Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Công tác quy hoạch cán bộ diện ban thường vụ tỉnh uỷ quản lý ở tỉnh hủa phăn nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.47 KB, 81 trang )

Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh
Học viện chính trị - hành chính khu vực I
------------------

Buntong InthapANYA

QUY HOẠCH CÁN BỘ DIỆN BAN THƯỜNG VỤ
TỈNH ỦYHỦA PHĂN QUẢN LÝ, NƯỚC CHDCND
LÀO TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAYNGNH : XÂY
DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN
Mã số

: 60 3

Luận văn tốt nghiệp đại học chính trị
CHUYÊN NGÀNH TỔ CHỨC

Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS. Cao Văn Thanh
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn mituấn

Hà Nội, tháng 6 năm 201

1


Lời cảm ơn
Tác giả xin dành những lời đầu tiên bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tơi
các thầy cơ giáo Học viện Chính trị - Hành chính Khu vực I đã tận tình
truyền thụ kiến thức quý báu cho tác giả trong những năm qua. Đặc biêt xin
cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo: PGS,TS. Cao Văn Thanh người trực tiếp
hướng dẫn tác giả hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Tác giả rất mong tiếp tục


nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo trong quá trình học tập sau này.

Tác giả xin chân thành cảm ơn!

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
QHCB

:

Quy hoạch cán bộ

BTVTU

:

Ban Thường vụ Tỉnh ủy

ĐNDCM

:

Đảng Nhân dân Cách mạng

CBCC

:


Cán bộ chủ chốt

CNH

:

Công nghiệp hố

HĐH

:

Hiện đại hố

HTCT

:

Hệ thống chính trị

KT- XH

:

Kinh tế - Xã hội

MỤC LỤC
3



Trang
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG QUAN ĐIỆM CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC QUY
HOẠCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DIỆN BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY HỦA
PHĂN QUẢN LÝ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.................................5
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào về cán bộ.................................................................5
1.2. Vị trí, vai trị của đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hủa...........10
1.3 Công tác quy hoạch cán bộ diện Ban Thương vụ Tỉnh Hủa Phăn quản lý. . .17
Chương 2:THỰC TRANG CÔNG TÁC QUY HOẠCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
DIỆN BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY HỦA PHĂN QUẢN

LÝ TỪ

NĂM(2005 – 2010).........................................................................................25
2.1. Khái quát chung về Tỉnh, Đảng bộ và cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh
ủy Hủa Phăn...................................................................................................25
2.2. Thực trạng về trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ diện ban thường vụ tỉnh
uỷ Hủa Phăn quản lý trong giai đoạn hiện nay........................................................31
2.3. Kết quả công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy
Hủa Phăn quản lý.........37
2.4. Nguyên nhân và mội số kinh nghiệm44
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG
CAOCHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC QUY HOẠCH CÁN BỘ DIỆN BAN THƯỜNG VỤ
TỈNH ỦY HỦA PHĂN QUẢN LƯ (2010- 2015 ) ..........................................................48

3.1. Mục tiêu, phương hướng, phương hướng nhằm nâng cao quy hoạch cán bộ
diện Ban Thường vụ tỉnh ủy Hủa Phăn quản lý............................................. 48
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao quy hoạch cán bộ diện Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ Hủa Phăn quản lý trong giai đoạn tới..............................50

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 74
PHỤ LỤC

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cán bộ và cơng tác cán bộ giữ vai trị rất quan trọng trong công tác xây
dựng Đảng, quyết định đến sự thành bại của cách mạng Lào. Vì thế, xây dựng
đội ngũ cán bộ, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp luôn là mối
quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước Lào nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới. Muốn có đội ngũ cán bộ tốt, tríc hÕt phải làm tốt quy hoạch cán bộ
(QHCB). QHCB là căn cứ khoa học để đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện , thử thách
cán bộ và qua đó xem xét đề bạt, bố trí và bổ nhiệm cán bộ.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Nhân dân Cách mạng
(ĐNDCM) Lào luôn luôn chú trọng vấn đề cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ,
trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành đủ phẩm chất và năng lực,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách mạng Lào. Những
năm qua, ĐNDCM Lào đã ra nhiều nghị quyết chuyên đề về công tác tổ chức cán
bộ, trong đó có Chỉ thị số 08 của Bộ Chính trị, ngày 21-8-2007 về QHCB lãnh
đạo, quản lý; Hướng dẫn số 198 của Ban Tổ chức Trung ương ngày 13-10-2007 về
tổ chức thực hiện Chỉ thị số 08 của Bộ Chính trị về QHCB lãnh đạo, quản lý. Đã là
những căn cứ rất quan trọng để các cấp uỷ đảng quán triệt, vận dụng và tổ chức
thực hiện trong việc QHCB nhất là QHCB lãnh đạo, quản lý. Thực hiện quan điểm,
chủ trương của Đảng, trong những năm qua các cấp uỷ đảng đã tiến hành QHCB
góp phần khắc phục tình trạng bị động, hụt hẫng đội ngũ cán bộ, xây dựng được
đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành, các lĩnh vực. Đội ngũ cán bộ này đã góp phần to
lớn vào những thành tựu chung của đất nước Lào trong thời kỳ đổi mới.

Tỉnh Hủa Phăn là một tỉnh miền núi nghèo nằm ở Đông Bắc Lào, kinh tế
chậm phát triển. Công tác cán bộ, nhất là QHCB trong những năm qua đã có
nhiều tiến bộ và đạt được những kết quả nhất định; đội ngũ cán bộ nói chung,
cán bộ lãnh đạo, quản lý diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ (BTVTU) quản lý đã thể
hiện sự vững mạnh về bản lĩnh chính trị, trình độ kiến thức, năng lực ngày càng
được nâng cao, cơ bản hoàn thành nhiệm vụ được Đảng, chính quyền và nhân
dân giao phó. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ vẫn còn hạn chế về trình độ, chun
mơn, nghiệp vụ, năng lực; một số nơi đội ngũ cán bộ vừa thừa, vừa thiếu, lực
lượng thay thế trước mắt và lâu dài luôn bị hụt hẫng. Nhìn chung chất lượng,

5


hiệu quả trong QHCB diện BTVTU Hủa Phăn quản lý chưa thật rõ nét; cịn
những hạn chế về quy trình, phương pháp, tính đồng bộ chỉ đạo thực hiện.
Thực trạng trên địi hỏi cần có những giải pháp thích hợp nhằm nâng cao
chất lượng công tác cán bộ nhất là QHCB để xây dựng được đội ngũ cán bộ có
bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức và năng lực
thực tiễn, đủ số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá (CNH, HĐH) của tỉnh.
Xuất phát từ lý do trên, tôi đã chọn đề tài " Công tác Quy hoạch cán bộ
diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý ở tỉnh Hủa Phăn nước Cộng hòa Dân
chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay" làm đề tài luận văn tốt nghiệp
Đại học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
2.1. Mục đích của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến chủ đề,
đề xuất nh÷ng giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng QHCB diện
BTVTU Hủa Phăn quản lý trong giai đoạn hiện nay, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
cách mạng trong thời kỳ mới.

2.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Luận giải cơ sở lý luận của QHCB diện BTVTU Hủa Phăn quản lý.
- Đánh giá đúng thực trạng QHCB diện BTVTU Hủa Phăn quản lý;
những thuận lợi, khó khăn ảnh hưởng đến QHCB diện BTVTU Hủa Phăn quản
lý, chỉ ra các thành tựu, hạn chế, nguyên nhân khách quan, chủ quan, những tồn
tại, thiếu sót của QHCB của tỉnh và rút ra những kinh nghiệm về nâng cao chất
lượng QHCB diện BTVTU Hủa Phăn quản lý.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết
những vấn đề cấp bách và lâu dài về QHCB diện BTVTU Hủa Phăn quản lý
trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về QHCB diện BTVTU Hủa Phăn quản lý trong
giai đoạn hiện nay.

6


3.2. Phạm vi nghiên cứu
QHCB diện BTVTU Hủa Phăn quản lý, thời gian nghiên cứu, khảo
sát thực tiễn từ năm 2005 đến 2010 Phương hướng và giải pháp cho đến
năm 2015.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
4.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của ĐNDCM Lào, tham khảo kinh nghiệm
của Đảng Cộng sản Việt Nam, các bài viết của các tác giả Việt Nam về cơng tác
cán bộ nói chung, QHCB nói riêng.
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn quá trình hoạt động thực hiện
QHCB ở tỉnh Hủa Phăn từ năm 2005 đến nay.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản là: Phương pháp
khảo sát thực tế, thống kê, phân tích tổng hợp; phương pháp lơgíc và lịch sử,
phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ tính cấp bách của QHCB diện BTVTU Hủa
Phăn quản lý giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng và rút ra được một số kinh nghiệm QHCB
diện BTVTU Hủa Phăn quản lý trong thời gian qua.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu để tăng cường thêm
chất lượng QHCB diện BTVTU Hủa Phăn quản lý.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những người quan
tâm ; ngồi ra luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy
ở trường chính trị tỉnh Hủa Phăn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.

7


Chương 1:Những quan điểm cơ bản về công tác quy hoạch đội ngũ cán
bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hủa Phăn quản lý.
Chương 2: Thục trạng công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ diện Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Hủa Phăn quản lý từ năm (2005- 2010)
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lượng công tác quy hoạch cán bộ diện Ban Thường vụ tỉnh Hủa Phăn quản lý
(2011- 2015)

8



CHƯƠNG 1
NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC QUY HOẠCH ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ DIỆN BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY HỦA PHĂN QUẢN
LÝ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VÀ ĐẢNG NHÂN DÂN CÁCH MẠNG LÀO VỀ CÁN BỘ.

1.1.1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về cán bộ.
Trong bất cứ thời kỳ nào, giai đoạn nào của sự nghiệp cách mạng, cán bộ
và công tác cán bộ cũng đều giữ vị trí đặc biệt quan trọng, cán bộ là một trong
những nhân tố cơ bản quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, quyết
định việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đó là khâu
then chốt trong tồn bộ hoạt động của Đảng. Chính vì vậy, các nhà kinh điển đã
đưa ra các quan điểm, tư tưởng của mình về cán bộ và công tác cán bộ của Đảng
Cộng sản.
C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: “Xưa nay tư tưởng không thể đưa
người ta vượt ra ngoài trật tự thế giới cũ được, trong bất kỳ tình huống nào, tư
tưởng cũng chỉ có thể đưa người ta vượt ra ngoài phạm vi tư tưởng của trật
tự thế giới cũ mà thôi. Thật vậy, tư tưởng căn bản khơng thể thực hiện được
cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực
lượng thực tiễn”[14, tr181]. Con người mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã nói
chính là cán bộ.
Trong Tun Ngơn Đảng Cộng sản năm 1848, hai ơng đã trình bày:
Những người cộng sản là một bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng công
nhân ở tất cả các nước, là một bộ phận luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về lý
luận, họ hơn còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến
trình và kết quả chung của phong trào vơ sản.
V.I.Lênin là người kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và

Ph.Ăngghen, khi đề cập đến vấn đề xây dựng Đảng kiểu mới, V.I.Lênin Lênin
đã đưa ra những quan điểm về cán bộ có ý nghĩa cả về phương diện lý luận và
9


thực tiễn. V.I.Lênin khẳng định: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào
giành được quyền thống trị, nếu nó khơng đào tạo ra được trong hàng ngũ của
mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức
và lãnh đạo phong trào” [10, tr479].
Khi có chính quyền lãnh đạo cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với
yêu cầu của nhiệm vụ mới, V.I.Lênin đã tiến hành đánh giá, sắp xếp lại cán bộ,
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và Người khẳng định: “Nghiên cứu con người tìm
những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt, nếu khơng thế thì tất cả mọi
mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn” [ 12, tr449].
V.I.Lênin đã đề ra những nguyên tắc để lựa chọn, bố trí và giáo dục cán
bộ. Đó cũng là chính sách của Đảng Cộng sản: “Hãy thử nghiệm một cách hết
sức thận trọng và hết sức nhẫn nại, những người có tài tổ chức, nhiều cán bộ óc
sáng suốt và bản lĩnh, tháo vát trong thực tiễn, những con người trung thành với
chủ nghĩa xã hội vừa có khả năng tổ chức một cách vững chắc và nhịp nhàng
công việc... Chỉ những người như thế sau khi đựơc thử thách hàng chục lần bằng
cách cho họ giữ những chức vụ từ đơn giản nhất đến khó khăn nhất, chúng ta
mới đề bạt họ lên cương vị chủ chốt, làm người cán bộ lãnh đạo, quản lý của
Đảng, Nhà nước. Đó là khâu then chốt trong tồn bộ sự lãnh đạo chính trị của
Đảng, quyết định sự thành công hay thất bại của Đảng. Không một phong trào
cách mạng nào lại vững chắc nếu không có một tổ chức ổn định và duy trì được
tính liên tục gồm những người lãnh đạo”[11, tr158].
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo lý luận về cán bộ và công tác cán bộ của
chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn của Việt Nam. Người đã viết nhiều tài liệu

về cán bộ và công tác cán bộ. Trong đó tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Người
viết vào tháng 10 năm 1947, đề cập đến vấn đề xây dựng Đảng, nhiều về cán bộ.
Người đã chỉ rõ: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính
phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời cán bộ là những

10


người đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ
để đặt chính sách cho đúng”[ 7, tr269].
Vì vậy, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “làm việc gì học việc ấy”, “cán bộ ngành
nào phải học cho thạo công việc ở trong ngành ấy”[7, tr269-270].
Trong công tác cán bộ, theo Hồ Chí Minh phải gắn với nhiệm vụ chính
trị của Đảng trong từng giai đoạn cách mạng, người cán bộ vừa là người lãnh
đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Hồ Chí Minh cho rằng công tác cán bộ là quan trọng, muốn làm tốt cơng
tác cán bộ thì Đảng phải làm tốt cơng tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, tuyển chọn,
đánh giá, quản lý cũng như hiểu cán bộ, khéo dùng cán bộ, khi cân nhắc cán bộ
phải đúng việc, đúng người.
Trong chính sách cán bộ, Hồ Chí Minh phân tích: “Đảng ta gồm hàng
triệu người, hàng vạn cán bộ. Trong đó, sĩ, nơng, cơng thương, binh đều có cả...
tầng lớp xã hội khác nhau, trình độ, văn hố khác nhau, tình hình cá nhân cũng
không giống hệt. Sao cho đối đãi đúng với mọi người đó là vấn đề trọng yếu [8,
tr277].
Hồ Chí Minh nhận thức rõ về vị trí, vai trị, tầm quan trọng của cán bộ và
công tác cán bộ, Người đã nêu lên những yêu cầu mà Đảng phải làm trong công
tác cán bộ: phải biết rõ cán bộ, phải cân nhắc cán bộ cho đúng, phải khéo dùng
cán bộ, phải phân phối giúp đỡ, bảo vệ cán bộ. Từ những yêu cầu đó Người đề
ra tiêu chuẩn cán bộ là:

Thứ nhất, những người tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc,
trong lúc đấu tranh.
Thứ hai, giữ liên lạc mật thiết với quần chúng, hiểu biết quần chúng ln
chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như thế dân chúng tin cậy cán bộ, và nhận cán
bộ là người lãnh đạo của họ.
Thứ ba, đó là những người có thể phụ trách, khơng có sáng kiến thì khơng
phải là người lãnh đạo. Người lãnh đạo đúng đắn phải cần: khi thất bại không
11


hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo, khi thi hành các nghị quyết gan góc
khơng sợ khó khăn.
Thứ tư, đó là những người ln ln giữ vững kỷ luật.
Như vậy, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán
bộ luôn luôn được đề cao và coi trọng, coi đây là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến
lược trong quá trình thực hiện sự nghiệp cách mạng của Đảng.
1.1.3. Quan điểm của Đảng NDCM Lào về cán bộ
Đảng NDCM Lào trong suốt quá trình lãnh đạo luôn coi cán bộ là nhân tố
trực tiếp quyết định thắng lợi của cách mạng. Do vậy, công tác cán bộ luôn được
xem là công việc trọng yếu, nhằm đào tạo, rèn luyện, chăm lo xây dựng được
một đội ngũ cán bộ tận trung với nước, tận hiếu với dân hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ qua các thời kỳ cách mạng. Khi công cuộc đổi mới do Đảng NDCM
Lào khởi xướng và lãnh đạo càng đi vào chiều sâu càng đặt ra những yêu cầu
bức thiết phải xây dựng một đội ngũ cán bộ đáp ứng đựoc những yêu cầu mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI ( 1996 ) của Đảng NDCM Lào đã
khẳng định: “Cán bộ có vai trị quyết định thành cơng của đường lối. Để đáp
ứng sự nghiệp đổi mới toàn diện và sâu sắc của cách mạng, cần phải xây dựng
đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ chính trị, vừa vững vàng về lập trường tư
tưởng, vừa đồng bộ, vừa có tính kế cận, vừa đủ về số lượng và đảm bảo về chất
lượng” [28, tr112]. Quan điểm của Đảng là: kết hợp chặt chẽ giữa bồi dưỡng,

nâng cao trình độ, giữa quan điểm, lập trường giai cấp và đạo đức cách mạng
với trang bị kiến thức mới về chuyên môn và kiến thức chung; kết hợp giữa cán
bộ cũ và cán bộ mới, giữa cán bộ trẻ và cán bộ lão thành để bảo đảm tính kế
thừa, tiến hành bồi dưỡng, đào tạo đồng bộ các loại cán bộ; cán bộ lãnh đạo, cán
bộ quản lý Nhà nước, cán bộ quản lý kinh tế – xã hội, cán bộ làm công tác đối
ngoại, chuyên viên, chuyên gia trên các lĩnh vực và cán bộ kinh doanh; coi trọng
thích đáng đối với cán bộ địa phương, cán bộ dân tộc và cán bộ nữ, gắn với yêu
cầu tiêu chuẩn từng chức danh.
12


Trong điều kiện chỉ có một Đảng duy nhất cầm quyền cần kiện toàn, xây
dựng và quản lý cán bộ, đưa công tác này trở thành một hệ thống thống nhất,
khoa học và từng bước hiện đại, sử dụng hết tài năng cán bộ. Điều quan trọng
hàng đầu là phải có quan điểm và phương pháp đánh giá cán bộ một cách khách
quan, tập thể, căn cứ vào hành động và thành tích cụ thể là quan trọng, vừa tham
khảo ý kiến dư luận. Thực hiện đúng đắn và đầy đủ chính sách đối với cán bộ,
quan tâm khuyến khích những người có tài năng, sáng kiến và những người có
thành tích xuất sắc, những người làm nhiệm vụ ở những vùng khó khăn, hiểm
trở; đồng thời phải có biện pháp triệt để nhằm ngăn ngừa và xử lý kịp thời các
hiện tượng tiêu cực trong đội ngũ cán bộ. Tuy đã có chủ trương, biện pháp đúng
đắn, có nhiều cố gắng, nhưng đến nay đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và công
tác cán bộ của Lào vẫn có khơng ít nhược điểm và khuyết điểm, nhất là tình
trạng một bộ phận cán bộ sa sút về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, kiến
thức, năng lực điều hành còn yếu. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa ngang
tầm với nhiệm vụ, vừa hẫng hụt, vừa thiếu đồng bộ, công tác cán bộ rất nhiều
lúng túng, chắp vá. Nhiệm vụ mới đặt ra cho công tác cán bộ rất nhiều yêu cầu,
Đảng NDCM Lào chủ trương phải sử dụng thật tốt đội ngũ kế cận hiện có, chủ
động chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế cận vững vàng, đủ bản lĩnh về các mặt, sớm
xây dựng cho được một chiến lược cán bộ của thời kỳ mới, chăm lo cán bộ cho

cả hệ thống chính trị trên mọi lĩnh vực, trước hết là cán bộ chủ chốt trong hệ
thống chính trị.
Trong sự nghiệp đổi mới Đảng NDCM Lào đã khẳng định: xây dựng
Đảng và xây dựng đội ngũ cán bộ là một cơng việc khó khăn và phức tạp, nhưng
nhất thiết phải làm thật tốt bởi vì nó là tiền đề vững chắc đảm bảo cho kinh tế
nói riêng và tồn bộ các hoạt động đời sống xã hội nói chung, phát triển mạnh
mẽ, lành mạnh và đúng hướng. Xây dựng Đảng nói chung, xây dựng đội ngũ
cán bộ là vấn đề con người, xây dựng tổ chức hết sức tế nhị và nhạy cảm, nên
quyết khơng thể nóng vội, giản đơn, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt,
nhưng phải được tiến hành một cách thận trọng, tích cực, khơng né tránh, đồng
thời có bước đi và phương pháp thích hợp.
13


Chủ tịch Cay Sỏn Phôm Vi Hản đã khẳng định: “Vấn đề then chốt của
nhiệm vụ cách mạng mà Đảng ta đã gánh vác trong tình hình hiện nay là phải
chủ động trong mọi cố gắng và việc đổi mới công tác cán bộ, đào tạo đội ngũ
cán bộ lãnh đạo đồng bộ có chất lượng tốt, nhằm đáp ứng u cầu của cơng cuộc
đổi mới tồn diện dất nước và sự kế thừa một cách vững chắc giữa các thế hệ
cán bộ, nhất là thế hệ đội ngũ cán bộ chủ chốt. Nếu giải quyết vấn đề khơng tốt
thì “những Nghị quyết của Đảng đúng đắn, phù hợp đến mấy cũng chỉ là vật liệu
nằm yên trên bàn mà thơi”[25, tr12].
1.2. QUAN NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRỊ, ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DIỆN
BAN THƯỜNG VỤ THÀNH ỦY HỦA PHĂN QUẢN LÝ

1.2.1. Đội ngũ cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Hủa
Phăn quản lý
Để có quan niệm về cán bộ diện BTVTU Hủa Phăn quản lý, trước hết
cần làm rõ khái niệm cán bộ.
Ở Lào, thuật ngữ cán bộ xuất hiện trong đời sống xã hội của Lào từ khi

phong trào cách mạng Lào có tổ chức Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin lãnh
đạo, nó được dùng làm tên gọi cho những người đã thoát ly đi làm cách mạng,
mà nhân dân hay gọi những người đó là cán bộ Lào It - xạ - la và được sử dụng
rất nhiều ở vùng giải phóng của phái Mặt trận Lào yêu nước.
Trong bản báo cáo của Tổng Bí thư Cay xỏn Phơm Vi Hản trước Đại hội
thành lập Đảng Nhân dân Lào (hiện nay là Đảng Nhân dân Cách mạng Lào)
ngày 22/3/1955, từ cán bộ đã được viết vào trong chính sách cơ bản và chương
trình hành động trước mặt của Đảng như sau: "Tích cực đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, nhất là phải quan tâm đối với cán bộ là công nhân - nông dân, bộ tộc ít
người" . Sau ngày giải phóng hồn tồn đất nước, thành lập nước Cộng hòa
Dân chủ nhân dân Lào ngày 02/12/1975, từ cán bộ được sử dụng trên cả nước.
Kể từ đó cho đến nay, trong xã hội được hiểu danh từ cán bộ là danh xưng cho
tất cả những người đã làm việc trong bộ máy cơ quan Đảng, chính quyền, mặt
trận, các tổ chức đồn thể chính trị - xã hội, các nhà máy - xí nghiệp do Nhà
nước thành lập nên và tất cả những đối tượng đã nói trên là những người được

14


hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Hàng ngày nhân dân thường gọi những
người đó là cán bộ để phân biệt với người dân bình thường. Cách hiểu này,
trong thực tiễn cũng trở thành phổ biến ngay cả trong bản thân đội ngũ làm
việc ở các bộ máy nói trên. Nó thể hiện trong bản kê khai lý lịch về mặt pháp
luật, Thủ tướng Chính phủ đã ban hµnh hai Nghị định về cơng chức của Cộng
hịa Dân chủ Nhân dân Lào: Nghị định số 171/TTg ngày 11/11/1993 và sau đó
được thay bằng Nghị định số 82/TTg ngày 19/5/2003, quy định tương đối rõ
cơng chức của Cộng hịa Dân chủ Nhân dân Lào. §ã là cơng dân Lào đã được
bố trí và được bổ nhiệm cho làm việc thường xuyên ở các cơ quan bộ máy của
Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể quần chúng cấp Trung ương và địa
phương, các cơ quan đại diện của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ở nước

ngoài, được hưởng lương và các tiền trợ cấp từ ngân sách Nhà nước. Tuy nhiªn,
cách hiểu từ cán bộ vẫn như được giữ nguyên và có quan niệm về từ cán bộ và
từ cơng chức có ý nghĩa như nhau, do đó rất ít người gọi những người làm việc
trong bộ máy cơ quan của Đảng và Nhà nước, ngay cả chính bản thân người đó
nhận mình là cơng chức. Cách hiểu như thế cũng có ngun nhân của nó, bởi vì
trong các văn bản của Đảng và Nhà nước (ngoài Nghị định về cơng chức), thì
phần lớn đều viết cán bộ, cơng nhân viên, và rất ít dùng từ cơng chức.
Quan niệm này cịn thể hiện trong Quy định của Bộ Chính trị số 02 ngày
17/10/2006 về công tác quản lý cán bộ, mà trong đó đã quy định các loại cán bộ
do các cấp quản lý, nó đều bao gồm các cơng chức theo quy định của Nghị định
công chức. Theo quan niệm này đã thể hiện cách hiểu phổ biến nhất ở Lào rằng
cán bộ là những người làm việc trong các bộ máy tổ chức, cơ quan của Đảng,
Nhà nước, đoàn thể quần chúng các cấp mà được hưởng lương từ ngân sách Nhà
nước; đây là những người có trách nhiệm, quyền hạn nhất định trong lãnh đạo,
quản lý, điều hành trong một tổ chức, cơ quan, đơn vị.
Trong Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, xuất bản năm 2002,
danh từ cán bộ được định nghĩa: 1. Người làm cơng tác có nghiệp vụ chun

15


môn trong cơ quan Nhà nước; 2. Người làm công tác có chức vụ trong một cơ
quan, một tổ chức, phân biệt với người thường khơng có chức vụ.
Với nghĩa thứ nhất, đối với Lào, cán bộ không chỉ bao gồm những
người làm cơng tác có nghiệp vụ chun mơn trong cơ quan Nhà nước mà
trong cả hệ thống chính trị. Cán bộ nghiệp vụ chun mơn này được hình thành
thông qua con đường đào tạo từ nhà trường. Bộ phận này là chiếm số đông
nhất.
Với nghĩa thứ hai, người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan,
một tổ chức, cũng cần nhấn mạnh của cả hệ thống chính trị. Đây là đội ngũ cán

bộ lãnh đạo, quản lý, những người có chức vụ, phân biệt với người thường
khơng có chức vụ. Bộ phận cán bộ này được hình thành thơng qua bầu cử hoặc
đề bạt, bổ nhiệm.
Như vậy, có thể hiểu một cách chung nhất trong điều kiện hiện nay, cán
bộ là khái niệm chỉ những người làm công tác trong bộ máy tổ chức của cơ
quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể quần chúng các cấp được hng lng t
ngõn sỏch Nh nc. Đó là nhng ngi có vai trị, trách nhiệm, quyền hạn
nhất định trong mỗi tổ chức cơ quan, đơn vị, có tác động đến hiệu quả hoạt
động và sự phát triển của tổ chức nói riêng, tác động đến việc nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước nói
chung. Tuy nhiên, theo sự phát triển nền kinh tế - xã hội và tiến trình đổi mới,
củng cố và kiện tồn bộ máy tổ chức trong hệ thống chính trị của Lào, quan
niệm về từ cán bộ sẽ có sự phát triển, sẽ có sự quy định rõ hơn về nội hàm,
phạm vi của nó.
Khi nói đến cán bộ diện BTVTU Hủa Phăn quản lý, cần lưu ý đặc điểm
về sự phân cấp quản lý cán bộ trong hệ thống chính trị của nước Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào. Sự phân cấp quản lý cán bộ ở Lào được phân cấp quản lý
theo hai chiều: chiều dọc và chiều ngang. Đối với cán bộ của các cơ quan ban
Đảng, đồn thể chính trị - xã hội thì cấp nào là do cấp ủy cấp đó quản lý, gọi là

16


quản lý theo chiều ngang. Đối với cán bộ của các cơ quan Nhà nước thì do cấp
uỷ bộ và cấp ủy cấp tỉnh quản lý, gọi là quản lý theo chiều dọc.
Theo Quy định số 02 của Bộ Chính trị ngày 17/10/2006 [23, tr 9]. về
công tác quản lý cán bộ, có quy định về cán bộ thuộc diện BTVTU quản lý bao
gồm những cán bộ có chức danh sau:
- Phó Bí thư Huyện ủy, huyện uỷ viên và tương đương.
- Trưởng, Phó ban của các Ban ®ảng cấp tỉnh.

- Chủ tịch, Phó chủ tịch Mặt trận Lào xây dựng đất nước và Bí thư, Phó
Bí thư của tổ chức đoàn thể quần chúng cấp tỉnh.
- Các Đảng uỷ viên cơ sở của các sở, cơ quan, đơn vị doanh nghiệp trực
thuộc tỉnh.
- Huyện phó
- Giám đốc, Phó giám đốc các doanh nghiệp nhà nước trực thuộc tỉnh.
- Trưởng, phó khu vực thuộc tỉnh.
- Anh hùng dân tộc, chiến sĩ thi đua, cán bộ lão thành hưu trí trong phạm
vi trách nhiệm của mình.
- Giám đốc, phó giám đốc sở và tương đương không phải là Tỉnh ủy viên.
- Quản lý tất cả cán bộ - công chức của các Ban ®ảng, Mặt trận Lào xây
dựng đất nước, các tổ chức đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh.
- Quản lý đội ngũ đảng viên và số lượng cán bộ - cơng chức cả tỉnh.
§ối với cán bộ - cơng chức của các Ban ®ảng, Mặt trận Lào xây dựng
đất nước, các tổ chức đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh và quản lý đội ngũ
đảng viên và số lượng cán bộ - công chức cả tỉnh đã giao cho cấp uỷ đảng của
các cơ quan, ban ngành quản lý cụ thể về mọi mặt của từng cán bộ. Còn
BTVTU chỉ quản lý chung về đội ngũ cán bộ này.
Như vậy, có thể hiểu cán bộ diện BTVTU Hủa Phăn trực tiếp quản lý cụ
thể về mọi mặt hiện nay bao gồm cán bộ trong các loại chức danh sau đây:
Phó bí thư huyện ủy, huyện uỷ viên, trưởng, phó ban của các ban ®ảng cấp
tỉnh khơng phải là tỉnh ủy viên; chủ tịch, phó chủ tịch Mặt trận Lào xây dựng

17


đất nước, bí thư, phó bí thư của tổ chức đồn thể quần chúng cấp tỉnh khơng
phải là tỉnh ủy viên; các ®ảng uỷ viên cơ sở của các sở, cơ quan, đơn vị doanh
nghiệp trực thuộc tỉnh; huyện phó; giám đốc, phó giám đốc các doanh nghiệp
nhà nước trực thuộc tỉnh; giám đốc, phó giám đốc sở và tương đương khơng

phải là tỉnh ủy viên; chánh văn phịng, phó chánh văn phòng và các trưởng
ban, đơn vị trực thuộc văn phịng Tỉnh uỷ khơng phải là tỉnh ủy viên.
1.2.2. Vị trí, vai trị của cán bộ diện Ban Thường vụ Thành ủy Hủa
Phăn quản lý.
Vai trò của cán bộ đã được C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: "Muốn
thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn"
[15, tr.181]. "Con người sử dụng lực lượng thực tiễn" đó chính là người cán bộ”.
V.I.Lênin cho rằng, khâu then chốt trong tồn bộ sự lãnh đạo chính trị
của Đảng, quyết định sự thành bại của cuộc cách mạng là ở chỗ nhất thiết phải
có đội ngũ cán bộ cách mạng chuyên nghiệp. Người viết: "Không một phong trào
cách mạng nào mà lại vững chắc được nếu không có một tổ chức ổn định và duy
trì được tính liên tục gồm những người lãnh đạo" [11, tr158].
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội II của Đảng Nhân dân Lào ngày
03/02/1972, khi nói đến đường lối chính sách cán bộ của Đảng, Chủ tịch Cay
Xỏn Phôm Vi Hản đã khẳng định: "Để hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng,
vấn đề có ý nghĩa quan trọng và quyết định là Đảng phải đào tạo và bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ cho đủ về số lượng và chất lượng ngày càng cao, có cả đức và
tài..." [26, tr165].
Trong bài phát biểu trước Hội nghị cán bộ toàn quốc ngày 07/08/1975, Chủ
tịch Khăm Tay Xỉ Phăn Đon có đoạn nói về vai trò của cán bộ:
Vấn đề cán bộ gắn trực tiếp với sự củng cố năng lực lãnh đạo của Đảng,
nếu có cán bộ giỏi và tốt sẽ nâng cao vai trị và uy tín của Đảng, thắt chặt mối
quan hệ giữa Đảng với quần chúng, ngăn chặn các hiện tượng quan liêu, cöa
quyền, tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác; có cán bộ tốt mới có Đảng
tổ chức mạnh, đảm bảo sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và sự hịa hợp đồn
kết giữa các tầng lớp người và các bộ tộc, phát huy được những tiềm năng của
toàn dân trong việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật Nhà nước [35, tr.126].
18



Trong văn kiện các Đại hội của ĐNDCM Lào, đều đã xác định về vai trò
hết sức quan trọng của đội ngũ cán bộ trong mỗi giai đoạn cách mạng của Lào.
Văn kiện Đại hội sau tiếp tục khẳng định và làm rõ thêm quan điểm của Đại
hội trước. Trong văn kiện Đại hội VII đã viết: "Đảng ta đã ln ln khẳng
định rằng, cán bộ có vai trị quyết định đối với việc tổ chức thực hiện đường lối
chính sách của Đảng" [30, tr.60]. Trong Văn kiện Đại hội VIII đã viết: "Thực
tiễn đã khẳng định rằng, cán bộ có vai trị quan trọng quyết định sự thành cơng
hoặc thất bại của việc tổ chức thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước" [33, tr79].
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, giai đoạn phát triển đất nước theo
xu hướng mở rộng, hòa nhập kinh tế khu vực và toàn cầu, nhưng phải giữ được
độc lập chủ quyền dân tộc, giữ được quyền lãnh đạo của Đảng và đưa đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì vai trò của người cán bộ của Đảng và
Nhà nước càng hết sức quan trọng. Họ là người nghiên cứu, tham mu cho
Đảng và Nhà nước định ra đường lối, chính sách, các chủ trương kinh tế - xã
hội... và họ cũng là người đem đường lối, chính sách, các chủ trương đó đến
với dân, đồng thời là triển khai tổ chức thực hiện trong phạm vi quyền hạn và
trách nhiệm của cơ quan, đơn vị mình.
Nói tóm lại, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, đội ngũ cán bộ của mỗi cấp,
mỗi ngành, mỗi tổ chức đều có vai trò quan trọng, to lớn trong sự nghiệp cách
mạng xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, quê hương.
Cán bộ diện BTVTU Hủa phăn quản lý là một bộ phận trong đội ngũ cán
bộ của Đảng, có vai trị quan trọng của đội ngũ cán bộ nói chung. Tuy nhiên,
do vị trí cụ thể, vai trị của cán bộ diện BTVTU Hủa Phăn quản lý thể hiện trên
những điểm sau đây:
Thứ nhất, cán bộ diện BTVTU Hủa Phăn quản lý là lực lượng nòng
cốt của tỉnh, đi đầu trong việc nghiên cứu, quán triệt, triển khai thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính
phủ thơng qua q trình hoạch định, xây dựng các nghị quyết, kế hoạch,

chương trình hành động, chính sách cụ thể... trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội ở trong tỉnh. Do những chủ trương, chính sách của cấp Trung
ương phần lớn là những chủ trương, chính sách mang tính vĩ mơ, tồn quốc;

19


cho nên đòi hỏi cấp tỉnh phải nghiên cứu, vận dụng và phát triển một cách
sáng tạo, linh hoạt, dựa trên đặc điểm, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của địa
phương để xây dựng thành các chủ trương, kế hoạch, chính sách của cấp
mình, vừa đảm bảo ngun tắc chung của Đảng và Chính phủ, vừa có tầm
chỉ đạo chung trong tồn tỉnh và có tính cụ thể của địa phương; nhằm phát
huy tính năng động, sáng tạo của các ngành, các cấp trong hệ thống chính trị
của tỉnh. Đây là yêu cầu rất cao đối với cấp tỉnh, mà trước hết là cán bộ diện
BTVTU quản lý, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, cán bộ diện BTVTU Hủa Phăn quản lý có vai trị mang tính
quyết định thắng lợi trong việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của
Trung ương Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng như các nghị
định, kế hoạch, đề án chương trình hành động của tỉnh. Vai trị này xuất phát từ
mối quan hệ giữa cán bộ diện BTVTU và đường lối, chính sách và từ vị trí của
đội ngũ này trong hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, cán bộ diện BTVTU Hủa Phăn quản lý có vai trị nịng cốt trong
việc xây dựng, củng cố, kiện tồn hệ thống chính trị của tỉnh vững mạnh. Họ là
người đứng đầu các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị ở cấp tỉnh và cấp
huyện, chịu trách nhiệm chính trong việc tuyên truyền, tổ chức, hướng dẫn,
kiểm tra các hoạt động của cán bộ , đảng viên và nhân dân tỉnh.
Thứ tư, cán bộ diện BTVTU Hủa Phăn quản lý có vai trị hàng đầu việc
xây dựng và giữ gìn sự đồn kết thống nhất trong Đảng, trong nhân dân và gương
mẫu trong mọi hoạt động, cơng tác, sinh hoạt ở địa phương. Đồn kết, thống nhất
là một trong những truyền thống của dân tộc và của ĐNDCM Lào trong suốt thời

kỳ đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ
và phát triển đất nước trong những năm qua, nó đã đảm bảo cho sự ổn định về
chính trị và an ninh, trật tự xã hội, kinh tế phát triển. Mỗi cán bộ chủ chốt phải là
hạt nhân đồn kết trong ngành, cơ quan, đơn vị mình; đồng thời là một tấm gương
trong việc học tập sự đoàn kết trong dân ở địa bàn dân cư mà mình cư trú. Đây
khơng phải là sự áp đặt chủ quan, mà là yêu cầu khách quan xuất phát từ vai trị,
tính chất của những người cán bộ này. Bởi vì họ là nịng cốt của nguồn lực con
người của địa phương, của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị của địa phương.

20


Vai trò của cán bộ diện BTVTU Hủa Phăn quản lý có quan hệ biện
chứng với vai trị của tồn thể đội ngũ cán bộ và vai trò của tầng lớp nhân dân
trong tỉnh. Trong đó, cán bộ diện BTVTU Hủa Phăn quản lý giữ vai trò là lực
lượng nòng cốt, đi đầu. Từ vai trị như đã trình bày trên đây, đặt ra đối với cấp
uỷ và chính quyền phải xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu
cầu cấp thiết này.
1.2.3. Đặc điểm của cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hủa Phăn
quản lý trong giai đoạn hiện nay
- Cán bộ DBTVTU Hủa Phăn quản lý hiện nay, phần lớn là người trong
tỉnh, tham gia cách mạng và trưởng thành sau ngày giải phóng hoàn toàn đất
nước năm 1975.
Đội ngũ cán bộ DBTVTU quản lý được lựa chọn kỹ, họ tiêu biểu về phẩm
chất chính trị, đạo đức, về sự kiên định, vững vàng chính trị trong điều kiện hiện
nay và có khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ này có bước phát triển khá nhanh; có
cơ cấu tương đối hợp lý.
- Cán bộ DBTVTU Hủa Phăn quản lý hiện nay gồm có ba dân tộc trong
đó: dân tộc Mơng (Lào Xủng) chiếm 17,33 %, dân tộc Lào Lum chiếm 43,95

% và dân tộc Lào Thâng chiếm 38,70 %.
- Là lực lượng đã được tuyển chọn tương đối nghiêm túc, là số đã được
đào tạo, rèn luyện qua các trường lớp, được thử thách qua thực tiễn cơng tác .
1.3. CƠNG TÁC QUY HOẠCH CÁN BỘ DIỆN BAN THƯỜNG VỤ TỈNH ỦY
HỦA PHĂN QUẢN LÝ

1.3.1.Quan niệm về quy hoạch cán bộ và quy hoạch cán bộ diện Ban
Thường vụ tỉnh ủy Hủa Phăn quản lý
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hố thơng tin năm 1999,
“Quy hoạch” được định nghĩa như sau:
1. Là bố trí, sắp xếp kế hoạch dài hạn;
2. Là kế hoạch tổng thể trong thời gian dài” [6, tr1380].

21


Từ đó có thể hiểu quy hoạch theo nghĩa thường dùng, đó là bố trí, sắp xếp
tồn bộ theo một trình tự hợp lý trong từng thời gian, từng giai đoạn để làm cơ
sở cho việc lập kế hoạch cụ thể dài hạn và ngắn hạn.
Theo PGS Lê Văn Lý thì “Quy hoạch cán bộ là việc lập dự án xây dựng
đội ngũ cán bộ, dự kiến sắp xếp tổng thể đội ngũ cán bộ, theo một ý đồ nhất
định với một trình tự hợp lý, trong một thời gian nhất định, làm cơ së cho viÖc
lập kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ ”[13, tr.17].
QHCB là quá trình tạo nguồn cán bộ cho cả hiện tại và tương lai. Bản
chất của QHCB là chú trọng tới việc phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng
nhân tài cho đất nước, có ở tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, an
ninh, quốc phòng, khoa học - cơng nghệ, văn hố - nghệ thuật…
QHCB diện BTVTU Hủa Phăn quản lý, kể cả cán bộ đương chức và cán
bộ dự nguồn, là toàn bộ hoạt động của Tỉnh ủy Hủa Phăn và các cấp uỷ trực
thuộc Tỉnh uỷ, các cơ quan tham mưu về công tác cán bộ và các cơ quan có

liên quan, nhằm chuẩn bị hình thành đội ngũ cán bộ diện BTVTU Hủa Phăn
quản lý có đủ phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ các ban, ngành,
đơn vị của tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
- Đối tượng nhằm tới để đưa vào QHCB diện BTVTU Hủa Phăn quản lý
bao gồm: các đồng chí phó bí thư huyện ủy, huyện uỷ viên, trưởng, phó ban
của các ban ®ảng cấp tỉnh khơng phải là tỉnh ủy viên; chủ tịch, phó chủ tịch
Mặt trận Lào xây dựng đất nước và bí thư, phó bí thư của tổ chức đồn thể
quần chúng cấp tỉnh khơng phải là tỉnh ủy viên; các ®ảng uỷ viên cơ sở của các
sở, cơ quan, đơn vị doanh nghiệp trực thuộc tỉnh; huyện phó; giám đốc, phó
giám đốc các doanh nghiệp nhà nước trực thuộc tỉnh; giám đốc, phó giám đốc
sở không phải là tỉnh ủy viên và những cán bộ dự nguồn các chức danh nói
trên.
- Chủ thể tiến hành cơng tác QHCB nói trên bao gồm:
+ BTVTU Hủa Phăn là chủ thể trực tiếp và chủ yếu nhất trong quy hoạch
đội ngũ cán bộ này, tiếp theo là Ban Chấp hành đảng bộ tỉnh.

22


+ BTVTU Hủa Phăn quản lý, cả đương chức và cán bộ dự nguồn cũng
là chủ thể tham gia công tác quy hoạch. Họ vừa là chủ thể, vừa là đối tượng
trong công việc này. Với tư cách là chủ thể, họ nêu cao tinh thần trách nhiệm
tham gia vào quá trình tiến hành quy hoạch cán bộ của tỉnh.
- Các cơ quan, lực lượng tham gia trong công tác quy hoạch:
+ Các ban của Tỉnh uỷ, các cơ quan liên quan theo chức năng, nhiệm vụ
của mình tham mưu giúp BTVTU hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra thẩm định, đề
xuất ý kiến trong công tác cán bộ nhằm quy hoạch đội ngũ CBCC có chất
lượng.
+ Các tổ chức chính trị ở mỗi cấp và nhân dân, nhất là cấp huyện có
trách nhiệm tham gia QHCB nói trên từ việc theo dõi, phát hiện, giúp đỡ, giới

thiệu đến việc tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ cán bộ hoàn thành tốt nhiệm
vụ và phát triển.
+ Các ban, ngành của Trung ương ban hành các văn bản, quy định,
hướng dẫn thực hiện công tác cán bộ, để công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ
diện BTVTU Hủa Phăn quản lý theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng và
thủ tục quy trình của các khâu của cơng tác QHCB.
1.3.2. Ngun tắc, quy hoạch cán bộ diện BTVTU Hủa Phăn quản lý
Theo Chỉ thị số 08, ngày 21/8/2007 của Bộ Chính trị đã nêu nguyên
tắc của quy hoạch cán bộ nh sau:
Theo Chỉ thị số 08, ngày 21/8/2007 của Bộ Chính trị đã nêu nguyên tắc
của quy hoạch cán bộ nh sau:
- QHCB là trách nhiệm trực tiếp của cấp uỷ đảng trên cơ sở bảo đảm theo
phạm vi trách nhiệm trong sự quản lý cán bộ đã nêu trong Quy định của Bộ
Chính trị số 02 ngày 17/10/2006.
- Sự xem xét xác định đối tượng vào QHCB phải thực hiện theo nguyên
tắc tập trung dân chủ, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của ®ảng uỷ các

23


cấp đi đôi với sự mở rộng dân chủ, phát huy trách nhiệm của các tổ chức trong
hệ thống chính trị để xem xét tìm nhân sự có đủ tiêu chuẩn để đề nghị ®ảng uỷ
kiểm tra và quyết định đưa vào quy hoạch.
Vì vậy, vận dụng các nguyên tắc nêu trên vào QHCB diện BTVTU Hủa
Phăn quản lý, phải đảm bảo các vấn đề chủ yếu sau:
Một là, QHCB phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Tỉnh
uỷ, đồng thời phát huy vai trị của chính quyền và các đoàn thể trên cơ sở mở
rộng dân chủ, công khai.
QHCB phải được tiến hành dân chủ và công khai, từ khâu giới thiệu
nguồn cán bộ đưa vào quy hoạch đến q trình đánh giá, lấy phiếu tín nhiệm

và biểu quyết đưa cán bộ vào quy hoạch. BTVTU Hủa Phăn phải tăng cường
công tác tư tưởng, công tác kiểm tra, giám sát thường xuyên trong quy hoạch,
chú ý lắng nghe ý kiến đánh giá, nhận xét của đảng viên và quần chúng đối với
cán bộ để đánh giá đúng cán bộ.
Cần cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ thành các quy chế, chế độ
trong QHCB diện BTVTU Hủa Phăn quản lý. Xác định rõ trách nhiệm của TØnh
uỷ, BTVTU Hủa Phăn, người đứng đầu cơ quan tham mưu về công tác cán bộ;
mối quan hệ giữa BTVTU, các ban cán sự ®ảng, ®ảng đồn, ban thường vụ các
huyện uỷ, các ®ảng uỷ trực thuộc và các tổ chức chính trị - xã hội trong quy trình
thực hiện quy hoạch đối với từng loại cán bộ ở từng cấp.
Công khai trong QHCB diện BTVTU Hủa Phăn quản lý bao gồm: công
khai kế hoạch, công khai tiêu chuẩn cán bộ đưa vào quy hoạch, công khai kết
quả đánh giá cán bộ để đưa vào dự nguồn, công khai quy trình tuyển chọn cán
bộ và cơng khai kết quả quy hoạch .
Hai là, QHCB diện BTVTU Hủa Phăn quản lý phải xuất phát từ tình
hình thực tiễn và dự báo được yêu cầu phát triển của tỉnh, nắm chắc đội ngũ
cán bộ hiện có.
Nắm chắc tình hình của tỉnh và dự báo nhu cầu phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội của đất nước của tỉnh có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo nguồn

24


cán bộ đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Dự báo trước được về nhu cầu
cán bộ, qua đó Tỉnh uỷ chủ động tìm nguồn cán bộ, dự kiến kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng để trong một thời gian nhất định, tỉnh xây dựng được đội ngũ cán bộ
lãnh đạo ngang tầm với những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới
Ba là, QHCB diện BTVTU Hủa Phăn quản lý phải đảm bảo tính khoa
học và tính thực tiễn
QHCB là cơng tác về con người, do đó nó chỉ sẽ đạt hiệu quả cao nếu

biết kết hợp tốt giữa tính khoa học và tính thực tiễn. Tính khoa học trong quy
hoạch thể hiện ở các quy trình đánh giá, lựa chọn, giới thiệu, quyết định nguồn
cán bộ đưa vào quy hoạch. Các quy trình này gồm các bước được thực hiện
chặt chẽ và gắn bó với nhau. Vì thế, trong q trình thực hiện khơng được
bỏ qua một bước nào thì cơng việc mới đạt hiệu quả. Tuy vậy, thực tế cuộc
sống cho thấy, có nhiều yếu tố thực tiễn sẽ tác động, chi phối, ảnh hưởng
đến công tác xây dựng và quyết định quy hoạch. QHCB được thực hiện theo
quy trình, nhưng vÉn cßn nhiều cán bộ được đánh giá là tốt khi ®ưa vào quy
hoạch, nhưng khơng phát huy được tác dụng và sau một thời gian phải đưa
ra khỏi quy hoạch. Muốn vậy, yếu tố quyết định là phải nắm chắc, hiểu rõ
cán bộ và đội ngũ cán bộ để không đưa nhầm người không xứng đáng vào
quy hoạch hoặc bỏ sót người xứng đáng.
Bốn là, QHCB diện BTVTU Hủa Phăn quản lý phải bảo đảm ngun tắc
“mở” và “động”.
“Mở” là quy hoạch khơng khép kín trong từng ngành, từng đơn vị, mà cần
mở rộng nguồn từ các cơ quan khác. Trong quy hoạch, mỗi chức danh cần có ít
nhất từ 2 đến 3 cán bộ dự bị. Mỗi cán bộ có thể dự kiến đảm nhiệm từ 2 đến 3
chức danh. “Động” là quy hoạch được ra soát thường xuyên, được điều chỉnh
theo sát với thực tế yêu cầu của sự phát triển cán bộ, kịp thời bổ sung những
nhân tố mới vào quy hoạch. Cần tạo ra “dịng chảy” trong QHCB. Hàng năm
phải rµ soát lại i ng cỏn b trong quy hoch có sự điều chỉnh, bổ sung.
Những cán bộ tuy đã bộc lộ những yếu điểm, không đáp ứng được yêu cầu, sÏ

25


×