNXL/tổng dư nợ DNXL
Nợ xấu là các khoản nợ được xếp từ nhóm 3 đến nhóm 5 theo định quyết định
493 của Ngân hàng Nhà nước. Cụ thể:
Nợ dưới tiêu chuẩn (nợ nhóm 3) bao gồm: các khoản nợ mà tổ chức tín dụng
đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được
đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
Nợ nghi ngờ (nợ nhóm 4): là các khoản nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất
cao.
Nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5): là các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là không có khả năng thu hồi, mất vốn.
Tỷ lệ nợ xấu càng thấp càng tốt. Tuy nhiên, rủi ro là tất yếu của quá trình kinh
doanh, do vậy, ngân hàng luôn chấp nhận một mức rủi ro nhất định và thường xuyên kiểm
soát các khoản nợ xấu, nợ có vấn đề để có những biện pháp xử lý kịp thời khi có rủi ro
xảy ra. Ngân hàng tiến hành phân loại nợ và kiểm soát đối với các khoản nợ dưới chuẩn,
nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn - đây là những khoản nợ xấu của ngân hàng.
Ngoài ra, ngân hàng cũng cần quan tâm đến các khoản nợ đặc biệt lưu ý (nợ nhóm 2) vì
khi có biến động bất lợi xảy ra đối với hoạt động cho vay của ngân hàng, các khoản này dễ
bị chuyển thành nợ xấu.
- Tỷ lệ dự phòng: Là tỷ số giữa phân bổ dự phòng tổn thất tín dụng hàng năm của
DNXL so với tổng dư nợ cho vay các DNXL:
Tỷ lệ phân bổ dự phòng
RRTD hàng năm của
=
Dự phòng RRTD hàng năm
của DNXL x 100%