Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Nghiên cứu sử dụng một số loại thực vật thuộc họ hành tỏi (ALLIUMACEAE) trong phòng trừ sâu hại rau bắp cải vụ đông xuân chính vụ năm 2010 tại Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (887.89 KB, 73 trang )

Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Rau xanh là loại thực phẩm không thể thiếu được trong mỗi bữa ăn
hàng ngày của con người vì chúng không chỉ cung cấp các loại dinh dưỡng
thiết yếu như vitamin, lipit, protein mà còn cung cấp nhiều chất khoáng quan
trọng như canxi, phốt pho, sắt, v.v. rất cần thiết cho sự phát triển của cơ thể
con người. Ngoài ra, rau còn cung cấp cho con người một lượng lớn các chất
xơ, có khả năng làm tăng nhu mô ruột và hệ tiêu hoá, là thành phần hỗ trợ sự
di chuyển thức ăn qua đường tiêu hoá bằng cách giúp cho hoạt động co bóp
của đường ruột được dễ dàng. Rau còn là nguyên liệu quan trọng cho ngành
chế biến, đồng thời là mặt hàng xuất khẩu có giá trị góp phần làm tăng thu
nhập cho nền kinh tế quốc dân.
Vệ sinh an toàn thực phẩm đối với nông sản nhất là rau xanh đang
được xã hội đặc biệt quan tâm. Việc ô nhiễm vi sinh vật, hóa chất độc hại,
kim loại nặng và thuốc bảo vệ thực vật tồn dư trên rau, đặc biệt là rau ăn lá
đã gây ảnh hưởng không nhỏ trước mắt cũng như lâu dài đối với sức khỏe
cộng đồng. Trước vai trò của rau xanh và những thực trạng trong sản xuất
rau khi đời sống phát triển, nhu cầu về rau an toàn đạt chất lượng cao ngày
càng gia tăng cho thấy việc sản xuất ra nhiều loại rau với số lượng lớn, đảm
bảo chất lượng là một nhiệm vụ quan trọng. Bên cạnh đó, việc sử dụng các
chiết suất từ các loài thực vật sử dụng để phòng trừ sâu hại trong sản xuất
rau cũng là một vấn đề đáng quan tâm.
Tình trạng rau xanh nhiễm độc thuốc bảo vệ thực vật xảy ra phần lớn
do người nông dân dùng thuốc không theo đúng kỹ thuật:
- Tự phun thuốc theo ý chủ quan, không theo hướng dẫn.
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

2
- Phun thuốc quá nhiều lần/vụ, phun theo định kỳ để phòng ngừa trước.
- Sử dụng thuốc quá nồng độ và liều lượng khuyến cáo.
- Tự ý pha trộn các loại thuốc khi dùng.
- Sử dụng thuốc cấm, thuốc hạn chế sử dụng cho rau, thuốc ngoài danh mục.
- Dùng thuốc quá gần ngày thu hoạch.
- Không trang bị đầy đủ dụng cụ bảo hộ lao động cần thiết, dụng cụ
phun thuốc không đảm bảo, phun thuốc không đúng cách.
Hiện nay tình trạng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không đúng theo
hướng dẫn, không đảm bảo thời gian cách lý, lạm dụng thuốc bảo vệ thực
vật vẫn còn ở nhiều nơi. Theo điều tra có tới gần 70% nông dân phun 8 – 12
lần thuốc bảo vệ thực vật cho một vụ rau.
Trước thực tế đó, nền sản xuất nông nghiệp Việt Nam đòi hỏi công tác
bảo vệ thực vật phải đảm bảo và ổn định lâu dài về hiệu quả phòng trừ sâu
bệnh hại cũng như ngăn ngừa được dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong
nông sản, đồng thời bảo vệ môi trường sống đòi hỏi công tác bảo vệ thực vật
phải nhanh chóng từng bước chuyển dần sang một chiến lược mới, đó là hệ
thống chiến lược bao gồm nhiều biện pháp phòng trừ tổng hợp, trong đó lấy
biện pháp sinh học và sinh thái học làm trọng tâm, kết hợp hài hòa sử dụng
thuốc hóa học với liều lượng thấp một cách hợp lý mà vẫn đạt hiệu quả
phòng trừ cao, nhằm khắc phục dần những hiện tượng tiêu cực do thuốc hóa
học gây ra. Để góp phần tạo dựng và thiết lập nên một nền nông nghiệp
sạch, an toàn, ổn định và bền vững đồng thời góp phần nâng cao ý thức của
mọi người về vệ sinh an toàn thực phẩm, hạn chế sử dụng thuốc hóa học bảo
vệ thực vật, bảo vệ sức khỏe con người và môi trường sống,… đáp ứng nhu
cầu rau sạch cho người tiêu dùng.
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


3
Xuất phát từ thực tiễn trên, nắm bắt nhu cầu của người tiêu dùng chúng
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu sử dụng một số loại thực vật
thuộc họ hành tỏi (Alliumaceae) trong phòng trừ sâu hại rau bắp cải vụ
đông xuân chính vụ năm 2010 tại Thái Nguyên”
2. Mục đích nghiên cứu
2.1 Mục đích
- Xác định thành phần, diễn biến sâu hại trên rau bắp cải.
- Xác định tác dụng xua đuổi, gây ngán và tiêu diệt sâu hại rau bắp cải
của dung dịch ngâm củ hành và dung dịch ngâm củ tỏi.
- Xác định ảnh hưởng của việc sử dụng dung dịch ngâm củ hành và
dung dịch ngâm củ tỏi đến năng suất rau bắp cải.
2.2 Yêu cầu
- Điều tra đánh giá hiện trạng sản xuất rau ở Thái Nguyên.
- Điều tra, xác định thành phần sâu hại từ đó xác định những loài sâu
chính hại rau bắp cải.
- Đánh giá hiệu lực của dung dịch ngâm củ hành và dung dịch ngâm củ
tỏi trong phòng trừ sâu hại rau bắp cải.
- Đánh giá ảnh hưởng của dung dịch ngâm củ hành và dung dịch ngâm
củ tỏi đến năng suất rau bắp cải tại Thái Nguyên.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa trong công tác học tập và nghiên cứu khoa học
- Xác định được khả năng xua đuổi, gây ngán và tiêu diệt sâu hại rau bắp cải
của dung dịch ngâm củ hành và dung dịch ngâm củ tỏi. Từ đó làm cơ sở cho việc
nghiên cứu sản xuất ra chế phẩm thảo mộc trừ sâu hại góp phần giảm thiểu việc
sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật, bảo vệ môi trường để hướng tới phát triển
một nền nông nghiệp sạch, an toàn và bền vững.
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


4
3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất
- Nghiên cứu dung dịch ngâm củ hành và dung dịch ngâm củ tỏi có khả
năng trừ sâu hại rau bắp cải là cơ sở cho nghiên cứu tìm hiểu hoạt chất và cơ chế
tác động của hoạt chất đó lên sâu hại.
- Góp phần khai thác tiềm năng sử dụng nguồn tài nguyên thực vật có
sẵn ở Việt Nam trong công tác phòng trừ sâu bệnh hại cây trồng để nâng cao
năng suất, chất lượng nông sản đồng thời bảo vệ môi trường, bảo vệ những
loài có ích, tạo ra các sản phẩm sạch và an toàn.






Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở thực tiễn và lý luận của đề tài
1.1.1. Cơ sở thực tiễn
Tốc độ đô thị hoá ngày càng nhanh, người nông dân không còn mặn mà
với các loại cây trồng, vật nuôi truyền thống vì giá trị kinh tế thấp. Do vậy Thái
Nguyên đang có những đầu tư tổng thể cho nông nghiệp, nông thôn, hướng tới
một nền nông nghiệp đô thị phát triển, nâng cao đời sống của bà con nông dân
vùng ven, trước tình hình diện tích đất nông nghiệp của tỉnh liên tục sụt giảm

do tốc độ đô thị hoá, người nông dân đã chuyển dần một phần diện tích đất cấy
lúa sang trồng các loại cây trồng khác có giá trị kinh tế cao hơn.
Thành phố Thái Nguyên hiện có 750 ha rau các loại với sản lượng
14.500 tấn/năm. Thành phố đã hình thành một số vùng sản xuất rau mang tính
chuyên canh như: Túc Duyên, Cam Giá, Gia Sàng, Quang Vinh, Đồng
Bẩm, tuy nhiên, rau chủ yếu được sản xuất theo kinh nghiệm truyền thống,
chưa có sự đầu tư lớn, đồng bộ cho sản xuất rau an toàn chất lượng cao. Bên
cạnh đó rất nhiều hộ nông dân trồng rau vẫn sử dụng phân hóa học bón cho
rau, phun thuốc bảo vệ thực vật quá nồng độ, liều lượng cho phép và không
đảm bảo thời gian cách ly để thuốc phân hủy trong nông sản dẫn đến vệ sinh
an toàn thực phẩm không được bảo đảm.
Hiện nay Thái Nguyên chưa có vùng sản xuất rau an toàn tập trung nên
phải nhập lượng lớn rau từ các tỉnh lân cận.
Để đáp ứng nhu cầu thị trường và tăng thu nhập cho các hộ nông dân,
thành phố Thái Nguyên đã triển khai Đề án phát triển sản xuất, tiêu thụ rau an
toàn với các mô hình trồng rau an toàn tại một số phường ven sông Cầu: Túc
Duyên, Cam Giá, Gia Sàng, Quang Vinh, Đồng Bẩm, …
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

6
1.1.2. Cơ sở lý luận
Ở Việt Nam với khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp, cây rau được trồng phổ
biến và có khả năng sinh trưởng phát triển tốt. Rau là thực phẩm cung cấp các
vitamin và khoáng chất cần thiết cho cơ thể con người. Vệ sinh an toàn thực
phẩm đối với nông sản nhất là rau xanh đang được xã hội đặc biệt quan
tâm. Việc đẩy mạnh sản xuất rau an toàn cung cấp cho tiêu dùng nội địa và
xuất khẩu hiện nay cũng như thời gian tới là hết sức cần thiết đòi hỏi các cấp,
các ngành cần đặc biệt quan tâm. Nhận thức sâu sắc về vấn đề này đã có
nhiều nghiên cứu và các chương trình phát triển sản xuất rau an toàn tại nhiều

địa phương trên cả nước.
Các nghiên cứu áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào trồng rau như
sử dụng phân bón lá và dinh dưỡng hợp lý kết hợp kỹ thuật trồng chăm sóc
hợp lý, sử dụng các loại chế phẩm có nguồn gốc thảo mộc để phòng trừ sâu
bệnh hại đã và đang được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, các Trung
tâm nghiên cứu…
1.1.2.1. Các nghiên cứu về cây tỏi trong phòng trừ sâu bệnh hại
1.1.2.1.1. Đặc điểm hình thái của cây tỏi
Tỏi là cây nhỏ mọc từ củ lên. Cây cao chừng 20 - 40cm, thân giả mang nhiều
lá dài và hẹp, giữa củ mọc lên một cuống mang một số hoa ở đỉnh, bọc trong một
mô mỏng, hoa tỏi có màu trắng hay phớt hồng. Nước ta trồng tỏi vào tháng 10 - 12
dương lịch trên nền đất tơi xốp nhiều mùn. Tỏi củ sẽ được thu hoạch vào tháng 1
năm sau, phơi khô, treo mái hiên hay gác lên nóc nhà dùng dần.
1.1.2.1.2. Công dụng của cây tỏi
Trong các loại củ, quả như: ớt, tỏi, hành, gừng, có chứa hàm lượng
axit có tác động đến cơ thể của những loài sâu bọ hại cây trồng như mắt, da,
làm chúng chết. Nếu chiết xuất thảo mộc này được chế biến với nồng độ phù
hợp sẽ xua đuổi, tiêu diệt được các loài sâu bọ - TS Lê Đình Hường.
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

7
Theo Amy Cohen (2009) tỏi được đánh giá cao như là một gia vị và
tính chất y học của nó. Giá trị của nó như là thuốc trừ sâu cũng được đánh giá
cao, đặc biệt là trong nông nghiệp hữu cơ, trồng trong vườn rau.
Theo Sally Odum (2008) tỏi là một loại thuốc trừ sâu tự nhiên tuyệt vời. Nó
có đăc tính diệt nấm và kiểm soát sâu bệnh rất tốt, đẩy lùi và loại trừ các loài côn
trùng và sâu bệnh như: rệp, kiến, mối, bọ cánh cứng, sâu đục thân,…
1.1.2.2. Các nghiên cứu về cây hành trong phòng trừ sâu bệnh hại
1.1.2.2.1. Đặc điểm hình thái của cây hành

Là cây thân thảo, sống lâu năm, có mùi đặc biệt. Lá hình trụ rỗng, dài
30 – 50cm, đường kính 4 – 8mm, phía giữa phình lên, đầu thuôn nhọn, mỗi
cây có 5 – 6 lá. Hoa tự, mọc trên một cán mang hình trụ, rỗng. Bao hoa gồm 2
vòng, mỗi vòng gồm 3 cánh, 3 lá đài màu trắng, 6 nhị, bao phấn hình chữ T.
Quả nang, hình tròn, đường kính 6mm. Hạt hình 3 cạnh, màu đen. Hành trồng
khắp nơi ở nước ta và chủ yếu dùng làm gia vị, đồng thời dùng làm thuốc.
1.1.2.2.2. Công dụng của cây hành
Hành là một phần không thể thiếu trong bếp ăn của mọi gia đình, nó
được xem như một loại rau và cũng là đồ gia vị. Hành lá được trồng quanh
năm để phục vụ nhu cầu nội trợ.
Hành là một chất kích thích và chống lại các kích thích nhẹ. Nghiền nát
hành sống đắp lên trên trán có thể làm giảm đau đầu.
Các củ hành nhỏ màu đỏ có thể được sử dụng như một thuốc long đờm.
Nếu đem nghiền nát các củ hành này trộn với đường phèn, để một lúc cho
nước chảy ra. Nước ép này có tác dụng giúp làm loãng đờm và ngăn chặn sự
tái phát. Dùng khoảng 3 - 4 thìa cà phê của nước ép sẽ làm dịu đi chứng ho và
đau họng.
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

8
Việc ăn hành sống giúp giảm cholesterol vì chúng làm tăng cao mật độ
lipoproptein ('''vật" trung chuyển cholesterol). Do vậy rất nên ăn hành sống
trong các món sa lát hàng ngày nếu bị mắc các bệnh liên quan đến tim mạch.
Điều trị bệnh liên quan đến đường tiết niệu. Để trị chứng nóng rát khi
đi tiểu, đun 100gr hành với 600ml nước. Đun cho đến khi chỉ còn khoảng
một nửa thì có thể uống. Pha với đường sẽ giúp giảm chứng bí tiểu.
Hợp chất lưu huỳnh có trong hành sẽ giúp cho việc ngăn chặn sự phát
triển của các tế bào ung thư.
Hành cũng có tác dụng trong việc điều trị bệnh thiếu máu, sự chảy máu

do bệnh trĩ, chảy máu răng.
Nước ép từ thân hành rất tốt cho việc điều trị bệnh thiếu máu.
Các chất có trong hành: trong hành có các men inventrin, pepsin,
pancreatin góp phần vào quá trình chuyển hóa các chất đạm, mỡ và đường.
Hành chứa hợp chất ngăn chặn lipoxygenaea và cyclooxygenaea (các
anzym này gây ra chứng viêm) nhờ vậy mà làm giảm đáng kể chứng viêm.
Trong hành có chứa rất nhiều fructo-oligosac-charides, gây ức chế sự phát
triển của các vi khuẩn có hại tiềm ẩn trong ruột kết. Ngoài ra fructo-
oligosac-charides còn có thể làm giảm sự phát triển khối u của các tế bào
ung thư ruột kết.
Ngày 08/02/2010 các nhà khoa học thuộc trường Đại học Quốc gia
Mêxico (UNAM) thông báo đã chế thành công một loại thuốc trừ sâu sinh học
từ ớt, tỏi, hành và nhiều loại gia vị sẵn có ở Quốc gia Trung Mỹ này.
1.2. Giá trị dinh dƣỡng và vai trò sản xuất rau trong nền kinh tế quốc dân
1.2.1. Giá trị dinh dưỡng của cây rau
Cây rau là một bộ phận cây trồng hàng năm dùng làm thực phẩm, rất cần
thiết trong đời sống hàng ngày và không thể thay thế đối với sức khoẻ con người.
Rau cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết mà không loại thực phẩm nào có thể
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

9
thay thế được. Do rau là nguồn cung cấp các chất dinh dưỡng dưới dạng đặc biệt
như: vitamin, các chất khoáng và chất xơ cho người.
Trong khẩu phần ăn của người Việt Nam hiện nay, rau cung cấp
khoảng 95 - 99% nguồn vitamin A, 60 - 70% nguồn vitamin B2, và gần 100%
nguồn vitamin C. Nếu ăn uống lâu ngày thiếu rau xanh ta thường thấy xuất
hiện các triệu chứng như da khô, mắt mờ, quáng gà, do thiếu vitamin A;
chảy máu chân răng, tay chân mỏi mệt, suy nhược.… do thiếu vitamin C; lở
loét miệng lưỡi, viêm ngứa chủ yếu do thiếu vitamin B2; tê phù do thiếu

vitamin B1. Thiếu vitamin sẽ giảm sức dẻo dai, hiệu suất làm việc sút kém,
bệnh tật dễ phát sinh, khi mắc bệnh chữa cũng lâu lành. Trong lao động, học
tập, công tác, sinh hoạt hàng ngày mỗi người đều cần một lượng vitamin nhất
định (Bùi Bảo Hoàn, Đào Thanh Vân, 2000).
Ngoài việc cung cấp vitamin, rau còn cung cấp một lượng chất khoáng
đáng kể như Ca, P, Fe,… Trong các chất khoáng cần thiết cho cơ thể con
người thì canxi và sắt được chú ý hơn cả, canxi rất cần cho việc đảm bảo chức
năng xương và răng, còn sắt ngăn ngừa bệnh thiếu máu. Các loại muối
khoáng cần thiết cho cấu tạo tế bào, các loại enzime, muối khoáng còn là tác
nhân gây xúc tác và điều hoà các quá trình sinh tổng hợp trong cơ thể con
người, chúng có tác dụng trung hoà độ chua do dạ dày tiết ra, khi tiêu hoá
thức ăn như thịt, ngũ cốc, đồng thời làm tăng khả năng đồng hoá protit (Tạ
Thu Cúc và CS, 2000).
Lượng gluxit và protein trong rau bổ sung cho ta được một phần năng
lượng tuy không nhiều nhưng điều đáng chú ý là protein của rau nói chung
chứa nhiều lizin (khoảng 5 - 7%) và mỗi loại rau lại có những tỷ lệ axit amin
khác nhau nên khi ăn rau, nhất là ăn một lúc nhiều loại rau sẽ có tác dụng lớn
trong việc nâng cao giá trị sử dụng protein của rau.
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

10
Chất xơ trong rau giúp cho sự tiêu hoá được điều hoà, chống táo bón, giữ
được cảm giác no.
Ngoài giá trị về dinh dưỡng, một số loại rau còn có ý nghĩa về mặt y học
bởi chúng là những vị thuốc rất có giá trị đối với sức khoẻ con người, ví dụ như
hành, tỏi, nghệ, tía tô, mướp đắng,… đây là những loại gia vị vừa làm ngon
miệng, vừa làm tăng sức đề kháng trong cơ thể.
Rau xanh rất phong phú về chủng loại, vì vậy thức ăn được chế biến từ
rau rất đa dạng với nhiều màu sắc đẹp mắt, hương vị thơm mát, góp phần tạo

nên những bữa ăn ngon miệng và hấp dẫn. Theo quan điểm của các nhà dinh
dưỡng học, thì mỗi người cần 250 - 300g rau xanh/ngày, để đáp ứng cho nhu
cầu hoạt động bình thường của con người (Tạ Thu Cúc và CS, 2000).
1.2.2. Vai trò của sản xuất rau trong nền kinh tế quốc dân
Rau là nguyên liệu và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Vào những năm
1986 - 1990 kim ngạch xuất khẩu đã đạt trên 80 triệu rúp/năm. Chúng ta đang
phải xây dựng cho mình một thị trường mới. Hiên nay, Việt Nam ngoài tiêu thụ
rau trong nước, rau đã được xuất khẩu ra nước ngoài. Theo số liệu thống kê chính
thức của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu rau hoa quả trong tháng 4 năm
2009 đạt gần 32,5 triệu USD, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2008. Tính chung 4
tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu rau hoa quả của Việt Nam đạt 127,8
triệu USD, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm 2008. Trong bối cảnh xuất khẩu khó
khăn, xuất khẩu rau hoa quả giữ được đà tăng trưởng là một trong những điểm
đáng chú ý hiện nay (Rauhoaquavietnam.vn).
Rau là cây trồng quan trọng trong ngành trồng trọt, được trồng ở nhiều
vùng sinh thái khác nhau. Thời gian sinh trưởng của rau ngắn và có thể trồng
được nhiều vụ trong năm, do vậy rau được coi là cây trồng chủ lực trong việc
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, xoá đói giảm nghèo cho nông dân Việt Nam.
Mặt khác, rau có đặc điểm là có nhiều chủng loại với những yêu cầu về điều
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

11
kiện ánh sáng khác nhau, kích thước nhỏ nên cây rau rất thích hợp trồng xen
canh gối vụ với những cây trồng khác, như vậy trồng rau sẽ nâng cao hiệu quả
sử dụng đất (Tạ Thu Cúc và CS, 2000). Trồng rau có hiệu quả hơn so với các
cây trồng khác về khả năng khai thác năng suất/một đơn vị diện tích/một đơn
vị thời gian vì chúng có đặc điểm sinh trưởng và phát triển nhanh trong một
thời gian ngắn.
Rau là loại cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao. Giá trị sản xuất của 1 ha

rau thường gấp 2 - 3 lần 1 ha lúa (Trần Khắc Thi, 2003). Đây là cây trồng có
tỷ suất hàng hoá lớn hơn nhiều cây trồng khác. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế
của sản xuất rau còn tuỳ thuộc vào tính thời vụ của việc trồng rau.
Theo điều tra của Nguyễn Tiến Mạnh (1999), ở 4 tỉnh Hà Nội, Hà Tây,
Nam Định và Thái Bình thì tổng thu nhập trên 1ha lúa là 3.830.000 đồng, ngô là
3.333.000 đồng, khoai tây là 15.641.000 đồng, cải bắp là 11.743.000 đồng và
dưa chuột là 23.532.000 đồng. So sánh hiệu quả kinh tế giữa công thức luân
canh ở đồng bằng Sông Hồng, tác giả cho biết tổng thu nhập trên đất chuyên
canh cao hơn 2 lần so với trên đất 1 lúa – 2 màu và cao hơn 3 lần so với trên đất
2 lúa – 1 màu.
Theo Tạ Thu Cúc và cộng sự (2000), rau có giá trị hàng hoá lớn hơn
một số cây trồng khác, giá trị sản xuất 1ha chuyên canh rau vào năm 1996 -
1997 ở một số HTX thuộc ngoại thành Hà Nội là 50 - 60 triệu đồng.
Rau và các sản phẩm phụ của rau còn là nguồn thức ăn xanh quan trọng
cho chăn nuôi. Sản xuất rau còn là hình thức đa dạng hoá trồng trọt để nâng
cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp và luân canh cải tạo đất.
Ngoài việc cung cấp dinh dưỡng, tăng hiệu quả kinh tế, ngành sản xuất
rau còn đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển các ngành công
nghiệp khác:
- Công nghiệp đồ hộp (dưa chuột, cà chua, ngô rau, )
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

12
- Công nghiệp bánh kẹo (bí xanh, cà rốt, khoai tây, )
- Công nghiệp sản xuất nước giải khát (cà chua, cà rốt, )
- Làm hương liệu (hạt mùi, ớt, )
1.2.3. Ý nghĩa về mặt xã hội
Sản xuất rau phát triển sẽ góp phần sắp xếp lao động hợp lý, tăng thu nhập
cho người lao động, mở rộng thêm ngành nghề, giải quyết tốt việc làm cho nông

dân lúc nông nhàn. Ngoài ra, còn hỗ trợ các ngành khác trong nông nghiệp phát
triển như làm thức ăn cho chăn nuôi,
Nghề trồng rau phát triển, người nông dân có cơ hội được tiếp thu
các kỹ thuật tiến bộ mới trong sản xuất, từ đó góp phần nâng cao dân trí,
thay đổi tập quán canh tác lạc hậu từ bao đời nay của nông dân Việt Nam
(Trần Khắc Thi, 2003).
Như vậy, rau không chỉ là cây trồng xóa đói giảm nghèo mà còn là cây
trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao, đồng thời có lợi ích nhiều mặt cho người dân,
từ cây rau người nông dân có thể làm giàu chính đáng trên mảnh đất của mình.
1.3. Sơ lƣợc tình hình sản xuất, tiêu thụ rau trên thế giới và Việt Nam
1.3.1. Tình hình sản xuất, tiêu thụ rau trên thế giới
1.3.1.1. Tình hình sản xuất rau trên thế giới
Rau là cây trồng ngắn ngày, dễ trồng nên được loài người trồng và sử
dụng từ lâu. Người Hy Lạp, Ai Cập cổ đại đã biết trồng và sử dụng rau như
nguồn lương thực. Hiện nay khi xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu về rau
trong bữa ăn cũng tăng theo.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều chủng loại rau được gieo trồng, diện
tích trồng rau ngày càng gia tăng để đáp ứng nhu cầu về rau của người dân
(Mai Phương Anh, Trần Văn Lài, Trần Khắc Thi, 1996). Từ năm 2004 trở lại
đây, diện tích sản lượng rau trên thế giới không ngừng tăng.
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

13
Bảng 1.1 : Tình hình sản xuất rau trên thế giới qua các năm
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất (tạ/ha)
Sản lƣợng

(tấn)
2005
16.480.000
143.0
234.810.000
2006
16.880.000
143.5
243.280.000
2007
17.020.000
144.4
245.080.000
2008
17.630.000
141.6
249.660.000
2009
17.870.000
139.1
248.590.000
(Nguồn: FAO – 2011)
Qua bảng 2.1 cho thấy, nhìn chung diện tích, sản lượng rau thế giới
tăng dần từ năm 2005 đến nay. Năm 2005 diện tích là 16.480.000ha nhưng
đến năm 2009 đã mở rộng diện tích trồng rau lên 17.870.000ha, tăng 1,08%
so với năm 2005. Năng suất nhìn chung trong những năm gần đây năng suất
giảm dần nhưng không đáng kể, từ 143.0 tạ/ha (năm 2005) giảm xuống 139.1
tạ/ha (năm 2009). Sản lượng rau từ năm 2005 trở lại đây tuy năng suất rau
không tăng nhưng do diện tích tăng qua các năm nên sản lượng rau trên thế
giới đã tăng rõ rệt, bình quân hàng năm tăng 3.450.000 tấn/năm. Điều đó

chứng tỏ nghề trồng rau trên thế giới đang có xu hướng phát triển nhanh
chóng, vì rau xanh trở thành nhu cầu thiết yếu với đời sống của con người.
Cây rau phân bố không đều giữa các nước và châu lục trên thế giới, qua
tìm hiểu chúng tôi thu thập được kết quả sau:
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

14
Bảng 1.2: Tình hình sản xuất rau ở một số khu vực trong năm 2009
Khu vực
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(tấn)
Thế giới
17.870.000
139.1
248.590.000
Châu Âu
650.000
168.2
10.930.000
Châu Á
14.430.000
150.1
215.220.000
Châu Mỹ
560.000

121.7
6.780.000
Châu Phi
2.290.000
65.9
15.120.000
Châu Úc
30.000
174.5
540.000
(Nguồn: FAO - 2011)
Qua bảng số liệu trên cho thấy: Trong các châu, châu Á có diện tích
trồng rau lớn nhất chiếm 80,24% (14.340.000 ha) diện tích rau của thế giới
trong khi đó Châu Úc chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ bằng 0,17% (30.000 ha) diện
tích rau của thế giới.
- Về năng suất: Châu Úc là châu lục có năng suất rau cao nhất thế giới
đạt 174.5 tạ/ha, đứng thức 2 là châu Âu có năng suất bình quân lớn hơn thế
giới là 2,91 tấn/ha (168.2 tạ/ha), tiếp theo là châu Á và châu Mỹ (121.7 tạ/ha
và 150.1 tạ/ha) và thấp nhất là châu Phi có năng suất là 65.9 tạ/ha, thấp hơn
năng suất trung bình của thế giới 2,12 lần.
- Về sản lượng: Châu Úc có sản lượng rau thấp nhất đạt 540.000 tấn và
cao nhất là châu Á với sản lượng đạt 215.220.000 tấn chiếm 85,47% sản lượng
rau thế giới. Trong đó Trung Quốc có sản lượng rau đạt 147.212.000 tấn, cao
hơn rất nhiều so với Mỹ, Nhật, Pháp, Thái Lan, Việt Nam và nhiều nước khác.
Sau Trung Quốc là Ấn Độ có sản lượng rau đạt 29.117.000 tấn, Philippin đạt
4.500.000 tấn. Bên cạnh sự ra tăng về năng suất và sản lượng thì chất lượng rau
cũng được nhiều nước trên thế giới quan tâm, nhiều công nghệ tiên tiến ra đời
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


15
và việc kiểm soát dư lượng hóa chất tồn đọng trong rau ngày càng được thực
hiện triệt để hơn (Faostat, 2011).
1.3.1.2. Tình hình tiêu thụ rau trên thế giới
Về nhu cầu tiêu thụ rau trên thế giới, theo FAO từ năm 2007 - 2010,
mỗi năm tăng bình quân 3,6%, trong khi đó tốc độ tăng trưởng về sản lượng
chỉ khoảng 2,8%. Như vậy thị trường rau trên thế giới chưa đáp ứng được nhu
cầu tiêu thụ. Trong những năm qua, nhu cầu nhập khẩu rau bình quân trên thế
giới tăng 1,8% mỗi năm.
Tình hình thị trường rau quả thế giới năm qua do hướng biến động thị
trường rau quả thế giới sẽ giảm dần từ năm 2008 bởi nguồn cung dần bắt kịp nhu
cầu và người dân cũng bắt đầu thay đổi thói quen ăn uống của mình, nhất là người
dân ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, là sử dụng nhiều rau quả
hơn trước đây.
Tại Nhật Bản, Bộ Nông – Lâm – Ngư nghiệp Nhật Bản cho biết sẽ thực
hiện một chiến dịch khẩn cấp nhằm thúc đẩy mức tiêu thụ rau quả vốn giảm
mạnh trong thời gian gần đây. Hiện nay, sản lượng rau của Nhật Bản vẫn duy
trì ở mức trung bình như những năm trước. Tuy nhiên, giới trẻ Nhật Bản và
một bộ phận người dân Nhật Bản đang có xu hướng giảm ăn rau dẫn đến mức
tiêu thụ giảm sút, khiến giá rau của Nhật Bản thấp hơn từ 20 - 30% so với
những năm trước đây và khiến nhà sản xuất gặp nhiều khó khăn.
Tại Trung Quốc, nhiệt độ thấp và lượng mưa kéo dài đã gây thiệt hại
cho ngành nông nghiệp của tỉnh đảo Hải Nam, Trung Quốc ước tính khoảng
993 triệu nhân dân tệ (gần 138 triệu USD). Đây là đợt rét khắc nghiệt nhất
trong vòng 39 năm qua tại tỉnh này. Tổng diện tích lúa và rau hoa quả bị thiệt
hại khoảng 107 nghìn ha, gây tổn thất về kinh tế 620 triệu nhân dân tệ. Cùng
với đó là các loại cây trồng nhiệt đới như cao su, hạt tiêu và dừa gây thiệt hại
khoảng 179 triệu nhân dân tệ. Dự báo giá dưa quả và rau của tỉnh Hải Nam sẽ
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN


16
tăng trong thời gian sắp tới do sản lượng tại hầu hết các địa phương của Trung
Quốc đều bị sụt giảm vì thời tiết xấu.
Tại Liên minh châu Âu (EU), để đối mặt với sự khan hiếm rau quả và
giá lương thực tăng cao trên thị trường thế giới, EU đã kêu gọi các nước thành
viên nới lỏng quy định về hình dạng, mẫu mã các sản phẩm nông nghiệp, để
mọi người dân đều có thể hưởng thụ các sản phẩm này. Các mặt hàng được đề
nghị nới lỏng bao gồm một số nông sản thiết yếu như: đậu nành, bí xanh, dưa
chuột, hành tây, tỏi tây, dưa quả,
Xuất khẩu rau quả tươi của các nước EU chủ yếu là trong nội bộ khối
EU. Thị trường xuất khẩu ngoài EU chỉ chiếm dưới 20% giá trị xuất khẩu mặt
hàng này của khối. Một số thị trường nhập khẩu tiêu biểu rau quả từ EU là
Thụy Sỹ, Mỹ, Nga và Na Uy. Điều kiện khí hậu khá khắc nghiệt ở Châu Âu
đã gây cản trở rất nhiều đến việc trồng trọt của họ. Do đó, các nước EU nhập
khẩu khá nhiều các loại rau quả. Những nước nhập khẩu hàng đầu EU là Đức,
Anh, Pháp và Hà Lan chiếm hơn 70% giá trị nhập khẩu rau quả toàn EU.
Có thể nói, rau tươi là một trong những mặt hàng nông nghiệp xuất
khẩu có giá trị, hơn nữa nhu cầu rau trên thế giới ngày một tăng bởi vậy rau
có vị trí lớn trên thị trường thế giới.
1.3.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ rau ở Việt Nam
1.3.2.1. Tình hình sản xuất rau ở Việt Nam
Rau là loại thực phẩm đã có từ lâu đời ở nước ta, từ thời vua Hùng
người ta đã phát hiện thấy bầu, bí trong vườn của gia đình. Theo sổ sách ghi
chép thì rau được nhập vào nước ta từ thế kỷ X.
Năm 1783 - 1792, Lê Quý Đôn đã tiến hành tổng kết các vùng phân bổ
rau. Năm 1929 ở nước ta đã trồng rau cải trắng và khoai tây. Có thể nói nghề
trồng rau ở nước ta bắt đầu từ rất sớm, những năm trước đây do nền kinh tế tự
cung, tự cấp kéo dài, nghề trồng rau ở nước ta rất manh mún, chưa được phát
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

17
triển. Các chủng loại rau còn nghèo, diện tích và sản lượng rau quá thấp so
với tiềm năng đất đai, khí hậu cùng với đức tính cần cù của nông dân Việt
Nam, theo thống kê lúc bấy giờ sản lượng rau chỉ đạt tới 3.225 – 3.250 nghìn
tấn. Vùng sản xuất rau lớn tập trung ở đồng bằng sông Hồng với 27 - 28%
diện tích và chiếm 32 - 33% tổng sản lượng rau của cả nước. Đây cũng là
vùng rau gieo trồng được nhiều loại rau ôn đới như : cải bắp, súp lơ, su hào,
Theo số liệu thống kê từ năm 2004 đến nay (Abbott, 1925) sản xuất rau
không ngừng tăng nhanh không chỉ đáp ứng cho nhu cầu rau trong nước, cho
công nghiệp chế biến mà còn để xuất khẩu, điều này được thể hiện qua giai
đoạn từ năm 2001 - 2005.
Bảng 1.3 : Diện tích, năng suất và sản lượng rau quả Việt Nam
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lƣợng
(tấn)
2004
520.000
124.038
6.450.000
2005
525.000
125.714
6.600.000
2006

525.000
125.714
6.600.000
2007
525.000
125.714
6.600.000
2008
525.000
125.714
6.600.000
(Nguồn: FAO – 2009)
Qua bảng 1.2 có thể thấy diện tích rau của nước ta được mở rộng từ
520.000 ha năm 2004 lên 525.000 ha năm 2005, tăng 5.000 ha tương đương
0,96%. Từ năm 2005 đến năm 2008, diện tích năng suất, sản lượng rau phát
triển ổn định, không có sự tăng trưởng giữa các năm.
Theo tác giả Phạm Thị Thuỳ (2005) thì năng suất rau xanh ở nước ta còn
thấp và bấp bênh, năm 1998 năng suất cao nhất cũng chỉ đạt 144,8 tạ/ha bằng
80% so với mức trung bình của toàn thế giới (xấp xỉ 180 tạ/ha). Nếu so với
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

18
năm 1990 là 123,5 tạ thì năng suất bình quân cả nước trong 10 năm cũng chỉ
tăng 11,5 tạ/ha. Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, Đà Lạt là các
tỉnh có năng suất rau cao hơn cả nhưng cũng chỉ đạt năng suất bình quân ở mức
160 tạ/ha. Năng suất trung bình thấp nhất là ở tỉnh miền Trung, chỉ bằng một
nửa so với năng suất trung bình cả nước.
Cây rau có thể sinh trưởng ở mọi vùng sinh thái, nhưng do yêu cầu tiêu
dùng của xã hội nên được sản xuất tập trung ở một số vùng, có sản lượng lớn

và diện tích tập trung.
Diện tích trồng rau nằm chủ yếu ở hai khu vực: đất trồng rau
trong luân canh với hai vụ lúa và các cây trồng khác và đất chuyên canh
rau tập trung.
Khu vực đất trồng rau trong luân canh với hai vụ lúa và các cây trồng
khác có diện tích khoảng 241.000ha, sản lượng 3,05 triệu tấn, chiếm 65,3%
diện tích và 63% tổng sản lượng rau cả nước.
Vùng đất chuyên canh rau tập trung tại: Đà Lạt, thành phố Hồ Chí
Minh và quanh các thành phố lớn khác diện tích 130.000 ha, sản lượng 1,78
triệu tấn. Diện tích gieo trồng chiếm 34,7% và sản lượng chiếm 37% tổng sản
lượng cả nước.
Ngoài ra ở Việt Nam còn hình thành một số vùng tập trung sản xuất
một số loại rau:
- Vùng trồng cải bắp, gồm các địa phương: Hà Nội, Hải Dương, Hưng
Yên, Hải Phòng.
- Vùng trồng khoai tây: Hà Nội, Nam Định, Thái Bình, Bắc Ninh, Bắc
Giang, Hưng Yên.
- Vùng trồng cà chua: Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng.
- Vùng trồng hành tây, gồm các địa phương: Vĩnh Phúc, Nam Định, Hà
Nam, Ninh Bình, Phan Rang.
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

19
- Vùng trồng tỏi ta: Bắc Giang, Hải Dương, huyện đảo Lý Sơn
- Vùng trồng ớt: Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng,
Thái Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang (Bùi Bảo Hoàn, Đào Thanh Vân, 2000).
1.3.2.2. Những thuận lợi, khó khăn trong sản xuất rau ở Việt Nam
* Thuận lợi:
Việt Nam nằm trong miền nhiệt đới có gió mùa, vị trí địa lý độc đáo, một

phía gắn liền với lục địa, một phía thông với biển Đông, có địa hình chạy dài
suốt 15 vĩ độ, có khí hậu đa dạng và có 4 mùa phân biệt nên các giống cây nhiệt
đới và ôn đới đều có thế sinh trưởng, phát triển và cho năng suất cao.
Nghề trồng rau ở Việt Nam đã có từ lâu đời, nhân dân ta đã có nhiều
kinh nghiệm, người Việt Nam cần cù, do đó đáp ứng được yêu cầu cơ bản của
nghề trồng rau là cần đầu tư nhiều công lao động cho chăm sóc rau.
Đảng và Nhà nước ban hành nhiều chính sách mới, được tiếp tục hoàn
thiện trong thực tiễn, tạo hành lang pháp lý ngày càng thuận lợi cho hoạt động
sản xuất kinh doanh rau phát triển.
Những năm qua trong cơ chế mới, quan hệ giữa Việt Nam và nhiều
nước trên thế giới được thiết lập tạo điều kiện cho việc nhập và sản xuất các
chủng loại rau mới. Công nghệ chế biến được củng cố và phát triển, tạo điều
kiện cho nghề trồng rau vừa tăng về số lượng vừa tăng về chất lượng và mang
lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho người sản xuất.
Hàng loạt những tiến bộ khoa học công nghệ mới trong nước và thế
giới đã được áp dụng vào sản xuất rau ở nước ta trong đó công nghiệp chế
biến sẽ là tác nhân mạnh tạo ra bước ngoặt mới để tăng nhanh năng suất,
chất lượng sản phẩm.
Kinh tế đối ngoại có nhiều cơ hội phát triển, thị trường rau và các sản
phẩm chế biến từ rau ngày càng được mở rộng.
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

20
Có lực lượng các bộ khoa học nghiên cứu về rau có trình độ, năng lực,
nhiệt tình sẽ chọn tạo được nhiều giống rau tốt cho sản xuất đặc biệt các loại
rau có chất lượng cao và các loại rau trồng trái vụ. Hiện nay những khó khăn
về rau giáp vụ hầu như không còn nữa, các vùng ngoại thành các thành phố đã
cung cấp đủ rau cho người tiêu dùng quanh năm, đó là một bước tiến cần
đánh giá cao trong lịch sử nghề trồng rau ở Việt Nam.

* Khó khăn:
Cấu trúc địa hình phức tạp, ngoài hai đồng bằng chính là đồng bằng
sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, còn đại bộ phận diện tích (chiếm
2/3) là đồi núi.
Tuy nghề trồng rau những năm qua đã có những bước tiến đáng kể,
nhưng chưa đồng bộ, chỉ mới tập trung ở một số khu vực chuyên canh rau và
các vùng ven đô thị. Chưa có bộ giống cho từng vùng.
Nước ta có khí hậu nóng và ẩm là điều kiện cho sâu bệnh phát triển,
hơn nữa vì chạy theo lợi nhuận nên một số loại rau trong quá trình sản xuất
người sản xuất sử dụng bừa bãi các loại thuốc bảo vệ thực vật gây hiện tượng
quen thuốc, do đó sâu bệnh ngày càng phát triển mạnh hơn. Sản xuất rau của
nước ta còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, thường gây ra bão lụt, thiên tai,
gây nhiều rủi ro cho người sản xuất.
Chưa có một nền sản xuất lớn, sản xuất còn mang tính chất manh mún,
chưa áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất rau, do vậy
năng suất rau chưa cao, giá thành rau tăng, chưa coi trọng việc quản lý, cải tiến
kỹ thuật canh tác, chủ yếu tăng về năng suất chưa chú trọng đến chất lượng sản
phẩm nên rau tươi Việt Nam hiện nay chưa đảm bảo an toàn cho người sử dụng,
điều đó hạn chế rất lớn tới việc sản xuất rau xuất khẩu.
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

21
1.3.2.3. Tình hình tiêu thụ rau ở Việt Nam
Ở Việt Nam, rau được tiêu thụ hầu hết ở các hộ gia đình. Theo số liệu
điều tra có 100% hộ gia đình tiêu thụ rau. Bình quân tiêu thụ rau của người
Việt Nam là 54 kg/người/năm. Giá trị tiêu thụ rau hàng năm (bao gồm giá trị
tự trồng) là 126.000 đồng/người hoặc 529.000 đồng/hộ (chiếm khoảng 4%
tổng chi phí tiêu dùng). Trong một khảo sát khoa học gần đây của viện khoa
học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam về sản xuất và thương mại hàng hoá rau

cho thấy: tổng lượng rau tiêu thụ bình quân đầu người tăng hơn 2 lần so với
10 năm qua.
Việt Nam ngoài tiêu thụ rau trong nước còn xuất khẩu ra nước ngoài.
Theo số liệu thống kê chính thức của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất
khẩu rau hoa quả trong tháng 4 năm 2009 đạt gần 32,5 triệu USD, giảm 6,2%
so với tháng trước nhưng lại tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2008. Tính chung
4 tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu rau hoa quả của Việt Nam đạt
127,8 triệu USD, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm 2008. Trong bối cảnh xuất
khẩu khó khăn, xuất khẩu rau hoa quả giữ được đà tăng trưởng là một trong
những điểm đáng chú ý hiện nay (Rauhoaquavietnam.vn).
Thị trường xuất khẩu:
Tháng 4 năm 2009, cơ cấu thị trường xuất khẩu đã có sự thay đổi khi thị
trường Liên Bang Nga vượt qua Trung Quốc để vươn lên vị trí thứ nhất trong số
những nước nhập khẩu rau hoa quả của Việt Nam. Trong tháng 4 năm 2009, kim
ngạch xuất khẩu rau hoa quả của Việt Nam sang thị trường này đạt hơn 3,5 triệu
USD, tăng 56% so với tháng trước, tuy nhiên, so với cùng kỳ lại giảm nhẹ xuống
mức 3,76%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu sang Nga
đạt 12,5 triệu USD, giảm 2,7% so với cùng kỳ năm 2008.
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

22
Tiếp đến là Trung Quốc với tổng kim ngạch đạt hơn 3 triệu USD, tăng
34% so với cùng kỳ năm 2008. 4 tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu
rau hoa quả vào thị trường này đạt 12,9 triệu USD, tăng 22,4% so với cùng
kỳ năm 2008.
Kim ngạch xuất khẩu rau hoa quả sang Nhật Bản và Đài Loan trong 4
tháng đầu năm giảm nhẹ, chỉ đạt lần lượt 9,8 triệu USD và 5 triệu USD, giảm
0,85% và 45,9% so với cùng kỳ năm 2008.
Trong 4 tháng đầu năm nay, có một số thị trường rau hoa quả Việt Nam

chưa được xuất khẩu tới, cho dù đã được khai thác cùng kỳ năm 2008, đó là: Ấn
Độ, Ban Lan, Bỉ, UAE, Estonia, Séc, Thụy Điển và Thụy Sĩ
(Rauhoaquavietnam.vn).
1.4. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội vùng thực hiện nghiên
cứu đề tài
1.4.1 Tình hình sản xuất rau ở Thái Nguyên giai đoạn 2006 - 2010
Thái Nguyên có điều kiện khí hậu thuận lợi cho việc trồng các loại
rau nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ rau trong và ngoài tỉnh. Trong những
năm gần đây, diện tích, năng suất và sản lượng rau ở Thái Nguyên cũng
tăng lên đáng kể.
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

23
Bảng 1.4: Diện tích và sản lượng rau ở các huyện trong tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2006 – 2010
Địa điểm
Diện tích( ha)
Sản lƣợng( tấn)
2006
2007
2008
2009
2010
2006
2007
2008
2009
2010
Toàn tỉnh
7176

7982
8047
7724
8920
8523
99879
116745
117798
139635
TPTN
801
782
709
776
815
14774
14567
12492
13745
15382
Sông Công
276
300
349
381
421
2779
3147
4603
5455

6133
Định Hoá
664
684
725
651
778
5913
6059
8140
8983
10497
Võ Nhai
324
348
333
426
324
2667
3145
4175
5436
4448
Phú Lương
536
592
521
392
290
5952

5460
6520
4656
3718
Đồng Hỷ
1013
1211
1270
1055
1071
14758
18160
21908
18359
19469
Đại Từ
1002
1460
1572
1699
2417
10318
17470
22548
25158
36182
Phú Bình
1185
1220
1231

1178
1381
10931
13585
17010
17477
21326
Phổ Yên
1375
1448
1337
1166
1423
17140
18286
19349
18460
22480
( Nguồn: Cục thống kê Tỉnh Thái Nguyên tháng 3 năm 2011)
Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

24
Qua bảng 1.4 cho ta thấy từ năm 2006 đến năm 2010, sản xuất rau ở
Thái Nguyên tăng dần theo từng năm, điều đó chứng tỏ tình hình sản xuất rau
có xu hướng phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá. Cả diện tích và năng
suất đều tăng. Trong giai đoạn 2006 - 2010, diện tích đã tăng 1.744 ha ( tăng
1,24 lần). Về sản lượng tăng 39.756 tấn, tăng 1,36 lần. Tuy nhiên, diện tích và
sản lượng ở các huyện có sự chênh lệch khá rõ. Tính đến năm 2010, Đại Từ
vẫn là huyện có diện tích trồng rau lớn nhất đạt 2.417 ha, gấp 8,33 lần so với

huyện trồng ít rau nhất là huyện Phổ Yên đạt 290 ha. Về sản lượng, Đại Từ
dẫn đầu về sản lượng so với các huyện và Thành phố Thái Nguyên, đạt
36.182 tấn. Chứng tỏ huyện Đại Từ có đủ những điều kiện thuận lợi để sản
xuất rau theo hướng hàng hoá nhằm cung cấp sản phẩm cho huyện, cho thành
phố và cho các tỉnh khác.
Thành phố Thái Nguyên những năm gần đây có sự tăng giảm về cả
diện tích và sản lượng. Tính đến năm 2010 thành phố đều có năng suất và sản
lượng tăng so với các năm trước. Năm 2010, diện tích rau của thành phố đạt
8.920 ha và sản lượng đạt 15.382 tấn. Điều đó chứng tỏ, vai trò của rau xanh
đối với sức khoẻ con người là vô cùng cần thiết. Không những vậy, phát triển
rau xanh còn tạo công ăn việc làm cho người dân thành phố và là con đường
làm giàu chính đáng của người dân hiện nay.
Chủng loại rau được trồng ở Thái Nguyên cũng rất đa dạng, gồm
có nhiều loại rau phù hợp theo từng mùa. Tính trong vụ đông xuân
2009 - 2010 ở tỉnh Thái Nguyên có những loại rau như su hào, bắp cải,
rau muống,… Diện tích, năng suất và sản lượng một số loại rau chính
của Tỉnh Thái Nguyên được thể hiện trong bảng 1.5.


Cái Thị Lan Hương Chuyên ngành trồng trọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

25
Bảng 1.5: Diện tích, năng suất và sản lượng một số loại rau chính của
Tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn 2006 - 2010

Chỉ tiêu
Năm

Tên rau


2006

2007

2008

2009

2010

Diện tích
(ha)
Rau muống
2.231
2.482
2.502
2.394
2.790
Bắp cải
1.040
1.157
1.172
1.125
1.290
Su hào
958,0
1.066
1.054
1.012

1.194
Năng suất
(tạ/ha)
Rau muống
124,3
131,6
152,62
160,3
164,4
Bắp cải
133,9
141,8
164,38
172,7
177,1
Su hào
43,22
151,7
175,86
184,8
189,5
Sản lượng
( tấn)
Rau muống
27.73
33.666
38.182
38.386
45.873
Bắp cải

13.92
16.401
19.266
19.428
22.845
Su hào
13.72
16.163
8.536
18.692
22.622
(Nguồn: Cục thống kê Tỉnh Thái Nguyên tháng 3 năm 2011)
Qua bảng 1.5 ta thấy: Diện tích trồng các loại rau chính chiếm diện tích
cũng khá lớn, so với diện tích của toàn tỉnh năm 2010 thì các loại rau này cũng
chiếm một nửa diện tích. Tính đến năm 2010, diện tích các loại rau chính đều
tăng, tăng cao hơn là rau muống, tiếp đến là rau bắp cải, cuối cùng là là su hào.
Sở dĩ có điều đó là vì thời gian làm rau của rau muống kéo dài hơn hai loại rau
còn lại nên rau muống được dùng làm rau chính khi các loại rau còn lại mất
mùa hay sâu bệnh.
Năng suất và sản lượng các loại rau cũng tăng lên. Năng suất trung bình
của rau muống đạt 146,6 tạ/ha; rau bắp cải đạt 157,8 tạ/ha và rau su hào đạt
149,1 tạ/ha. Như vậy, năng suất trung bình của bắp cải cao hơn 11,2 tạ/ha; so
với rau muống và 8,7 tạ/ha so với su hào. Chứng tỏ, bắp cải vẫn chiếm ưu thế

×