TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
--
--
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề Tài:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ TRANH
CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Giáo Viên hướng dẫn Sinh Viên thực hiện
Lê Huỳnh Phương Chinh Huỳnh Trung Hiếu
MSSV: 5044035
L
ớp Luật Thương Mại – K30
Cần Thơ - 2008
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 1
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
-- --
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 2
LỜI NÓI ĐẦU
… …
Hiện nay, lĩnh vực Ngân hàng được xem là lĩnh vực sôi động nhất trong nền
kinh tế. Hàng loạt các ngân hàng thương mại ra đời, theo đó các ngân hàng cũng
cạnh tranh với nhau rất mạnh mẽ từ mô hình tổ chức, cơ cấu nghiệp vụ, phát triển
mạng lưới, hiện đại hoá công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát
triển các sản phẩm dịch vụ mới ... Chính điều này đã góp phần thiết thực vào sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, trở thành là nền kinh tế huyết mạch trong quá
trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nước nhà.
Tuy nhiên, đây cũng là lĩnh vực xảy ra nhiều tranh chấp nhất trong các loại
tranh chấp kinh doanh thương mại. Bởi vì, bản chất của hoạt động tín dụng là sự
tín nhiệm lẫn nhau giữa một bên là tổ chức tín dụng và bên còn lại là khách hàng
vay ti
ền. Hơn nữa đối tượng trong quan hệ này cũng khá đặc biệt đó là một lượng
tiền nhất định. Theo đó “hợp đồng tín dụng” là sự thỏa thuận giữa một bên là tổ
chức tín dụng một bên là khách hàng vay về việc tổ chức tín dụng sẽ cho khách
hàng vay một số tiền nhất định trong một thời gian xác định và sau thời gian đó
người vay có nghĩa vụ thanh toán cho tổ chức tín dụng k
èm theo một khoản lãi
(n
ếu có). Cho nên, hoạt động này được xem là có rủi ro cao thường xảy ra các
tranh chấp do khách hàng vay không thanh toán được nợ hoặc bên cho vay bội
ước khi không thực hiện đúng các cam kết của m
ình, xuất phát từ nhiều nguyên
nhân khác nhau. M
ặt khác, những vụ tranh chấp liên quan đến hợp đồng tín dụng
thường rất lớn cả về tính chất của vụ án (liên quan đến nhiều người, nhiều tổ chức
khác nhau...) cho đến số tiền tranh chấp cũng không nhỏ.
Từ thực tế này cần phải có một giải pháp căn cơ, lâu dài và triệt để nhằm hạn
chế các tranh chấp như vừa nêu. Làm được điều này sẽ có ý nghĩa to lớn cho hoạt
động tín dụng ng
ày càng phát triển đúng hướng, lành mạnh, an toàn... Bảo vệ lợi
ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia. Xuất phát từ lý do đó, người viết đã chọn
đề t
ài “Một số giải pháp nhằm hạn chế tranh chấp trong hợp đồng tín dụng” để
nghiên cứu.
Nội dung của đề tài gồm hai chương
Chương một: Những vấn đề chung về hợp đồng tín dụng v
à tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng tín dụng.
Trong chương này người viết sẽ trình bày các khái niệm chung nhất về một
hợp đồng tín dụng, tranh chấp phát sinh liên quan đến hợp đồng tín dụng, tìm hiểu
ý nghĩa của việc thiết lập hợp đồng tín dụng trong đời sống hàng ngày. Đồng thời,
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 3
nghiên cứu những nội dung cơ bản của một hợp đồng dân sự nói chung và một
hợp đồng tín dụng nói riêng.
Chương hai: Một số thực trạng và đề xuất nhằm góp phần hạn chế tranh
chấp có thể phát sinh trong hợp đồng tín dụng hiện nay.
Đây là chương mà tác giả trình bày cụ thể thực trạng của hoạt động tín dụng
cũng như một số nguyên nhân phát sinh tranh chấp trên thực tiễn thực hiện hợp
đồng tín dụng, sau khi đ
ã nghiên cứu những nội dung cơ bản của một hợp đồng.
Qua đó, người viết có đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hạn chế các tranh
chấp xảy ra liên quan đến hợp đồng tín dụng.
Ngoài ra, trong phần Phụ lục người viết còn đưa một số vụ tranh chấp điển
hình đã xảy ra trên thực tế và bình luận các vụ việc đó theo quan điểm đã trình
bày trong đề tài nghiên cứu này. Với mong muốn cung cấp thêm các thông tin có
liên quan đến tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng. Mặt khác, tạo cho đề tài
nghiên c
ứu thêm phong phú và sinh động.
Tuy nhiên, đây là đề t
ài mới, trong chương trình học cũng chưa được chú
trọng đến vấn đề mà tác giả nghiên cứu. Bên cạnh đó, sự hiểu biết của người viết
vẫn còn hạn chế nên không tránh khỏi sai sót, mong nhận được sự thông cảm và
đóng góp chân thành của quý Thầy cô cùng các bạn đồng nghiệp.
Cuối cùng, người viết xin chân thành cảm ơn các Cán bộ của Khoa Luật, đặc
biệt cảm ơn Cô Lê Huỳnh Phương Chinh đã tư vấn, hướng dẫn tìm kiếm tài liệu
và giúp đỡ nhiệt t
ình để đề tài luận văn được thực hiện và hoàn thành đúng kế
hoạch đề ra.
Cần Thơ, tháng 05 năm 2008
Sinh viên thực hiện
Huỳnh Trung Hiếu
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ
TRANH CHẤP PHÁT SINH TỪ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
1. KHÁI NIỆM VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
1.1.Khái niệm tín dụng
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị
trường, tiến tới hội nhập với nền kinh tế thế giới. Trong đó hoạt động ngân h
àng
gi
ữ vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, nó được coi là mạnh máu của nền kinh tế
bất cứ mỗi quốc gia nào và tài chính - ngân hàng có lành mạnh thì nền kinh tế
mới có cơ hội cạnh tranh và phát triển.
Như đ
ã biết hoạt động tín dụng của ngân hàng vốn là một trong những hoạt
động đặc trưng nhất của lĩnh vực ngân h
àng.
Thu
ật ngữ “Tín dụng” xuất phát từ gốc Latinh “Creditum” là sự tin tưởng,
tín nhiệm. Theo từ điển tiếng Việt
1
thì “Tín dụng” là sự vay mượn có hoàn trả (cả
vốn lẫn lãi). Điều này nghĩa là người vay trả nợ đầy đủ và đúng hạn. Hay nói
cách khác để quan hệ tín dụng được thiết lập v
à tồn tại thì đòi hỏi phải tạo lập
được niềm tin, đây là cơ sở rất quan trọng để quan hệ tín dụng được h
ình thành.
Theo đó Điều 20, khoản 8 Luật các tổ chức tín dụng được sửa đổi, bổ sung
2004; thì hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có,
nguồn vốn huy động để cấp tín dụng.
Quan hệ tín dụng đã tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội
khác nhau. Dù vận động ở phương thức nào, đối tượng vay mượn là hàng hóa hay
ti
ền tệ thì tín dụng cũng mang ba đặc trưng cơ bản:
- Quyền sử dụng theo đúng mục đích đã thỏa thuận, quyền sở hữu về tài sản
tín dụng tức là có quyền định đoạt số tiền đó mà tổ chức tín dụng không có quyền
can thiệp hoặc phản đối.
- Có thời hạn tín dụng được xác định do thỏa thuận giữa người vay và người
cho vay.
-
Người sở hữu tín dụng được nhận một phần thu nhập dưới hình thức lợi tức
(Lãi vay).
Cùng v
ới sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, các hình thức tín dụng ngày
càng ph
ong phú và đa dạng hơn. Đặc biệt khi ngành nghề kinh doanh tiền tệ ra
đời th
ì hình thức tín dụng Ngân hàng, thực sự chiếm lĩnh toàn bộ hệ thống tín
1
.
Nhà xuất bản Thống kê – 2004.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 5
dụng và giữ vai trò chủ yếu đối với quá trình phát triển sản xuất và lưu thông
hàng hoá trên thị trường.
Quan hệ tín dụng ngân hàng nói chung là quan hệ tín dụng giữa tổ chức tín
dụng với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nhà nước và cả các tầng
lớp dân cư trong xã hội. Trong quan hệ đó, tổ chức tín dụng vừa là người đi vay
vừa là người cho vay. Tổ chức tín dụng vay bằng cách huy động các nguồn vốn
nhàn rỗi trong xã hội để hình thành nên nguồn vốn tín dụng. Từ các nguồn vốn
tín dụng đó cộng với vốn tự có của mình tổ chức tín dụng sẽ sử dụng nó để đáp
ứng mọi nhu cầu về vốn cho các đối tượng trong quan hệ tín dụng vừa phân tích
ở tr
ên.
M
ặt khác, tổ chức tín dụng cung cấp vốn trên cơ sở niềm tin khách hàng sẽ
hoàn trả được nợ vay. Do đó, người cho vay đòi hỏi người đi vay phải có sự cam
kết hoàn trả cả vốn lẫn lãi. Trên thực tế sự cam kết này thực chất là hợp đồng tín
dụng. Đây là cơ sở pháp lý xác định trách nhiệm của hai chủ thể trong quan hệ tín
dụng.
1.2 Khái niệm về hợp đồng tín dụng và tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng tín dụng
1.2.1 Khái niệm về hợp đồng tín dụng
Như trên đã lý giải khái quát hợp đồng tín dụng có thể được hiểu là
s
ự cam kết giữa người cho vay và người đi vay về việc trả nợ vay cả gốc và lãi.
Cách lý gi
ải đó đúng nhưng chưa đủ vì thực tế một hợp đồng tín dụng còn rất
nhiều vấn đề phức tạp mà đòi hỏi mỗi chủ thể tham gia vào giao dịch đó phải hết
sức thận trọng, tỉ mỹ trước khi thống nhất ý chí để đi đến ký kết hợp đồng đúng
luật cả về nội dung lẫn hình thức.
Thật vậy, khi nói đến hợp đồng thì ta nghĩ ngay đến sự thỏa thuận bằng lời
nói hay bằng văn bản giữa hai hay nhiều chủ thể có năng lực pháp luật và năng
lực hành vi nhằm xác lập thực hiện hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý
nhất định trên cơ sở phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội.
Từ nhận thức đó đồng thời căn cứ vào bản chất của hợp đồng tín dụng của tổ
chức tín dụng ta có thể đưa ra một định nghĩa về hợp đồng tín dụng như sau:
“Hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng nói
chung (bên cho vay) với tổ chức cá nhân có đủ điều kiện theo luật định (bên vay),
theo đó tổ chức tín dụng thỏa thuận ứng trước một số tiền cho bên vay sử dụng
trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi, dựa trên sự
tín nhiệm của đôi bên
2
”.
2
Giáo trình Luật Ngân hàng- Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công An Nhân Dân-2004, trang 115
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 6
Với định nghĩa này, thì hợp đồng tín dụng bao gồm hai yếu tố:
Về phương diện hình thức:
S
ự thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng phải được thể hiện bằng
văn bản. Điều này được ghi nhận tại Điều 51 Luật các tổ chức tín dụng: “Việc cho
vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng. Mọi hợp đồng tín dụng phải có nội
dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi
su
ất, thời hạn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ
và những cam kết khác được các bên thỏa thuận”. Rõ ràng mọi hợp đồng tín dụng
đều phải được lập thành văn bản th
ì mới có giá trị pháp lý. Vậy tại sao pháp luật
phải quy định như thế? Hợp đồng tín dụng là một dạng của hợp đồng dân sự mà
h
ợp đồng dân sự thì có thể được giao kết bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ
thể?
Sở dĩ pháp luật quy định như thế là có lý do, một trong những lý do đó là:
- H
ợp đồng tín dụng được lý kết bằng văn bản nó sẽ là bằng chứng cụ thể
hợp thức hoá sự thỏa thuận của các bên. Chính hợp đồng tín dụng bằng văn bản
buộc các bên tôn trọng nó một cách nghiêm túc dựa trên những quyền và nghĩa vụ
đ
ã quy định. Đồng thời nó là cơ sở để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng tín dụng.
- Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản cũng có nghĩa rằng bên cho
vay và bên vay đã công bố công khai, chính thức về mối quan hệ pháp lý. Từ đó,
người thứ ba biết r
õ về việc lập khế ước đó mà có phương cách xử sự hợp lý, an
toàn nhất trong giao dịch với họ.
- Đồng thời, với việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản mới có thể
khiến cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện công vụ được tốt hơn.
Ví dụ như việc thu thuế, lệ phí, kiểm tra, thanh tra tài chính, kiểm soát các hoạt
động kinh doanh thương mại trong x
ã hội được triệt để hơn.
Tuy nhiên, hình thái vật chất của văn bản hợp đồng tín dụng như thế nào
m
ới được xem là hợp pháp vẫn còn là vấn đề bỏ ngõ trong pháp luật hiện hành
c
ủa Việt Nam. Trong khi xã hội ngày càng phát triển và có vô số những hình thái
v
ật chất khác nhau như văn bản viết tay, văn bản dưới dạng điện tử....
Về ý kiến văn bản viết tay thì họ cho rằng hợp đồng tín dụng nên bằng văn
bản viết, có chữ ký viết tay và có con dấu (nếu có) của các bên tham gia hợp đồng
tín dụng thì mới hợp pháp và có giá trị pháp lý. Họ đưa ra ý kiến này là phòng
ng
ừa các rủi ro pháp lý cho các bên do hợp đồng tín dụng bị sửa đổi bất hợp pháp
mà không phát hiện được.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 7
Còn ý kiến hợp đồng tín dụng nên chấp nhận cả văn bản điện tử có chữ ký
điện tử của các b
ên tham gia hợp đồng tín dụng: Họ cho rằng, hiện nay rất nhiều
hợp đồng dân sự, kinh doanh thương mại đã áp dụng hình thức văn bản điện tử.
Cho nên, hợp đồng tín dụng dưới hình thức văn bản điện tử cũng có thể được chấp
nhận.
Cùng với sự ra đời của Luật giao dịch điện tử, việc áp dụng hợp đồng tín
dụng dưới dạng văn bản điện tử là phù hợp. Thế nhưng, việc áp dụng loại hình
văn bản điện tử có thể dẫn đến các rủi ro pháp lý cho các bên, chẳng hạn khi văn
bản điện tử bị xâm nhập rồi sửa đổi thì việc chứng minh văn bản gốc là cực kỳ
khó khăn. Nếu có tranh chấp phát sinh th
ì việc giải quyết nó cũng là điều rất phức
tạp.
Tóm lại, Việc cơ quan lập pháp quy định mọi hợp đồng tín dụng phải được ký kết
bằng văn bản là một trong những biện pháp bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên
tham gia h
ợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, việc xác định
thế nào là một văn bản là vấn đề cần phải được minh bạch hóa.
* Phương diện nội dung:
Hợp đồng tín dụng thể hiện sự đồng thuận của bên cho vay để bên vay được sử
dụng một số tiền của mình trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả
gốc và lãi (nếu có), dựa trên sự tín nhiệm.
Từ phương diện hình thức và nội dung vừa phân tích ở trên thì ta thấy có
một số dấu hiệu đặc trưng khác để phân biệt với các loại hợp đồng khác trong
giao lưu dân sự và thương mại, ngo
ài những dấu hiệu chung của mọi loại hợp
đồng:
Thứ nhất, về mặt chủ thể thì một bên tham gia hợp đồng bao giờ cũng là tổ
chức tín dụng đủ điều kiện hoạt động theo quy định của pháp luật với tư cách là
bên cho vay. Chủ thể bên kia của hợp đồng (bên đi vay) có thể là tổ chức, cá
nhân, hộ gia đình.... Thỏa mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật hiện
hành về quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với mọi khách hàng vay.
Th
ứ hai, về mặt đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tiền. Trong
đó tiền phải được xác định cụ thể do các b
ên thỏa thuận và ghi rõ trong hợp đồng.
Thứ ba, hợp đồng tín dụng vốn rủi ro rất lớn, theo các nhà quản lý kinh tế,
thì hợp đồng tín dụng luôn đối mặt với rủi ro trong quan hệ tín dụng. Về lý luận,
rủi ro trong hợp đồng tín dụng được xem là khả năng khách hàng không trả được
nợ vay và lãi. Từ đó hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng sẽ gặp khó khăn.
Sở dĩ như vậy là vì trong hợp đồng tín dụng các bên cam kết là sau một thời hạn
nhất định thì bên đi vay mới hoàn trả nợ. Tuy nhiên, nếu thời hạn vay càng dài thì
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 8
nguy cơ xảy ra rủi ro và bất trắc càng lớn. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân x
ảy ra tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng
3
. Do đó, có thể thấy số
lượng v
à tỷ lệ tranh chấp liên quan đến hợp đồng tín dụng cũng lớn hơn các loại
hợp đồng khác.
Về cơ chế quản lý để thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên. Trong hợp
đồng tín dụ
ng, nghĩa vụ chuyển giao tiền vay (nghĩa vụ giải ngân) bao giờ cũng
phải thực hiện trước, làm cơ sở, tiền đề cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
bên vay. Do đó, chỉ khi n
ào bên cho vay chứng minh được rằng họ đã chuyển giao
tiền vay theo đúng hợp đồng tín dụng cho bên vay, thì khi đó họ mới có quyền
yêu cầu bên vay phải thực hiện các nghĩa vụ đối với mình (bao gồm các nghĩa vụ
chính như sử dụng tiền vay đúng mục đích, nghĩa vụ ho
àn trả tiền vay đúng thời
hạn cả gốc và lãi,…)
1.2.2 Ý nghĩa của hợp đồng tín dụng.
Hoạt động tín dụng nói chung và hợp đồng tín dụng nói riêng có vai trò to
l
ớn trong giao dịch dân sự hiện nay.
* Đối với các tổ chức tín dụng, với vai tr
ò là nhà phân phối vốn thì hợp
đồng tín dụng nó giúp đưa những nguồn vốn tạm thời chưa sử
dụng sang những
người đang cần vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó ngân h
àng thu lãi
su
ất để tích luỹ và tiếp tục tích luỹ cho việc kinh doanh, thúc đẩy lưu thông hàng
hoá và dịch vụ.
* Đối với khách h
àng, thì hợp đồng tín dụng có ý nghĩa quan trọng hơn. Nó
giúp cho bên vay giải quyết những khó khăn trước mắt cũng như về lâu dài do
thi
ếu vốn để sản xuất kinh doanh. Đồng thời hợp đồng tín dụng có ý nghĩa đáp
ứng được nhu cầu ti
êu dùng của con người trong xã hội.
* Đối với nền kinh tế đất nước, hợp đồng tín dụng ng
ày càng phát triển
lành mạnh sẽ có ý nghĩa tích cực đối với nền kinh tế Quốc Gia. Nó giúp cho hoạt
động sản xuất kinh doanh nói chung và đối với đời sống dân cư nói riêng được ổn
định và có điều kiện để phát triển.
Hợp đồng cho vay của tổ chức tín dụng không chỉ phục vụ mục tiêu kinh
doanh mà còn b
ảo đảm mục tiêu hoạt động an toàn, ổn định và phát triển của hệ
thống ngân hàng và của nền kinh tế. Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng bản
chất là quan hệ hợp đồng tín dụng. Vì thế việc thực hiện hợp đồng tín dụng một
cách nghiêm túc đúng luật là cơ sở góp phần v
ào việc thực thi chính sách tiền tệ
Quốc Gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện các mục tiêu xã hội. Ngoài ra,
3
. Phần này sẽ được phân tích rõ ở chương 2
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 9
gián tiếp thúc đẩy nền kinh tế hội nhập vào khu vực và Quốc tế, góp phần to lớn
thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước.
1.2.3 Khái niệm về tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng
Tranh chấp xét trong góc độ thuật ngữ pháp lý, tranh chấp là sự xung đột
hay mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ tranh chấp đó.
Tranh chấp hợp đồng là sự mâu thuẫn, bất đồng ý kiến giữa các bên tham
gia quan h
ệ hợp đồng liên quan đến việc thực hiện (hoặc không thực hiện) các
quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng. Tranh chấp hợp đồng là ý kiến không thống
nhất của các bên về việc đánh giá hành vi vi phạm hoặc cách thức giải quyết hậu
quả phát sinh từ vi phạm đó (trong khi vi phạm hợp đồng là hành vi đơn phương
của một bên đã xử sự trái với cam kết trong hợp đồng). Như vậy, tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng sẽ là những tranh chấp:
- Phát sinh trực tiếp từ quan hệ hợp đồng, nên luôn luôn thuộc quyền tự
định đoạt của các b
ên tranh chấp (tức các bên trong hợp đồng).
- Mang yếu tố tài sản (vật chất hay tinh thần) và gắn liền với lợi ích của các
bên trong tranh chấp.
- Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp trong hợp đồng là bình đẳng, thỏa
thuận.
Tranh chấp hợp đồng tín dụng là biểu hiện sự mâu thuẫn hay không thống
nhất về quyền và nghĩa vụ hoặc lợi ích phát sinh từ hợp đồng tín dụng của bên cho
vay là các t
ổ chức tín dụng và khách hàng vay trong quá trình thực hiện hợp đồng
tín dụng.
Một hợp đồng tín dụng chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột, bất
đồng về phương diện quyền lợi giữa các bên đ
ã được thể hiện ra bên ngoài (mặt
khách quan) thông qua những bằng chứng cụ thể và xác định được. Vì thế, không
phải cứ khi nào vi phạm hợp đồng thì khi đó có tranh chấp mà đôi khi sự vi phạm
hợp đồng diễn ra trước và tranh chấp hợp đồng lại là sự kiện diễn ra sau đó một
khoảng thời gian nhất định. Thậm chí, có sự vi phạm hợp đồng tín dụng nhưng
không thể có sự tranh chấp bởi các bên không bày tỏ ra bên ngoài về sự bất đồng
hay xung đột lợi ích giữa họ với nhau bằng các h
ành vi phản kháng cụ thể có giá
trị chứng cứ.
Vấn đề đặt ra là ta làm thế nào để tìm ra những nguyên nhân dẫn đến những
tranh chấp đó, từ đó mới đưa ra những biện pháp khắc phục, dần dần hạn chế
những tranh chấp xảy ra đó mới là điều quan trọng và cần thiết nhất.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 10
2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Hoạt động tín dụng là việc các tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có,
nguồn vốn huy động để cấp tín dụng. Theo đó, tổ chức tín dụng thỏa thuận để
khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả. Trong hoạt động
đó th
ì có hoạt động cho vay.
Việc cho vay được thực hiện dưới hình thức pháp lý là hợp đồng tín dụng.
Nó được xác lập dựa tr
ên sự thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và người đi vay
nhằm phân định quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên trong quá trình đi vay, mục
đích sử dụng vốn vay và phương thức thanh toán vốn vay theo quy địn
h của pháp
luật về tín dụng.
Theo ý nghĩa đó, hợp đồng tín dụng phản ánh sự thỏa thuận trực tiếp của
các bên trong việc xác lập một quan hệ tín dụng, xác lập các quyền và nghĩa vụ
pháp lý cụ thể của các bên trong việc vay và hoàn trả vốn vay.
Xuất phát từ vai trò của tín dụng đối với nền kinh tế nước ta cũng như nhằm đảm
bảo sự an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín
dụng, việc xác định một chế định hợp đồng tín dụng chuẩn mực và chặt chẽ có ý
nghĩa quan trọng. Nói một cách khái quát, hợp đồng tín dụng khi xác lập và thể
hiện sẽ bao gồm những nội dung chủ yếu:
2.1 Chủ thể tham gia trong hợp đồng tín dụng
Trong giao dịch tín dụng, chủ thể ký kết hợp đồng tín dụng bao gồm bên cho
vay (các T
ổ chức tín dụng) và bên đi vay (các tổ chức, cá nhân đủ điều kiện theo
quy định của pháp luật về điều kiện vay vốn đối với khách h
àng). Các chủ thể này
khi tham gia vào giao d
ịch hợp đồng tín dụng cần phải thỏa mãn những điều kiện
nhất định theo dự liệu của pháp luật. Việc quy định về điều kiện chủ thể tham gia
vào hoạt động tín dụng không nhằm hạn chế hoạt động này mà giúp cho nó ngày
càng minh b
ạch hơn, hiệu quả hơn cũng như tránh được rủi ro hạn chế tranh chấp
về sau.
Còn quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong hợp đồng tín dụng, theo
nhận thức chung, đó khả năng pháp lý do pháp luật quy định trước hoặc được các
bên dự liệu sẵn trong hợp đồng tín dụng nhằm mang lại lợi ích và cả những ràng
bu
ộc cho mỗi bên khi tham gia vào giao dịch. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý này
được tạo lập thông qua hành vi pháp lý cụ thể và được thể hiện qua hợp đồng tín
dụng. Trên nguyên tắc, quyền và nghĩa vụ các bên sẽ được phát sinh khi hợp đồng
tín dụng phát sinh hiệu lực.Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ là cả quá trình từ lúc
nhận tiền vay cho đến khi khoản vay được hoàn trả cả gốc và lãi (kể cả tiền phạt
và tiền bồi thường vi phạm hợp đồng nếu có)
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 11
Trong hầu hết các hợp đồng thì tư cách chủ thể thường khác nhau, có thể
quyền của bên này là nghĩa vụ tương đồng của bên kia và ngược lại. Trong hợp
đồng tín dụng
cũng vậy, quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ được các bên quy định
thành một điều kiện rất cụ thể rõ ràng hoặc những điều kiện đó không quy định cụ
thể. Tuy nhiên, các bên cũng ngầm hiểu mình được quyền gì và phải chịu nghĩa
vụ gì từ những điều khoản cơ bản của hợp đồng mà ta phân tích ở trên. Do đó,
chúng đều có giá trị r
àng buộc đối với các bên trong giao kết hợp đồng tín dụng.
2.1.1 Bên cho vay
2.1.1.1 Điều kiện về tư cách chủ thể
Trong hợp đồng tín dụng, chủ thể đầu tiên được đề cập đó chính là bên cho
vay.
Bên cho vay là các t
ổ chức tín dụng có đủ những điều kiện do pháp luật quy
định.
Theo quy định tại điều 28 Luật các tổ chức tín dụng 1997 được sửa đổi, bổ
sung năm 2004 th
ì một tổ chức tín dụng muốn trở thành chủ thể cho vay trong
hợp đồng tín dụng phải thỏa mãn đủ các điều kiện sau đây:
a. Có điều lệ được Ngân hàng Nhà nước chuẩn y.
b. Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, có đủ vốn pháp định và có trụ
sở phù hợp với yêu cầu hoạt động ngân hàng.
c. Ph
ần vốn pháp định góp bằng tiền phải được gửi vào tài khoản phong toả
không được hưởng l
ãi mở tại Ngân hàng Nhà nước trước khi hoạt động tối thiểu
30 ngày. Số vốn này chỉ được giải toả khi tổ chức tín dụng đi vào hoạt động; Đặc
biệt phải có người đại diện theo pháp luật có đủ năng lực trình độ lãnh đạo tổ chức
tín dụng đó và người này phải được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
phê chuẩn chấp nhận. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng khác không phải là tổ chức
tín dụng nếu được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện hoạt động tín dụng thì
c
ũng có thể là bên cho vay trong hợp đồng tín dụng và cũng phải thỏa mãn điều
kiện giống như đối với bên cho vay là tổ chức tín dụng, chẳng hạn như: Có giấy
phép hoạt động ngân hàng, có giấy chứng nhân đăng ký kinh doanh và có người
đại diện đủ năng lực v
à thẩm quyền để ký kết hợp đồng tín dụng với khách hàng.
Trong gi
ấy phép hoạt động ngân hàng và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
của loại tổ chức này phải ghi rõ hoạt động cho vay là hoạt động ngân hàng được
thực hiện.
Với việc quy định điều kiện đối với bên cho vay như thế không chỉ góp phần
hạn chế, loại trừ những tổ chức tín dụng không đạt tiêu chuẩn kinh doanh trên
thương trường, nhờ đó góp phần lành mạnh hoá các quan hệ tín dụng và bảo vệ
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 12
quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư, mà còn là căn cứ để các Luật gia hay các
thẩm phán, trọng tài viên tiến hành thẩm định và đánh giá một cách khách quan
vấn đề hiệu lực pháp lý của hợp đồng tín dụng.
2.1.1.2 Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay
Giao dịch cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay về bản chất
thuộc về hợp đồng ưng thuận, nghĩa là hiệu lực của nó phát sinh từ thời điểm các
bên đạt được
thỏa thuận về các điều khoản chủ yếu của hợp đồng tín dụng chứ
không phải phát sinh kể từ thời điểm bên cho vay chuyển giao đối tượng của hợp
đồng (giải ngân) cho bên vay. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc giải ngân l
à
ngh
ĩa vụ cơ bản phát sinh từ hợp đồng tín dụng mà tổ chức tín dụng phải thực
hiện đối với khách hàng vay như đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Cho nên khi
nào t
ổ chức tín dụng đã thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ này thì khi đó họ mới có
quyền yêu cầu khách hàng thực hiện các nghĩa vụ trở lại đối với mình, chẳng hạn
nghĩa vụ sử dụng vốn vay đúng mục đích hay nghĩa vụ hoàn trả tiền vay đầy đủ
đúng kỳ hạn. Ngo
ài ra, với tư cách là chủ nợ của người vay, tổ chức tín dụng còn
có quy
ền kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và quyền thu hồi vốn vay trước
thời hạn khi khách hàng vay sử dụng vốn vay sai mục đích. Tuy nhiên, việc thực
hiện hai quyền năng pháp lý này cần phải gắn liền với nghĩa vụ của tổ chức tín
dụng trong việc cung cấp thông tin có liên quan đến dự án đầu tư cho khách hàng
vay vốn để sao cho tổ chức tín dụng cũng có trách nhiệm với quá trình sử dụng
vốn vay của khách hàng. Vậy hai quyền này nên để cho pháp luật quy định sẵn
hay để cho các b
ên tự do thỏa thuận trong hợp đồng? Thực tế, do hai quyền này
có
ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích hợp pháp của các bên nên các bên tự do thỏa
thuận trong hợp đồng tín dụng, chứ các Nhà làm luật không quy định sẵn trong
các văn bản pháp luật
4
. Ngoài ra, phía tổ chức tín dụng còn có các quyền như yêu
cầu bên vay hoàn trả tiền vay đúng thỏa thuận, kể cả tiền phạt, tiền bồi thường
thiệt hại (nếu có). Quyền năng này mặc dù phát sinh trên cơ sở những thỏa thuận
trong hợp đồng tín dụng nhưng thông thường sẽ được pháp luật bảo đảm thực hiện
bằng nhiều phương cách. Vì khi thực hiện quyền này tổ chức tín dụng (bên cho
vay) có tư cách là một chủ nợ có vị trí đặc biệt quan trọng. Với tư cách là chủ nợ
bên cho vay sẽ thực hiện quyền yêu cầu đối với bên vay (người mắc nợ) bằng các
biện pháp mà pháp luật cho phép như khiếu nại đòi tiền; chủ động phát mại tài sản
bảo đảm tiền vay; thương lượng hoà giải hay khởi kiện ra toà án có thẩm quyền để
yêu cầu giải quyết….
4
. Ts Nguyễn Văn Tuyến, Giao dịch thương mại của Ngân hàng thương mại trong điều kiện kinh tế thị
trường ở
Việt Nam, trang 127
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 13
2.1.2 Bên vay
2.1.2.1 Điều kiện về tư cách chủ thể:
Bên vay trong hợp đồng tín dụng là tổ chức, cá nhân thỏa mãn các điều kiện
vay vốn do pháp luật quy định
5
. Cụ thể khách hàng vay tại tổ chức tín dụng là các
t
ổ chức, cá nhân Việt Nam và nước ngoài có nhu cầu vay vốn, có khả năng trả nợ
để thực hiện các dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh
, dịch vụ ở nước
ngoài thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có quy định riêng. Tuy nhiên, đây mới
là quy định chung của pháp luật, tuỳ v
ào tổ chức tín dụng họ có những quy định
riêng phù hợp với hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng đó. Mặt khác, điều
kiện về khách hàng vay còn tuỳ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên.
Th
ực tế, việc cho vay diễn ra hàng ngày ở các tổ chức tín dụng. Họ tuân thủ
theo điều kiện chung của tổ chức tín dụng nhưng c
òn có những quy định riêng cho
phù h
ợp với tình hình hoạt động kinh doanh của họ. Quy định về điều kiện chủ thể
đúng luật nhưng phải mở rộng thông thoáng hơn nhằm thu hút c
àng nhiều khách
hàng đến vay c
àng tốt. Bởi hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng là hoạt động
truyền thống và luôn mang lại lợi nhuận cao cho các tổ chức tín dụng. Những điều
kiện riêng về chủ thể này sẽ do các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và bên
vay ch
ỉ bắt buộc phải thỏa mãn những điều kiện này khi chúng được ghi rõ trong
h
ợp đồng tín dụng như một điều kiện để giao kết hợp đồng tín dụng.
Về lý thuyết đối với những điều kiện chung có tính bắt buộc chung đối với
mọi chủ thể đi vay trong hợp đồng tín dụng cụ thể:
- Thứ nhất, bên vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
Riêng đối với các tổ chức bao gồm cả pháp nhân v
à không phải pháp nhân còn
ph
ải có người đại diện hợp pháp có đủ năng lực và cả thẩm quyền đại diện cho
chính tổ chức đó khi ký kết hợp đồng tín dụng. Thực tiễn, với điều kiện này các
bên không nh
ất thiết phải ghi rõ trong hợp đồng tín dụng mà nếu không ghi điều
kiện này thì có thể xem các bên tham gia vào hợp đồng tín dụng đã mặc nhiên
th
ừa nhận nó theo quy định của pháp luật.
- Thứ hai, có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, đây cũng là điều kiện bắt
buộc phải thỏa mãn đối với mọi chủ thể vay trong tất cả các hợp đồng tín dụng và
các bên ph
ải bắt buộc ghi rõ điều kiện này trong hợp đồng như điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng
6
.
5
. Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế cho vay
của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành làm theo QĐ số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày
11/12/2001 c
ủa Thống đốc NHNN.
6
. Phần này sẽ được phân tích kỹ trong phần các điều khoản của hợp đồng tín dụng.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 14
Trong thực tiễn những điều kiện này chỉ có tính bắt buộc phải thỏa mãn đối
với bên vay nếu các bên thỏa thuận rõ trong hợp đồng tín dụng như một điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng tín dụng.
Tóm lại, việc pháp luật quy định các điều kiện chủ thể tham gia trong hợp
đồng tín dụng, ngo
ài mục đích thiết lập trật tự, kỷ cương minh bạch trong hợp
đồng tín dụng c
òn có ý nghĩa nhằm bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh
của tổ chức tín dụng cũng như hạn chế tranh chấp phát sinh về sau liên quan đến
hợp đồng tín dụng.
2.1.2.2 Quyền và nghĩa vụ của bên vay:
Sau khi ký kết hợp đồng tín dụng thì quyền cơ bản nhất của khách hàng là
quy
ền yêu cầu tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ giải ngân theo thỏa thuận. Nếu
tổ chức tín dụng vi phạm nghĩa vụ giải ngân thì khách hàng vay có quyền phạt vi
phạm hợp đồng tín dụng đối với tổ chức tín dụng và đồng thời có quyền yêu cầu
tổ chức tín dụng tiếp tục thực hiện hợp đồng tín dụng đến cùng hoặc đơn phương
tuyên bố chấm dứt hợp đồng tín dụng.
Ngoài ra, khách hàng vay có quyền từ chối các yêu cầu không hợp lý của tổ
chức tín dụng khi ký kết hợp đồng tín dụng, thực hiện và thanh lý hợp đồng tín
dụng. Quyền này được pháp luật quy định nhằm tạo cho khách hàng vay khả năng
chống lại các yêu cầu rõ ràng là không hợp lý của tổ chức tín dụng, có thể gây ra
những bất lợi cho họ. Ví dụ, khách hàng vay có quyền từ chối cung cấp các thông
tin về hoạt động kinh doanh của mình. Yều cầu cung cấp đó rõ ràng là không liên
quan gì
đến việc sử dụng vốn và hoàn trả vốn vay cho tổ chức tín dụng…
Cùng với những quyền trên khách hàng còn phải thực hiện một số nghĩa vụ
đối với chủ nợ l
à tổ chức tín dụng, trong đó hai nghĩa vụ cơ bản nhất là việc sử
dụng vốn vay đúng mục đích và hoàn trả nợ vay đầy đủ, đúng kỳ hạn đã thỏa
thuận. Khi khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ sử dụng vốn đúng mục đích thì phía
t
ổ chức tín dụng có quyền phạt vi phạm hợp đồng đối với bên vay và có thể đơn
phương chấm dứt hợp đồng tín dụng để th
u hồi nợ trước hạn. Còn trường hợp
khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ tiền vay thì phía tổ chức tín dụng cũng có
quyền phạt vi phạm hợp đồng đối với bên vay bằng cách áp dụng lãi suất nợ quá
hạn đối với khoản tiền vay chậm thanh toán, đồng thời có quyền áp dụng các biện
pháp cưỡng chế theo
thỏa thuận để thu hồi nợ, chẳng hạn như trích tiền trên tài
kho
ản tiền gửi của khách hàng hoặc phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Xuất
phát từ hai nghĩa vụ cơ bản của bên đi vay, nhiều trường hợp tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng tín dụng xảy ra trên thực tế.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 15
2.2 Đối tượng của hợp đồng
Đối tượng của hợp đồng tín dụng chính là số tiền vay. Theo thỏa thuận bên
cho vay s
ẽ cấp tín dụng cho bên đi vay một số tiền nhất định.
2.2.1 Điều kiện liên quan đến đối tượng của hợp đồng tín dụng
Để xác minh được mức vay trong hợp đồng tín dụng, thông thường tổ chức
tín dụng căn cứ vào giá trị tài sản bảo đảm mà tổ chức tín dụng xác định mức cho
vay. Đồng thời, tổ chức tín dụng căn cứ v
ào quỹ cho vay hiện có của mình để thực
hiện việc cho vay sao cho đảm bảo sự an toàn phòng tránh rủi ro trong cấp tín
dụng thì họ xác định giá trị tài sản bảo đảm rồi tiến hành cho vay trên % giá trị tài
s
ản được định giá
7
. Ngoài ra pháp luật còn quy định rằng: Tổng dư nợ cho vay đối
với khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ
trường hợp đối với khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ
chức và cá nhân
8
.
T
ổ chức tín dụng và khách hàng xác định số tiền vay thì bắt buộc phải được
thể hiện trong hợp đồng tín dụng và thể hiện bằng cách ghi số tiền vào hợp đồng,
ghi cả bằng số và chữ, phải nêu rõ đơn vị tiền tệ là VND hay ngoại tệ. Trong
trường hợp tiền vay l
à ngoại tệ thì theo quy định riêng của Chính phủ và cụ thể
Quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN.
Liên quan đến đối tượng của hợp đồng tín dụng các bên cần ghi rõ mục đích
của việc vay vốn. Thông thường mục đích sử dụng vốn vay được ghi đúng theo
giấy đề nghị vay vốn của khách hang, chẳng hạn như khách hàng vay để đầu tư
xây dựng nhà xưởng, hay để mua vật tư hàng hoá phục vụ kinh doanh, vay để
mua nhà ở, ô tô, phục vụ tiêu dùng và cá nhân… Việc thỏa thuận điều khoản này
trong h
ợp đồng tín dụng được xem như một giải pháp bảo đảm sự an toàn về vốn
cho người đầu tư là các tổ chức tín dụng, tránh trườn
g hợp bên vay sử dụng vốn
một cách tuỳ tiện hạn chế rủi ro.
Mặt khác, để đảm bảo lợi ích của cả hai bên và đảm bảo cho đồng vốn đầu
tư được sử dụng hiệu quả, pháp luật cũng cho phép trong thời hạn sử dụng vốn,
các bên có quyền thỏa thuận lại về mục đích sử dụng vốn vay mỗi khi thấy thời cơ
và điều kiện sử dụng vốn đ
ã thay đổi. Với quy định mở như thế thì rõ rãng mục
đích sử dụng vốn được ghi trong giấy đề nghị vay vốn của khách h
àng và sau này
là được thể hiện trong hợp đồng tín dụng thì mục đích đó không phải là cố định
mà nó có thể linh hoạt thay đổi cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới miễn
7
. Định giá tài sản sẽ được trình bày rõ hơn ở phần bảo đảm tài sản thanh toán.
8
Khoản 1, điều 18 Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 1627/2001/QĐ-NHNN
ngày 31-12-2001 V
ề việc ban hành quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 16
sao việc thay đổi đó sẽ mang lại hiệu quả tích cực nhất. Tuy nhiên, việc thay đổi
mục đích sử dụng vốn của bên vay phải được bên cho vay đồng ý bằng văn bản.
2.2.2 Thời hạn sử dụng vốn vay
2.2.2.1 Điều kiện chung về thời hạn sử dụng vốn vay:
Thời hạn sử dụng vốn vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng
b
ắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay mà hai bên
đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng .
Thông thường thời hạn sử dụng vốn vay được xác định theo y
êu cầu vay vốn
của khách hàng và yêu cầu thời hạn vay này phải được ghi cụ thể trong hợp đồng
tín dụng về ngày tháng năm trả tiền hoặc phải trả tiền sau bao lâu kể từ ngày ký
h
ợp đồng.
Vấn đề này được đề cập trong Điều 10 của Quyết định số 1627/2001/QĐ-
NHNN. Theo đó, khách hàng vay và tổ chức tín dụng thỏa thuận với nhau về thời
hạn vay dựa vào chu kỳ sản xuất, kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu
tư, khả năng trả nợ của
khách hàng và nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng.
Ngoài ra, pháp luật còn quy định đối với pháp nhân Việt Nam hoặc Nước ngoài,
th
ời hạn vay không được vượt quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định
thành lập hoặc giấy phép hoạt động tại Việt Nam; Đối với cá nhân Nước ngoài thì
cho vay không được vượt quá thời hạn được phép sinh sống hoạt động tại Việt
Nam.
Tóm l
ại, hợp đồng vay vốn giữa tổ chức tín dụng và khách hàng có thể được
thỏa thuận theo hai thời hạn sau:
- Cho vay ngắn hạn: tối đa 12 tháng được xác định phù hợp với chu kỳ sản
xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
- Cho vay trung và dài h
ạn: thời hạn cho vay phù hợp với thời hạn thu hồi
vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất cho vay của tổ
chức tín dụng. Thời hạn cho vay trung hạn từ 12 tháng đến 60 tháng, thời hạn cho
vay dài hạn từ 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo
quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15
năm đối với dự án đầu tư phục vụ đời sống.
Trường hợp b
ên vay không thể trả nợ trong thời hạn đã quy định trong hợp
đồng sau quá tr
ình thực hiện hợp đồng tín dụng thì phải tiến hành thương lượng
với tổ chức tín dụng để có thể gia hạn nợ, đảm bảo việc trả nợ vào thời gian kéo
dài hơn
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng giải quyết nợ triệt để nhất.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 17
2.2.2.2 Những yếu tố phát sinh gắn liền với thời hạn sử dụng vốn vay:
(i). Lãi suất cho vay
Lãi suất: là tỉ lệ phần trăm (%) mà người đi vay phải trả thêm vào số tiền
vay, được tính theo đơn vị thời gian. Mức l
ãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và
khách hàng th
ỏa thuận phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng. Tổ chức tín dụng có trách
nhiệm công bố công khai các mức lãi suất cho vay cho khách hàng biết
9
.
C
ụ thể là điều 476- Bộ luật dân sự 2005 thì quy định: “lãi suất vay do các
bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân
hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng…”. Với quy định này nó
mang tính ràng bu
ộc bằng mệnh lệnh hành chính đối với các tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên, việc quy định này nhằm bảo vệ người đi vay là khách hàng. Qua đó,
hạn chế việc bên cho vay (Tổ chức tín dụng) lợi dụng sự yếu thế, sự cần vốn của
khách hàng để ép
khách hàng ký những hợp đồng tín dụng với lãi suất cao ngất
ngưỡng. Tuy nhi
ên, về lâu dài phải sửa đổi để phù hợp với cơ chế tự thỏa thuận
trên cơ sở cung cầu của thị trường.
Đối với hợp đồng tín dụng việc quy định về l
ãi suất cho vay phải được ghi
rõ trong hợp đồng. Thông thường mức lãi suất áp dụng với khoản nợ gốc quá hạn
do tổ chức tín dụng ấn định và thỏa thuận với khách hàng trong hợp đồng tín dụng
nhưng không được vượt quá 150% l
ãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho
vay đ
ã được ký kết hoặc đã được điều chỉnh trong hợp đồng tín dụng. Ngoài ra
các bên có th
ể ghi thêm trong hợp đồng lãi suất gia hạn nợ (nếu có). Theo quy
định của Ngân h
àng Nhà nước thì quy định lãi suất gia hạn nợ không được vượt
quá 120% lãi suất cho vay tại thời điểm gia hạn nợ.
(ii). Phí
Phí: Mức phí là khoản mà ngân hàng sẽ thu lại sau khi đã làm các dịch vụ
liên quan đến việc ký kết hợp đồng tín dụng. Chẳng hạn như phí thẩm định khoản
vay, phí cam kết sử dụng vốn, phí trả nợ trước hạn, phí thẩm định tài sản đảm
bảo… Thông thường để thu những khoản phí này tổ chức tín dụng ký với khách
hàng hợp đồng tín dụng trung, dài hạn với số tiền vay tương đối lớn và nhận tiền
vay nhiều lần hoặc hết thời hạn rút vốn mà bên vay không rút hết tiền vay theo
hợp đồng.
Tóm lại, việc quy định về điều khoản lãi suất càng cụ thể, càng rõ ràng thì
càng t
ốt. Bởi vì thực tế rất nhiều tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng có
9
. Điều 11 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, ban hành kèm theo QĐ số
1627/2001/QĐ
-NHNN, Ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 18
nguyên nhân từ lãi suất cho vay của ngân hàng, ngay cả trong quá trình thương
thảo hợp đồng tín dụng và quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng thì xảy ra tranh
chấp liên quan đến lãi suất này. Thậm chí, toà án cũng rất lúng túng khi xử lý
những vụ tranh chấp liên quan đến lãi suất như vừa phân tích ở trên.
2.2.3 Phương thức giải ngân và phương thức trả nợ gốc và lãi.
Phương thức giải ngân và phương thức trả nợ có ý nghĩa rất quan trọng đối
với hợp đồng tín dụng vì nó liên quan trực tiếp đến việc nhận vốn vay của khách
hàng và việc thu hồi nợ, lãi cho vay của tổ chức tín dụng.
Thực tiễn, việc tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng suất phát từ hai
nguyên nhân này chiếm tỷ trọng khá cao trong tranh chấp hợp đồng tín dụng .
2.2.3.1 Phương thức giải ngân.
Thông thường bên cho vay giải ngân một lần bằng tiền mặt hoặc chuyển vào
tài kho
ản của bên vay sau khi các bên hoàn tất việc ký kết hợp đồng tín dụng .
Tuy nhiên, đối với những hợp đồng tín dụng trung v
à dài hạn, đặc biệt đối
với những dự án phục vụ cho đầu tư phát triển sản suất kinh doanh của khách
hàng thì có những quy định riêng cho việc rút vốn vay:
- Bên vay phải cung cấp cho ngân hàng đầy đủ hồ sơ, tài liệu pháp lý liên
quan đến việc sử dụng vốn vay và lập bảng kê rút vốn theo yêu cầu của ngân
hàng.
- Khi th
ực hiện việc rút vốn vay thanh toán cho phần xây lắp, bên vay phải
thực hiện theo đúng quy định về quản lý đầu tư xây dựng công trình.
- Khi th
ực hiện rút vốn vay thanh toán cho phần thiết bị, bên vay phải thực
hiện đúng theo các điều kiện thanh toán đã ký kết trong hợp đồng cung cấp thiết
bị.
- Khi thực hiện rút vốn vay để thanh toán cho các chi phí khác thuộc dự án,
bên vay chỉ được rút tiền theo tiến độ thực hiện của dự án và các chi phí hợp lý để
thực hiện dự án. Ngoài ra, hợp đồng tín dụng còn xác định trong một thời hạn nhất
định b
ên vay phải rút hết vốn, hoặc muốn kéo dài thời hạn rút vốn thì phải thông
báo bằng văn bản và được các tổ chức tín dụng chấp thuận.
2.2.3.2 Phương thức trả nợ
Với điều khoản này thì các bên có thể thỏa thuận thanh toán tiền vay bằng
nhiều hình thức, số tiền vay sẽ được hoàn trả dần hàng tháng hay trả toàn bộ một
lần khi hợp đồng đáo hạn. Nếu khoản vay được thỏa thuận thanh toán theo từng
kỳ hạn thì các bên có thể dự liệu trước về khả năng điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cho
phù hợp với khả năng tài chính của bên vay khi trả nợ.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 19
Đồng tiền trả nợ và việc bảo toàn giá trị nợ gốc bằng các hình thức thích
h
ợp, phù hợp với quy định của pháp luật. Thông thường vay bằng tiền nào thì trả
bằng tiền đó hoặc các bên có thỏa thuận khác.
Bên vay có thể chủ động đến tổ chức tín dụng trả nợ hoặc tổ chức tín dụng
trực tiếp đến nơi cư trú của bên vay để thu hồi nợ hay trích tài khoản tiền gửi của
bên vay để thu hồi nợ. Tất cả các vấn đề này đ
òi hỏi các bên phải thỏa thuận rõ
ràng và ghi vào h
ợp đồng tín dụng.
Liên quan đến phương thức trả nợ gốc, có một số vấn đề cần phải xác định
thêm, cụ thể là:
+ Gia h
ạn nợ gốc và lãi, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc và lãi. Trong trường
hợp khoản vay được thỏa thuận thanh toán theo từng kỳ hạn thì các bên có thể
thỏa thuận về việc gia hạn trả nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc và lãi khi bên vay
không có kh
ả năng trả nợ đúng hạn được vì lý do khách quan nào đó. Nếu phải
gia hạn nợ thì lãi suất gia hạn nợ được xác định như thế nào? Thông thường một
số Ngân hàng thương mại cổ phần sẽ xác định trên cơ sở quyết định gia hạn nợ
của ngân hàng nhưng không vượt quá lãi suất nợ quá hạn.
+ Chuyển nợ quá hạn. Đối với điều khoản này thì đa phần người vay họ
không muốn đưa vào. Bởi vì, trong quá trình trả nợ họ không thanh toán được đầy
đủ cho tổ chức tín dụng m
à tổ chức tín dụng lại không chấp nhận việc gia hạn
nợ… Do đã khó khăn trong việc giải quyết nợ hiện tại lại bị tổ chức tín dụng
chuyển toàn bộ (dư nợ gốc) khoản vay sang nợ quá hạn và áp dụng lãi suất nợ quá
hạn. Điều này thật sự đưa họ vào đường cùng.
+ Tr
ả nợ trước hạn: Việc trả nợ trước hạn cũng có thể được chấp nhận nếu
các bên có thỏa thuận. Thông thường thì tổ chức tín dụng sẽ thu một khoản phí
cho việc trả nợ trước hạn, tuy nhiên mức phí không được lớn hơn số lãi phát sinh
trong trường hợp trả nợ đúng hạn.
2.3 Tài sản bảo đảm việc thanh toán
Tài sản bảo đảm việc thanh toán là phương tiện để thể hiện biện pháp phòng
ng
ừa rủi ro cho các tổ chức tín dụng trong trường hợp mà bên vay không thực
hiện được việc trả nợ, vi phạm cam kết trong hợp đồng tín dụng. Nó còn được
xem là cơ sở để quyết định việc cho vay v
à mức cho vay đối với khách hàng trên
th
ực tế.
Nếu các bên có thỏa thuận về biện pháp bảo đảm bằng tài sản, theo thỏa
thuận này có thể được ghi trực tiếp vào hợp đồng tín dụng, cũng có thể được
thành lập một hợp đồng riêng biệt. Việc hợp đồng tín dụng vô hiệu thì hợp đồng
phụ cũng đương nhiên không có hiệu lực pháp luật.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 20
Tuy nhiên, trong một số trường hợp hợp đồng tín dụng vô hiệu nhưng hợp
đồng liên quan đến bảo đảm t
ài sản không bị vô hiệu; Chẳng hạn hợp đồng tín
dụng giữa khách hàng vay và tổ chức tín dụng bị Tòa tuyên bố là vô hiệu do
người ký kết hợp đồng không đúng thẩm quyền. Khi hợp đồng bị tuy
ên là vô hiệu
thì các bên trao trả cho nhau những gì đã nhận, tức là người vay sẽ trả lại tiền mà
mình
đã nhận, còn tổ chức tín dụng sẽ trả lại tài sản đảm bảo tiền vay hoặc giấy
chứng nhận quyền sở hữu tài sản đã nhận của khách hàng vay. Nhưng trong
trường hợp n
ày khách hàng vay không trả lại tiền đã nhận thì tổ chức tín dụng có
quyền giữ lại những tài sản được dùng để thế chấp đó.
Do giới hạn phạm vi của đề tài nghiên cứu, nên người viết không phân tích
sâu các hình th
ức bảo đảm tài sản cho hợp đồng vay mà chỉ giới thiệu một cách
khái quát cơ bản nhất đối với điều khoản n
ày.
Các hình th
ức bảo đảm thanh toán bao gồm: Thế chấp tài sản, cầm cố tài
s
ản, bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba…
- Thế chấp tài sản vay vốn của các tổ chức tín dụng là việc khách hàng vay
cam k
ết dùng các bất động sản của mình để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ theo hợp
đồng tín dụng.
- Cầm cố tài sản vay vốn là việc khách hàng vay cam kết dùng các động sản
của mình để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng.
-Tài sản bảo đảm cho việc trả nợ là tài sản được hình thành từ vốn vay. Đây
là hình thức bảo đảm được các doanh nghiệp nước ta áp dụng nhiều nhất trong
trường hợp không đủ điều kiện cầm cố, thế chấp t
ài sản bảo đảm vốn vay. Do đó,
tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm, tài sản bảo đảm chưa được hình thành. Cả
tổ chức tín dụng và khách hàng đều dựa vào dự án đầu tư, phương án sản xuất
kinh doanh để xác định t
ài sản đảm bảo. Đây là quy định tương đối thông thoáng
nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp có dự án kinh doanh khả thi,
hiệu quả.
- Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng hình thức bảo lãnh: Để
tạo cho các bên giao kết hợp đồng tín dụng mà vẫn bảo đảm quyền lợi của tổ chức
tín dụng thì pháp luật cho phép người thứ ba đứng ra bảo lãnh cam kết với tổ chức
tín dụng về việc sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa
vụ trả nợ thay cho khách hàng vay, nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng vay thực
hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ.
Tóm lại, việc bảo đảm tài sản thực hiện nghĩa vụ trả nợ là biện pháp hạn chế
rủi ro (nếu có) xảy ra đối với tổ chức tín dụng, bảo đảm an toàn và ổn định hoạt
động của hệ thống các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, trong tương lai th
ì bảo đảm
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 21
thực hiện nghĩa vụ nó không còn nặng nề và phức tạp như hiện nay nữa. Với xu
thế phát triển đa dạng các sản phẩm của Ngân hàng thương mại thì chắc chắn sẽ
có rất nhiều sản phẩm, hình thức cho vay mà tổ chức tín dụng không cần áp dụng
biện pháp bảo đảm mà vẫn đảm bảo cho hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả và
phát tri
ển.
Việc xử lý tài sản bảo đảm chỉ đặt ra trong trường hợp khách hàng vay
không th
ực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ cho các tổ chức tín
dụng. Về nguyên tắc thì xử lý tài sản đảm bảo theo sự thỏa thuận đã ghi trong hợp
đồng tín dụng. Nếu các b
ên không có thỏa thuận về điều khoản này thì áp dụng
theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, đa số những hợp đồng có ghi nhận điều
khoản này với nội dung là sẽ phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ nếu khách
hàng vay không bảo đảm trả nợ hoặc trả không đủ số tiền vay. Ngoài ra, tổ chức
tín dụng có thể nhận chính tài sản đó sau khi tài sản đó đã được tổ chức trung gian
định giá trị t
ài sản sau khi thanh toán tất cả các khoản nợ gốc và lãi vay, chi phí…
N
ếu giá trị tài sản cao hơn các khoản thì chênh lệch đó sẽ được trả lại cho khách
hàng vay.
2.4 Xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp.
Trong hợp đồng tín dụng, bên cho vay chỉ có thể đòi tiền người vay sau một
thời gian nhất định nên thường dẫn đến rủi ro, chẳng hạn người vay không thanh
toán hoặc thanh toán khoản vay không đúng hạn như đã thỏa thuận trong hợp
đồng. V
ì những lý do này mà đa số những hợp đồng tín dụng được các tổ chức tín
dụng soạn sẵn bao giờ cũng có những điều khoản này. Điều khoản này có thể
được quy định chung hoặc nó được quy định th
ành một điều khoản rất cụ thể.
Thông thường việc xử lý vi phạm trong thời gian hiệu lực của hợp đồng nếu
một bên phát hiện bên kia vi phạm hợp đồng thì thông báo bằng văn bản cho bên
kia bi
ết và yêu cầu khắc phục các vi phạm đó. Hết thời gian ghi trong thông báo
mà bên vi phạm không khắc phục thì bên yêu cầu được quyền áp dụng các biện
pháp cần thiết để đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình. Trong quá
trình th
ực hiện hợp đồng nếu có tranh chấp xảy ra thì các bên giải quyết trên cơ sở
thương lượng b
ình đẳng giữa 2 bên. Trường hợp không thương lượng được thì hai
bên s
ẽ đưa ra toà án có thẩm quyền giải quyết. Phán quyết của Toà án có hiệu lực
bắt buộc đối với các bên theo quy định của pháp luật hiện hành.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 22
3.HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ SỰ THAY ĐỔI,
CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
3.1 Khái niệm về hiệu lực Hợp đồng tín dụng.
Hiệu lực của hợp đồng dân sự nói chung là thời điểm phát sinh quyền và
ngh
ĩa vụ của các bên. Kể từ thời điểm đó thì các bên phải tuân thủ đúng các cam
k
ết đã thỏa thuận của mình. Nếu các bên không nghiêm túc thực hiện hoặc có vi
phạm các điều khoản trong hợp đồng thì bên còn lại có quyền yêu cầu chấm dứt
hành vi đó thậm chí phạt
vi phạm hợp đồng, khởi kiện ra Tòa án hoặc đơn phương
chấm dứt hợp đồng đã ký kết.
Từ nhận thức chung về hiệu lực của hợp đồng dân sự thì khái niệm về hiệu
lực của hợp đồng tín dụng được hiểu như sau:
Hiệu lực của hợp đồng tín dụng là khoảng thời gian mà hợp đồng tín dụng
phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào hợp đồng này. Trong thời
gian hiệu lực đó, bắt buộc các bên (người vay và tổ chức tín dụng cho vay) tham
gia trong hợp đồng tín dụng phải tuân thủ các thỏa thuận đã được xác lập trong
hợp đồng.
* Thời điểm phát sinh hiệu lực của Hợp đồng tín dụng.
Thời điểm phát sinh hiệu lực của Hợp đồng tín dụng chính là thời điểm các
bên thỏa thuận xong các điều kiện của hợp đồng và bên sau cùng đã ký tên, đóng
dấu (nếu có) vào văn bản Hợp đồng tín dụng. Theo quy định của pháp luật Việt
Nam, kể từ thời điểm này thì quyền và nghĩa vụ của các bên bắt đầu phát sinh
hiệu lực. Vì thế việc chuyển giao tiền vay (giải ngân) là một nghĩa vụ hợp đồng
của bên cho vay và nếu họ không thực hiện đúng nghĩa vụ này thì về nguyên tắc
họ phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với việc vi phạm Hợp đồng tín dụng.
3.2 Các điều kiện để xác định Hợp đồng tín dụng có hiệu lực.
Pháp luật quy định một giao dịch được xem là có hiệu lực khi nó đáp ứng
đầy đủ các điều kiện theo Điều 122 Bộ Luật dân sự 2005; người tham gia giao
dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, người
tham gia quy định ho
àn toàn tự nguyện.
Từ quy định chung của Bộ Luật dân sự 2005; ta thấy Hợp đồng tín dụng suy
cho cùng cũng chỉ là một giao dịch dân sự có tính đặc thù. Do vậy các quy định về
hiệu lực của giao dịch dân sự đương nhiên cũng sẽ được áp dụng cho Hợp đồng
tín dụng. Cụ thể:
- Thứ nhất, Chủ thể tham gia Hợp đồng tín dụng phải có năng lực hành vi
dân s
ự:
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 23
Điều kiện này được quy định nhằm loại bỏ những giao dịch dân sự được xác
lập bởi người không có hoặc bị hạn chế năng lực hành vi. Việc quy định điều kiện
này chủ yếu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người không có
khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình trước nguy cơ có thể bị xâm
hại bởi các bên đối ước. Trong pháp luật Việt Nam hiện hành cụ thể là Bộ Luật
dân sự 2005, Nhà làm luật chỉ quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân
chứ không có quy định nào về năng lực hành vi dân sự của pháp nhân. Điều này
xu
ất phát từ thực tế là pháp nhân chỉ có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình thông qua những người đại diện hợp pháp bao gồm người đại diện theo pháp
luật và người đại diện theo uỷ quyền
10
. Theo đó thì nghĩa vụ hành vi dân sự của cá
nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình thực hiện các quyền và nghĩa
vụ dân sự. Khi đã đảm bảo các yêu cầu trên thì chủ thể có năng lực tham gia vào
H
ợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, đối với các chủ thể tham gia vào Hợp đồng tín
dụng là khách hàng vay vốn ngoài quy định chung của pháp luật như thế thì các
ch
ủ thể này còn phải thỏa mãn các điều kiện khác nữa do tổ chức tín dụng quy
định lúc n
ày Hợp đồng tín dụng mới có hiệu lực pháp luật. Ví dụ như điều kiện về
khả năng tài chính đảm bảo cho việc trả nợ vay đúng hạn, điều kiện về tính khả thi
và hiệu quả của phương án sử dụng vốn vay, điều kiện về tài sản bảo đảm cho
việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ tiền vay… Điều này xuất phát từ tính chất đặc thù
c
ủa hợp đồng tín dụng.
- Thứ hai, các bên tham gia vào Hợp đồng tín dụng phải có sự đồng thuận
về ý chí trên nguyên tắc bình đẳng tự nguyện và tự do ý chí.
Một hợp đồng tín dụng được coi là không có sự đồng thuận khi sự thỏa
thuận đó giữa các bên bị các khiếm khuyết như nhầm lẫn, sự lừa dối, hoặc sự ép
buộc, cưỡng bức trong khi giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, các khuyết tật này phải
có ảnh hưởng mang tính quyết định đến ý chí giao kết hợp đồng của các bên thì
m
ới được coi là sự kiện pháp lý làm cho Hợp đồng tín dụng vô hiệu.
- Thứ ba, mục đích và nội dung của Hợp đồng tín dụng không vi phạm điều
cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội.
Quy định này nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội bảo vệ trật tự công cộng,
tránh sự xâm hại của các bên tham gia hợp đồng chỉ vì lợi ích cá nhân của họ.
Tính hợp pháp về mục đích của Hợp đồng tín dụng thể hiện ở chỗ, mục đích ký
kết Hợp đồng tín dụng của các bên không vi phạm điều cấm của pháp luật và
không trái đạo đức xã hội. Chẳng hạn, Ngân hàng và khách hàng giao kết hợp
đồng t
ài khoản tiền gửi là để giúp cho khách hàng thực hiện hành vi “rửa tiền” đối
10
Giáo trình Luật Ngân hàng – Trường Đại học Luật Hà Nội – 2006, trang 146
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu
Trang 24
với nguồn thu nhập phạm pháp mà có thì giao dịch này được xem là có mục đích
trái pháp luật… Do đó, nội dung của Hợp đồng tín dụng được coi là hợp pháp khi
các điều khoản của Hợp đồng tín dụng không vi phạm điều cấm của pháp luật
hoặc không trái với các quy tắc và giá trị đạo đức đã được xã hội thừa nhận.
- Thứ tư, điều kiện về hình thức của Hợp đồng tín dụng phải phù hợp với các
quy định của pháp luật về ngân h
àng
11
.
Quy định này được xác định theo Điều 51 Luật các tổ chức tín dụng hiện
hành tức là phải lập bằng văn bản, nhằm mục đích ngăn ngừa các tranh chấp có
thể xảy ra về sau hoặc rủi ro tín dụng và đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh
doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng.
3.3 Sự thay đổi, chấm dứt Hợp đồng tín dụng.
- Trước hết về sự thay đổi của hợp đồng tín dụng
Trong quá trình thực hiện hợp đồng nhiều vấn đề mới nảy sinh đó có thể liên
quan tr
ực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của các bên hay có liên quan đến việc thực
hiện Hợp đồng tín dụng. Vì thế, đòi hỏi các bên cần có sự thay đổi, bổ sung các
điều kiện hợp đồng sao cho ph
ù hợp và hướng đến việc thực hiện hợp đồng một
cách tích cực, hiệu quả.
Để cho việc sửa đổi, bổ sung nội dung của hợp đồng có hiệu lực pháp lý đ
òi
h
ỏi các bên trong hợp đồng phải ngồi lại thỏa thuận và thống nhất ý chí trên tinh
th
ần bình đẳng tự nguyện và tự do ý chí. Đồng thời, phải do người đại diện có
thẩm quyền của hai bên trong Hợp đồng tín dụng ký kết, những sửa đổi, bổ sung
đó mới có hiệu lực thay thế, bổ sung điều khoản tương ứng trong hợp đồng.
- Đối với việc chấm dứt Hợp đồng tín dụng: Hợp đồng tín dụng chấm dứt
trong nhiều trường hợp. Cụ thể như:
* Chấm dứt Hợp đồng tín dụng do các bên đã hoàn tất các nghĩa vụ của
mình và hiệu lực của hợp đồng cũng chấm dứt. Trường hợp này, có thể nói việc
chấm dứt hợp đồng là đương nhiên, khi bên vay đã trả hết nợ gốc, lãi, lãi quá hạn,
phí (nếu có) và hợp đồng coi như đã được thanh lý.
* Đơn phương chấm dứt hợp đồng. Khi một b
ên trong Hợp đồng tín dụng
chứng minh rằng bên còn lại trong Hợp đồng tín dụng vi phạm những điều kiện
đ
ã thỏa thuận trong hợp đồng và yêu cầu họ khắc phục trong thời gian nhất định.
Tuy nhiên, bên kia vẫn tiếp tục vi phạm thì bên yêu cầu có quyền chấm dứt Hợp
đồng tín dụng. Ví dụ: khách h
àng yêu cầu tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ
giải ngân, sau khi hai bên đã ký kết Hợp đồng tín dụng (hợp đồng có hiệu lực
pháp luật). Nhưng phía tổ chức tín dụng vi phạm nghĩa vụ này tức là không tiến
11
. Được trình bày cụ thể tại mục 1.2 : “Lý do của việc thiết lập hợp đồng tín dụng bằng văn bản”.