Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

bảo hiểm cháy ở công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.56 KB, 80 trang )

Lời mở đầu
Ngày nay, trong công cuộc phát triển kinh tế, xây dựng đất nớc, quy mô của
các ngành sản xuất ngày càng đợc mở rộng, của cải tạo ra đợc ngày càng nhiều.
Nhng trong thực tế, không phải lúc nào chúng ta cũng gặp thuận lợi may mắn, trái
lại, những rủi ro biến cố xã hội luôn có thể xảy ra gây thiệt hại cho chúng ta, trong
số các rủi ro đó, có rủi ro cháy. Ngời ta cũng đã tìm ra nhiều biện pháp khắc phục
những thiệt hại do cháy gây ra nh : lập đội cứu hoả, lắp đặt hệ thống bình chống
cháy, tham gia bảo hiểm cháy trong đó bảo hiểm cháy đ ợc xem là một trong
những biện pháp hữu hiệu nhất.
ở Việt Nam, bảo hiểm cháy là nghiệp vụ khá mới mẻ (đợc triển khai từ cuối
năm 1989 ), nhng nó đã sớm chứng tỏ đợc tầm quan trọng của mình nhất là khi n-
ớc ta chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị tr-
ờng. Tuy nhiên, việc triển khai nghiệp vụ này còn cha đúng với tiềm năng của nó,
vì thế việc đi sâu nghiên cứu là rất cần thiết.
Qua thời gian thực tập tại văn phòng III thuộc công ty cổ phần bảo hiểm
Petrolimex, đợc sự giúp đỡ của các cán bộ trong phòng, em đã chọn đề tài "Tình
hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy ở công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex
giai đoạn 1996-2001".
Bài viết này đuợc thực hiện với mục đích đánh giá thực tế tình hình triển khai
nghiệp vụ bảo hiểm cháy, những kết quả đạt đợc, những tồn tại cần giải quyết để
từ đó đa ra giải pháp nhằm nâng cao chất lợng nghiệp vụ tại công ty .
đề tài đợc chia làm 3 phần nh sau :
Chơng I : Lí luận về bảo hiểm cháy và nghiệp vụ bảo hiểm cháy.

1
Chơng II : Thực tiễn triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại công ty cổ
phần bảo hiểm Petrolimex.
Chơng III :Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lợng và hiệu quả hoạt
động kinh doanh bảo hiểm cháy tại công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex.
Bài viết chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những khiếm khuyết trong biên tập
cũng nh trong trình bày. Em rất mong sự góp ý phê bình của các thầy cô giáo. Em


cũng xin chân thành cảm ơn cô giáo Tô Thiên Hơng đã giúp đỡ em hoàn thành bài
viết này.
Hà Nội, ngày tháng 05 năm 2002
Sinh viên thực hiện
Trơng Lê Hải Anh

2
Chơng I :
lí luận về bảo hiểm cháy và nghiệp vụ
bảo hiểm cháy
I. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm cháy
Trong nền kinh tế thị trờng bảo hiểm là một dịch vụ tài chính và các công ty
bảo hiểm đợc nhìn nhận là một trung gian tài chính. Bảo hiểm hoạt động theo ph-
ơng thức các cá nhân tổ chức kinh tế xã hội cùng tham gia đóng góp một khoản
tiền nhất định để tạo lập nên một quỹ chung và khoản đóng góp này gọi là phí bảo
hiểm. Khi không may gặp phải những rủi ro tổn thất ngoài mong đợi của họ, thì
lúc đó quỹ chung này sẽ phát huy tác dụng là giúp đỡ những thành viên này nhanh
chóng ổn định đời sống và sản xuất, tiếp tục kinh doanh một cách bình thờng .
Trong cuộc sống con ngời có rất nhiều rủi ro xảy ra, trong đó có một số rủi ro
đợc bảo hiểm. Cháy là một loại rủi ro mang tính thảm hoạ, sức tàn phá rất mạnh
và để lại hậu quả rất nặng nề. Có rất nhiều biện pháp để đối phó lại với loại rủi ro
này, tuy nhiên, bảo hiểm là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất
Theo số liệu thống kê hàng năm trên thế giới trung bình có 5 triệu vụ cháy xảy
ra gây thiệt hại hàng trăm tỉ USD. Ngoài những thiệt hại về tài sản về con ngời,
cháy còn làm mất ổn định trật tự xã hội, ảnh hởng đến sự phát triển của nền kinh
tế. Các vụ cháy xảy ra ở khắp nơi trên hành tinh chúng ta tại các nớc phát triển,
đang phát triển và chậm phát triển.
Có những vụ cháy không phai mờ trong tiềm thức nhân loại vì hậu quả để lại
quá nặng nề. Cụ thể là vụ cháy thành phố Lonđon vào thế kỉ 18. Trong 7 ngày 8
đêm đám cháy đã thiêu hủy 13200 ngôi nhà 87 nhà thờ trong đó có cả trụ sở của

Lloyed. Theo số liệu thống kê ở Mĩ, mỗi năm có khoảng 2,3 triệu vụ cháy làm
chết 15000 ngời bị thơng 300000 ngời thiệt hại gần 2 tỉ USD. Một ví dụ thảm khốc
khác đó là vụ cháy rừng Indonexia năm 1998 làm cho nớc này bị mất đi một diện

3
tích rừng rộng lớn và gây ảnh hởng nghiêm trọng về môi trờng cho các nớc trong
khu vực.
Nhìn ra thế giới ta có thể thấy hậu quả do cháy gây ra thật khôn lờng. Nhìn lại
Việt Nam qua con số thống kê trong thời gian 30 năm (4/10/1961- 4/10/1991) đã
xảy ra 566030 vụ cháy (không kể cháy do chiến tranh) làm chết 2574 ngời,bị th-
ơng 4475 ngời, thiệt hại ớc tính 984 tỉ. Đặc biệt, số vụ cháy lớn trên tổng số vụ
cháy chiếm tỉ lệ ngày càng tăng. Cụ thể nh sau :
Ngày 5/2/1993 Công ty dệt Nha Trang bị cháy làm thiêu huỷ 3700 mét vuông
nhà xởng, kho tàng 350 tấn bông, 46 tấn vải, 1003 chiếc áo.
Ngày 22/7/1993 Công ty liên doanh sản xuất giày Hiệp Hng thành phố Hồ Chí
Minh bị cháy, thiệt hại 14 tỷ đồng.
Ngày 14/7/1994 cháy chợ Đồng Xuân, thiệt hại ớc tính 147 tỷ dồng .
Ngày 28/6/1997 cháy kho xăng dầu 131 Thuỷ Nguyên Hải Phòng thiệt hại 31
tỷ đồng.
Vụ cháy công ty dợc Đồng Tháp thiệt hại 4,5 tỷ .
Năm 2000 xảy ra vụ cháy công ty Hải Sơn thiệt hại 7,5 tỷ
Năm 2001 công ty giấy Vising Pard bị cháy đã làm cho Bảo Minh bồi thờng
khoản tiền lớn trị giá 1,2-1,4 triệu USD.
Đặc biệt, năm 2002 đã xảy ra vụ cháy rừng U MINH Thợng, U MINH Hạ, gây
thiệt hại không thể ớc tính .
Ngày nay khi loài ngời đã bớc vào cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ
ba, đó là cách mạng công nghệ thông tin, với tốc độ phát triển nh vũ bão và nền
kinh tế toàn cầu thờng xuyên tăng trởng. Tuy nhiên, tốc độ phát triển của khoa học
kĩ thuật về an toàn thờng chậm hơn so với tốc độ phát triển khoa học kĩ thuật trong
sản xuất, nguồn vốn đầu t cho an toàn thờng thấp hơn rất nhiều so với nguồn vốn

đầu t cho sản xuất. Do đó, ngày càng nhiều vụ hoả hoạn lớn xảy ra với nhiều

4
nguyên nhân khác nhau, trong đó có cả nguyên nhân xuất phát từ mặt trái của
công nghệ tiên tiến. Thêm vào đó, do khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách
bừa bãi, không có kế hoạch, làm cho eninol xuất hiện, gây ra những trận lụt lớn
hay nắng hạn kéo dài. Cũng do tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt mà con ngời ngày
càng sử dụng nhiều nguyên liệu thay thế, trong đó đa số là các nguyên liệu dễ
cháy nh: ga, xăng và các hoá chất Cho nên nguy cơ xảy ra cháy ngày càng cao
và hậu quả ngày càng nặng nề. Ngoài ra do khoa học kĩ thuật phát triển nên của
cải con ngời tạo ra ngày càng nhiều, nếu gặp cháy thì thiệt hại xảy ra thờng rất
lớn.
Nh vậy thảm họa cháy là rủi ro khôn lờng và thờng gây ra nhiều thiệt hại. Có
nhiều biện pháp để khắc phục hoặc giảm bớt những hậu quả do cháy gây ra nhng
hiệu quả đem lại chẳng đáng bao nhiêu. Chỉ có tham gia bảo hiểm cháy mới là
biện pháp khắc phục hữu hiệu và hiệu quả kinh tế nhất. Chính vì vậy nghiệp vụ
bảo hiểm cháy ra đời để đáp ứng yêu cầu cấp bách đó.
Hiệp hội Bảo hiểm cháy đầu tiên ra đời ở Đức năm 1591 có tên Feuercasse sau
đó một thời gian ngắn đã xuất hiện một vài tổ chức khác nhng không để lại dấu ấn
gì lớn.
Năm 1666, sau khi chứng kiến một đám cháy ở thủ đô London, ngời dân Anh
mới nhận thức đợc tầm quan trọng của việc thiết lập hệ thống phòng cháy chữa
cháy và bồi thờng cho những ngời bị thiệt hại.
Năm 1667, văn phòng Bảo hiểm cháy đầu tiên ở nớc Anh đợc thành lập với tên
gọi rất đơn giản là "The Fire Office".
1684 công ty Bảo hiểm cháy đầu tiên ra đời với tên gọi The Frienly Society
Fire Office. Công ty này hoạt động trên nguyên tắc tơng hỗ và hệ thống phí cố
định, ngời đợc bảo hiểm không đợc bồi thờng hoàn toàn mà phải chịu một phần
thiệt hại xảy ra.
Sau đó một loạt các công ty Bảo hiểm cháy khác tiếp tục ra đời ở Anh:

Amicable(1696), Sun(1710), Union(1714), London(1714). Phần lớn các công ty

5
này vẫn tồn tại đến nay và tiếp tục tăng trởng. Sau khi công ty bảo hiểm cháy đầu
tiên ra đời ở Anh, bảo hiểm cháy lan rộng sang Châu âu. Cụ thể là ở Đức, năm
1677 quỹ bảo hiểm cháy đầu tiên đợc thành lập.
Công ty bảo hiểm đầu tiên thành lập ở Mĩ là một công ty bảo hiểm tơng
hỗ do Beamjamen Franklia và một số thành viên khác sáng lập năm 1752 mang
tên The Philadelphia Contribution chuyên bảo hiểm cháy cho nhà cửa. Công ty
bảo hiểm cổ phần đầu tiên ở Mĩ mang tên The insurance company of North
American đợc thành lập năm 1792.
Ngày nay, nghiệp vụ bảo hiểm cháy đã đợc tiến hành ở hầu hết các nớc trên
thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của nó dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt trong việc
tìm kiếm dịch vụ trên thị trờng bảo hiểm. Hầu hết các công ty bảo hiểm phi nhân
thọ khi đặt văn phòng đại diện để mở rộng thị trờng, nghiệp vụ đầu tiên họ tiến
hành là nghiệp vụ cháy.
Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật và sự tăng trởng kinh tế, các công
trình xây dựng ngày càng tăng giá trị, đồng thời ngày càng có nhiều nghiệp vụ bảo
hiểm mới có tác dụng san sẻ bớt rủi ro của một nghiệp vụ, điều này đã làm cho phí
bảo hiểm cháy gỉảm xuống. Tuy nhiên, nghiệp vụ bảo hiểm cháy đã trở thành
nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống với doanh thu ngày càng cao.
Hàng năm tính riêng ở Nhật doanh thu phí bảo hiểm cháy trên 10 tỉ USD một
năm và chiếm 15,5% doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ.
Phí bảo hiểm cháy ở Mĩ chỉ chiếm 2% trong tổng số phí về bảo hiểm tài sản.
ở Việt Nam cha có tài liệu nào ghi rõ bảo hiểm cháy có từ bao giờ. Thời Pháp
thuộc đã có một số chi nhánh của Pháp ở Hà Nội và Sài Gòn tiến hành nghiệp vụ
này. Tuy nhiên triển khai đợc 9 năm thì chi nhánh bảo hiểm này ngừng hoạt động.
Sau đó đến thời Mĩ Thiệu thì bảo hiểm cháy ở miền Nam có phát triển hơn. Tại Sài
Gòn có 5 công ty bảo hiểm thì có ba công ty triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy.
Sau khi đất nớc thống nhất, do cơ chế bao cấp Nhà nớc bù đắp mọi thiệt hại, đảm


6
bảo về tài chính cho các doanh nghiệp không may bị rủi ro, nên bảo hiểm nói
chung và bảo hiểm cháy nói riêng không có điều kiện để phát triển.
Từ năm 1990 đã có 16 công ty bảo hiểm các địa phơng tiến hành triển khai
nghiệp vụ này với giá trị tham gia bảo hiểm lên tới 6200 tỷ đồng. Nh vậy, đây là
nghiệp vụ bảo hiểm có giá trị bảo hiểm ban đầu lớn nhất.
31/12/1991 Bộ Tài Chính ra thông t số 82/TTCN hớng dẫn thực hiện chỉ thị
332/HĐBT về bảo toàn vốn kinh doanh đối với các doanh nghiệp ghi rõ "Các
doanh nghiệp cần phải mua bảo hiểm tài sản tạo nguồn bù đắp cho những thiệt hại
ở các công ty bảo hiểm Việt Nam. Khoản chi về phí bảo hiểm đợc hạch toán vào
giá thành hoặc chi phí lu thông của doanh nghiệp. Nhà nớc sẽ không ghi giảm vốn
trong trờng hợp tài sản bị tổn thất do những rủi ro mà các công ty Bảo Hiểm trong
nớc đã triển khai những loại hình tơng tự". Sau đó Nghị định 59/CP cũng quy định
rất cụ thể về vấn đề này. Đồng thời với tính bắt buộc của các văn bản pháp luật là
sự nhận thức ngày càng cao của ngời dân về bảo hiểm cháy. Do đó đến năm 1994
bảo hiểm cháy đã đợc triển khai ở hầu hết 53 tỉnh thành phố với tổng giá trị tài sản
đợc bảo hiểm lên tới 27000 tỷ đồng. Tuy nhiên, các công ty chỉ mới bảo hiểm chủ
yếu kho xăng dầu, còn phần lớn các tài sản: nhà máy, xí nghiệp, khách sạn chợ
trị giá nhiều tỷ đồng vẫn cha đợc bảo hiểm. Rõ ràng tiềm năng khai thác nghiệp vụ
bảo hiểm cháy còn rất lớn.
Năm 1995 công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex đợc thành lập. ngay lập tức
nghiệp vụ bảo hiểm cháy đã đợc triển khai và đa vào khai thác. Đến năm 2001, thị
trờng của nghiệp vụ bảo hiểm cháy tơng đối sôi động với sự cạnh tranh của 10
công ty và tổng doanh thu phí hàng năm tăng đều đặn : 1997 tổng phí là 11,719
triệu USD, 1998 là 14,266 triệu USD, năm 1999 giảm chút ít là 13,850 triệu USD
và năm 2000 là 16,2 triệu USD.

7
II. Tác dụng của bảo hiểm cháy trong đời sống kinh tế

xã hội
1. Đặc điểm của bảo hiểm cháy
Bảo hiểm cháy là một loại hình bảo hiểm tài sản nhằm áp dụng cho các nhà
máy, xí nghiệp, khách sạn thuộc mọi thành phần kinh tế quốc dân. Giá trị bảo
hiểm cháy thờng là rất lớn, khi rủi ro xảy ra tổn thất không chỉ là một đơn vị nhỏ
mà có khi là toàn bộ gia sản. Vì vậy, việc các đơn vị này tham gia bảo hiểm cháy
là điều tất yếu và có nh vậy mới ổn định sản xuất kinh doanh và bảo toàn đồng
vốn. Hiểm họa cháy có thể hạn chế đợc nếu con ngời có ý thức và có các biện
pháp đề phòng hữu hiệu. Do đó, công tác đề phòng và hạn chế tổn thất trong
nghiệp vụ này là xơng sống.
Bảo hiểm cháy chính là sự bảo trợ cho những tổn thất trực tiếp do cháy gây
nên. Ngoài ra, trong thực tế khi xảy ra cháy có thể phát sinh tổn thất gián tiếp. Các
tổn thất gây ra cho tài sản của ngời thứ ba và thuộc trách nhiệm của ngời bảo hiểm
nh thiệt hại về kinh doanh, thiệt hại gây ra cho ngời xung quanh.
Hoạt động của nghiệp vụ này mang tính chất kĩ thuật phức tạp. Đặc điểm này
đợc thể hiện rõ hơn qua cách xác định tổn thất, phân chia các đơn vị rủi ro, cách
tính phí, mức khấu trừ, công tác đề phòng và hạn chế tổn thất, công tác giám định
bồi thờng.
2.ý nghĩa kinh tế xã hội
Ngày nay, khi khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển, trình độ dân trí ngày
càng cao nhng chúng ta không thể né tránh đợc hết mọi rủi ro. ở các nớc phát
triển, ý thức PCCC và điều kiện phòng cháy chữa cháy tơng đối tốt, tuy nhiên
không có một sự đảm bảo nào là có hệ thống PCCC hoàn hảo để chống đỡ lại
những yếu tố ngẫu nhiên gây ra do sét hay do sơ suất của con ngời trong quá trình
hoạt động. Tại các nớc chậm phát triển, công nghệ còn lạc hậu, đặc biệt là ý thức
PCCC của ngời dân còn yếu kém nên cháy thờng xảy ra nhiều hơn

8
Bảo hiểm cháy là một hình thức chuyển giao tài trợ rủi ro, trong đó ngời bảo
hiểm chấp nhận gánh vác phần tổn thất tài chính khi rủi ro xuất hiện. Thông qua

việc bồi thờng một cách hợp lí, kịp thời chính xác, trung thực đã giúp cho các tổ
chức cá nhân nhanh chóng khắc phục đợc thiệt hại. Đặc biệt khi tất cả các công ty
phải hạch toán kinh doanh độc lập trong thị trờng cạnh tranh hoàn hảo, bảo hiểm
vẫn sẽ là lá chắn kinh tế cuối cùng tạo sự ổn định sản xuất kinh đoanh. Đồng thời
bảo hiểm cũng thể hiện tính cộng đồng tơng trợ nhân văn sâu sắc.
Nhờ có bảo hiểm, những ngời tham gia bảo hiểm đóng góp một số phí xây
dựng nên quỹ tiền tệ tập trung, quỹ này sẽ bồi thờng tổn thất cho ngời đợc bảo
hiểm và một phần không nhỏ nguồn phí bảo hiểm sẽ đợc các công ty bảo hiểm
đóng góp vào ngân sách nhà nớc để chính phủ thực hiện các chính sách xã hội.
Trong thời gian nhàn rỗi, quỹ này sẽ đợc công ty bảo hiểm đầu t vào các lĩnh vực
theo quy định của pháp luật, nhằm thu đợc lợi nhuận phát triển và tăng trởng quỹ,
góp phần vào sự tăng trởng của nền kinh tế quốc dân.
Ngoài ra, khi tham gia bảo hiểm, các chủ thể của nền kinh tế không những đợc
đền bù thiệt hại khi tổn thất xảy ra mà còn không phải lập quỹ dự phòng đề phòng
tổn thất. Do đó khả năng tài chính của ngời tham gia sẽ tăng lên quy mô sản xuất
sẽ mở rộng và giá thành sản phẩm giảm dẫn đến giá cả giảm, đem lại lợi ích cho
ngời tiêu dùng .
Mặt khác, để giảm thiểu thiệt hại mà cháy có thể gây ra ngời ta thờng sử dụng
biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất. Khi tham gia bảo hiểm, nhà bảo hiểm
cùng với ngời tham gia bảo hiểm sẽ thực hiện các biện pháp để phòng ngừa tai nạn
xảy ra nh: cố vấn tuyên truyền ý thức PCCC, xây dựng cơ sở thiết bị PCCC
nhằm giảm bớt và hạn chế hậu quả thiệt hại. Việc đề phòng và hạn chế tổn thất
làm yên tâm cho chủ hợp đồng và những ngời dân sống xung quanh vùng trớc đây
thờng hay có cháy xảy ra, đảm bảo an ninh trật tự cho xã hội.
Một vấn đề quan trọng nữa là khi đã tham gia bảo hiểm hoả hoạn, các chủ hợp
đồng này dễ dàng nhận đợc sự trợ giúp về vốn của các chủ đầu t, các ngân hàng
thơng mại, của các bạn hàng

9
Vì họ biết rằng họ có thể thu hồi đợc vốn ngay cả khi khách hàng của họ bị rủi

ro, tổn thất sẽ đợc bù đắp bởi sự bồi thờng của các công ty bảo hiểm. Điều này
làm cho hệ thống lãi suất liên ngân hàng ổn định, tiền tệ lu thông bình thờng ngay
cả khi có nhiều vụ cháy lớn liên tiếp xảy ra.
Tất cả những gì nêu trên đã minh chứng cho tác dụng lớn lao về kinh tế, xã hội
của bảo hiểm cháy. Vì vậy một chính khách đã nói "Không có bảo hiểm sẽ không
có nhà t bản nào dám đầu t hàng triệu USD để xây dựng các tòa nhà lớn, bởi một
tàn thuốc lá có thể biến toà nhà ấy thành tro dễ dàng".
III. Những nội dung cơ bản của nghiệp vụ bảo hiểm
cháy
1.Một số khái niệm liên quan
Để thấy đợc các vấn đề của bảo hiểm cháy, trớc hết cần phải hiểu đợc một số
khái niệm có liên quan theo quy định chung của quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các
rủi ro đặc biệt của bộ tài chính ban hành theo quyết định 142/TCQB ngày
2/5/1991 sau đây:
Cháy là một phản ứng hoá học có toả nhiệt và phát ra ánh sáng.
Hỏa hoạn là cháy xảy ra không kiểm soát đợc ngoài ngọn lửa chuyên dùng,
gây thiệt hại cho con ngời và tài sản.
Tổn thất là toàn bộ thiệt hại về ngời và tài sản đợc gây ra bởi các rủi ro bảo
hiểm.
Tổn thất toàn bộ là tài sản đợc bảo hiểm bị phá huỷ hoặc h hại hoàn toàn
không thể phục hồi lại đợc nh trạng thái ban đầu.
Tổn thất toàn bộ ớc tính là tài sản đợc bảo hiểm bị phá huỷ hoặc h hại đến mức
nếu sửa chữa hoặc phục hồi thì chi phí đó sẽ lớn hơn hoặc bằng giá trị bảo hiểm.
2. Đối tợng bảo hiểm

10
Đối tợng bảo hiểm là tài sản thuộc quyền sở hữu và quản lí hợp pháp của các
đơn vị sản xuất kinh doanh dịch vụ, các tổ chức, các cá nhân thuộc mọi thành
phần kinh tế trong xã hội.
Nh vậy đối tợng của bảo hiểm cháy thờng bao gồm:

Công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đa vào sử dụng(trừ đất đai)
Máy móc thiết bị, phơng tiện lao động phục vụ sản xuất kinh doanh.
Vật t hàng hoá dự trữ trong kho.
Nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm.
Các loại tài sản khác khác(kho bãi, chợ, cửa hàng khách sạn ).
Có thể nói, đối tợng bảo hiểm của bảo hiểm cháy là tơng đối rộng.
3. Đơn vị rủi ro:
Đơn vị rủi ro : là nhóm tài sản tách biệt với nhóm tài sản khác với khoảng cách
không cho phép ngọn lửa từ nhóm này lan sang nhóm khác, tuy nhiên khoảng
cách gần nhất không dới 12m. Việc xác định đơn vị rủi ro một cách chính xác là
cơ sở xác định mức độ rủi ro cũng nh xác định mức phí .
Đơn vị rủi ro có thể là một nhóm ngôi nhà hoặc kho bãi ngoài trời cùng trong
một khu vực không bị tách rời nhau bởi một khoảng trống hoặc cấu trúc xây dựng
chống cháy nhng lại tách rời các ngôi nhà khác về không gian. Hai ngôi nhà đợc
coi là tách rời nhau về không gian khi khoảng trống phân cách giữa hai ngôi nhà ít
nhất bằng chiều cao của ngôi nhà cao hơn. Khoảng cách tối thiểu quy định cho :
Giữa các kho bãi ngoài trời chứa nguyên vật liệu dễ cháy là 20m.
Giữa các khối nhà trong đó có chứa hay gia công vật liệu dễ cháy với các khối
nhà khác là 15m.
Các đối tợng khác là 12m.

11
Tờng ngăn cách đơn vị rủi ro : Là cấu trúc xây dựng để phân chia ngôi nhà
thành từng đơn vị rủi ro. Do ý nghĩa về mặt kĩ thuật chống cháy và yêu cầu bảo
hiểm đặt ra đối với loại tờng này cao hơn tờng chống cháy. Các tờng ngăn cách
này phải là loại tờng cấp F180A và chịu đợc 400N và trên 1000 độ
4. Phạm vi bảo hiểm
Phạm vi bảo hiểm là giới hạn các rủi ro đợc bảo hiểm và giới hạn trách nhiệm
của công ty bảo hiểm
Rủi ro là những sự cố không chắc chắn xảy ra nhng gây h hỏng thiệt hại cho

tài sản và ảnh hởng đến sức khoẻ con ngời.
Trong bảo hiểm cháy không phải tất cả mọi rủi ro đều đợc bảo hiểm. Chúng ta
sẽ tìm hiểu rủi ro đợc bảo hiểm và rủi ro không đợc bảo hiểm.
4.1. Những rủi ro đợc bảo hiểm
Rủi ro cơ bản:
Rủi ro cơ bản là những rủi ro nh : cháy, sét, nổ.
Cháy đợc quy định là cháy có gây ra tổn thất, có ngọn lửa, có sự tự phá huỷ
nhng loại trừ nguyên nhân gây ra cháy là động đất, núi lửa phun hoặc các biến
động khác của thiên nhiên và những thiệt hại gây ra do tự phát nhiệt của bản thân
tài sản, hoặc trờng hợp tài sản phải trải qua bất kì quá trình nào liên quan tới việc
sử dụng nhiệt. Ngoài ra bất kì thiệt hại nào gây nên bởi hoặc do hậu quả của việc
đốt rừng, bụi cây, đồng cỏ hoặc đốt cháy với mục đích làm sạch đồng ruộng, đất
đai dù là ngẫu nhiên cũng không đợc bồi thờng.
Sét: rủi ro do sét gây nên không nhất thiết gây ra cháy cũng sẽ đợc bảo hiểm.
Tuy nhiên, chỉ có những thiệt hại trực tiếp do tia sét gây ra hoặc làm biến dạng
hoặc gây cháy cho tài sản đó mới đợc bồi thờng.
Nổ: nổ là hiện tợng cháy cực nhanh, tạo ra hoặc giải phóng một áp lực cực lớn
kèm theo một tiếng động mạnh phát sinh bởi sự giãn nở nhanh và mạnh của các

12
chất lỏng và khí. Các trờng hợp nổ gây cháy đã nghiễm nhiên đợc bảo hiểm. Nh
vậy, ở đây ta chỉ xét những thiệt hại do nổ mà không gây cháy. Mọi đơn bảo hiểm
cháy đều bảo hiểm rủi ro nổ trong một phạm vi có giới hạn. Nghiệp vụ bảo hiểm
này chỉ hạn chế ở những vụ nổ do ga hay nồi hơi phục vụ cho sinh hoạt gây ra.
Tuy nhiên, với điều kiện là sự cố đó không phải do các nguyên nhân bị loại trừ nh-
: thiệt hại gây nên do khủng bố, do áp lực và các chất chứa trong các máy móc,
thiết bị. Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ xuất phát từ cháy : thiệt hại ban đầu do cháy
đợc bồi thờng nhng những thiệt hại do hậu quả của nổ thì không.
Ngoài ra, còn có các thiệt hại vật chất không phải do cháy trực tiếp gây ra:
Thiệt hại do khói mà nguồn lửa gây ra thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm.

Tuy nhiên ngọn lửa đã tắt thì thiệt hại do khói không đợc bồi thờng.
Thiệt hại tài sản đợc bảo hiểm do phơng tiện hoặc biện pháp cứu chữa gây ra
do đổ tờng hoặc rào chắn do lính cứu hoả và các phơng tiện của họ gây ra trong
quá trình cứu chữa.
Thiệt hại tại sản do mất cắp trong khi cháy mà ngời bảo hiểm không chứng
minh đợc là mất cắp.
Những rủi ro này đợc gọi là rủi ro mở rộng hợp pháp không tính phí.
Rủi ro phụ :
Bên cạnh rủi ro chính còn có một số rủi ro đặc biệt, độc lập không nằm trong
rủi ro cháy nhng có thể lựa chọn để bảo hiểm cùng với đối tợng bảo hiểm. Chỉ có
bảo hiểm cho những rủi ro cơ bản mới có thể bảo hiểm cho những rủi ro phụ. Đó
là các rủi ro sau:
Máy bay hoặc các phơng tiện hàng không khác hoặc các thiết bị trên phơng
tiện đó rơi vào.
Động đất, núi lửa phun bao gồm cả lũ lụt và nớc biển tràn do hậu quả của động
đất hoặc núi lửa phun.

13
Giông bão, lũ lụt, ma đá.
Vỡ hay tràn nớc từ các bể chứa nớc, thiết bị chứa nớc hay đờng dẫn nớc nhng
loại trừ tài sản bị phá huỷ hay h hại do nớc chảy rò rỉ từ thiết bị phòng cháy tự
động.
Gây rối, đình công, bãi công, sa thải.
4.2.Rủi ro không đợc bảo hiểm
Trong bảo hiểm bất kì nghiệp vụ nào cũng có điểm loại trừ, mặc dù ngời bảo
hiểm luôn cố gắng để sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng trong việc
mở rộng phạm vi bảo hiểm. Tuy nhiên, có một số điểm loại trừ có thể đợc thơng l-
ợng để bảo hiểm với một tỉ lệ phí biến đổi tuỳ theo mức độ rủi ro, nhng có những
điểm loại trừ không thể thơng lợng và đợc áp dụng cho mọi rủi ro:
Các thiệt hại do nổi loạn bạo động dân sự, quần chúng nổi dậy bãi công, sa

thải công nhân, chiến tranh xâm lợc, các hoạt động thù địch của nớc ngoài, chiến
sự nổi loạn, nội chiến, khởi nghĩa, cách mạng binh biến, bạo động khủng bố
Bất kì tổn thất nào trực tiếp hay gián tiếp mà nguyên nhân gây ra có liên quan
đến phóng xạ ion hoá hay nhiễm phóng xạ từ nguyên liệu hạt nhân hoặc từ các
chất thải của nó, các thuộc tính phóng xạ, độc, nổ hoặc các thuộc tính nguy hiểm
khác của thiết bị nổ hạt nhân hay bộ phận của thiết bị đó.
Những tổn thất về: hàng hoá nhận uỷ thác hay kí gửi trừ khi những hàng hoá
này đợc xác nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm và nộp thêm phí theo tỉ lệ quy
định. Hàng nhận uỷ thác ở đây chỉ có nghĩa là hàng gửi thông thờng chứ không
bao gồm hàng uỷ thác xuất khẩu.
Những thiệt hại xảy ra đối với bất kì máy móc, khí cụ điện nào hay bất kì bộ
phận nào của thiết bị điện chạy quá tải, quá áp lực, đoản mạch, tự đốt nóng, rò
điện do bất cứ nguyên nhân nào.
Tuy nhiên, điểm loại trừ này chỉ áp dụng đối với chính máy móc, khí cụ điện
hoặc những bộ phận của khí cụ điện chịu tác động trực tiếp của hiện tợng nêu trên

14
chứ không áp dụng đối với những máy móc khí cụ và các thiết bị điện nói trên h
hỏng do nguyên nhân khác.
Những thiệt hại gây ra do sự ô nhiễm, nhiễm bẩn loại trừ những thiệt hại đối
với tài sản đợc bảo hiểm xảy ra do:
Ô nhiễm môi trờng, bẩn phát sinh từ những rủi ro đợc bảo hiểm.
Bất kì rủi ro đợc bảo hiểm nào mà chính những rủi ro ấy lại phát sinh từ ô
nhiễm hay nhiễm bẩn.
Những thiệt hại về tiền bạc hay kim loại quý, đá quý, chứng khoán, th bảo
lãnh, tem phiếu, tài liệu, bản thảo, sổ sách kinh doanh, tài liệu lu trữ trong máy
tính điện tử, bản mẫu văn bằng, mẫu bản vẽ, tài liệu thiết kế trừ khi là những tài
sản trên đợc xác định bảo hiểm theo đơn bảo hiểm cháy.
Thiệt hại, xảy ra đối với những tài sản mà vào thời điểm xảy ra tổn thất, đợc
bảo hiểm hay lẽ ra đợc bảo hiểm theo đơn bảo hiểm hàng hải, trừ phần thiệt hại v-

ợt quá số tiền lẽ ra có thể đợc bồi thờng theo đơn bảo hiểm hàng hải nếu nh đơn
này cha có hiệu lực.
Những thiệt hại cho bên thứ ba nh đối tợng bảo hiểm bị cháy, trong quá trình
cháy lan sang tài sản khác không phải là của ngời đợc bảo hiểm.
Những thiệt hại mang tính chất hậu quả dới bất kì hình thức nào trừ thiệt hại về
tiền thuê nhà đợc xác nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm.
Những thiệt hại trong phạm vi mức miễn thờng và mức miễn thờng này sẽ đợc
đề cập chi tiết hơn ở phần tính phí bảo hiểm.
5.Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm.
5.1. Giá trị bảo hiểm

15
Cơ sở để xác định số tiền bảo hiểm hay trách nhiệm cúa nhà bảo hiểm là giá trị
bảo hiểm, đó là giá trị bảo hiểm của tài sản đợc bảo hiểm. Giá trị này có thể là giá
trị thực tế, giá trị mua mới.
Giá trị mua mới của tài sản đợc xác định tại thời điểm khi tài sản đó bắt đầu đa
vào sử dụng, hoạt động. Giá trị mua mới bao gồm : nguyên giá + chi phí vận
chuyển + chi phí lắp đặt chạy thử.
Giá trị thực tế của tài sản bảo hiểm là giá trị đợc xác định, đánh giá tại thời
điểm mua bảo hiểm.
Trong bảo hiểm cháy, giá trị của tài sản đợc bảo hiểm thờng có giá trị rất lớn
nh: nhà cửa, các công trình máy móc thiết bị, phơng tiện vận tải, hàng hoá vật t
trong kho ta có thể xác định giá trị bảo hiểm nh sau:
Giá trị bảo hiểm của các ngôi nhà(nhà xởng, nhà ở ) đ ợc xác định theo giá trị
xây mới hay giá trị trên thị trờng hoặc giá trị còn lại.
Giá trị mới là giá trị mới xây của ngôi nhà bao gồm cả chi phí khảo sát, thiết
kế.
Giá trị còn lại là giá trị mới (nguyên giá) trừ đi hao mòn do sử dụng theo thời
gian. Trong bảo hiểm thờng bảo hiểm theo giá trị còn lại.
Giá trị đơn giản là giá bán có thể thu hồi đợc trong trờng hợp ngôi nhà không

sử dụng đợc nữa.
Giá trị bảo hiểm cuả máy móc thiết bị và các loại tài sản cố định khác đợc xác
định trên cơ sở giá mua mới (bao gồm giá mua, chi phí vận chuyển, lắp đặt, thuế
GTGT) hoặc giá trị còn lại (giá trị mua mới đã trừ đi khấu hao và thờng nhỏ hơn
70% giá trị mua mới). Với những tài sản cố định đã cũ mà giá trị còn lại dới 70%
thì thờng lấy theo giá trị còn lại.
Giá trị của thành phẩm và bán thành phẩm đợc xác định trên cơ sở giá thành
sản xuất bao gồm cả chi phí nguyên vật liệu, tiền công lao động và khấu hao tài

16
sản cố định, chi phí quản lí Trong tr ờng hợp giá thành sản xuất cao hơn giá bán
có thể bán đợc thì ta lấy giá trị bảo hiểm là giá bán.
Giá trị của hàng hoá mua để trong kho, trong cửa hàng đợc xác định theo giá
mua (xác định theo hoá đơn chứng từ) cộng chi phí vận chuyển.
Tuy nhiên, giá trị bảo hiểm còn biến động tuỳ thuộc vào trờng hợp cụ thể do
đó nhà bảo hiểm có những biện pháp linh hoạt để xác định giá trị bảo hiểm, ví dụ
nh bức tranh cổ, kỉ vật của những ngời nổi tiếng những tài sản mà giá trị th ờng
biến động theo thời gian hoặc sự ngỡng mộ của dân chúng.
5.2 Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm là giới hạn bồi thờng tối đa của nhà bảo hiểm.
Trong trờng hợp tài sản đợc bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ. Số tiền bảo hiểm là
căn cứ xác định phí bảo hiểm. Vì thế xác định chính xác số tiền bảo hiểm có ý
nghĩa rất quan trọng. Cơ sở xác định số tiền bảo hiểm là giá trị bảo hiểm .
Trong nền kinh tế thị trờng, quy mô sản xuất kimh doanh có xu hớng ngày
càng phát triển do đó số lợng giá trị tài sản cũng tăng lên. Mặt khác, tài sản của
mỗi nhóm thờng xuyên biến động hoặc có những tài sản khó xác định giá trị.
Thông thờng số tiền bảo hiểm do công ty bảo hiểm và ngời tham gia bảo hiểm
thoả thuận tức là số tiền bảo hiểm do ngời bảo hiểm yêu cầu và ngời đợc bảo hiểm
chấp nhận. Số tiền bảo hiểm có thể thấp hơn hoặc cao hơn giá trị bảo hiểm (trớc
đây thông thờng số tiền bảo hiểm thấp hơn hoặc bằng giá trị bảo hiểm).

Ngời đợc bảo hiểm có thể tham gia bảo hiểm tài sản của mình với số tiền bảo
hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm nhng không vợt quá 10% giá trị bảo hiểm. Trong
các trờng hợp khác thì có sự thoả thuận trong hợp đồng và phải ghi rõ số tiền bảo
hiểm bằng bao nhiêu % giá trị bảo hiểm của tài sản, khi tổn thất bộ phận xảy ra thì
áp dụng nguyên tắc bồi thờng theo tỉ lệ.
Theo quy định của nhà nớc ta hiện nay mà cụ thể là Bộ Tài Chính, trong mọi
trờng hợp số tiền bồi thờng không vợt quá số tiền bảo hiểm. Sau mỗi lần bồi thờng

17
số tiền bảo hiểm sẽ giảm đi một lợng đúng bằng số tiền bồi thờng đã trả. Muốn
giữ nguyên số tiền bảo hiểm nh ban đầu thì ngời đợc bảo hiểm phải nộp phí bổ
sung tơng ứng số tiền bảo hiểm đã bị trừ sau mỗi lần bồi thờng và tỉ lệ với khoảng
thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Trong trờng hợp ngời đợc bảo hiểm
không muốn giữ nguyên số tiền bảo hiểm, ở những tổn thất sau số tiền bồi thờng
tối đa sẽ không vợt quá số tiền bảo hiểm còn lại sau khi đã trừ đi tất cả khoản tiền
bồi thờng đã trả cho đến thời điểm đó.
Trong bảo hiểm cháy cần phải lu ý rằng khi nhận bảo hiểm không chấp nhận
bảo hiểm theo kiểu chọn điểm, tức là nhà bảo hiểm không nhận bảo hiểm khi ngời
đợc bảo hiểm chỉ tham gia cho những bộ phận tài sản, những công đoạn sản xuất
có nhiều rủi ro nhất bởi vì điều này sẽ rất nguy hiểm cho nhà bảo hiểm. Thờng ng-
ời ta bảo hiểm toàn bộ tài sản hoặc cũng có thể bảo hiểm theo tỉ lệ % giá trị tài
sản.
Giá trị tài sản tham gia bảo hiểm không chỉ là những tài sản có giá trị ít thay
đổi nh nhà cửa, máy móc thiết bị, mà còn có tài sản thờng xuyên tăng giảm về số
lợng nh hàng hoá trong kho, trong cửa hàng do đó giá trị bảo hiểm cũng thờng
xuyên thay đổi. Nh vậy việc xác định số tiền bảo hiểm trong trờng hợp này là rất
phức tạp. Bên cạnh đó, ta cũng thấy rằng các tài sản tham gia bảo hiểm thờng có
giá trị rất lớn đặc biệt có những tài sản rất khó xác định giá trị nh các công trình
kiến trúc, viện bảo tàng, hay những tài sản vô giá
Vì những yếu tố phức tạp đó mà khi xác định số tiền bảo hiểm các công ty bảo

hiểm trên thế giới sử dụng hai chỉ tiêu:
Bảo hiểm giá trị trung bình: thực tế để cho đơn giản, cuối năm không phải điều
chỉnh lại số tiền bảo hiểm cũng nh phí bảo hiểm, đồng thời tiện cho công tác TBH
thì ngời ta thờng bảo hiểm theo giá trị trung bình. Điều này có nghĩa là ngời tham
gia bảo hiểm ứơc tính và thông báo cho công ty bảo hiểm biết giá trị trung bình
của hàng hoá trong kho, trong cửa hàng của mình. Trong thời hạn bảo hiểm giá trị
trung bình này đợc coi nh số tiền bảo hiểm.

18
Khi tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm, ngời bảo hiểm bồi thờng thiệt hại
thực tế nhng không vợt quá giá trị trung bình đã khai báo. Phí bảo hiểm trong tr-
ờng hợp này tính trên cơ sở giá trị trung bình.
Bảo hiểm theo giá trị tối đa: trờng hợp này ngời đợc bảo hiểm ớc tính và thông
báo cho ngời bảo hiểm biết giá trị của số hàng hoá tối đa có thể đạt đợc vào một
thời diểm nào đó trong thời gian bảo hiểm. Nh vậy trong trờng hợp này ngời tham
gia bảo hiểm và ngời bảo hiểm phải hiểu đợc giá trị tối đa coi nh là số tiền bảo
hiểm từ đó suy ra số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm khi xảy ra tổn thất.
Điều đó chứng minh"vì sao số tiền bảo hiểm cũng có thể lớn hơn giá trị bảo hiểm
. Phí bảo hiểm đợc tính theo giá trị tối đa này và ngời tham gia bảo hiểm có trách
nhiệm nộp trớc 75%phí. Khi xảy ra tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm, ngời bảo
hiểm bồi thờng thiệt hại thực tế nhng không vợt quá giá trị tối đa đã khai báo. Đầu
mỗi tháng, mỗi quý (tuỳ theo sự thoả thuận của hai bên), ngời đợc bảo hiểm thông
báo số hàng tối đa thực có trong tháng trong quý trớc đó. Công tác này nhằm tránh
tình trạng khách hàng cố tình hạ thấp số tiền bảo hiểm vào cuối năm và do đó
giảm bớt số tiền phí bảo hiểm phải trả hàng tháng, hàng quý.
Cuối thời hạn bảo hiểm, trên cơ sở giá trị thông báo, ngời bảo hiểm sẽ tính lại
giá trị số hàng tối đa bình quân của cả thời kì bảo hiểm và tính lại phí dựa vào giá
trị tối đa bình quân này. Nếu số phí bảo hiểm tính đợc dựa trên cơ sở giá trị tối đa
bình quân nhiều hơn số phí bảo hiểm đã nộp(2/3)thì ngời đợc bảo hiểm có trách
nhiệm nộp thêm số phí bảo hiểm còn thiếu cho công ty bảo hiểm. Ngợc lại, trờng

hợp số phí bảo hiểm đã nộp nhiều hơn số phí bảo hiểm tính đợc trên cơ sở giá trị
tối đa bình quân, công ty bảo hiểm có trách nhiệm hoàn trả phần giá trị chênh lệch
cho ngời đợc bảo hiểm. Tuy nhiên, số phí bảo hiểm nộp chính thức không đợc
thấp hơn 2/3 số phí bảo hiểm đã nộp đầu năm bảo hiểm.
Khi bảo hiểm theo giá trị tối đa ngoài việc yêu cầu khách hàng khai báo hàng
tháng (hàng quý) và đầu tháng (đầu quý), cán bộ bảo hiểm cần kiểm tra chặt chẽ,
nếu khách hàng tỏ ra trung thực thì công ty có thể giảm dần việc kiểm tra và nếu
ngợc lại chuyển sang bảo hiểm theo giá trị trung bình. Công ty bảo hiểm có quyền

19
yêu cầu ngời đợc bảo hiểm xuất trình sổ sách kế toán để kiểm tra số liệu đợc
thông báo .
Một điểm cần chú ý trong trờng hợp này là trong thời hạn bảo hiểm đã có tổn
thất đợc công ty bảo hỉểm bồi thờng và số tiền bồi thờng vợt qúa giá trị tối đa bình
quân tính đợc thì phí bảo hiểm đợc tính trên cơ sở số tiền bồi thờng đã trả (trong
trờng hợp này số tiền đợc bồi thờng coi nh số tiền bảo hiểm).
Cả hai phơng pháp trên đều đợc thoả thuận để chọn lựa trớc khi kí kết hợp
đồng. Tuy nhiên, lựa chọn theo phơng pháp nào đều liên quan chặt chẽ đến phí
bảo hiểm và ngời bảo hiểm phải chấp nhận tính phí bảo hiểm theo từng phơng
pháp. Thông thờng các công ty bảo hiểm theo phơng pháp giá trị trung bình do
cách tính này đơn giản, dễ hiểu dễ theo dõi, thuận lợi cho việc tính phí và thu phí.
Ngợc lại, bảo hiểm theo giá trị tối đa rất phức tạp trong việc điều chỉnh và thu, trả
lại phí ở đầu,cuối tháng (quý). Phơng pháp này thờng xuyên phải theo dõi giá trị
hàng hoá trong kho suốt thời hạn bảo hiểm. Do vậy, ngời bảo hiểm thờng khuyến
khích khách hàng tham gia bảo hiểm tài sản theo giá trị trung bình, điều này tạo
thuận lợi cho cả ngời bảo hiểm và ngời tham gia bảo hiểm.
Cuối thời hạn bảo hiểm trên cơ sở số tiền bảo hiểm đã đăng kí các công ty bảo
hiểm căn cứ vào đó xác định và tính toán số tiền bồi thờng nếu có. Nếu ngời tham
gia bảo hiểm cha nộp phí bảo hiểm, số tiền bồi thờng đợc xác định căn cứ vào tỉ lệ
phí đã nộp.

6. Phí bảo hiểm và các nhân tố ảnh hởng.
6.1 Phí bảo hiểm và cách xác định
Phí bảo hiểm là khoản tiền mà ngời tham gia bảo hiểm nộp cho công ty bảo
hiểm khi họ chuyển rủi ro cho công ty bảo hiểm. Nh vậy, phí bảo hiểm chính là
giá cả của dịch vụ bảo hiểm. Tính toán mức phí vừa phải với khách hàng và đảm
bảo mục tiêu kinh doanh là vấn đề phức tạp đòi hỏi sự năng động, sáng tạo của các
công ty bảo hiểm nhất là trong kinh tế thị trờng cạnh tranh gay gắt nh hiện nay.

20
Đối với bảo hiểm cháy phí bảo hiểm đợc quy định riêng cho từng rủi ro và nếu
ngời đợc bảo hiểm muốn đợc bảo hiểm thêm những rủi ro phụ thì phải nộp thêm
phí bảo hiểm theo tỉ lệ quy định. Thời hạn nộp phí bảo hiểm do ngời tham gia thoả
thuận với công ty bảo hiểm. Nhng thông thờng, ngời tham gia bảo hiểm nộp phí
một lần sau khi kí hợp đồng thì hợp đồng có hiệu lực. Trờng hợp số phí bảo hiểm
quá lớn, để giảm bớt khó khăn cho ngời đợc bảo hiểm thì hai bên có thể thoả
thuận với nhau là nộp phí thành nhiều lần nhng không đợc quá bốn kì và phí kì
nào chỉ có hiệu lực cho kì ấy.
Trong bảo hiểm cháy, khi đối tợng bảo hiểm là tài sản có giá trị quá lớn và th-
ờng đa dạng về chủng loại, về mức độ rủi ro thì phí bảo hiểm cháy phải bao gồm
hai phần sau:
Phần thực phí
Phần phụ phí
Phần thực phí (phí thuần) là cơ sở hình thành nên quỹ bồi thờng để chi trả cho
ngời tham gia bảo hiểm khi đối tợng bảo hiểm bị tổn thất do các rủi ro đợc bảo
hiểm gây ra. Phí thuần là bộ phận quan trọng nhất của phí bảo hiểm thể hiện mối
quan hệ trực tiếp giữa ngời bảo hiểm và ngời tham gia bảo hiểm.

21
Mức phí thuần đợc tính dựa vào xác xuất rủi ro, xác xuất này đợc xác định:
X = t/T

Trong đó :
X: xác xuất rủi ro
T: tổng số đơn vị rủi ro
t: số vụ tai nạn
Mức phí thuần đợc tính theo công thức:
f = X x Sbt
Trong đó :
f : phí thuần
Sbt: số tiền bồi thờng bình quân mỗi vụ tổn thất
Phụ phí bảo hiểm cháy bao gồm nhiều khoản : chi phí đề phòng và hạn chế tổn
thất, chi phí quản lí, chi hoa hồng, dự phòng phí, thuế và các khoản chi khác.
d = K x f
Trong đó : d: phụ phí
K: tỉ lệ phụ phí
Vì vậy để thực hiện cạnh tranh các công ty bảo hiểm chỉ có thể điều chỉnh các
bộ phận trong phụ phí.
Phí bảo hiểm hoả hoạn(F) đợc xác định theo công thức:
F = f + d
Phơng pháp tính phí bảo hiểm cháy:

22
Phí bảo hiểm cháy đợc xác định trên cơ sở số liệu thống kê của một khoảng
thời gian trớc, thờng là từ 3 đến 5 năm.
Mức phí đợc xác định trên cơ sở tỉ lệ phí và số tiền bảo hiểm. Cụ thể là :
Phí bảo hiểm = STBH x tỉ lệ bảo hiểm.
Có hai phơng pháp xác định tỉ lệ phí :theo phân loại và theo danh mục :
Xác định tỉ lệ phí theo phân loại:
Đây là cách kết hợp các đơn vị rủi ro có thể so sánh với nhau thành cùng một
loại, sau đó tính tỉ lệ mỗi loại phản ánh số tổn thất và các chi phí khác của loại đó.
Phơng pháp này phù hợp với những tài sản tơng đối đồng nhất với nhau nh nhà ở

của dân c
Nhng cách xác định tỉ lệ theo phân loại cần xét các yếu tố ảnh hởng đến tỉ lệ
phí:
+ Vật liệu xây dựng bằng gì.
+ Khả năng phòng cháy chữa cháy.
+ Ngời sử dụng.
+ Những vật bố trí xung quanh, bên ngoài (những công trình đặc biệt dễ cháy
để gần lửa lan nhanh tới tài sản đợc bảo hiểm).
Xác định tỉ lệ phí theo danh mục:
Bớc1: Rà xét lại các danh mục tài sản tham gia bảo hiểm rồi phân loại tài sản
theo danh mục khác nhau(vì mỗi loại tài sản có khả năng cháy nổ khác nhau).
Bớc 2: Căn cứ vào ngành nghề sản xuất kinh doanh để chọn một tỉ lệ phí thích
hợp trong bảng tỉ lệ phí có sẵn.
Bớc 3 : Điều chỉnh tỉ lệ phí đã chọn theo yếu tố tăng(giảm).

23
Việc điều chỉnh này phải căn cứ vào : vật liệu xây dựng
Tất cả những yếu tố này đều có thể làm tăng hoặc giảm tỉ lệ phí.
Các công ty bảo hiểm thờng quy định nh sau :
+ Loại D :Giảm tối đa 10%phí bảo hiểm trong biểu phí.
Các công trình loại D phải đạt đợc những yêu cầu sau:
Bộ phận chịu lửa : gồm cột chịu lực, xà, dầm, tờng chịu lực làm bằng vật liệu
không cháy, mái nhà có khả năng chịu lửa ít nhất là 30 phút.
Bộ phận không chịu lực : gồm tờng ngăn cách bên trong và bên ngoài, trần
không chịu lực đ ợc xây bằng vật liệu không cháy (gạch ngói bê tông cốt thép).
+Loại N :giữ nguyên tỉ lệ phí.
Các công trình này không đạt các tiêu chuẩn nh loại D, nhng ít nhất thì các bộ
phận chịu lực và các cấu kiện khác cũng phải làm bằng vật liệu khó cháy.
+Loại L: tăng tối đa 10% tỉ lệ phí trong biểu phí.
Là loại công trình không đạt đợc các yêu cầu loại D và N.

Trong bảng tỉ lệ phí ngời ta quy định mức từ 0 đến 9 cho tỉ lệ phí cơ bản thao
các loại hình sản xuất, kinh doanh khác nhau ứng với loại N. Nếu trong đơn vị rủi
ro bao gồm nhiều đối tợng bảo hiểm có các tỉ lệ phí khác nhau thì chọn và áp dụng
tỉ lệ phí cao nhất(ứng với đối tợng nguy hiểm nhất ) cho toàn bộ đơn vị rủi ro.
Căn cứ vào những chỉ tiêu trên ngời đi đàm phán kí kết hợp đồng có cơ sở để
quyết định kí hay không kí hợp đồng bảo hiểm cháy, điều này làm cho ngời kí kết
hợp đồng tự chủ đợc trong việc tăng phí hay giảm phí không quá 10%.
6.2. Các yếu tố làm tăng phí bảo hiểm
Khi có các yếu tố sau thì công ty bảo hiểm buộc phải tăng phí bảo hiểm:

24
Tăng tối đa 15% phí đối với các công trình có thiết bị phụ trợ có thể làm tăng
thêm khả năng xảy ra tổn thất, ví dụ :dây truyền sơn trong một phân xởng sản
xuất, thiết bị sấy khô, chiết xuất, chế biến gỗ, gia công vật liệu nhân tạo. Chú ý
phụ phí này sẽ không đợc tính thêm, nếu các thiết bị phụ trợ này đợc lắp trong
phòng ngăn cách với bên ngoài bằng tờng chống cháy và chiếm không qúa 10%
diện tích của cả đơn vị rủi ro.
Tăng tối đa 10% phí đối với các công trình có các điều kiện đặc biệt không
thuận lợi với rủi ro đợc bảo hiểm nh:
Có các nguồn lửa không đợc tách biệt hoàn toàn, có không khí bị đốt nóng bởi
dầu hay khí đốt ở nơi làm việc.
Có hệ thống sởi ấm bằng tia hồng ngoại, dầu
Tuy nhiên sẽ không tính thêm phụ phí nếu không có các vật dễ cháy đợc sản
xuất hay cất giữ gần đó.
Thiếu thiết bị chữa cháy thích hợp, thiếu các biển báo phòng cháy.
Có dây truyền sản xuất tự động nhng không đợc trang bị các thiết bị báo cháy
đạt tiêu chuẩn.
Tăng tối đa 5% đối với các công trình có trung tâm máy tính nhng không đợc
ngăn cách bằng hệ thống tờng chống cháy, không có hệ thống PCCC riêng biệt.
Có khả năng xảy ra phá hoại.

Tất cả những yếu tố làm tăng rủi ro đòi hỏi ngời đánh giá rủi ro phải xem xét
kĩ lỡng và phải đánh giá trung thực tránh đánh giá sai lệch sẽ gây bất lợi cho công
ty bảo hiểm .
6.3. Các yếu tố làm giảm phí bảo hiểm
Trong nghiệp vụ bảo hiểm cháy, các công ty bảo hiểm cần quan tâm đến các
yếu tố làm giảm mức độ rủi ro vì các yếu tố này là cơ sở để giảm mức phí cơ bản.

25

×