Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Thực trạng quản lý thuế XNK tại Tổng Cục Hải Quan trong những năm qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.36 KB, 51 trang )

Lời nói đầu
Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
đã và đang là một nguồn thu quan trọng, tập trung của ngân sách nhà nước, là
phương tiện vật chất để nhà nước hoạt động và thực hiện chức năng quản lý
của mình. Trong những năm qua chính sách và cơ chế quản lý thu thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu đó cú những thay đổi lớn và đạt được những kết quả
quan trọng cả về yêu cầu thu ngân sách và quản lý điều tiết vĩ mô trong quan
hệ kinh tế đối ngoại, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội, tạo ra những
tiền đề cần thiết để chuyển nền kinh tế sang một thời kỳ phát triển mới, thời
kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá và hội nhập. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu
hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở
nước ta nói chung, quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong ngành
Hải quan nói riêng bộc lộ nhiều bất cập như: hệ thống chính sách và cơ chế
quản lý chưa đồng bộ và chưa theo kịp với sự phát triển của hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu hàng hóa ngày càng gia tăng; nạn buôn lậu và gian lận
thương mại để trốn thuế còn tồn tại phổ biến, tình trạng chiếm dụng tiền thuế
gây nợ đọng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu lớn và kéo dài chưa được xử lý
triệt để; hoạt động kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành chính sách thuế hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu chưa được chú trọng đúng mức gây thất thu lớn cho
ngân sách nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng của quản lý thu thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu trước đòi hỏi bức xúc của thực tế do vậy qua đề tài
này em có cơ hội để tìm hiểu một cách sâu sắc hơn về vấn đề này.Em rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo cho bài viết của em.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
Nội dung
Chương I: Lý luận chung về nâng cao hiệu quả quản lý thuế XNK của
Tổng Cục Hải Quan

1.1 Nội dung cụ thể của quản lý thu thuế XNK của ngành Hải Quan
Theo qui định của pháp luật, ngành Hải quan chịu trách nhiệm thu các


loại thuế và phí đối với các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, dịch vụ xuất
khẩu, nhập khẩu hàng hoá, bao gồm (Luật Hải quan và các văn bản hướng
dẫn):
-Thu thuế nhập khẩu hàng chính ngạch.
-Thu thuế nhập khẩu hàng tiểu ngạch.
-Thu thuế tiêu thụ đặc biệt (đối với hàng hoá nhập khẩu là đối tượng
chịu thuế tiêu thụ đặc biệt).
-Thu thuế giá trị gia tăng (đối với hàng hoá nhập khẩu).
-Thu thuế thu nhập cá nhân (đối với đối tượng nhận quà biếu nhập khẩu
có trị giá theo qui định phải nộp thuế thu nhập).
-Thu thuế để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt
đối xử trong nhập khẩu hàng hoá.
-Thu lệ phí hải quan.
-Thu phạt chậm nộp thuế theo qui định của luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu.
-Thu xử phạt vi phạm hành chính về hải quan.
1.2 Vai trò cơ bản của quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Vai trò bao trùm của quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là phát
huy một cách tốt nhất, có hiệu quả nhất các công cụ thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu. Tuỳ theo điều kiện về trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước trong
từng giai đoạn mà nhấn mạnh, quan tâm đến từng mục tiêu cụ thể ở những
mức độ khác nhau, nhưng dù ở các nước phát triển hay các nước đang phát
2
triển thì công tác quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng nhằm đạt được
các mục tiêu cụ thể sau:
- Đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước từ thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu.
- Bảo hộ hợp lý và có hiệu quả nền sản xuất trong nước và phù hợp với
thông lệ quốc tế.
- Kiểm soát chặt chẽ và điều tiết linh hoạt đối với hoạt động xuất khẩu,

nhập khẩu hàng hoá.
- Khẳng định chủ quyền và bảo vệ an ninh quốc gia, chống phân biệt
đối xử trong thương mại quốc tế.
1.3 Các nhân tố tác động tới quản lý thu thuế xuất khẩu,thuế nhập khẩu
Từ tất cả các nội dung cơ bản trên đây cho thấy quản lý thu thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu chịu tác động của nhiều yếu tố, cả tự nhiên, kinh tế xã
hội, cả chủ quan lẫn khách quan, cả cơ chế chính sách Nhà Nước lẫn đội ngũ
công chức cán bộ thực thi chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Trên
thực tế, có thể khái quát lại gồm cỏc nhúm yếu tố sau:
- Yếu tố thuộc điều kiện tự nhiên: Quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu ở cửa khẩu đồng bằng hoàn toàn khác với các tỉnh miền núi giỏp
biờn.
- Yếu tố kinh tế - xã hội: kinh tế kém phát triển, trong điều kiện giao
lưu kinh tế và mở cửa, hoạt động kinh tế ngầm và mưu sinh sẽ quyết liệt hơn,
do đó quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu càng gặp rất nhiều khó
khăn.
- Trình độ dân trí cao thấp khác nhau có tác động tới quản lý thu thuế
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu khác nhau. Ý thức dân trí cao, tự giác trong
hoạt động thương mại thì chấp hành chế độ, chính sách Nhà Nước tốt hơn,
quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có kết quả và hiệu quả cao hơn,
ngược lại, thất thu thuế các dạng là khó tránh khỏi.
3
- Cơ chế chính sách và quy trình quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu của Nhà Nước. Một hệ thống chính sách thuế tương đối ổn định, hoàn
chỉnh sát thực tế sẽ góp phần quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hữu
hiệu, vừa kích thích sản xuất, giao lưu kinh tế, vừa tăng thu và ổn định thu
cho ngân sách nhà nước. Ngược lại, sẽ cản trở sản xuất kinh doanh xuất khẩu,
nhập khẩu hàng hoá hoặc gây tình trạng trốn lậu thuế, gian lận thương mại.
- Năng lực cán bộ quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: Thu
thuÕ có hiệu lực và hiệu quả cao hay không còn dựa vào năng lực, trình độ,

phẩm chất đội ngũ cán bộ thực thi nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ này hoặc sẽ làm
tăng hiệu lực quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, sẽ hoàn thiện hệ
thống chính sách quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nếu họ có trình
độ, năng lực và phẩm chất đạo đức trong sáng hoặc sẽ làm trầm trọng thêm
những khiếm khuyết, sơ hở của chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
nếu họ thiếu năng lực, phẩm chất đạo đức thoỏi hoỏ.
Tóm lại, giữa cỏc khõu nghiệp vụ trong quy trình thủ tục hải quan phải
chặt chẽ và có tác động qua lại với nhau. Muốn thực hiện tốt khõu tớnh thuế,
đảm bảo thu đúng, thu đủ thỡ cỏc khõu nghiệp vụ trước, trong quy trình thủ
tục hải quan phải được tổ chức chặt chẽ, tiến hành đồng bộ từ khâu đầu đến
khâu cuối; khâu trước tạo điều kiện cho khâu sau hoàn thành nhiệm vụ, đồng
thời khâu sau lại kiểm tra nghiệp vụ của khâu trước nhằm phát hiện những sai
sót trong nghiệp vụ, phát hiện những gian lận thương mại, phát hiện những
tiêu cực giữa chủ hàng với cán bộ, chiến sỹ hải quan nhằm chống thất thu
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
1.4 Yêu cầu mới về quản lý thu thuế XNK của ngành Hải quan hiện nay.
a) Hội nhập kinh tế và vấn đề hợp tác trong quản lý thu thuế Hải quan.
Mục tiêu của Bộ Luật thi hành của Hải quan ASEAN nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho thương mại, thúc đẩy thực hiện biểu thuế ưu đãi chung CEPT,
tăng cường sự hợp tác trong lĩnh vực Hải quan để bổ sung cho các hoạt động
4
hợp tác kinh tế trong các nước ASEAN, cố gắng điều hoà danh mục biểu
thuế, trị giá và thủ tục Hải quan.
- Thống nhất biểu thuế quan: Ở mức độ nhất định các nước ASEAN
đang sử dụng biểu thuế theo hệ thống điều hoà của hội đồng hợp tác Hải quan
thế giới (HS) từ 6 đến 10 chữ số. Hội nghị Bộ Trưởng kinh tế ASEAN (AEM)
lần thứ 26 đã quyết định sẽ thống nhất biểu thuế trong khối ASEAN ở mức 8
chữ số để thực hiện.
- Thống nhất hệ thống tớnh giỏ Hải quan: tại vòng đàm phán Uruguay
của GATT, các nước thành viên ASEAN đã cam kết vào năm 2000 sẽ thực

hiện phương pháp xác định trị giá Hải quan theo GATT để tính trị giá Hải
quan. Nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất của phương pháp này là trị giá
tính thuế được xác định dựa trên trị giá giao dịch của lô hàng thỡ nú cũng
được xác định theo các phương pháp thay thế, mà các phương pháp này phản
ánh đúng hoặc gần đúng với trị giá giao dịch thực tế của hàng hoá cần xác
định trị giá tính thuế.
- Thống nhất thủ tục Hải quan: Thống nhất và đơn giản hoá thủ tục Hải
quan là vấn đề phức tạp, nhưng Hải quan các nước ASEAN cố gắng để đạt
được. Các vấn đề được các nước ưu tiên trong việc thống nhất thủ tục Hải
quan đó là:
+ Xây dựng hệ thống luồng xanh Hải quan
+ Ban hành mẫu tờ khai Hải quan chung cho hàng hoá thuộc diện
CEPT.
+ Thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá chung: gồm các nội dung
như các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, các vấn
đề giám định hàng hoỏ, cỏc vấn đề gửi hàng…
Ngoài ra Việt Nam là thành viên của tổ chức Thương Mại Thế Giới
WTO, tham gia diễn đàn Á-Âu(ASEM), diễn đàn chõu Á-Thỏi Bỡnh Dương
(APEC); ký kết các hiệp định song phương, đa phương với các nước đặc biệt
là Mỹ .Việc này đòi hỏi công tác quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
5
càng phải được minh bạch hơn, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hoá, bảo hộ nền sản xuất trong nước.
b)Yêu cầu hiện đại hoá hoạt động quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu của ngành Hải quan.
Trên cơ sở quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, xuất phát từ
những cam kết, ràng buộc phải thực hiện khi tham gia khu vực mậu dịch tự do
ASEAN/AFTA và hội nhập, một số vấn đề quan trọng được đặt ra đối với
công tác quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở nước ta trong thời gian
tới là:

- Nội dung quy định về quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải
được tách bạch thành Luật thủ tục riêng ra khỏi Luật thuế hiện hành đảm bảo
chính sách thuế phải được minh bạch, thực hiện được cam kết về cắt giảm
thuế vừa phù hợp với thực tiễn phát triển của nền kinh tế, tránh sự suy giảm
đột ngột nguồn thu ngân sách Nhà Nước từ thuế nhập khẩu.
- Tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN/AFTA, Việt Nam phải
cam kết thực hiện xác định trị giá Hải quan theo qui định của Hiệp định trị giá
GATT. Theo qui định của Hiệp định trị giá GATT thì trị giá tính thuế của
hàng hoá XNK là trị giá giao dịch thực tế của hàng hoá. Vấn đề được đặt ra là
với cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp thuế thì làm thế nào để xác định được tính
trung thực của trị giá do doanh nghiệp khai báo với cơ quan Hải quan, để có
thể khẳng định được đâu là trị giá do doanh nghiệp khai báo gian lận, đây là
vấn đề còn mới mẻ đối với Việt Nam, do đó cần phải được quan tâm, chú
trọng trong công tác quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
- Khi tham gia mậu dịch tự do AFTA, hàng hoá nhập khẩu từ các nước
ASEAN vào Việt Nam được hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu với điều kiện hàng
hoỏ đú phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế (danh mục CEPT) của Việt
Nam và có xuất xứ từ các nước ASEAN. Vấn đề đặt ra làm thế nào để kiểm
tra được tính trung thực của xuất xứ hàng hoá theo khai báo của doanh
nghiệp, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay các nước ASEAN có xu hướng ký
6
kết Hiệp định tự do hoá thương mại song phương với các nước ngoài khối
ASEAN. Đây cũng là vấn đề mới mẻ và phức tạp, khó khăn đối với Việt Nam
cần được đặt ra trong công tác quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
- Vấn đề được đặt ra cho công tác quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu là làm thế nào để bảo hộ các ngành sản xuất trong nước trước sự
thâm nhập ào ạt hàng hoá của các nước ASEAN? ngành sản xuất nào cần
được bảo hộ, bảo hộ ở mức nào, và thời gian bảo hộ bao lâu, ngành sản xuất
nào không cần bảo hộ? những nội dung này cần phải đặt ra đối với công tác
quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

- Hàng rào phi thuế quan từng bước phải được loại bỏ, đây là một vấn
đề quan trọng cần phải được cân nhắc, tính toán cẩn thận, để xây dựng một lộ
trình cụ thể phù hợp với thực trạng của nền kinh tế còn kém phát triển.
- Khi hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự phát triển của nền kinh tế
thì lưu lượng hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu qua các cửa khẩu sẽ tăng lên
nhanh chúng.Vấn đề được đặt ra cho công tác quản lý thu thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu là làm thế nào để kiểm soát được sự thẩm lậu của các mặt
hàng cấm như vũ khí, khí tài, ma tuý, văn hoá phẩm đồi truỵ, làm thế nào để
kiểm soát được hành vi gian lận trong khai báo như khai ít nhưng thực tế nhập
nhiều, khai sai trị giá của hàng hoỏ…đõy là những vấn đề bức xúc được đặt ra
cần phải quan tâm đặc biệt trong quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
- Việc quản lý nguồn thu và kiểm soát các cơ sở tính thuế vốn đã phức
tạp trong điều kiện nền kinh tế đang phát triển lại được tiếp thêm sự phức tạp
nảy sinh từ tiến trình toàn cầu hoá nền kinh tế. Vì vậy, yêu cầu về việc đơn
giản hoá, minh bạch hoá hệ thống chính sách và cơ chế quản lý thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu trở thành vấn đề cấp thiết đối với các nước đang phát
triển trong đó có Việt Nam, nhằm giảm thiểu các chi phí hành thu đồng thời
nâng cao hiệu suất quản lý thu. Bên cạnh đó sự phức tạp trong công tác quản
lý hành thu trong điều kiện hội nhập nền kinh tế quốc tế cũng đặt ra yêu cầu
ngày càng cao đối với sự tinh thông nghiệp vụ của các cán bộ chiến sĩ ngành
7
Hải quan nói riêng, cán bộ tham gia quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu nói chung. Do đó vấn đề đào tạo, đào tạo lại, đào tạo nâng cao, đào tạo
chuyên sâu, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ quản lý thu thuế cũng như việc
kiện toàn tổ chức bộ máy thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng cần được
quan tâm.
- Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với
những vấn đề mà các nước phát triển khác đang phải đối mặt như vấn đề trợ
cấp bán phá giá của nước xuất khẩu, vấn đề loại bỏ hàng rào phi thuế…Vấn
đề được đặt ra đối với công tác quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là

phải có chiến lược phát triển, về chính sách thuế phải được tách riêng và áp
dụng sớm một số loại thuế bổ trợ khác như thuế chống bán phá giá, hạn ngạch
thuế quan, thuế quan tuyệt đối.
- Toàn cầu hoá và sự phát triển của khoa học công nghệ thông tin vừa
đặt ra những khó khăn mới cho hoạt động quản lý, kiểm soát nguồn thu tạo
điều kiện để hiện đại hoá hoạt động này. Để khai thác triệt để lợi thế của khoa
học công nghệ thông tin trở thành phương tiện hữu hiệu phục vụ cho quản lý,
vấn đề đặt ra cho quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là phải có sự
trang bị đồng bộ và hiện đại hệ thống mạng thông tin toàn ngành Hải quan
cũng như mạng thông tin giữa Hải quan với các cơ quan liên quan khác như:
Tài chính, Kho bạc, Ngân hàng, Thuế nội địa, giữa Hải quan Việt Nam với
Hải quan các nước…nhằm đẩy nhanh tốc độ xử lý thông tin, rút ngắn khoảng
cách giữa cỏc khõu của quá trình quản lý và tạo điều kiện cho hoạt động hợp
tác quốc tế được tiến hành thuận lợi.
Trên đây là một số hàm ý được đặt ra đối với quản lý thu thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
và tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN/AFTA. Đây là những vấn đề cần
được nghiên cứu, cân nhắc kỹ lưỡng nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của
tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam.
8
Hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới là xu hướng tất yếu của Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Để công tác quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu đạt mục tiêu, vừa đảm bảo thực hiện được các cam kết quốc tế, vừa
phù hợp với thực trạng của nền kinh tế đất nước, đòi hỏi phải có sự nhận thức
sâu sắc và đầy đủ những vấn đề cơ bản về thuế, quản lý thu thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu và hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là những tác động ảnh
hưởng bất lợi đối với nền kinh tế Việt Nam do quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế gây ra, để từ đó có những giải pháp và bước đi phù hợp trong công tác quản
lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
9

Chương II: Thực trạng quản lý thuế XNK tại Tổng Cục Hải Quan
trong những năm qua
2.1 Khái quát chung về Tổng Cục Hải Quan.
Ngày 30/8/1984 Hội đồng nhà nước phê chuẩn nghị quyết sè
547/NQ/HĐNN7 thành lập Tổng Cục Hải Quan trực thuộc Hội đồng Bộ
trưởng, và ngay sau đó hội đồng bộ trưởng ban hành nghị quyết số
139/HĐBT ngày 20/10/1984 ban hành nghị định quy định , nhiệm vô , quyền
hạn và tổ chức bộ máy của Tổng Cục Hải Quan. Hải quan Việt Nam được xác
định là “công cụ chuyên chính nửa vũ tranh của Đảng và Nhà Nước có chức
năng kiểm tra và quản lý hàng hoá, hành lý, ngoại hối và các công cụ vận tải
xuất nhập qua biên giới nước CHXHCN Việt Nam, thi hành chính sách thuế
xuất nhập khẩu, ngăn ngừa chống các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái
phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia,an ninh
chính trị, trật tù an toàn xã hội, phục vụ công tác đối ngoại của Đảng và Nhà
Nước.
2.2 Đặc điểm hoạt động và nhiệm vụ của Tổng cục Hải quan.
1. Đặc điểm hoạt động của Tổng Cục Hải Quan.
Hải quan Thế Giới (WCO) từ ngày 1/7/1993 và từ đó mở quan hệ với
tổ chức Hải quan thế giới và Hải quan khối ASEAN.
Ghi nhận bước trưởng thành cuảu Hải quan Việt Nam ,Hội đồng nhà
nước đã tặng huân chương độc lập hạnh nhì cho ngành, huân chương các
hạng cho một số Hải cấp tỉnh Hải quan Việt Nam nhân dịp 45 năm kỷ niêm
ngày thành lập Hải quan.
Từ năm 1990 đến năm 2000 toàn ngành Hải quan tích cực triển khai
thực hiện cải cách thủ tục hành chính, tập trung đột phá vào khâu cải cách thủ
tục Hải quan tại của khẩu, thực hiện tốt các nội dung: Sắp xếp lại và thành lập
thêm các địa điểm thông quan, công khai hoá các văn bản quy phạm pháp luật
10
liên quan đến thủ tục Hải quan, phân luồng hàng hoấ “Xanh ,Vàng ,Đỏ”,thiết
lập đường dây điện thoại nóng, sủa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản,

quy chế, quy trình thủ tục Hải quan nhằm thực hiện các nội dung của đề án
cải cách.
Trong 2 năm 1999-2000 Hải quan Việt Nam đã ký kết và thực hiện 2
dự án với nước ngoài: Dự án VIE-97/059 do UNDP tài trợ về “tăng cường
năng lực cho Hải quan Việt Nam thực hiện công tác quản lý XNK và hội nhập
quốc tế” và Dự án nghiên cứu khả thi do cơ quan Phát triển và Thương mại
Hoa Kỳ(TDA) và công ty UNISYS tài trợ về công nghệ thông tin tiến tới áp
dụng công nghệ trao đổi dữ liệu điện tử EDI.
Từ năm 1993 đến 2001 toàn ngành tập trung xây dựng và hoàn thiện
Dự thảo Luật Hải quan , qua nhiều lần sửa đổi ,bổ sung đến tháng 5/2001 Dự
thảo Luật Hải quan lần thứ 18 đã được hoàn chỉnh và trình kỳ họp thứ 9 Quốc
Hội khoá 10 để thông qua thay thế cho Pháp lệnh Hải quan 1990. Nhà nước
CHXHCN Việt Nam đã tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cho ngành
Hải quan nhân dịp 50 năm ngày thành lập Hải quan Việt Nam (10/9/1945 –
10/9/1995 )
2. Nhiệm vụ của Tổng Cục Hải Quan.
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI đề ra đường lối đổi mới đất
nước , chủ trương mở cửa , phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng XHCN. Do vậy
nhiêm vụ đối với Hải quan lúc này là thực hiện quản lý Nhà Nước về Hải
quan trước tình hình : Hoạt động giao lưu hợp tác với nước ngoài phát triển
mạnh mẽ chưa từng thấy , kinh tế thị trường bộc lộ những khuyết tật , hạn
chế, khối lượng hàng hoá XNK khá lớn tạo nguồn thu thuế XNK hàng năm
chiếm tỷ lệ 20-25% GDP ,tình trạng buôn lậu gia tăng ,nhập lậu tài liệu phản
động , Ên phẩm đồ truỵ , chất nổ , ma tuý khá nhiều.
11
Ngày 24/2/1990 , Chủ tịch Hội đông Nhà Nước ký lệnh công bố Pháp
lệnh Hải quan. Pháp lệnh gồm 51 điều , chia làm 8 chương ,có hiệu lực thi
hành từ ngày 1/5/1990.
Pháp lệnh Hải quan xác định chức năng của Hải quan Việt Nam là

“Quản lý Nhà Nước về hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu , xuất nhập
cảnh,quá cảnh Việt Nam , đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái
phép hàng hoá , ngoại hối hoặc tiền Việt Nam qua biên giới”.
2.3 Đặc điểm tổ chức quản lý của Tổng cục Hải quan
Bộ máy tổ chức Hải quan Việt Nam được xác định rõ tổ chức theo
nguyên tắc tập trung thống nhất , dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hội đồng Bộ
Trưởng.
Hệ thống tổ chức:
- Tổng cục hải quan.
- Cục Hải quan liên tỉnh , thành phố trực thộc trung ương và cấp tương
đương.
- Hải quan cửa khẩu , Đội kiểm soát Hải quan.
Hệ thốn lãnh đạo của Tổng cục hải quan bao gồm:
Tổng cuc trưởng: Lê Mạnh Hùng
Phó Tổng cục trưởng thường trực: Nguyễn Ngọc Túc
Phó Tổng cục trưởng: ĐặngThị Bình An
Phó Tổng cục trưởng: Vũ Ngọc Anh
Phó Tổng cục trưởng: Đặng Văn Tạo
Phó Tổng cục trưởng: Đặng Hạnh Thu
Theo quy định hiện hành thì hệ thống tổ chức Hải quan được tổ chức
theo ngành dọc thống nhất từ trên xuống dưới, bao gồm:
Tổng cục Hải quan là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, theo quyết định
số 113/QĐ-TTg ngày 04/9/2002 của Thủ tướng Chính phủ.
12
Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố: hiện có 33 đơn vị, có đơn vị
phải triờn khai ở nhiều tỉnh thành phố, như Cục Hải quan Hà nội phải triển
khai các địa điểm thông quan tại: Hà Nội, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh
Chi cục Hải quan cửa khẩu, đội kiểm soát Hải quan và đơn vị tương
đương.
Cơ quan tham mưu giúp việc cho Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan

theo Nghị định số 96/NĐ-CP ngày 14/11/2002 của Thủ tướng Chính phủ bao
gồm: 3 Cục nghiệp vụ Hải quan, 8 Vụ và cơ quan hành chính tương đương, 6
cơ quan sự nghiệp đào tạo, khoa học và văn hóa thông tin.
Theo số liệu tổng hợp của Tổng cục Hải quan thì tính đến 31/12/2005
toàn ngành Hải quan có 7089 cán bộ công chức trong đó: 164 cán bộ cấp Vụ,
Cục trở lên chiếm 2,31%; 860 cán bộ cấp Chi cục và tương đương chiến
12,13% và 650 cấp đội chiếm 9,16%; với 5415 công chức thừa hành. Như vậy
số cán bộ làm công tác lãnh đạo chiếm tỷ lệ cao (3%).
Với cơ cấu tổ chức bộ máy như hiện nay về cơ bản phù hợp với yêu cầu
nhiệm vụ của ngành Hải quan. tuy nhiên trong quá trình thực hiện đã bộc lộ
một số mặt tồn tại cần được khắc phục, đó là:
- Đơn vị cửa khẩu: mặc dù Tổng cục Hải quan đó cú quy định chung về
chức năng, nhiệm vụ của Hải quan cửa khẩu theo Quyết định số
415/TCHQ/QĐ/TCCB ngày 6/03/2003, nhưng chưa có quy định cụ thể chức
năng nhiệm vụ cho từng loại hình Hải quan cửa khẩu hoặc tổ chức tương
đương Hải quan cửa khẩu. Mặt khác, theo Quyết định 15/2003/QĐ-BTC ngày
10/02/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố thuộc Tổng cục
Hải quan thì Tổng cục Hải quan phân cấp cho Cục Hải quan tỉnh thành phố
chủ động xem xét và tự quyết định thành lập đội thuộc Cục Hải quan cửa
khẩu. Do đó dẫn đến tình trạng mô hình tổ chức bộ máy và nhiệm vụ cụ thể
của từng loại Hải quan cửa khẩu không thống nhất, việc hình thành các đội
Hải quan tại cửa khẩu một cách tùy tiện, việc bố trí biên chế chưa được tính
13
toán cụ thể nhu cầu trình độ, ngành nghề đối với công chức lãnh đạo và công
chức thừa hành của từng khâu nghiệp vụ. Đến nay mô hình tổ chức được thay
đổi các "cửa khẩu" nay là các" chi cục" và được bố trí thành các đội: Đội tổng
hợp nghiệp vụ, thực hiện các công việc về hành chính và xử lý; đội giám sát
cổng cảng, thực hiện toàn bộ các công việc về giám sát hàng hoá xuất nhập
khẩu ra vào cảng; đội giám sát tàu kho - Kiểm soát Hải quan, thực hiện công

việc giám sát tàu, kho, chống buôn lậu; đội thủ tục hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu nghiệp vụ thực hiện các công việc từ tiếp nhận, đăng ký tờ khai hải
quan, kiểm tra hàng hoá; đội kế toán thuế, kiểm tra khai báo thuế, thông báo
thuế, theo dõi thuế, thu hồi nợ thuế, thực hiện miễn, giảm, hoàn thuế.
- Cục Hải quan tỉnh, thành phố: Qua rà soát, tổ chức bộ máy cấp phòng
của Cục Hải quan tỉnh còn cồng kềnh, có một số phòng rất ít việc nhiều
người, trong khi ở cửa khẩu và đội kiểm soát thiếu nhân lực, hoạt động của
phũng cũn xem nhẹ chức năng tham mưu, giúp việc Cục trưởng. Giữa các
Cục Hải quan có sự chênh lệch lớn về quy mô nhiệm vụ, tính phức tạp và số
lượng công chức nhưng lại chưa có sự phân loại để có quy định phù hợp với
từng loại Cục về tổ chức bộ máy, chính sách đãi ngộ, điều kiện làm việc.
Trong cỏc phũng ban chức năng cú cỏc phũng thực hiện công tác về quản lý
thu thuế: Phòng nghiệp vụ; phòng trị giá tính thuế; chi cục kiểm tra sau thông
quan; phòng tham mưu chống buôn lậu; phòng tham mưu xử lý; phòng công
nghệ thông tin.
- Cơ quan Tổng cục Hải quan: Cú các Cục, Vụ chức năng trong đó
hiện chức năng quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, bao gồm: Vụ
Kiểm tra thu thuế xuất nhập khẩu; Vụ Giám sát quản lý; Vụ Pháp chế; Cục
Kiểm tra sau thông quan; Cục Điều tra chống buôn lậu; Thanh tra Hải quan;
Cục Công nghệ thông tin và thống kê hải quan. Nhiệm vụ giữa các vụ, cục
cũn cú sự chồng chéo, có việc nhiều đơn vị làm, có việc không có đơn vị làm,
một số nhiệm vụ mới phát sinh trong tiến trình hội nhập chưa có sự phân công
rõ ràng đơn vị nào là đầu mối chủ trì, đơn vị nào phối hợp tham gia, có những
14
nhiệm vụ cơ bản, quan trọng của ngành như xây dựng chiến lược, kế hoạch
phát triển dài hạn của ngành chưa được phân công rõ và quan tâm chỉ đạo.
15
2.4 Thực trạng hoạt động quản lý thuế xuất nhập khẩu của tổng cục Hải
quan trong những năm vừa qua.
a) Tình hình thu thuế XNK tại Tổng Cục Hải Quan trong những năm vừa

qua
Theo chỉ tiêu nhà nước giao cho ngành Hải quan thu qua các năm, nhìn
chung số thu đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước hầu hết đều đạt và
vượt, với tỷ lệ huy động bình quân hàng năm từ 14%-15% tổng thu từ thuế và
được thể hiện qua số liệu sau:
Bảng 1
Sở dĩ số thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt
từ năm 1997 không tăng, thậm chí có năm giảm (năm 1999 và năm 2000) là
do: Đã thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu của hơn 5.500 dòng thuế để thực
hiện Hiệp định CEPT/AFTA, hơn 400 dòng thuế để thực hiện Hiệp định hàng
dệt may với EU, hơn 1000 dòng thuế để hỗ trợ các doanh nghiệp trong giai
đoạn đầu thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng, tuy mức thuế nhập khẩu của
nhiều mặt hàng đã được giảm đi nhưng: Số thu về thuế xuất khẩu, thuế nhập
năm 2001 tăng so với những năm trước là do trong thời gian qua đó luụn rà
soát để sửa đổi tăng thuế của những mặt hàng có mức thuế suất thấp, tăng
thuế mặt hàng xăng dầu, tăng cường kiểm soát chống buôn lậu và gian lận
thương mại; tổng số thu về thuế từ hàng nhập khẩu (gồm thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu; thuế giá trị gia tăng; thuế tiêu thụ đặc biệt) lại tăng cao hơn nhiều
so với trước, khi chỉ thu thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt vào hàng
nhập khẩu.
- Đảm bảo phù hợp hệ thống chính sách thuế và quan hệ thương mại
quốc tế thông qua việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung phù hợp với qui định
của các Luật thuế giá trị gia tăng (quy định việc xử lý vi phạm, phạt chậm
nộp, giỏ tớnh thuế), Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (giảm thuế nhập khẩu một số
mặt hàng như: ô tô, rượu, bia để chuyển sang thu thuế tiêu thụ đặc biệt); qui
16
định 3 loại thuế suất (phổ thông, ưu đãi, ưu đãi đặc biệt) để áp dụng cho hàng
hoá nhập khẩu từ nước, khối nước có quan hệ thương mại khác nhau đối với
Việt Nam; thông qua việc quy định 3 loại thuế suất đã tạo tiền đề để các nước
chưa có cam kết ưu đãi về thuế đối với Việt Nam tiến tới ký Hiệp định

Thương mại với Việt Nam.
- Từng bước phù hợp với sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và
thông lệ quốc tế (theo Luật sửa đổi năm 1998, Luật năm 2005, thì thời hạn
phải nộp thuế đối với hàng là vật tư nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng
xuất khẩu được kéo dài từ 90 ngày thành 275 ngày, song lại thu hẹp thời hạn
phải nộp thuế đối với hàng tiêu dùng từ 30 ngày sửa thành phải nộp xong thuế
trước khi giải phóng hàng, hoặc qui định đối tượng nộp thuế phải tự kê khai,
tính thuế và chịu trách nhiệm pháp luật trước việc kê khai tính thuế của
mình).
Tuy nhiên, trong bối cảnh của tình hình mới, Việt Nam đã ký kết Hiệp
định Thương mại với Hoa Kỳ, cam kết thực hiện xác định trị giá Hải quan
theo GATT đối với hàng hoá nhập khẩu theo danh mục CEPT vào cuối năm
2003, là thành viên của GATT, phải hoàn thành lịch trình cắt giảm thuế theo
kế hoạch CEPT vào năm 2006 để thực hiện AFTA, đàm phán giai đoạn cuối
để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO…chớnh sỏch thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu hiện hành còn nhiều mặt tồn tại cần được tiếp tục nghiên cứu
bổ sung, sửa đổi cho phù hợp; những tồn tại đó là:
- Mặc dự đã chú trọng bảo hộ, khuyến khích đầu tư nhưng hiệu quả bảo
hộ chưa cao, chưa chọn lọc, chưa xác định thời hạn và lộ trình bảo hộ để các
doanh nghiệp chủ động; còn thiếu một số công cụ bảo hộ như hạn ngạch thuế
quan, thuế tuyệt đối, trong khi các công cụ bảo hộ này có thể thay thế việc
doanh nghiệp lợi dụng khai thấp trị giá tính thuế nhằm mục đích trốn thuế
(bước đầu thực hiện trị giá GATT); chưa triển khai áp dụng thuế tự vệ, thuế
chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử theo qui định của
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005; nguyên nhân là do Pháp lệnh
17
về thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử mới được
ban hành; vẫn có một số mặt hàng linh kiện, chi tiết rời hoặc nguyên liệu để
sản xuất lắp ráp các sản phẩm cơ khí, điện - điện tử có mức thuế nhập khẩu
cao hơn thành phẩm.

- Chưa bao quát hết nguồn thu do mức thuế suất bình quân của biểu
thuế hiện hành còn thấp (xấp xỉ 8% kim ngạch) so với các nước thuộc khu vực
như Thái Lan 17%, Malaixia 18%, Indonesia 15% khi các nước này ở vào
thời điểm tương tự chuẩn bị gia nhập WTO như Việt Nam hiện nay. Đại đa số
các mặt hàng có mức thuế suất thấp hoặc thuế suất 0%, những mặt hàng có
mức thuế suất cao (trên 40%) chiếm tỷ trọng thấp, trong khi có thể thu thuế
nhập khẩu trên diện rộng ở một số nhóm mặt hàng.
- Còn nhiều mức thuế suất thuế nhập khẩu (đã giảm từ 35 mức xuống
còn 18 mức) nhưng so với các nước trong khu vực vẫn là nhiều; ngoài thuế
nhập khẩu còn thu chênh lệch giá (bản chất vẫn là thuế nhập khẩu) đối với
một số mặt hàng gây hiểu nhầm là có quá nhiều khoản thu đối với hàng nhập
khẩu, không phù hợp với thông lệ chung.
- Chính sách miễn giảm thuế nhập khẩu đối với một số đối tượng đặc
biệt như an ninh, quốc phòng, giáo dục đào tạo tuy phù hợp trong điều kiện
ngân sách hạn hẹp, nhưng xét về lâu dài việc miễn thuế này chưa phản ánh
đúng thu, chi ngân sách hàng năm của các đối tượng này, tạo cơ chế xin cho,
phức tạp cho quản lý, tạo kẽ hở cho đối tượng nộp thuế lợi dụng để trốn thuế.
- Về cơ bản những qui định của chính sách thuế thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu hiện hành là tạo thuận lợi cho công tác quản lý hành thu và thực
hiện của doanh nghiệp nhưng cũng cũn cú một số qui định chưa rõ ràng hoặc
chưa đầy đủ, hay thay đổi. Ví dụ: việc thường xuyên sửa đổi biểu thuế nhập
khẩu tuy đáp ứng yêu cầu bảo hộ cho sản xuất những mặt hàng non trẻ; phù
hợp với sự xuất hiện nhiều mặt hàng mới trên thị trường, nhưng lại gây khó
khăn cho việc thực hiện, doanh nghiệp bị động trong tính toán hiệu quả kinh
doanh theo phương án thuế thay đổi; một số mặt hàng có mức thuế khác nhau
18
nhưng cấu tạo, tính chất gần giống nhau lại chưa có tiêu chuẩn phân biệt rõ
ràng.
- Tình trạng nợ đọng thuế lớn và kéo dài nhưng chưa có biện pháp thu
hồi có hiệu quả, nguyên nhân tiềm ẩn của tình trạng này là vẫn cho phép

doanh nghiệp hưởng thời gian ân hạn nộp thuế.
b) Kiểm tra, kiểm soát, chống gian lận thương mại và vi phạm chính
sách thuế XNK
* Gian lận lợi dụng sơ hở của chính sách thuế
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành còn bộc lộ nhiều mặt
hạn chế tạo kẽ hở cho gian lận thường lợi dụng để trốn thuế như:
- Chính sách xây dựng biểu thuế: Thuế nhập khẩu hiện hành còn đánh
vào mục đích sử dụng từ đó có những mặt hàng cùng tính chất, nhưng có
thuế suất thuế nhập khẩu chênh lệch đến vài chục lần do mục đích sử dụng
khác nhau nên tạo kẽ hở cho việc luồn lách trong kê khai, kiểm hoỏ, ỏp mó,
ỏp giỏ tớnh thuế để được hưởng thuế suất thấp, gây thất thu ngân sách nhà
nước.
- Khai sai giỏ tớnh thuế: Hiện nay hệ thống định giá của Việt Nam
chưa thống nhất với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, có nhiều cơ quan
tham gia vào việc định giá và thiếu các nguyên tắc cơ bản của GATT. Việc
định giá còn chưa kịp thời, chưa sát với giá CIF trung bình cửa khẩu, tạo kẽ
hở cho gian lận thương mại qua giá dẫn đến thất thu qua giá. Theo qui định tại
điểm 2 điều 7 Nghị định số 54/CP ngày 28/08/1993 của Chính Phủ quy định
đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu nếu có hợp đồng mua bán và chứng từ
hợp lệ đủ điều kiện xác định trị giá tính thuế theo quy định thì giá tính thuế
được xác định theo hợp đồng. Tại điểm 1, mục CEPT, Thông tư
82/1997/TT/BTC ngày 11/11/1997 của Bộ Tài Chính quy định những điều
kiện để được xác định giỏ tớnh thuế theo hợp đồng, đối với các mặt hàng
nhập khẩu không thuộc diện quản lý giỏ tớnh thuế của Nhà nước phải có hợp
đồng mua bán ngoại thương hợp pháp hợp lệ. Cụ thể: phải có đầy đủ nội dung
19
chủ yếu của một bản hợp đồng theo qui định tại điều 50 Luật Thương mại bao
gồm: tên hàng, số lượng, quy cách, chất lượng, giá cả, phương thức thanh
toán, địa điểm và thời hạn giao hàng; riêng nội dung phương thức thanh toán
yêu cầu phải thể hiện rõ trong hợp đồng việc thanh toán 100% trị giá lô hàng

nhập khẩu được thực hiện qua ngân hàng. Lợi dụng những sơ hở trong các
quy định trên, một số doanh nghiệp kinh doanh những mặt hàng không thuộc
diện Nhà nước quản lý giá, thông đồng với chủ hàng nước ngoài ghi giá trên
hợp đồng và trờn cỏc chứng từ khác thấp hơn nhiều so với giá thực tế mua
bán của hàng hoỏ đú, phần tiền chênh lệch trên hợp đồng cỏc bờn thanh toán
cho nhau bằng cách chuyển ngân lậu hoặc mua hàng xuất khẩu, gây thất thu
rất lớn cho ngân sách nhà nước. Theo báo cáo của Cục Hải quan địa phương,
riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh lợi dụng sơ hở này đó gõy thất thu hàng trăm
tỷ đồng thuế nhập khẩu.
Để khắc phục tình trạng trên ngày 24/07/99 Bộ Tài Chính đã ban hành
thông tư số 92/1999/TT/BTC sửa đổi thông tư 82, trong đó tại điểm 3 mục 1
quy định: “Tổng cục Hải quan có quyền ấn định trị giá tính thuế nhập khẩu
đối với trường hợp mặt hàng nhập khẩu không thuộc danh mục quản lý giỏ
tớnh thuế nhập khẩu, có đủ điều kiện ỏp giỏ tớnh thuế theo hợp đồng nhưng
giá ghi trên hợp đồng không phù hợp với thực tế”. Căn cứ quy định trên,
Tổng cục Hải quan đã ban hành bảng giá tối thiểu áp dụng đối với các mặt
hàng Thành phố Hồ Chí Minh lợi dụng sơ hở này đó gõy thất thu hàng trăm
tỷ đồng thuế nhập khẩu.
Để khắc phục tình trạng trên ngày 24/07/99 Bộ Tài Chính đã ban hành
thông tư số 92/1999/TT/BTC sửa đổi thông tư 82, trong đó tại điểm 3 mục 1
quy định: “Tổng cục Hải quan có quyền ấn định trị giá tính thuế nhập khẩu
đối với trường hợp mặt hàng nhập khẩu không thuộc danh mục quản lý giỏ
tớnh thuế nhập khẩu, có đủ điều kiện ỏp giỏ tớnh thuế theo hợp đồng nhưng
giá ghi trên hợp đồng không phù hợp với thực tế”. Căn cứ quy định trên,
Tổng cục Hải quan đã ban hành bảng giá tối thiểu áp dụng đối với các mặt
20
hàng các doanh nghiệp kinh doanh khai báo trung thực về giá giao dịch mua
bán trong thương mại quốc tế. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp làm ăn
không đứng đắn, thường lợi dụng kẽ hở của chính sách này để khai thấp trị
giá tính thuế nhằm hưởng lợi do trốn thuế điển hình vừa qua có tới 51 doanh

nghiệp nhập khẩu ụtụ mới khoảng gần 500 chiếc các loại xe của cỏc hóng xe
nổi tiếng, khai thấp trị giá tính thuế, trốn thuế, số tiền thực thanh toán thì
thông qua con đường chuyển ngân lậu, đã làm thất thoát cho ngân sách nhà
nước hàng trăm tỷ đồng. Một số mặt hàng gia dụng có thuế suất cao có hiện
tượng khai thấp trị giá so với các năm trước, khi chưa thực hiện Hiệp định trị
giá GATT.
- Lợi dụng chế độ ưu đãi về thời hạn nộp thuế: Trong bước chuyển của
nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp, sang cơ chế thị trường. Để tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu không phải vay
lãi ngân hàng để nộp thuế nhập khẩu. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
hiện hành cho phép các doanh nghiệp được hưởng thời gian ân hạn nộp thuế
đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Lợi dụng sự ưu đãi này nhiều doanh
nghiệp cố tình chiếm dụng tiền thuế dẫn đến tình trạng nợ đọng thuế kéo dài
ngày càng lớn và khó thu hồi. Một số đơn vị dùng thủ đoạn chỉ thực hiện một
vài phi vụ nhập khẩu, sau đó không hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu nữa mà
chuyển sang hoạt động ở lĩnh vực khác hoặc lợi dụng chế độ uỷ thác nhập
khẩu để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế. Bởi vậy, biện pháp cưỡng chế làm thủ
tục hải quan không có hiệu quả đối với các doanh nghiệp này. Theo số liệu
báo cáo đến ngày 31/12/2005 số nợ thuế quá hạn đối với hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu lên đến tới 3.057 tỷ đồng (đã bao gồm cả doanh nghiệp nợ thuế do
thua lỗ: 195,8 tỷ đồng; doanh nghiệp nợ thuế do giải thể: 216,8 tỷ đồng;
doanh nghiệp nợ thuế do không tìm được địa chỉ : 245,5 tỷ đồng).
Bảng 2
- Gian lận qua hàng hoá phải giám định kỹ thuật: Theo quy định của
biểu thuế nhập khẩu hiện hành thì có rất nhiều các hàng hóa nhập khẩu đòi
21
hỏi phải thông qua công tác giám định về chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật thì
mới đảm bảo việc áp mã số thuế được chính xác. Báo cáo tại Cục Hải quan
Thành phố Hồ Chí Minh trung bình mỗi ngày làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá
cho khoảng 1000 tờ khai, trong đó có khoảng 10% số tờ khai cần phải trưng

cầu giám định. Sở dĩ phải trưng cầu giám định lượng hàng hoá lớn như vậy là
vì hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu ngày càng đa dạng về mẫu mã, chủng loại,
được sản xuất bằng công nghệ hiện đại. Trong khi đó trình độ nghiệp vụ kiểm
tra hàng hoá cũng như việc trang bị máy móc thiết bị cho công tác kiểm tra
của Hải quan còn nhiều thiếu thốn. Theo số liệu tổng hợp, hiện tại nước ta cú
trờn 50 cơ quan giám định chất lượng hàng hoá xuất khẩu nhập khẩu, riêng tại
Thành phố Hồ Chí Minh có tới 36 cơ quan trong đó có 6 cơ quan của nhà
nước còn lại là của công ty cổ phần, công ty tư nhân. Lợi dụng việc giám định
này nhiều doanh nghiệp nhập khẩu đã thông đồng móc ngoặc với cơ quan
giám định để có kết quả theo ý muốn; các công ty, tổ chức giám định thì chạy
theo lợi nhuận mà chiều lòng chủ hàng dẫn đến giám định thiếu khách quan.
Bên cạnh đó việc giám định hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của một công ty
giám định thiếu phương tiện khoa học nên kết luận bao giờ cũng chung
chung, lập lờ hiểu kiểu gì cũng được. Có những trường hợp một lô hàng giám
định ở hai cơ quan khác nhau lại có kết quả khác nhau, thậm chí trái ngược
nhau. Đặc biệt có trường hợp cùng một loại hàng hoá giám định ở cùng một
cơ quan nhưng kết quả lần giám định sau khác kết quả lần giám định trước.
Trong khi đó ở tầm vĩ mô chưa có qui định cơ quan có quyền quyết định kết
quả cuối cùng.
Để khắc phục tình trạng trên, hạn chế thất thu thuế nhập khẩu qua công
tác giám định, các cơ quan chức năng cần sớm có quy định thống nhất về
công tác giám định, tăng cường quản lý công tác giám định, kiên quyết rút
giấy phép hoạt động của những doanh nghiệp chưa đủ điều kiện. Có như vậy
việc giám định hàng hoá xuất khẩu, khẩu nhập khẩu mới đạt được chuẩn mực
và yêu cầu đặt ra.
22
c) Gian lận do tính kém tự giác của đối tượng XNK hàng hoá
- Khai báo sai số lượng, trọng lượng của hàng hoá:
Hiện nay lưu lượng hàng hoá xuất khẩu nhập khẩu qua các cửa khẩu
ngày càng tăng, đặc biệt là ở các cửa khẩu lớn như Thành phố Hồ Chí Minh,

Hải Phũng…lực lượng Hải quan do biên chế có hạn chế, cũng như để trỏnh
gõy ách tắc hàng hoá tại cửa khẩu, tạo điều kiện giải phóng hàng nhanh nên
không thể kiểm tra xác suất, hoặc kiểm tra chi tiết với từng lô hàng nếu có
dấu hiệu nghi vấn, những lô hàng có thuế suất cao, những lô hàng có yêu cầu
kiểm tra cụ thể. Lợi dụng tình hình này bọn gian thương đã thực hiện hành vi
gian lận thương mại bằng các thủ đoạn như hàng thực tế nhập nhiều nhưng
chỉ khai báo ít, hàng có trị giá cao nhưng khai báo hàng có trị giá thấp, hàng
linh kiện dạng rời SKD thì khai hàng ở dạng rời CKD, IKD ngoài bao bì ghi
một loại hàng nhưng thực chất bên trong là một loại hàng khác.
Khai báo sai xuất xứ của hàng hoá: Xuất xứ của hàng hoá liên quan
trực tiếp đến hai nội dung, đó là chính sách ưu đãi giữa các nước thành viên
có quan hệ giành cho nhau quy chế “tối huệ quốc” và liên quan đến chính
sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với cùng một mặt hàng nhưng có
xuất xứ khác nhau. Chẳng hạn cùng một mặt hàng nào đó nếu được sản xuất ở
các nước không phải là những nước công nghiệp phát triển (G7) như được sản
xuất tại các nước ASEAN, Đài Loan, Hồng Kụng thì giá tính thuế chỉ bằng
70% so với mặt hàng được sản xuất tại các nước G7. Lợi dụng những quy
định này, các gian thương thường dùng thủ đoạn như không khai xuất xứ,
xuất trình giấy xuất xứ giả, khai không đúng xuất xứ hàng hoá để trốn thuế
nhập khẩu. Mặt khác, vấn đề xuất xứ hàng hoỏ cũn liên quan đến chính sách
ưu đãi thuế đối với một số mặt hàng, chẳng hạn Việt Nam là thành viên của
các nước ASEAN nên hàng hoá từ các nước này nhập khẩu vào Việt Nam
được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi theo Hiệp định CEPT. Tuy nhiên, việc xác
định xuất xứ hàng hoá là vấn đề kỹ thuật phức tạp, còn mới mẻ đối với Việt
23
Nam đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước phải phối hợp nghiên cứu phương
pháp xác định xuất xứ hàng hoá để hạn chế việc thất thu cho ngõn sách nhà
nước qua việc khai xuất xứ hàng hoá nhập khẩu.
- Gian lận thông qua qui định hàng đổi hàng:
Những thủ đoạn gian lận thương mại mà các doanh nghiệp thường sử

dụng như: khai tăng giá hàng xuất khẩu nhằm mục đích nâng giá trị kim
ngạch xuất khẩu. Ví dụ: mặt hàng lạc nhân trước ngày 17/08/98 chỉ có 300
USD/tấn, khi có chủ trương đổi hàng thì giá thể hiện trong hồ sơ lên tới 570
USD/tấn; tỏi khô giá ghi trong hồ sơ từ 500 USD đến 800 USD/tấn nhưng
trên thực tế chỉ khoảng 150 USD/tấn…theo số liệu báo cáo 7 tháng đầu năm
1999 có tới 184 mặt hàng xuất khẩu sang Lào theo dạng hàng đổi hàng trong
đó có tới 177 mặt hàng tăng giá bình quân gấp 3 lần giá thị trường. Trong khi
đó việc ban hành văn bản quản lý giá hàng xuất khẩu không kịp thời nên thiếu
cơ sở pháp lý để xử lý đối với các doanh nghiệp tự nâng giá lên; khai sai xuất
xứ để được hưởng tiêu chuẩn (thực tế là hàng Trung quốc nhưng khai báo là
hàng Việt Nam sản xuất rồi xuất khẩu kiếm hạn ngạch); thực hiện việc quay
vòng hàng xuất khẩu (nhập lậu trở lại Việt Nam để xuất khẩu tiếp…)
- Lợi dụng qui định hàng đã qua sử dụng:
Theo qui định, giỏ tớnh thuế đối với hàng nhập khẩu đã qua sử dụng
được phép nhập khẩu bằng 70% giá hàng mới cùng chủng loại, những mặt
hàng trên thực tế không có giá hàng mới cùng chủng loại thì căn cứ theo loại
hàng mới tương đương để tính nhưng trên thực tế lại chưa có cơ quan nào quy
định cụ thể thế nào là hàng đã qua sử dụng. Lợi dụng quy định này một số
gian thương đã thực hiện hành vi gian lận thương mại bằng cách nhập hàng
mới 100% nhưng sử dụng một chút rồi khai là hàng đã qua sử dụng để được
hưởng giỏ tớnh thuế bằng 70% giá hàng mới gây thất thu lớn cho ngân sách
nhà nước. Ví dụ: ở một số tỉnh phía Tây Nam đơn vị nhập xe gắn máy Dream
mới 100%, nhưng cho đổ xăng từ biên giới và chạy vào nội địa (đồng hồ công
24
tơ mét chỉ khoảng 5-10 km) rồi khai là hàng đã qua sử dụng để được hưởng
giỏ tớnh thuế đối với hàng đã qua sử dụng.
Hiện nay, Chính phủ cho phép nhập khẩu xe ụtụ cũ, tuy đã có những
biờn phỏp ngăn chặn gian lận thương mại như: thu thuế tuyệt đối thay cho
thuế nhập khẩu; quy định 5 năm trở lại; quy định trên 10.000 km nhưng
doanh nghiệp vẫn lợi dụng kẽ hở là khai thấp trị giá để trốn thuế tiêu thụ đặc

biệt, thuế giá trị gia tăng. Đối với ụtụ mới nhập khẩu các chủ đầu lậu lợi dụng
cơ chế gian lận thương mại bằng cách không mua hàng trực tiếp tại nước sản
xuất mà mua qua nước thứ 3 như Hồng kụng, Arập (những nước này là khu
vực rửa tiền của thế giới) nhằm khai thấp trị giá để tính thuế thấp. Vấn đề này,
ngành Hải quan cũng đang thu thập thông tin và thường xuyên đấu tranh với
doanh nghiệp nhằm hạn chế tới mức thấp nhất gian lận qua giá.
d) Gian lận lợi dụng tư tưởng tháI hoá biến chất của công chức Hải Quan
- Gian lận thông qua việc làm thủ tục Hải quan cho hàng hoá chuyển tiếp
Theo qui định tại Quyết định số 89/TCHQ-QĐ ngày 02/08/1994 của
Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan thì hàng hoá nhập khẩu được phép
chuyển tiếp là hàng kinh doanh nhập khẩu nhưng chưa làm xong thủ tục tại
Hải quan tỉnh, thành phố có cửa khẩu nhập mà chuyển đến Hải quan tỉnh,
thành phố khác để kiểm tra, thu thuế và hoàn thành thủ tục hải quan. Điều này
có ý nghĩa là các doanh nghiệp được Hải quan chấp nhận đưa hàng hoá nhập
khẩu từ nước ngoài về khu vực kho, bãi của doanh nghiệp (kho riêng) làm thủ
tục hải quan, kiểm hoá và hoàn thành thủ tục hải quan mà không cần kiểm tra
tại cửa khẩu nhập. Quy định này phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm tạo điều
kiện giải phóng hàng nhanh, tránh tình trạng ách tắc hàng hoá tại cửa khẩu,
giảm được các chi phí lưu kho, lưu bãi do việc chờ đợi làm thủ tục tại cửa
khẩu nhập gây nên. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã bộc lộ một số vấn
đề cần phải xem xét, chấn chỉnh: Hiện tượng khai sai tên hàng, số lượng,
trọng lượng chất lượng khá nhiều. Ví dụ: nhập tivi, tủ lạnh khai là máy cày,
máy thuỷ; nhập vải cao cấp khai là vải bình thường; tình trạng cán bộ kiểm
25

×