Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trong bộ luật hình sự 1999 - một số vấn đề lý luận và thực tiễn trên địa bàn tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.74 KB, 82 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP
HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY TRONG BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM 1999 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN TRấN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN
Giáo viên hướng dẫn: TS. Trịnh Quốc Toản
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Khánh Ly
Lớp : K53 Tư pháp hình sự
Hà Nội - Năm 2012
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 4
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA
BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY 4
1.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam quy định về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy 4
1.1.1. Giai đoạn từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1985 4
1.1.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 6
1.2. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy (Điều 194 BLHS) 7
1.2.1. Khách thể của tội phạm 8
1.2.3. Mặt chủ quan của tội phạm 17
1.2.4. Chủ thể của tội phạm 18
1.3. Đường lối xử lý đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma
túy theo pháp luật hình sự hiện hành 20


1.3.1. Khung cơ bản (Khoản 1 Điều 194 BLHS) đối với trường hợp phạm tội
không có các tình tiết là yếu tố định khung 20
1.3.2. Phạm tội trong trường hợp cú cỏc tình tiết khung tăng nặng quy định
tại khoản 2 Điều 194 BLHS 21
1.3.3 Khung tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 15 năm đến 20 năm
(Khoản 3 Điều 194) 30
1.3.4 Khung tăng nặng thứ 3 có mức phạt tù từ 20 năm, tù chung thân hoặc
tử hình 30
CHƯƠNG 2 34
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI
PHẫP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY TRấN ĐỊA BÀN TỈNH
NGHỆ AN 34
2.1 Khái quát những đặc điểm cơ bản về địa lý, văn hóa, kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An 34
2.2. Phân tích, đánh giá tình hình tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nghệ An từ năm 2007 đến năm 2011 37
2.2.1. Thực trạng tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nghệ An từ năm 2007 đến năm
2011 37
ii
Bảng 1: Số vụ án, bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố và xét xử về tội tàng trữ, vận chuyển chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy từ năm 2007 đến năm 2011 37
Năm 37
2.2.2. So sánh tỷ lệ tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy với các tội phạm về ma túy nói chung trên địa bàn
tỉnh Nghệ An từ năm 2007 đến năm 2011 39
2.2.3. So sánh tỷ lệ tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy với các tội phạm nói chung trên địa bàn tỉnh Nghệ
An năm 2007 đến năm 2011 40
2.2.4. So sánh tỷ lệ tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy với các tội phạm về ma túy nói chung trên toàn quốc

từ năm 2007 đến năm 2011 41
2.2.5. Tính chất tội phạm, phương thức, thủ đoạn hoạt động 42
2.2.6.Hình phạt áp dụng đối với tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy 44
2.2.7. Nhân thân người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
ma túy trên địa bàn tỉnh Nghệ An 45
2.3. Một số kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy tại tỉnh Nghệ An 47
2.3.1. Cụng tác tuyên truyền vận động phòng, chống ma túy 48
Công tác tuyên truyền vận động phòng, chống ma túy được đổi mới về nội
dung và hình thức, chú trọng cả về diện rộng và chiều sâu đã tạo bước
chuyển biến quan trọng trong cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, nghành,
đoàn thể và quần chúng nhân dân. Tập trung xác định địa bàn, đối tượng có
nguy cơ cao để tuyên truyền, vận động; tổ chức nhiều cuộc mit-tinh, diễu
hành, biểu dương lực lượng phòng, chống ma túy từ tỉnh đến cơ sở, thu hút
được nhiều thành phần, lứa tuổi tham gia, tạo được sự quan tâm, chú ý của
dư luận xã hội 48
2.3.2. Công tác chống tái trồng cây có chất ma túy 48
2.3.3. Công tác cai nghiện 49
2.3.4. Kết quả điều tra, triệt phá tội phạm ma túy của các cơ quan chức năng
trên địa bàn tỉnh Nghệ An 49
2.3.5. Các lực lượng chức năng thường xuyên trao đổi thông tin, chia sẻ kinh
nghiệm trong phòng, chống ma túy với nước bạn Lào 52
2.4. Những khó khăn và vướng mắc trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nghệ An 53
iii
2.4.1. Một số khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng quy định về định
lượng ma túy để xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy theo Điều 194 BLHS 53
2.4.2. Tổ chức và lực lượng phòng chống ma túy chưa đồng bộ và đủ mạnh

trong khi tình hình tội phạm ma túy ngày càng diễn biến phức tạp 58
2.4.3. Phương tiện, kinh phí đảm bảo cho công tác kiểm soát và đấu tranh
triệt nguồn ma túy còn rất thiếu thốn và lạc hậu 59
2.4.4. Công tác kiểm soát và phòng ngừa, đấu tranh triệt nguồn ma túy còn
nhiều tồn tại 60
2.4.5. Khó khăn trong hợp tác quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội phạm
ma túy 61
CHƯƠNG 3 62
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH
PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN
TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY TRấN ĐỊA BÀN TỈNH
NGHỆ AN 62
3.1. Dự báo tình hình tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma
túy trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong thời gian tới 63
3.2. Các giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực phòng chống các tội phạm về ma túy
64
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định về tội phạm ma túy trong BLHS
năm 1999 64
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về phòng chống ma túy. .65
3.2.3. Hoàn thiện hệ thống cơ quan pháp luật hỗ trợ cho công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm 65
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy ở Nghệ An 66
3.3.1. Giải pháp về kinh tế - xã hội 66
3.3.2. Giải pháp tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục 67
3.3.3. Giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan chuyên
trách đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma túy 69
3.3.4. Giải pháp tăng cường hiệu quả công tác xét xử các tội phạm ma
túy 73
KẾT LUẬN 74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
iv
Lời cảm ơn
Để hoàn thành Khóa luận này, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ từ
nhiều phía.
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các Thầy, Cô giáo trong Bộ môn Tư
pháp Hình sự và các Thầy, Cô trong Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội đã
giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu tại Khoa. Đặc biệt, tôi xin
bày tỏ sự biết ơn tới Thầy giáo - TS.Trịnh Quốc Toản - người đã trực tiếp hướng
dẫn tôi hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp này.
Cảm ơn Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An đó giỳp tụi cung cấp các
số liệu liên quan có trong khóa luận.
Cuối cùng, con xin bày tỏ sự biết ơn sâu đậm nhất đến Bố, Mẹ - những
người đã cho con tất cả.
Trong khóa luận của tôi chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót
và hạn chế, vì vậy tôi mong nhận được sự đóng góp của Thầy, Cô giáo cùng
toàn thể các bạn sinh viên.
Hà Nội, ngày 14 tháng 05 năm 2012
Sinh viên
Nguyễn Thị Khánh Ly
v
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta, trong những năm gần đây cùng với sự phát triển về kinh tế,
văn hóa, xã hội thì các tệ nạn xã hội cũng có chiều hướng gia tăng và diễn biến
phức tạp, trong đó có tệ nạn ma túy. Nú đó và đang trở thành nỗi nhức nhối của
cả quốc gia, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống kinh tế, chính trị và trật tự
an toàn xã hội.
Ma túy là nguồn gốc dẫn đến tội phạm, là nguyên nhân của sự bần cùng
hóa gia đình, làm băng hoại đạo đức, nhân cách con người, là bạn đồng hành của

thảm họa HIV/AIDS, đồng thời nú cũn tác động xấu tới an ninh, trật tự, sự ổn
định và phát triển bền vững của xã hội. Đặc biệt, tệ nạn ma túy có sức hút, cám
dỗ và lây lan rất nhanh đến tầng lớp thanh thiếu niên – thế hệ tương lai của đất
nước, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển của dân tộc và giống nòi.
Ở Việt Nam, các tội phạm ma túy ngày càng gia tăng cả về số vụ phạm
tội cũng như tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, đặc biệt là các tội phạm
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy. Hành
vi phạm tội ma túy nói chung cũng như phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy nói riêng bị pháp luật nghiêm cấm, bị
dư luận xã hội lên án mạnh mẽ. Song do ham lời bất chính, coi thường pháp luật
và đạo lý, vẫn có rất nhiều người hàng ngày, hàng giờ dùng mọi thủ đoạn để
buôn bán thứ hàng hóa chết người đó. Ma túy đã và đang trở thành “quốc nạn”
tác động trực tiếp vào từng cá nhân, từng gia đình, xã hội.
Từ nhiều năm nay, tỉnh Nghệ An được xem là “điểm núng” của cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm ma túy. Làm thế nào để có giải pháp cấp bách, hữu
hiệu nhằm từng bước đẩy lùi tệ nạn ma túy ra khỏi đời sống đang là câu hỏi lớn
đối với toàn xã hội. Vì vậy, nghiên cứu về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy để tìm ra giải pháp phòng chống là vấn đề
mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
1
Vỡ các lý do trờn, tụi quyết định chọn để tài “Tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trong Bộ luật hình sự 1999 -
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trên địa bàn tỉnh Nghệ An” làm khóa luận tốt
nghiệp cử nhân luật học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ của khóa luận
Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ của khóa luận là :
- Nghiên cứu khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam quy định về
tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy.
- Phõn tớch các khía cạnh pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy.

- Phân tích tình hình tội phạm, thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy trên
địa bàn Tỉnh Nghệ An. Từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm này.
3. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lờnin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về đấu tranh phòng chống tội phạm, có sử dụng các văn bản pháp luật, các báo
cáo tổng kết xét xử, các tài liệu trong nước có liên quan.
Khóa luận sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh, xã hội học để thực hiện nhiệm vụ của đề tài.
4. Kết cấu của khóa luận
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung của khóa luận
được chia thành 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề chung về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy.
- Chương 2: Tình hình tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
2
- Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống
tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
3
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA
BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY
1.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam quy định về tội
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
1.1.1. Giai đoạn từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 1985

Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 3/9/1945,
một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, trong bài về “Những nhiệm vụ cấp
bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hũa”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nói: “Chế độ thực dõn đó đầu độc dân ta với rượu và thuốc phiện. Nú đó dựng
mọi thủ đoạn nhằm hủ hóa dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng,
gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là
phải giáo dục lại nhân dân chúng ta…Cuối cùng tôi đề nghị tuyệt đối cấm thuốc
phiện”. Chính vì vậy mà khi mới thành lập chính quyền nhân dân, Đảng và Nhà
nước Việt Nam đã coi thuốc phiện là thuốc độc và đó cú chủ trương xóa bỏ việc
trồng cây thuốc phiện, động viên người nghiện hút thuốc phiện thực hiện phong
trào “khụng nghiện và không trồng cây thuốc phiện”
1
.
Nghị định 150/TTg, ngày 5/3/1952 đã ấn định tạm thời về chế độ thuốc
phiện.
Nghị định 225/TTg ngày 22/12/1952 của Chính phủ quy định về việc
sửa đổi định mức thuốc phiện, những nguyên tắc bán thuốc phiện sau khi đã nộp
thuế và xác định các hành vi vi phạm pháp luật trong sản xuất, lưu thông thuốc
phiện, quy định những người có hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện bị
xử lý như: tịch thu thuốc phiện tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép; phạt tiền từ
một đến năm lần trị giá số thuốc phiện lậu; người vi phạm có thể bị truy tố trước
Tòa án nhõn dân.
1
Xem: Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 10 năm ngày toàn dân phòng chống ma túy 26/6/2001 – 26/6/2011, Liên
đoàn Lao động Việt Nam.
4
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Sau khi hòa bình lập
lại và trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam, Đảng
và Nhà nước ta tiếp tục quan tâm đến việc xây dựng hệ thống pháp luật mới,
trong đó có công tác đấu tranh chống buôn lậu thuốc phiện và các chất ma túy

khác. Ngày 15/09/1955, Chính phủ ban hành nghị định số 580/TTg quy định các
trường hợp có thể đưa ra tòa án để xét xử với mức phạt tù từ ba tháng đến năm
năm, bị tịch thu tang vật, bị phạt tiền từ một đến năm lần giá trị thuốc phiện lậu
gồm :
- Buôn thuốc phiện có nhiều người tham dự và có thủ đoạn để gian lận,
tang vật có giá trị trên một triệu đồng;
- Buôn nhỏ hoặc làm môi giới có tổ chức thường xuyên, đã thành chuyên
môn hoặc đã bị phạt tiền nhiều lần;
- Các vụ liên quan đến chính quyền hoặc bộ đội;
- Không thi hành quyết định phạt tiền của cơ quan thuế vụ hoặc hải quan.
Bộ tư pháp còn ban hành Thông tư số 635/VVH-HS ngày 29/3/1945 và
Thông tư số 33/VHH-HS ngày 5/7/1958 hướng dẫn đường lối truy tố và xét xử
những vụ án về buôn lậu thuốc phiện.
Sau khi miền Nam giải phóng, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 76/CP ngày 25/3/1977 về chống buôn lậu thuốc phiện.Trên cơ sở nghị
định này, Tòa án nhõn dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ đã
ra Thông tư liên nghành hướng dẫn áp dụng pháp luật trong cả nước.
Năm 1982, Hội đồng Nhà nước đã thông qua pháp lệnh chống đầu cơ,
buôn lậu, buôn bán hàng cấm, hàng giả và kinh doanh trái phép. Trong đó có
điều khoản quy định: “Buôn bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép các chất ma túy
là hành vi nguy hiểm cho xã hội, mức áp dụng hình phạt tối đa là 20 năm tù
giam”.
Trước tình hình tội phạm ma túy ngày có xu hướng diễn biến phức tạp,
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có thái độ kiên quyết hơn trong đấu tranh
phòng, chống ma túy, trước hết thể hiện trong Bộ luật hình sự (BLHS) năm
1985.
5
1.1.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
BLHS năm 1985 có quy định các tội có liên quan đến ma túy. Tuy nhiên,

trong BLHS này chỉ có điều luật duy nhất quy định trực tiếp là Điều 203 quy
định về tội tổ chức dùng ma túy. Ngoài ra, cũn có Điều 97 quy định tội buôn lậu
hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới và Điều 166 quy định
tội buôn bán hàng cấm (Chương các tội phạm về kinh tế) mà trong đó ma túy
được coi là một loại hàng cấm.
Trong lần sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1985 vào năm
1989, Điều 96A quy định tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép
các chất ma túy đã được bổ sung vào Chương các tội xâm phạm an ninh quốc
gia.
Đặc biệt, Điều 61 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992 đã quy định: “Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng
trữ,sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma túy khác”.
Thể chế hóa các quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992, BLHS năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung lần thứ tư
năm 1997, trong đó đã dành một chương riêng (chương VIIA) quy định về các
tội phạm về ma túy, theo hướng cụ thể hóa, hình sự hóa một số hành vi và tăng
nặng hình phạt đối với các tội phạm về ma túy với 14 điều luật, quy định 13 tội
danh khác nhau liên quan đến ma túy gồm :
- Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cõy khỏc cú chứa chất ma túy;
- Tội sản xuất trái phép chất ma túy, tội tàng trữ trái phép chất ma túy;
- Tội vận chuyển trái phép chất ma túy;
- Tội mua bán trái phép chất ma túy;
- Tội chiếm đoạt chất ma túy;
- Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào
việc sản xuất trái phép chất ma túy;
- Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ
dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy;
- Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy;
- Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy;
- Tội sử dụng trái phép chất ma túy;

6
- Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy;
- Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất
ma túy khác.
Ngày 21/12/1999, Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 6 đã thông qua BLHS
năm 1999, có hiệu lực từ 0h00 ngày 01/07/2000. BLHS năm 1999 quy định
riêng chương XVIII về các tội phạm về ma túy. So với BLHS năm 1985 thì các
quy định về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma
túy trong BLHS năm 1999 có một số điểm mới:
- Ghép bốn tội danh độc lập quy định tại Điều 185c, Điều 185d, Điều
185đ của BLHS năm 1985 vào Điều 194 với tiêu đề: Tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất các ma túy.
- Trong BLHS năm 1985 có nhiều điều luật cho phép chuyển lên khung
hình phạt nặng hơn khi có nhiều tình tiết định khung tăng nặng của khung tăng
nặng thấp hơn.Ví dụ: Điểm c khoản 3 Điều 185đ BLHS năm 1985 quy định :
“Có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 điều này”. Tại BLHS năm 1999, tình
tiết này bị xóa bỏ.
- BLHS năm 1985 không có điều luật nào quy định về tỉ lệ thương tật,
còn BLHS năm 1999 có quy định tình tiết này.
- BLHS năm 1985 có tình tiết định khung tăng nặng “ Sử dụng người
chưa thành niên vào việc phạm phỏp”. BLHS năm 1999 đã sửa thành “ Sử dụng
trẻ em vào việc phạm tội”
- Về tội mua bán trái phép chất ma túy, BLHS năm 1985 có tình tiết định
khung tăng nặng “thu lợi bất chính lớn” và “cú tính chất chuyên nghiệp”. Tuy
nhiên ở Điều 194 BLHS năm 1999, hai tình tiết này đã bị loại bỏ.
1.2. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194 BLHS)
Điều 194 BLHS năm 1999 đã quy định bốn tội danh độc lập, đó là :
- Tội tàng trữ trái phép chất ma túy
- Tội vận chuyển trái phép chất ma túy

- Tội mua bán trái phép chất ma túy
- Tội chiếm đoạt chất ma túy.
7
1.2.1. Khách thể của tội phạm
“ Khách thể của tội phạm là yếu tố không tách rời của tội phạm, tội phạm
bao giờ cũng xâm hại đến một hoặc một số quan hệ xã hội được Nhà nước xác
định bảo vệ bằng luật hình sự”.
2

Khách thể của tội phạm này là xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý
của Nhà nước về ma túy, trực tiếp là chế độ quản lý của Nhà nước về tàng trữ,
vận chuyển, mua bán các chất ma tỳy.Việc tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy không chỉ vi phạm chế độ độc quyền
quản lý của Nhà nước về ma túy mà còn góp phần tạo ra một lớp người nghiện
trong xã hội, đe dọa nghiêm trọng đến an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe và sự
phát triển lành mạnh của xã hội.
Ma túy là loại độc dược gây nghiện nguy hiểm. Theo quy định của Nhà
nước, chỉ một số cơ quan nhà nước mới được phép sản xuất ma túy nhằm mục
đích phục vụ cho y học và cho nghiên cứu khoa học. Hoạt động này được quy
định chặt chẽ từ khâu quản lý, sản xuất đến buôn bán và sử dụng. Sự thống nhất
quản lý của Nhà nước về chất ma túy nhằm ngăn chặn tình trạng lạm dụng ma
túy, bảo vệ sức khỏe người dân và ngăn ngừa các tội phạm về ma túy.
“Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm
mà khi tác động tới bộ phận này người phạm tội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ”
3

Đối tượng tác động của tội phạm này là các chất ma túy.
Theo từ điển tiếng Việt (Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng Trung tâm Từ
điển học 1996, trang 583) thì “Ma túy là tên gọi chung các chất có tác dụng gây

trạng thái ngây ngất, đờ đẫn, dùng quen thành nghiện”.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: “Ma túy là tên gọi chung chỉ
những chất kích thích khi dùng một lần có thể gây nghiện có nguồn gốc tự nhiên
hay nhân tạo. Những chất này khi đưa vào cơ thể sống sẽ làm thay đổi trạng thái
nhận thức và sinh lý”
4
.
2
Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr.137
3
Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr.141
4
ngày 20/04/2012
8
Ở nước ta, việc xác định các chất ma túy được dựa trên cơ sở tham khảo
các bảng quy định về các chất ma túy và các chất hướng thần của 3 công ước
của Liên hợp quốc về kiểm soát chất ma túy là Công ước thống nhất về các chất
ma túy năm 1961, Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các chất gây
nghiện và các chất hướng thần 1988.
Mặc dù từ giữa thế kỷ VII, thuốc phiện đã thâm nhập vào Việt Nam
dưới triều vua Minh Mạng, vua Tự Đức một số đạo luật đầu tiên về cấm trồng,
hút và buôn lậu thuốc phiện đã được ban hành, nhưng trong pháp luật Việt Nam
cụm từ “chất ma túy” xuất hiện khá muộn
5
. Mãi sau khi đất nước thống nhất,
vẫn chỉ duy nhất thuốc phiện bị đặt dưới sự kiểm soát, các chất ma túy khác như
cần sa, cocain vẫn chưa được pháp luật điều chỉnh. Cụm từ “chất ma túy” chỉ
được chính thức sử dụng lần đầu tiên trong pháp luật Việt Nam tại BLHS năm
1985 với việc quy định tội danh “Tội tổ chức, sử dụng trái phép chất ma tỳy”
(Điều 203). Sau khi được BLHS năm 1985 sử dụng, cụm từ này tiếp tục dùng

rộng rãi trong các văn bản pháp luật khác như Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân
năm 1989, Nghị định số 142/HĐBT năm 1991 về xử phạt vi phạm hành chính.
Tuy nhiờn, điều đáng chú ý là trong các văn bản pháp luật này, cụm từ chất ma
túy không được định nghĩa
6
. Để tháo gỡ các vướng mắc trong việc thi hành
BLHS năm 1985, Bộ Nội Vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) và
Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã ban hành một số thông tư hướng dẫn;
nhưng các thông tư này cũng không đưa ra khái niệm chất ma túy mà áp dụng
phương pháp liệt kê để chỉ ra các chất thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật.
Danh mục các chất ma túy được liệt kê trong các văn bản này thiếu khoa học và
không đầy đủ nên phải liên tục bổ sung.
Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 đánh dấu một bước tiến rõ nét
trong pháp luật Việt Nam về phòng chống ma túy nói chung và khái niệm chất
ma túy nói riêng. Lần đầu tiên khái niệm chất ma túy và cỏc khỏi niệm liên
5
Xem: Vũ Ngọc Bừng, Phòng chống ma túy trong nhà trường, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, năm 1997, tr.
121
6
Th.s. Nguyễn Thị Phương Hoa, Hoàn thiện khái niệm ”chất ma túy” trong pháp luật Việt Nam, Tạp chí khoa
học pháp luật số 3 (34/2006)
9
quan, như tiền chất, chất gây nghiện, chất hướng thần, thuốc gây nghiện và
thuốc hướng thần được chính thức định nghĩa.
Cho đến nay, trên thế giới không có một khái niệm thống nhất về ma túy
hay chất ma túy. Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961 không đưa
ra khái niệm chất ma túy, mà thay vào đó áp dụng phương pháp liệt kê đã xác
định trực tiếp danh mục các chất ma túy bị kiểm soát.
Theo khoản 1 Điều 2 Luật Phòng, chống ma túy thì “Chất ma túy bao
gồm chất gây nghiện và chất hướng thần được quy định trong các danh mục do

chính phủ ban hành”. Để làm rõ hơn khái niệm này, Luật Phòng chống ma túy
cung cấp thêm định nghĩa chất gây nghiện và chất hướng thần. Theo đó “Chất
gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối
với người sử dụng” và “Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh
hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với
người sử dụng”. Như vậy, trong luật pháp Việt Nam, cụm từ chất ma túy được
định nghĩa một cách gián tiếp qua cỏc khỏi niệm chất gây nghiện và chất hướng
thần
7
.
Ngoài ra, bên cạnh khái niệm chung tổng quát, các chất ma túy cụ thể và
còn được liệt kê trong các danh mục do Chính phủ ban hành. Theo Nghị định
67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 và Nghị định 133/2003/NĐ-CP ngày
06/11/2003 của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất ma
túy bao gồm 228 chất chia thành 3 danh mục và 40 hóa chất không thể thiếu
trong quá trình sản xuất, điều chế ma túy. Hiện tại các chất ma túy bị kiểm sát
tại Việt Nam được liệt kê trong 3 Danh mục :
- Danh mục I gồm các chất ma túy rất độc, tuyệt đối cấm sử dụng; việc
sử dụng các chất này trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều
tra tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền. Danh mục này
bao gồm các chất ma túy trong Danh mục IV của công ước 1961 và Danh mục I
của công ước 1971 và muối của chúng.
7
Th.s. Nguyễn Thị Phương Hoa, Hoàn thiện khái niệm “chất ma túy” trong pháp luật Việt Nam, Tạp chí khoa
học pháp luật số 3 (34/2006)
10
- Danh mục II gồm các chất ma túy độc hại, được dung hạn chất trong
phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh
vực y tế theo yêu cầu điều trị. Danh mục này bao gồm các chất ma túy trong
Danh mục I và II của Công ước 1961 và các chất hướng thần được dùng trong

Danh mục II của Công ước 1971 và muối của chúng.
- Danh mục III gồm các chất ma túy độc dược được dùng trong phân
tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y
tế theo yêu cầu điều trị. Danh mục này bao gồm các chất hướng thần trong Danh
mục III và IV của công ước 1971 và muối chúng.
Ở Việt Nam, các chất ma túy thường gặp là đối tượng của tội tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy bao gồm :
• Thuốc phiện (nhựa thuốc phiện hay còn gọi là nhựa đặc của cây anh túc);
• Cần sa (phần ngọn mang hoa và quả của cây cần sa mà nhựa chưa được
chiết ra);
• Lỏ cụca (lỏ của cây cooca lá chưa dùng để chiết xuất);
• Moocphin (chất chiết từ thuốc phiện);
• Coocain;
• Hờrụin;
• Chất hướng thần như amphetamine…
Có nhiều chất ma túy nhưng có thể phân loại các chất ma túy như sau:
- Theo nguồn gốc, cách thức tạo ra chất ma túy, ma túy được chia thành
ba nhóm:
• Ma túy tự nhiên: là các chất ma túy có sẵn trong tự nhiên, là những
ancaloit của một số loài thực vật như: thuốc phiện, cần sa, coca…
• Ma túy bán tổng hợp: các chất ma túy được điều chế từ sản phẩm tự nhiên
bằng cách cho tác dụng với một số hóa chất để thu được chất ma túy tác
dụng mạnh hơn chất ma túy ban đầu (ví dụ Hờrụin là chất ma túy bán
tổng hợp từ morphine bằng cách axetyl hóa morphine…)
• Ma túy tổng hợp: là các chất ma túy được điều chế bằng phương pháp
tổng hợp hóa học toàn phần từ các chất (gọi là tiền chất). Các chất ma túy
tổng hợp có tác dụng mạnh và nhanh hơn ma túy bán tổng hợp
(methadone, dolargan, mathamphetamine)
11
- Theo đặc tính và mức độ tác động của chất gây nghiện, ma túy được chia

thành ba nhóm:
• Ma túy mạnh: Loại ma túy gây phản ứng dược lý mạnh, chỉ cần sử dụng
một lượng nhỏ là có thể tạo ra sự biến đổi trạng thái tâm lý của con người
và vài lần sử dụng là có thể gây nghiện.
• Ma túy trung bình: Loại ma túy gây phản ứng tâm lý là chủ yếu, đồng thời
có cả phản ứng sinh học (amphetamine…)
• Ma túy nhẹ: Loại ma túy không gây nghiện nặng, gây ra phản ứng tâm lý
là chủ yếu (seduxen,…)
- Theo nguồn gốc và tác động dược lý ma túy được chia thành năm loại:
• Ma túy là các chất từ cây thuốc phiện (opiates)
• Ma túy là các chất từ cần sa (cannabis)
• Ma túy là các chất kích thích (stimuland)
• Ma túy là các chất ức chế (depressants)
• Ma túy là các chất gây ảo giác (hallucinorens)
Theo thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-TANDTC-BTP ngày
24/12/2007 về hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XVIII “Cỏc tội
phạm về ma tỳy” của BLHS năm 1999 quy định:
- Đối với các chất ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch (như dung
dịch thuốc phiện, dung dịch hờrụin dùng để tiêm, chích) hoặc chất ma túy ở thể
lỏng đã được pha loãng để tiện cho việc sử dụng thì không coi toàn bộ dung dịch
này là chất ma túy ở thể lỏng mà cần xác định hàm lượng moocphin trong dung
dịch để tính trọng lượng của chất ma túy đó.
- Đối với xái thuốc phiện thỡ khụng coi là nhựa thuốc phiện mà phải xác
định hàm lượng moocphin trong xái thuốc phiện để tính trọng lượng của thuốc
phiện.
1.2.2 . Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm
các dấu hiệu biểu hiện tội phạm diễn ra trong thế giới khách quan
8
. Những biểu

8

12
hiện của tội phạm ra bên ngoài bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả
nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các dấu
hiệu biểu hiện sự thực hiện hành vi phạm tội và gắn liền với hành vi như: công
cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, thời gian, địa điểm và hoàn
cảnh phạm tội
9
. Các loại hành vi khách quan của tội phạm này là:
- Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy;
- Hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy;
- Hành vi mua bán trái phép chất ma túy;
- Hành vi chiếm đoạt chất ma túy.
* Tàng trữ trái phép chất ma túy là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp ma
túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chon dưới đất, để trong vali,
cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong quần áo, tư trang mặc trên người hoặc theo
người ) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép
chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định
tội này
10
.
* Vận chuyển trái phép chất ma túy là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp
chất ma tỳytừ nơi này đến nơi khác dưới bất kỳ hình thức nào (có thể bằng các
phương tiện khác nhau như ô tô, tàu bay, tàu thủy ,trờn cỏc tuyến đường đường
khác nhau như: đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường thủy, đường
bưu điện…, có thể có trong người như cho vào túi áo, túi quần, nuốt vào trong
bụng, để trong hành lý như vali, túi xách…) mà không nhằm mục đích mua bán,
tàng trữ hay sản xuất trái phép chất ma túy khác
11

.
Người giữ hộ, hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy cho người khác,
mà biết rõ mục đích mua bán trái phép chất ma túy của người đú, thỡ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy với vai trò đồng phạm.
9
Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr.145
10
Xem: Mục 3.1, Phần II « Về các tội phạm cụ thể », Thông tư liên tịch của Bộ Công an – VKSNDTC -
TANDTC - Bộ tư pháp số 17/2007/ TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24 tháng 12 năm 2007 hướng
dẫn áp dụng một số quy định tại chương VII “Các tội phạm về Ma túy” của BLHS năm 1999
11
Xem: Mục 3.2, Phần II « Về các tội phạm cụ thể », Thông tư liên tịch của Bộ Công an – VKSNDTC -
TANDTC - Bộ tư pháp số 17/2007/ TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24 tháng 12 năm 2007 hướng
dẫn áp dụng một số quy định tại chương VII “Các tội phạm về Ma túy” của BLHS năm 1999
13
Điều luật không quy định hành vi tàng trữ, vận chuyển chất ma túy với
số lượng là bao nhiêu thì cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, tại Mục 3.6 Thông tư
liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP quy định
ôNgười nào tàng trữ, vận chuyển trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
với số lượng sau đây không nhằm mục đích mua bán hay sản xuất trái phép chất
ma túy khỏc thỡ áp dụng khoản 4 Điều 8 BLHS, theo đú khụng truy cứu TNHS
nhưng phải bị xử lý hành chính:
a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cụca có trọng lượng dưới một
gam;
b) Hờrụin hoặc cụcain có trọng lượng dưới không phẩy một gam;
c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây cụca có trọng lượng dưới một kg;
d) Qủa thuốc phiện khô có trọng lượng dưới năm kilụgam;
đ) Qủa thuốc phiện tươi có trọng lượng dưới 1 kilụgam;
e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có trọng lượng dưới một gam
f) Các chất ma túy khác ở thể lỏng từ mười ml trở xuốngằ

Và mức xử phạt trong trường hợp này là từ 20.000.000 đồng đến
30.000.000. Ngoài việc bị phạt tiền, cá nhân, tổ chức vi phạm còn bị áp dụng
hình thức xử phạt bổ sung như tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm
12
.
Tuy nhiên cần lưu ý ở chỗ hành vi tàng trữ, vận chuyển trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy với số lượng như đã trích dẫn ở trên phải không nhằm
mục đích mua bán hay sản xuất trái phép chất ma túy khỏc thỡ mới có thể bị xử
lý về mặt hành chính.
* Mua bán trái phép chất ma túy là một trong các hành vi sau đây:
- Bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc vào nguồn
gốc ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy cho người khác
để hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác ;
- Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác ;
- Xin chất ma túy nhằm bán cho người khá ;
- Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép không phụ thuộc
vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có ;
12
Xem: Khoản 4 Điều 23 Nghị định 150/2005/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm 2005 quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội.
14
- Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toỏn…lấy chất ma
túy nhằm bán lại trái phép cho người khác;
- Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác ;
- Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.
13
* Chiếm đoạt chất ma túy là một trong các hành vi trộm cắp, lừa đảo,
tham ô, lạm dụng tín nhiệm, cưỡng đoạt, cướp, cướp giật, công nhiên chiếm
đoạt chất ma túy của người khác. Trường hợp người có hành vi chiếm đoạt chất
ma túy nhằm mục đích bán lại chất ma túy đó cho người khác, thì bị truy cứu

trách nhiệm hình sự với tội danh đầy đủ đối với tội danh đầy đủ đối với hành vi
đã thực hiện theo Điều 194 BLHS và chỉ phải chịu một hình phạt.
14
Xét về mặt khách quan, hành vi chiếm đoạt chất ma túy bao gồm nhiều
hành vi của các tội xâm phạm sở hữu, như hành vi trộm cắp, công nhiên chiếm
đoạt, lừa đảo, cướp giật, cưỡng đoạt và có cả hành vi cướp chất ma túy. Như
vậy, hành vi để cấu thành tội chiếm đoạt chất ma túy rất đa dạng, từ hành vi ít
nguy hiểm, đến hành vi hết sức nguy hiểm cho xã hội, đó là hành vi dùng vũ lực,
đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn
công lâm vào tình trạng không thể chống cự được để chiếm đoạt chất ma túy
(hành vi của tội cướp tài sản). Đây là hành vi hết sức nguy hiểm, không chỉ uy
hiếp đến tinh thần, sức khỏe, tính mạng của người bị tấn công mà còn ảnh
hưởng đến tinh thần, tính mạng, sức khỏe của những người khác (những người
vô tình đi ngang qua khu vực hoặc sinh sống trong khu vực xảy ra vụ chiếm đoạt
chất ma túy). Điều này hoàn toàn có thể xảy ra, khi Việt Nam được nhận xét là
một trong những địa bàn trung chuyển của mạng lưới mua bán trái phép chất ma
túy xuyên quốc gia.Thời gian qua, lực lượng Công an, Bộ đội Biên phòng phá
dỡ nhiều đường dây vận chuyển trái phép chất ma túy với khối lượng lớn đến
hàng tấn (8,5 tấn), nhiều vụ việc đối tượng vận chuyển, mua bán trái phép chất
ma túy được trang bị bằng vũ khí hiện đại có tầm sát thương lớn thì đối tượng
13

14
Xem: Mục 3.3; 3.4 Phần II, Thông tư liên tịch của Bộ Công an – VKSNDTC - TANDTC - Bộ tư pháp số
17/2007/ TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24 tháng 12 năm 2007 hướng dẫn áp dụng một số quy
định tại chương VII “Các tội phạm về Ma túy” của BLHS năm 1999
15
chiếm đoạt chất ma túy hoạt động theo kiểu xã hội đen sẽ trang bị vũ khí không
kém.
* Thực tiễn thường gặp một số trường hợp sau:

- Người phạm tội chiếm đoạt và biết hoặc chấp nhận đối tượng chiếm
đoạt là chất ma túy thì sẽ định tội chiếm đoạt chất ma túy.
- Nếu người phạm tội không biết là mình chiếm đoạt chất ma túy nhưng
sau đó biết và đã có hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bỏn…thì xét xử theo các
tội danh tương ứng. Hành vi chiếm đoạt chỉ xét xử về tội chiếm đoạt tài sản
thông thường.
- Nếu người phạm tội không biết là mình chiếm đoạt chất ma túy và sau
đó bị bắt ngay thì chỉ truy cứu về tội chiếm đoạt tài sản thông thường
Tội phạm hoàn thành từ thời điểm thực hiện một trong bốn hành vi
khách quan kể trên.
* Khi truy cứu trách nhiện hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy cần phân biệt:
- Người nào bán trái phép chất ma túy cho người khác và còn cho họ sử
dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của mình để sử
dụng trái phép chất ma túy thì ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 194 BLHS, người đú cũn bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy theo
Điều 198 BLHS.
- Người nào biết người khác đi mua chất ma túy để sử dụng trái phép mà
gửi tiền nhờ mua hộ chất ma tuý để sử dụng thì người nhờ mua hộ phải chịu
trách nhiệm hình sự về số lượng chất ma túy đã nhờ mua hộ. Người đi mua phải
chịu trách nhiệm hình sự về tổng số lượng chất ma túy đã mua cho bản thân và
mua hộ.
- Người nào biết người khác mua chất ma túy để sử dụng trái phép mà
dùng phương tiện để chở họ cùng chất ma túy và bị bắt giữ nếu số lượng chất
ma túy đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua
16
bán trái phép chất ma túy thì người đó là người đồng phạm với người mua về tội
tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy quy định tại Điều 194 BLHS.
1.2.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, là thái độ tâm
lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện và
với hậu quả do hành vi ấy gây ra cho xã hội. Mặt chủ quan của tội phạm bao
gồm động cơ phạm tội, mục đích phạm tội và lỗi của người phạm tội
15
.
Lỗi là thái độ tâm lý của chủ thể đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
và đối với hậu quả của hành vi ấy gây ra cho xã hội thể hiện dưới dạng cố ý
hoặc vụ ý.Thỏi độ tâm lý của chủ thể với hành vi nguy hiểm cho xã hội không
phải sau sự kiện thực hiện hành vi mà trong quá trình thực hiện nó, đồng thời
với quá trình thực hiện hành vi. Thái độ tâm lý này là quá trình tâm lý diễn ra
trong ý thức của người phạm tội
16
.
Tội phạm phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý. Một người phải chịu TNHS về việc đã thực hiện hành vi đã gây
thiệt hại cho xã hội nếu họ có lỗi khi thực hiện hành vi đó. Nguyên tắc có lỗi là
một nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam, không có lỗi thì không có tội.
Nhà nước không chấp nhận sự quy tội khách quan tức là truy cứu TNHS một
người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội nhưng không xem xét lỗi của
họ khi thực hiện hành vi ấy
17
.Có thể chia lỗi thành lỗi cố ý trực tiếp, lỗi cố ý
gián tiếp, lỗi vô ý do cẩu thả.
Lỗi của người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy là lỗi cố ý trực tiếp. Về ý chí, người phạm tội nhận thức
được hành vi mua bán ma túy là hành vi trái pháp luật, họ có đủ điều kiện khách
quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác nhưng họ vẫn thực hiện
hành vi phạm tội.
Theo quy định tại Điều 9 BLHS năm 1999, có thể hiểu, lỗi cố ý trực tiếp

là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành
15
Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr.171
16
Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr.172
17
Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr.172
17
vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và
mong muốn hậu quả xảy ra.
Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
có cấu thành tội phạm hình thức, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc. Do
vậy vấn đề có thấy trước hay không thấy trước hậu quả không được đặt ra khi
xem xét lý trí của người phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.
Khi xác định lỗi của người phạm tội này cần chú ý những điểm sau:
- Người có hành vi tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy mà có
mục đích bán chất ma túy này thì phạm tội mua bán trái phép chất ma túy.
- Người có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác mà không biết
trong đó có chất ma túy thì không bị truy cứu TNHS về tội chiếm đoạt chất ma
túy mà bị truy cứu TNHS về tội danh tương ứng với hành vi chiếm đoạt tài sản
đã được thực hiện.
1.2.4. Chủ thể của tội phạm
Tội phạm là hành vi của con người có tính nguy hiểm cho xã hội, chủ thể
của tội phạm là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
trong tình trạng có TNHS và đạt độ tuổi do luật quy định
18
. Năng lực TNHS và
độ tuổi chịu TNHS là hai điều kiện của chủ thể phạm tội, hai dấu hiệu bắt buộc
của chủ thể phạm tội.Tuy nhiờn, ngoài hai dấu hiệu bắt buộc và phổ biến nói
trên của chủ thể, một số tội phạm đòi hỏi chủ thể phải có những dấu hiệu bắt

buộc khác, trường hợp này được gọi là chủ thể đặc biệt.
Chủ thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
các chất ma túy là người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định
Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để xác định con
người có lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ có người có
năng lực trách nhiệm hình sự mới có thể là chủ thể của tội phạm. Người có năng
lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có
khả năng nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực
18
Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr.161
18
hiện và điều khiển được hành vi đó
19
. Chỉ có người có năng lực trách nhiệm
hình sự mới có thể là chủ thể của tội phạm.
Người có năng lực trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam là
người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không thuộc trường hợp ở
trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Theo Điều 12 BLHS năm 1999:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm,
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng”
20
Đối chiếu với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt các chất ma túy tại Điều 194, Khoản 1 điều 194 là tội phạm nghiêm trọng.
Do đó chủ thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma túy theo khoản 1 là người từ đủ 16 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực trách
nhiệm hình sự. Khoản 2, 3, 4 Điều 194 là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng. Vì thế nên chủ thể của tội mua bán trái phép chất ma túy

theo khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 194 là người từ đủ 14 tuổi trở lên, có đầy
đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
Khi xác định trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc tàng trữ chất
ma túy cần phải chú ý:
- Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải thực hiện
hành vi mua bán trái phép chất ma túy từ hai lần trở lên, nếu tổng trọng lượng
chất ma túy của các lần cộng lại dưới mức tối thiểu hoặc không xác định được
tổng trọng lượng các chất ma túy của tất cả các lần đã đến mức tối thiểu theo
quy định tại các điểm g, h, i, k, l, m, n hoặc o khoản 2 Điều 194 thì họ không
phải chịu TNHS về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt chất ma
túy.
19
Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr.163
20
Xem thêm: Mục 10 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 05 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán,
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999
19
- Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy từ hai lần
trở lên, nếu tổng trọng lượng chất ma túy của các lần cộng lại từ mức tối thiểu
quy định tại các điểm g, h, i, k, l, m, n hoặc o khoản 2 Điều 194 thì phụ thuộc
vào tổng trọng lượng chất ma túy được xác định trong từng trường hợp cụ thể,
mà họ phải bị xét xử theo khoản tương ứng (khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 40
quy định tại điều 194 BLHS năm 1999). Tuy nhiên trong trường hợp này cần
phân biệt:
+ Trường hợp người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực
hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma
túy từ hai lần trở lên và trọng lượng chất ma túy của mỗi lần thuộc trường hợp
quy định tại các điểm g, h, i, k, l, m, n hoặc o khoản 2 Điều 194 thì tùy thuộc

vào loại chất ma túy mà họ phải bị áp dụng điểm tương ứng với điểm b “phạm
tội nhiều lần” quy định tại khoản 2 Điều 194.
+ Trường hợp người chưa thành niên chưa đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
thực hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt các
chất ma túy từ hai lần trở lên và trọng lượng chất ma túy của mỗi lần thuộc
trường hợp quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 194 thì cùng với việc phải
bị xét xử theo khoản tương ứng, họ còn phải bị áp dụng tình tiết “phạm tội nhiều
lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 148.
1.3. Đường lối xử lý đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự hiện hành
Điều 194 BLHS năm 1999 quy định bốn khung hình phạt, bao gồm
khung cơ bản và 3 khung tăng nặng TNHS.
1.3.1. Khung cơ bản (Khoản 1 Điều 194 BLHS) đối với trường hợp
phạm tội không có các tình tiết là yếu tố định khung.
Khoản 1 Điều 194 năm 1999 là cấu thành cơ bản của tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy có mức phạt tù từ 2 năm
đến 7 năm, áp dụng cho những trường hợp phạm tội bình thường, không thuộc
20

×