Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

thực trạng sức khỏe tâm trí của học sinh tại trường trung học phổ thông việt đức – hà nội năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.43 KB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

VƯƠNG THỊ XUÂN
THỰC TRẠNG SỨC KHỎE TÂM TRÍ CỦA HỌC SINH
TẠI TRƯỜNG THPT VIỆT ĐỨC – HÀ NỘI NĂM 2012
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN Y TẾ CÔNG CỘNG
Hà Nội– 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

VƯƠNG THỊ XUÂN
THỰC TRẠNG SỨC KHỎE TÂM TRÍ CỦA HỌC SINH
TẠI TRƯỜNG THPT VIỆT ĐỨC – HÀ NỘI NĂM 2012
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN Y TẾ CÔNG CỘNG
MÃ SỐ ĐÀO TẠO:………….

Người hướng dẫn khóa luận:
ThS.BS. TRẦN QUỲNH ANH
Hà Nội – 2013
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này
em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, ủng hộ, chỉ dạy và giúp đỡ của các
thầy cô, các anh chị, các bạn và người thân.
Với tất cả sự kính trọng và lòng biết ơn chân thành em xin được gửi lời
cảm ơn sâu sắc tới:
TS.BS Trần Quỳnh Anh – giảng viên bộ môn Sức khỏe Môi trường –
Viện đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng - trường Đại học Y Hà Nội,
người cô trực tiếp hướng dẫn, chỉ bạo tận tình, chu đáo giúp em trong suốt
quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này.
Em cũng chân thành cảm ơn các thầy cô trong bộ môn Sức khỏe Môi


trường – Viện đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng - trường Đại học Y
Hà Nội đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu,
hoàn thành khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu cùng các thầy cô trường THPT
Việt Đức – Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong quá trình
thu thập số liệu để hoàn thành khóa luận của mình.
Cảm ơn các bạn trong lớp Y tế công cộng khóa 2009 – 2013 đã luôn
quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ mình trong suốt quá trình thực hiện khóa luận này.
Cuối cùng em cũng xin được cảm ơn cha mẹ và anh chị đã luôn ở bên
động viên, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận để em có
được kết quả như ngày hôm nay.
Hà Nội ngày 16 tháng 5 năm 2013.
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐTV Điều tra viên
CSSK Chăm sóc sức khỏe
RNTT Rối nhiễu tâm trí
SK Sức khỏe
SKTT Sức khỏe tâm trí
THPT Trung học phổ thông
VTN Vị thành niên
SAVY Survey Assessment of Vietnamese Youth (Điều tra Quốc gia về
Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam)
SDQ Strength and Difficulties Questionnaire (Bộ câu hỏi sàng lọc vấn
đề sức khoẻ tâm trí)
WHO World Health Organization (Tổ chức Y tế thế giới)
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu cảu riêng tôi. Các số
liệu trong khóa luận này là có thật, do tôi và các bạn thu thập một cách khách
quan, khoa học và chính xác.
Kết quả khóa luận này chưa được đăng tải trên bất kỳ tạp trí hay công

trình nghiên cứu khoa học nào.
Tác giả
Vương Thị Xuân
MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Mô tả thực trạng SKTT chung của học sinh
Biểu đồ 3.2: Mô tả thực trạng SKTT của học sinh theo lớp
Biểu đồ 3.3: Mô tả thực trạng SKTT của học sinh theo giới
Biểu đồ 3.4: Mô tả thực trạng SKTT của học sinh theo các nhóm vấn đề.
9
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sức khỏe (SK) là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã
hội và không phải chỉ bao gồm có tình trạng không có bệnh hay thương tật. Ngày
nay, cùng với sự phát triển của xã hội thì con người cũng ngày càng quan tâm
hơn đến việc chăm sóc sức khỏe cho bản thân, gia đình và xã hội. Vấn đề chăm
sóc sức khỏe tâm trí (SKTT) ngày càng được quan tâm và đầu tư hơn ở trên thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Trong những năm gần đây, vấn đề SKTT đang là một trong những vấn đề
nổi cộm và dành được nhiều sự quan tâm của người dân, đặc biệt là vấn đề
SKTT trẻ em và vị thành niên. Mọi trẻ em từ khi sinh ra đều có quyền được
hưởng chăm sóc y tế toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Chăm sóc sức khỏe
(CSSK) thể chất tạo điều kiện cho trẻ em phát triển thể lực, chiều cao, cân nặng,
hoàn thiện dần các chức năng của cơ thể, giảm khả năng mắc bệnh tật và tránh
được nguy cơ tử vong do bệnh tật. CSSK tinh thần lại đóng vai trò quan trọng
trong sự phát triển khả năng trí tuệ, phát triển mặt xã hội, tạo ra một sự cân bằng
về tâm lý tình cảm, phát triển tính tự lập, sự tự tin, tình yêu cuộc sống và các giá
trị đạo đức căn bản nhất của con người, giúp xây dựng và hình thành một nhân

cách lành mạnh, sáng tạo và chủ động. Để giúp trẻ có được sự phát triển toàn
diện, trẻ cần phải được chắm sóc cả SK thể chất lẫn SK tinh thần. Tuy nhiên, “so
với việc CSSK thể chất việc CSSK tâm thần là một lĩnh vực mới mẻ” [30] và
chưa được sự quan tâm ở mức cần thiết.
Lứa tuổi vị thành niên là một giai đoạn chuyển tiếp của sự phát triển từ tuổi
ấu thơ sang tuổi trưởng thành, đây là giai đoạn nẩy sinh nhiều rối nhiễu về tâm
lý nhất so với các lứa tuổi khác. Những thay đổi này vừa phức tạp, vừa đột biến
10
[2]. Ở giai đoạn này, các em phải chịu rất nhiều tác động tâm lý từ chính bản
thân mình do sự phát triển của cơ thể, đồng thời cũng chịu tác động rất nhiều từ
bên ngoài ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của các em như các quan hệ xã hội,
những yêu cầu của gia đình, thầy cô, nhà trường, xã hội… Đó là những nguyên
nhân gây ra nhiều thay đổi trong tâm tư, tình cảm của các em, nếu những thay
đổi đó không kiểm soát được sẽ gây ra những rối loạn tâm lý cho các em.
Hệ thống trường học luôn phải đương đầu với các đối tượng học sinh có vấn đề
về sức khoẻ tâm trí: những học sinh học kém, học sinh cá biệt thường gây nhiều
rắc rối do những phản ứng khác nhau cho giáo viên và gia đình mà chủ yếu là do
mức độ nhận thức của giáo viên, gia đình và cộng đồng còn hạn chế. Các vấn đề
sức khoẻ tâm trí cần được nhận biết sớm ngay từ khi có nguy cơ. Thực tế cho
thấy, trong nhà trường luôn luôn có một tỉ lệ học sinh có vấn đề về sức khoẻ tâm
trí. Theo một khảo sát cắt ngang tại Việt nam là 15, 94%, khảo sát dọc trong 1
năm học là 1,6% các em có rối nhiễu về tâm lý trong tổng số học sinh các cấp
học [13]. Nghiện ma tuý ở trẻ em dưới 15 tuổi chiếm 8% [4]. Lạm dụng chất
đang tăng nhanh chóng, với số thanh thiếu niên chiếm 70% số người nghiện.
Trong số các ca tự sát, 10% ở độ tuổi 10 đến 17 [8].
Các vấn đề sức khoẻ tâm thần ở tuổi trẻ nếu không được quan tâm phòng
ngừa và can thiệp phù hợp sẽ để lại nhiều hậu quả cho cá nhân, gia đình và xã
hội. Một trong những hậu quả nghiêm trọng của vấn đề là trẻ có thể có ý định tự
tử và thực hiện hành vi tự tử. Vấn đề sức khỏe tâm thần cũng có ảnh hưởng lớn
tới mối quan hệ của cá nhân với các thành viên trong gia đình, với bạn bè, ảnh

hưởng đến kết quả học tập tại trường, năng suất lao động cũng như sự phát triển
cá nhân nói chung. Vì vậy việc nhận thức đúng đắn, xác định rõ ràng vấn đề sức
11
khoẻ tâm thần và phòng ngừa, chăm sóc, điều trị sức khoẻ tâm thần cho lứa tuổi
học sinh có tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn.
Đã có một số nghiên cứu đánh giá về sức khỏe tâm thần của trẻ em Việt Nam.
Mặc dù kết quả không hoàn toàn nhất quán nhưng các nghiên cứu cho thấy một
xu hướng rõ ràng rẳng tỷ lệ trẻ em Việt Nam gặp các vấn đề sức khỏe tâm thần
là đáng kể. Điển hình là nghiên cứu của bệnh viện tâm thần Mai Hương năm
2005 cho thấy tỷ lệ mắc các vấn đề SKTT của học sinh trong các quận nội thành
là 19,46% [36], Hoàng Cẩm Tú và Đặng Hoàng Minh năm 2010 nghiên cứu trên
học sinh 2 trường trung học phổ thông (THPT) Nguyễn Trãi (Hà Nội) và Vân
Tảo (Hà Tây) cho thấy trẻ mắc các vấn đề SKTT chiếm 22,55% [6]. Trong
những năm gần đây ở nước ta đã có một số nghiên cứu đánh giá về vấn đề SKTT
nhưng những nghiên cứu về vấn đề SKTT của học sinh THPT còn hạn chế, mới
chỉ có 1 số nghiên cứu với quy mô nhỏ. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu
“Thực trạng sức khỏe tâm trí của học sinh tại trường trung học phổ thông
Việt Đức – Hà Nội năm 2012” với hai mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng sức khỏe tâm trí của học sinh tại trường THPT Việt Đức
– Hà Nội năm 2012.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến sức khỏe tâm trí của học sinh tại
trường THPT Việt Đức – Hà Nội năm 2012.
12
Chương 1
TỔNG QUAN
1. Một số khái niện cơ bản
1.1. Sức khỏe
Tuyên ngôn của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) 1982 tại Alma Ata đã
đưa ra khái niệm về sức khỏe: “Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái
về mặt thể chất, tâm thần và xã hội, chứ không phải chỉ là không có bệnh hay

thương tật” [2].
1.2. Tâm thần học và bệnh tâm thần
• Tâm thần học: là một bộ môn trong y học, có nhiệm vụ nghiên cứu các
biểu hiện lâm sàng, bệnh nguyên, bệnh sinh của các bệnh Tâm thần;
nghiên cứu chẩn đoán, điều trị và các biện pháp phòng chống các bệnh
này.[3].
• Bệnh tâm thần: là những bệnh do hoạt động của não bộ bị rối loạn bởi
nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra (nhiễm khuẩn, nhiễm độc, chấn
thương sọ não, bệnh cơ thể, sang chấn tâm thần…) làm rối loạn chức
năng phản ánh thực tại. Các quá trình cảm giác, tri giác, tư duy, ý
thức… bị sai lệch cho nên bệnh nhân tâm thần có những ý nghĩ, cảm
xúc, hành vi không phù hợp với thực tại, môi trường xung quanh [3].
1.3. Sức khỏe tâm thần và rối loạn tâm thần
• Sức khỏe tâm thần là trạng thái không chỉ không có các rối loạn và dị
tật tâm thần mà còn là trạng thái tâm thần hoàn toàn thoải mái. Một sự
tin tưởng vào giá trị của bản thân, vào phẩm chất giá trị của người
khác. Có khả năng ứng xử với thế giới nội tâm về tư duy, cảm xúc,
13
quản lý cuộc sống và chấp nhận sự nguy hiểm. Có khả năng tạo dựng ,
phát triển và duy trì thỏa đáng các mối quan hệ cá nhân. Có khả năng
tự hàn gắn sau các sang chấn tâm thần [3].
• Rối loạn tâm thần là một nhóm các triệu chứng hoặc hành vi có thể
nhận ra được về mặt lâm sàng trong đa số các trường hợp, kết hợp với
sự đau khổ và với việc cản trở các hoạt động cá nhân [3].
1.4. Sức khỏe tinh thần
Sức khỏe tinh thần là một khái niệm ám chỉ tình trạng tâm thần và cảm
xúc tốt của mỗi cá nhân. Theo tổ chức y tế thế giới, không có định nghĩa chính
thức cho sức khỏe tinh thần. Các nền văn hóa khác nhau, các đánh giá chủ quan
và các giả thuyết khoa học khác nhau đều có ảnh hưởng tới định nghĩa về khái
niệm "sức khỏe tinh thần". Mặt khác, tình trạng thoải mái, không có rối loạn nào

về tinh thần chưa chắc đã được coi là sức khỏe tinh thần [1].
Có một cách để nhận xét sức khỏe tinh thần là xem xem một người thể
hiện chức năng của mình thành công tới mức nào. Cảm thấy có đủ khả năng tự
tin, có thể đối mặt với những mức tình trạng căng thẳng ở bình thường, luôn giữ
được các mỗi quan hệ một cách thoải mái, có một cuộc sống độc lập, và dễ hồi
phục sau những tình huống khó khăn đều được coi là các dấu hiệu của một sức
khỏe tinh thần.
1.5. Rối nhiễu tâm trí (RNTT)
1.5.1. Định nghĩa
Rỗi nhiễu tâm trí là một trong những triệu chứng bất thường về tâm lý
(hoặc mẫu hành vi ứng xử bất thường) có ý nghĩa về mặt lâm sàng, chúng xảy ra
ở một cá nhân và liên quan đến những stress tiêu cực hoặc liên quan đến việc
làm mất năng lực cá nhân hoặc làm tăng đáng kể sự nguy hiểm cho cá nhân qua
14
việc phải chịu đựng những cảm giác tiêu cực ( như ám ảnh về cái chết, sự đau
khổ, sự mất năng lực) hoặc sự mất mát đáng kể sự tự do của cá nhân [9].
1.5.2. Những biểu hiện rối nhiễu tâm trí
- Không có khả năng tiếp xúc lâu dài với người khác.
- Bỏ bê các hoạt động ở trường.
- Miễn cưỡng đến trường hay tham gia các hoạt động khác.
- Hiếu động, không ngồi yên một chỗ, đôi khi xung động, rối loạn
khả năng tập trung.
- Không vâng lời, bướng bỉnh.
- Thiếu năng lượng và động lực hoạt động.
- Dễ nổi cáu.
- Cách ly xã hội.
- Khóc quá nhiều.
- Cảm giác thất vọng, vô dụng.
- Ý tưởng hoặc hành vi kỳ quặc.
1.5.3. Các rối nhiễu tâm trí thường gặp ở trẻ em và thanh thiếu niên

1.5.3.1. Rối loạn cảm xúc
- Rối loạn trầm cảm:
+ Định nghĩa trầm cảm: là một chứng rối loạn thuộc nhóm rối loạn
khí sắc, thể hiện sự ức chế của cảm xúc, tư duy và vận động, trong
đó cảm giác buồn diễn ra nặng quá mức bình thường và kéo dài ít
nhất là hai tuần, có thể ảnh hưởng đến công việc, học tập, cuộc sống
gia đình và xã hội của con người.
+ Tiêu chuẩn chẩn đoán theo ICD – 10F(1992)
• Có 3 triệu chứng chủ yếu:
Khí sắc trầm
Mất mọi quan tâm, thích thú
Giảm năng lượng dẫn đến mệt mỏi và giảm hoạt động
• Có 7 triệu chứng phổ biến khác:
Giảm tập trung chú ý
Giảm tự trọng và lòng tin
Có những ý tưởng bị tội và không xứng đáng
15
Nhìn tương lai ảm đạm và bi quan
Có ý tưởng và hành vi tự sát
Rối loạn giấc ngủ
Ăn không ngon miệng
- Rối loạn lo âu quá mức:
Dấu hiệu:
+ Trẻ lo âu quá đáng, không có cơ sở thực tế và kéo dài về các sự
kiện tương lai, luôn bận tâm lo nghĩ về năng lực và thành tích trong
các lĩnh vực học tập, xã hội, thi cử, thể thao…
+ Có nhiều rối loạn thể chất như khó ngủ, ác mộng, đau đầu, hồi
hộp, khó thở, rối loạn tiêu hóa nhưng nhiều khi không phát hiện tổn
thương thực thể nào.
+ Có thể có các biểu hiện khác như hay bằn gắt, căng thẳng, khó tập

trung chú ý, ám ảnh sợ đơn thuần, ám ảnh sợ xã hội, ám ảnh sợ học
đường, không tham gia các hoạt động với các bạn cùng lứa tuổi.
- Lo âu học đường
Dấu hiệu:
+ Thường than phiền là đau bụng vào mỗi sáng thứ hai.
+ Gặp khó khăn trong việc quyết định đến trường.
+ Thường quên đồ dùng học tập và thường đến trường muộn.
+ Ghét đi học.
+ Thường ở nhà vì “ốm đi học” và khỏe ra vào sáng hôm sau.
+ Đau đầu.
+ Bám bố mẹ.
+ Đau bụng thời gian dài.
+ Lo lắng mình hoặc người thân sẽ bị thương.
+ Ác mộng.
+ Nổi khùng khi bị ép đến trường.
+ Hay dỗi, cáu kỉnh.
+ Trốn học.
+ Cảm thấy mệt mỏi.
1.5.3.2. Rối loạn tăng động – giảm chú ý
16
- Định nghĩa: trẻ biểu hiện hành vi hiếu động và kém tập trung ở mức
trầm trọng, nó tác động tới trẻ khi ở nhà, lúc tới trường và nơi công
cộng.
- Dấu hiệu:
• Hiếu động
• Cáu giận, dễ bùng nổ vì những lý do không đáng kể
• Nghịch ngợm, nói chuyện và ngắt lời người khác
• Khả năng chú ý giảm, hay đãng trí, kém tập trung, thiếu bền bỉ
• Thường bỏ dở công việc đang làm, không hoàn thành các nhiệm vụ
• Có tính bốc đồng

• Không thể đợi đến lượt của mình khi chơi hat trong khi nói
chuyện với người khác
• Gặp khó khăn trong học tập, không chú ý nghe lời thầy cô dặn
nên thường không làm bài tập về nhà
• Sống vô tổ chức, bừa bãi, hay quên, mất đồ dùng, dụng cụ học tập.
1.5.3.3. Rối loạn hành vi
Các biểu hiện chính (theo hội Tâm thần học Hoa Kỳ - 1994) các rối
loạn hành vi ở trẻ em và thanh thiếu niên được tập hợp thành bốn
nhóm chính:
- Xâm hại người khác hay xúc vật, bao gồm:
+ Hay bắt nạt, đe dọa hay uy hiếp người khác
+ Hay gây sự đánh nhau
+ Dùng vũ khí có thể gây hại nghiêm trọng thân thể người khác
+ Hành vi độc ác về thân thể với người khác, với xúc vật
+ Ăn cắp đối mặt với nạn nhân
+ Cưỡng dâm
- Phá hoại tài sản
+ Cố ý gây cháy với ý định nghiêm trọng
+ Cố ý phá hoại tài sản của người khác
- Lừa đảo hay trộm cắp
- Vi phạm nghiêm trọng các luật lệ
+ Thường ở qua đêm ngoài gia đình
+ Trốn nhà
17
+ Trốn học
18
1.5.3.4. Tự sát
- Định nghĩa: tự sát là hành vi tự kết thúc cuộc đời.
- Dấu hiệu:
+ Thất vọng

+ Giảm sút năng lực học tập, khả năng chăm sóc
+ Viết hoặc làm các việc liên quan đến cái chết hoặc tự tử
+ Cảm giác vô vọng
+ Không tham gia nhóm bạn bè
2. Đặc điểm của lứa tuổi vị thành niên (VTN).
Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO) vị thành niên nằm trong độ tuổi từ 10
đến 19, cũng có một số nước coi VTN là từ 13 – 20 hoặc 15 – 24 tuổi [2]. Đây là
giai đoạn đặc biệt duy nhất của con người được đánh dấu bằng những thay đổi
đồng loạt và xen lẫn nhau từ giản đơn sang phức tạp, bao gồm: sự chín muồi về
thể chất, sự biến đổi điều chỉnh tâm lý và các quan hệ xã hội nhằm đáp ứng các
nhiệm vụ phát triển. Đây cũng là giai đoạn nẩy sinh nhiều RNTT nhất so với các
lứa tuổi khác.
Ở giai đoạn này trẻ có những biến đổi cả về thể chất và tâm lý xã hội.
Những biến đổi về thể chất quan trọng nhất là quá trình dậy thì. Các công trình
nghiên cứu ở lứa tuổi này cho thấy đa số các em bước vào tuổi dậy thì không có
khủng hoảng phát triển, chỉ có khoảng 20% trẻ em độ tuổi này có khó khăn trong
sự phát triển tâm lý [2]. VTN là giai đoạn có nhiều trạng thái căng thẳng đối với
mọi người, họ rất quan tâm đến hình ảnh của cơ thể mình và các mối quan hệ với
gia đình và bạn bè. Sự bối rối, xấu hổ, mối quan tâm và lo lắng của họ ảnh
hưởng đến cảm giác về giá trị bản thân.
Do các đặc điểm của hệ thần kinh và nội tiết đang phát triển nên VTN dễ
mất cân bằng về tâm lý và cảm xúc, các biểu hiện và nhịptim đập nhanh, huyết
áp tăng, hoa mắt, chóng mặt, đau đầu, dễ nổi nóng. Đôi khi các em cảm thấy khó
khăn trong việc tự kiềm chế khi bị kích động và gây nên những phản ứng không
19
mong muốn. Đây cũng là giai đoạn trẻ muốn thử sức mình và khám phá cái mới
để khẳng định mình là người lớn; có xu hướng tư tưởng hóa vị tha (định hướng
vào cái tôi xã hội), quan tâm nhiều hơn đến việc phát triển các kỹ năng giao tiếp,
cách ứng xử mới, tác phong đĩnh đạc để đối diện với môi trường xã hội ngày
càng mở rộng.

3. Thực trạng sức khỏe tâm trí của học sinh THPT hiện nay
3.1. Trên thế giới
Trên thế giới, lứa tuổi VTN chiếm khoảng 20-30% dân số [6], trong đó
có tới 7 đến 10% trẻ em và thanh thiếu niên mắc phải các rối loạn tâm thần cần
điều trị. Tỉ lệ này cao hơn ở các vùng đô thị đông dân có nhiều yếu tố xã hội
không thuận lợi, đặc biệt ở tuổi dậy thì. Những trạng thái tâm lý bệnh học trẻ em
thường gặp là: Hành vi gây rối và chống đối xã hội (những rối loạn bên ngoài)
có tỉ lệ mắc là 3-5%; Rối loạn cảm xúc (những rối loạn bên trong) có tỉ lệ gặp là
2-5%; những trở ngại tâm lý và rối loạn dạng cơ thể chiếm 1-3%. Hiếm gặp hơn
là các rối loạn tâm thần trẻ em và rối loạn sự phát triển nói chung (bệnh tự kỷ)
gặp 0,1% [31]. Những rối loạn hành vi gây rối và chống đối xã hội thường gặp ở
trẻ trai nhiều gấp 2 đến 3 lần trẻ gái. Tỉ lệ giữa nam và nữ tương đồng hơn với
các rối loạn cảm xúc. Trẻ gái lại hay gặp trầm cảm và chứng biếng ăn nhiều hơn
so với trẻ trai.
Những nghiên cứu gần đây đã cho biết mức độ phổ biến của các rối
loạn tâm lý ngày càng gia tăng. Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới, trên
25% dân số thế giới bị rối loạn tâm trí và hành vi tại một thời điểm nào đó trong
cuộc đời [34]. Năm 1996, nghiên cứu về gánh nặng bệnh tật của thế giới của Đại
học Harvard, WHO và Ngân hàng thế giới cho biết gánh nặng toàn cầu của các
rối loạn tâm thần chiếm 10,5% gánh nặng bệnh tật, tuy nhiên vẫn được cho là
20
thấp hơn so với thực tế. Cũng trong nghiên cứu này, ước tính gánh nặng bệnh tật
do bệnh tâm thần và thần kinh sẽ tăng lên với tốc độ cao hơn so với bệnh tim
mạch và chiếm khoảng 15% vào năm 2020 [33].
Theo báo cáo năm 2001 của Tổ chức Y tế thế giới, tổn thương tinh thần
chiếm tỷ lệ khoảng 12% trên tổng số bệnh. Những năm gần đây, các quốc gia
trên thế giới đều lo ngại tỷ lệ này tăng lên, đặc biệt là số lượng những trẻ em và
VTN trải nghiệm những khó khăn, có những biểu hiện có vấn đề ở mặt SKTT
trong quá trình phát triển, trong quá trình học tập và trong cuộc sống nói chung.
Ở Mỹ, vào năm 1999, tỷ lệ trẻ em từ 9 – 17 tuổi có vấn đề SKTT là 21%, ở

Canada trẻ từ 1 – 16 tuổi là 18% (năm 1989), ở Nhật Bản trẻ từ 12 – 15 tuổi là
15% (năm 1993) và ở Ấn Độ trẻ từ 1- 16 tuổi là 12,8% (năm 1999) [12]. Tỷ lệ
này được dự báo là sẽ đặc biệt tăng ở các nước đang phát triển như Việt Nam.
Bởi vì Việt Nam đang phải đối mặt với các vấn đề đô thị hóa nhanh chóng (dẫn
đến ô nhiễm môi trường, thay đổi cơ cấu gia đình, số lượng lớn gia cư không ổn
định…), những thay đổi kinh tế vĩ mô (thay đổi cơ cấu việc làm, thất nghiệp…)
kéo theo các xung đột văn hóa, xã hội (phân hóa giàu nghèo, xung đột giá trị,
chuẩn mực…). Chính vì vậy Tổ chức Y tế thế giới đã khuyến cáo chính phủ các
nước đang phát triển về việc chăm sóc SKTT trẻ em và vị thành niên trong giai
đoạn mới.
Theo Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia Mỹ (NIMH), khoảng 26%
người Mỹ trưởng thành trên 18 tuổi bị một số loại rối loạn tâm thần. Năm 1994
nghiên cứu khảo sát trên toàn quốc gia (NCS) cho biết 30% số người được hỏi đã
từng có biểu hiện triệu chứng của rối nhiễu tâm lý ít nhất một năm trước. Cuộc
khảo sát cũng chỉ ra rằng gần một nửa số người lớn đã từng trải qua một vài loại
rối nhiễu tâm lý tại một số thời điểm trong cuộc sống của họ. Theo kết quả một
21
cuộc điều tra của nhóm nghiên cứu tại trường Đại học Hokkaiddo, Nhật Bản,
tình trạng học sinh nước này mắc chứng trầm cảm đang ở mức báo động, với tỉ
lệ 1/10 [7].
Các nghiên cứu ở Anh năm 2000 chỉ ra tỉ lệ chung trẻ em và vị thành niên
từ 4 đến 18 tuổi trong cộng đồng có rối loạn tâm thần (mental disorders) vào
khoảng 15% trong khi đó, tỉ lệ trẻ từ 9 đến 17 tuổi ở Mỹ năm 2005 là 20,9%, ở
Puerto Rico năm 2004 là 19.8 % [6]. Các số liệu nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ
lệ vị thành niên có biểu hiện rối loạn tâm thần tại một số nước phát triển như Úc,
Mỹ, Đức, Thụy Sỹ, Tây Ban Nha đều trên 20% [34].
Tại Trung Quốc, các nhà nghiên cứu thấy rằng áp lực từ các kỳ thi chuyển
cấp và gánh nặng học tập có liên quan đến tình trạng sức khỏe tâm trí kém ở các
học sinh Trung Quốc [24], không những thế, áp lực học tập cao cũng có thể dẫn
đến bạo lực và các vấn đề phát triển [23].

3.2. Tại Việt Nam
Việt nam có dân số xấp xỉ 86 triệu trong đó trẻ em dưới 16 tuổi chiếm
khoảng 30%. Tuy nhiên, hiểu biết của dân chúng về vấn đề chăm sóc sức khoẻ
tâm trí trẻ em còn nghèo nàn, chỉ có một số lượng nhỏ nhân viên làm việc trong
hệ thống này và những nhân viên này còn thiếu những kĩ năng cần thiết. Bên
cạnh đó, những nghiên cứu về tỷ lệ mắc cũng như các yếu tố liên quan tới vấn
đề sức khỏe tâm trí ở trẻ em đang chỉ ra rằng trẻ em Việt nam có thể có nguy cơ
mắc vấn đề sức khỏe tâm trí tăng lên.
Theo kết quả nghiên cứu của bệnh viện tâm thần Mai Hương năm 2005 cho
thấy tỷ lệ mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần của học sinh trong các quận nội
thành là 19,46% [36], tỷ lệ này đối với nam, nữ, tiểu học, trung học cơ sở, nội
thành, ngoại thành không có gì khác biệt. Nghiên cứu cũng chỉ ra có 15,94% em
22
có rối nhiễu về tâm lý trong tổng số học sinh các cấp học, lạm dụng chất gây
nghiện đang tăng nhanh chóng, với số thanh thiếu niên. Trong số các ca tự sát
10% ở độ tuổi 10 – 17. Nghiên cứu 21.960 thanh thiếu niên Hà Nội phát hiện
3,7% em có rối loạn hành vi. Lứa tuổi từ 10-11 có tỷ lệ 42-46% gặp khó khăn về
ứng xử. Đặc biệt có sự chênh lệch rất lớn về khó khăn trong ứng xử giữa học
sinh nam (84.60%) và học sinh nữ (15,40%). Theo khảo sát của dự án, quận Hai
Bà Trưng có tỷ lệ học sinh gặp khó khăn về ứng xử cao nhất với 44,2%, so với
các quận còn lại là Hoàng Mai (28,8%), Từ Liêm (26,9%). Điều này cho thấy
ảnh hưởng của điều kiện sống, môi trường sống tác động đến hành vi ứng xử của
các em [37].
Theo kết quả điều tra dịch tễ mẫu do trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo
Phát triển Cộng đồng tiến hành trên 1.000 trẻ trong độ tuổi từ 8 - 17 ở 31 xã
thuộc 5 tỉnh, thành Lào Cai, Hưng Yên, Đà Nẵng, Phú Yên, Bến Tre từ năm
2001 đến 2005 cho thấy: Cứ 10 trẻ thì có 2 em bị rối nhiễu tâm trí. Một khảo sát
khác cũng của trung tâm này trong năm 2008 với nhóm phụ nữ mang thai 3
tháng cuối hoặc mới sinh con trong vòng 2 tháng tại Hà Nội và Hà Nam cho
thấy, tỷ lệ chị em bị rỗi nhiễu tâm trí tương ứng với mỗi tỉnh là 22% và 33%.

Một nghiên cứu khác tương tự của Ananda và Thuấn (2007) trên hai tỉnh miền
Trung cho kết quả tỷ lệ trẻ mắc các vấn đề SKTT là 9% [10].
Kết quả điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam năm
2008 (SAVY 2) mới được công bố cho thấy, trong số hơn 10.000 thanh thiếu
niên có hơn 73% người từng có cảm giác buồn chán, hơn 4% từng nghĩ đến
chuyện tử tử. So với số liệu cuộc điều tra trước đó vào năm 2003 (SAVY 1), các
chuyên gia nhận thấy tỷ lệ thanh thiếu niên trải qua cảm giác buồn chán đã tăng
lên. Đặc biệt, cảm giác nghĩ đến chuyện tự tử tăng lên khoảng 30% [7]. SAVY2
23
cho thấy thanh thiếu niên có cái nhìn lạc quan về cuộc sống trong tương lai,
không có sự khác biệt đáng kể về mức độ lạc quan giữa nam và nữ, giữa khu vực
thành thị và nông thôn, giữa các nhóm thanh niên có trình độ học vấn khác nhau,
cũng như giữa những người theo các tôn giáo khác nhau. Mặt khác, SAVY 2
cũng cho thấy có một tỷ lệ không nhỏ trong số họ còn có lúc có cảm giác tự ti
(29,9%), có cảm giác thất vọng, chán chường về tương lai (14,3%). Cuộc sống
gia đình, môi trường học tập, sự hài lòng với công việc, việc có hay không sử
dụng chất gây nghiện là những yếu tố có ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của
thanh thiếu niên [35].
Bác sĩ Trần Tuấn - Trung tâm Nghiên cứu và đào tạo phát triển cộng
đồng vừa cho biết qua điều tra về sức khỏe tâm thần thanh thiếu niên 8-17 tuổi
tại hai địa phương Đà Nẵng và Khánh Hòa, tỉ lệ bị rối nhiễu tâm trí là 11-22%.
Tỉ lệ mắc nói trên cho thấy rối nhiễu tâm trí thật sự là vấn đề y tế công cộng ở
Việt Nam, với mức độ tương ứng với nhiều nước trên thế giới. Nhiều nghiên cứu
chỉ ra các số liệu tương tự về tỉ lệ học sinh ở bậc trung học phổ thông có rối
nhiễu tâm trí như: Tại trường THPT Xuân Đỉnh Hà Nội (niên khóa 2004-2005)
có 17-19% số học sinh mắc stress và rối loạn lo âu; có 22-25% số học sinh
trường THPT Chuyên Quảng Bình (niên khóa 2007-2008) có rối loạn lo âu [18].
Nghiên cứu của Nguyễn Cao Minh về “Tỷ lệ trẻ em và VTN miền Bắc có
các vấn đề SKTT năm 2012” cho thấy có 18% trẻ trong nghiên cứu có vấn đề
SKTT, trong đó vấn đề trầm cảm chiếm tỷ lệ lớn nhất với 6,6% còn vấn đề về

chú ý chiếm tỷ lẹ ít nhất với 2,7%. Nghiên cứu cũng cho thấy nếu xét về giới
tính thì nam chiếm tỷ lệ 54,8% nhiều hơn nữ 45,2% trong tổng số các trẻ gặp
phải các vấn đề SKTT. Nếu xét về độ tuổi thì nhóm trẻ 13 tuổi chiếm tỷ lệ ít nhất
(14,3%) trong khi đó nhóm trẻ 16 tuổi và nhóm trẻ 12 tuổi cùng chiếm tỷ lệ cao
24
nhất (23,8%) trong tổng số trẻ mắc các vấn đề SKTT. Kết quả nghiên cứu cũng
chỉ ra rằng tổng số trẻ có nguy cơ mắc các vấn đề SKTT là 24% trong đó tỷ lệ trẻ
có nguy cơ gặp các vấn đề về sự chú ý là cao nhất (6%) còn tỷ lệ trẻ mắc các vấn
đề lo âu/trầm cảm là thấp nhất (2,6%). Và nếu xét theo giới thì trong tổng số
những trẻ thuộc nhóm nguy cơ, nam chiếm tỷ lệ ít hơn nữ (nam là 46,4% và nữ
là 53,6%) [14].
Tại hội nghị “Triển khai đề án trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho
người tâm thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2011 –
2012” tại Đà Nẵng ngày 27 tháng 11 năm 2012 vừa qua, WHO đã công bố số
người bị tâm thần và rối nhiễu tâm trí ở Việt Nam chiếm 10% dân số (khoảng 9
triệu người), trong đó có 200 nghìn người bị tâm thần phân liệt và hơn 2,4 triệu
người mắc các chứng rối loạn tâm thần nghiêm trọng, còn lại là những người
mắc các chứng rối loạn thường gây hậu quả về sức khỏe tâm thần như chứng
động kinh, khuyết tật thần kinh, tổn thương não… [11]. Một nghiên cứu khác
của Nguyễn Văn Siêm tại một phường của Thành phố Đà Nẵng, khảo sát toàn bộ
các hộ trong phường với tổng số hộ dân là 23758 cho kết quả: tỷ lệ mắc chung là
0,52 – 0,61% dân số; tỷ lệ mắc điểm là 0,49 – 0,53%. Một số nghiên cứu dịch tễ
khác về trầm cảm như của Nguyễn Văn Siêm (2010) cho biết tỷ lệ mắc bệnh
trầm cảm của một làng ven sông Hồng là 8,35% [16]. Bùi Hồng Tâm, Cao Tiến
Đức khảo sát tại Quảng Ninh cho biết tỷ lệ mắc tâm thần phân liệt là 0,21%;
động kinh là 0,12%; chậm phát triển tâm thần là 0,15%; nghiện rượu là 0,25%;
sa sút trí tuệ là 0,05% [5]. Nghiên cứu của Mckelvey và cộng sự về tỷ lệ của các
vấn đề hành vi, cảm xúc và các điểm mạnh của trẻ từ độ tuổi 4 đến 18 tuổi sống
tại Hà Nội cho thấy: nếu dựa trên điểm tiêu chuẩn của Mỹ, từ độ tuổi 4-11 có
5,3% trẻ nam và 7,7% ở trẻ nữ; độ tuổi từ 12-18 có 9,5% trẻ nam và 10,1% trẻ

25
nữ được coi là mắc các RLTT [25]. Nghiên cứu của Amstadter đánh giá mức độ
các RLTT ở thanh thiếu niên Việt Nam cho kết quả có 9,1% thanh thiếu niên
được cho là mắc phải các vấn đề về tâm thần [20].
4. Địa điểm nghiên cứu
Nằm ở giữa trung tâm Thủ đô Hà Nội, trường THPT Việt Đức được thành
lập ngày 3/3/1955. Trải qua 58 năm xây dựng và phát triển, hiện nay trường có
tổng số hơn 120 cán bộ giáo viên, với khoảng 2200 học sinh. Trường Việt Đức
luôn là một trong những lá cờ đầu của ngành giáo dục Phổ thông tại Hà Nội.
Trong những năm qua trường đã đạt được 1 số thành tựu đáng khích lệ như: 80%
học sinh của trường được xếp loại khá giỏi, 99% có hạnh kiểm khá - tốt. Tỷ lệ
học sinh đỗ tốt nghiệp THPT đạt xấp xỉ 100% và trên 70% đỗ vào đại học. Nhiều
em đạt thành tích cao trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp thành phố và Quốc gia,
được nhiều tổ chức quốc tế của các nước như Đức, Anh, Nhật, Úc, Singapo
cấp học bổng. Trường có 12 thầy cô có trình độ Thạc sỹ, nhiều người đã đạt giải
cao trong các kỳ thi giáo viên giỏi cấp Thành phố.
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1 Địa điểm nghiên cứu.

×