1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự phát triển của ngành y tế thể hiện ở chất lượng khám chữa bệnh
ngày một nâng cao, là một yếu tố trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, góp
phần đánh giá sự phát triển kinh tế xã hội nói chung. Trong những năm trước
đây, do điều kiện kinh tế nước ta còn khó khăn, việc chăm sóc sức khoẻ nhân
dân nói chung và việc chăm sóc bà mẹ nói riêng chỉ dừng ở mức độ khám và
điều trị khi người bệnh gặp các vấn đề về sức khoẻ. Hiện nay, với sự phát
triển kinh tế xã hội mạnh mẽ, sự chăm sóc sức khoẻ nhân dân, trong đó bao
gồm sức khoẻ bà mẹ được nâng lên nhiều, điều đó được thể hiện không chỉ ở
chất lượng khám và điều trị mà còn thể hiện trong vấn đề phòng ngừa sự xuất
hiện và tiến triển của bệnh tật, đặc biệt trong vấn đề chăm sóc sức khoẻ bà
mẹ. Tuy nhiên, theo ước tính hàng năm ở nước ta vẫn có khoảng 3200 – 4600
phụ nữ có biến chứng liên quan thai nghén: chảy máu, nhiễm trùng, rối loạn
huyết áp, chuyển dạ tắc nghẽn và những biến chứng do phá thai không an
toàn, trong số đó có khoảng 93 – 115 bà mẹ tử vong mỗi năm. Những biến
chứng này không dễ để phòng tránh, và sự tiến triển của các biến chứng này
có thể là nguyên nhân gây chết mẹ. Các yếu tố cấp tính làm nặng thêm sự dễ
bị tổn thương của thai phụ dẫn đến các biến chứng và tử vong liên quan đến
thai nghén và sự sinh đẻ, nhưng nếu điều trị kịp thời và tối ưu có thể làm cải
thiện lớn khả năng tồn tại. Các can thiệp thích đáng trong chăm sóc cấp cứu
sản khoa bao gồm: quản lý bệnh lý nhiễm khuẩn, thuốc co hồi tử cung, thuốc
chống co giật, kiểm soát tử cung, lấy các sản phẩm còn sót lại, đỡ đẻ đường
âm đạo, phẫu thuật lấy thai, phẫu thuật cắt tử cung và truyền máu an toàn có
thể làm giảm tỷ lệ chết mẹ. Tuy vậy, một biến chứng có thể tiến triển đến một
tình trạng sức khỏe tới hạn bất kể một sự chăm sóc ban đầu phù hợp nào.
Người phụ nữ bị tử vong thường trải qua một con đường chung trước khi
chết: rối loạn chức năng của nhiều cơ quan hoặc các triệu chứng liên quan đến
hội chứng Sốc. Để tránh khỏi cái chết, những thai phụ bị tai biến này nên
2
được tiếp nhận một sự can thiệp chăm sóc toàn diện, dựa trên sự hồi sức hô hấp
và tuần hoàn, các can thiệp hỗ trợ đặc biệt của các chuyên khoa khác. Điều trị cấp
cứu cơ bản để cứu tính mạng phải được tiến hành càng sớm càng tốt, từ những cơ
sở y tế, từ tuyến đầu cho đến những tuyến có chuyên môn cao về chăm sóc hồi
sức tích cực. Những thai phụ trải qua và có tình trạng đe dọa tính mạng cấp tính
trong suốt thời kỳ thai nghén, sinh con, và sau sinh được xem như là những ca
người mẹ cận kề cái chết. Trong bối cảnh đó, phương pháp cứu chữa đúng lúc và
phù hợp có thể giải thích phần nào sự khác biệt lớn được trông thấy giữa khu vực
phát triển và các khu vực kém phát triển hơn dựa trên tỷ lệ tử vong mẹ.
Bệnh viện PSTW là một trung tâm chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ sơ
sinh hàng đầu của nước ta, mỗi năm ở đây phải tiếp đón hàng vạn thai phụ
đến khám và điều trị các vấn đề liên quan đến sức khoẻ sinh sản. Tính riêng
số bà mẹ đến sinh con hoặc điều trị sau sinh cũng khoảng 1500 người trên
tháng. Không những thế tại đây còn là một trung tâm đào tạo lớn của khu vực
phía Bắc nước ta, nhiều kỹ thuật mới tại các quốc gia phát triển trên thế giới
đang được áp dụng tại đây, đây cũng là nơi chuyển giao các kỹ thuật khám và
chăm sóc bà mẹ, trẻ sơ sinh cho tuyến dưới, cũng là nơi phải đón nhận đa
phần các trường hợp bệnh lý nặng phức tạp. Việc khảo sát tình trạng tai biến
sản khoa nặng tại viện PSTW góp phần đánh giá chất lượng chăm sóc SKSS
nói chung của toàn hệ thống. Vì vậy tôi tiến hành nghiên cứu “Nhận xét tình
trạng tai biến sản khoa tại bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2011” nhằm
mục đích:
1. Xác định tỷ lệ tai biến sản khoa điều trị tại bệnh viện phụ sản Trung
ương từ tháng 8 đến tháng 11 năm 2011.
2. Nhận xét về mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ và tình hình tai
biến sản khoa tại bệnh viện phụ sản Trung ương.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Tai biến sản khoa và các yếu tố liên quan
1.1.1. Các loại biến sản khoa
Tai biến sản khoa là những vấn đề sức khỏe của mẹ hoặc con liên quan
đến thai sản của người mẹ từ khi mang thai cho tới khi đẻ hoặc chấm dứt đến
thai sản của người mẹ từ khi mang thai cho tới sau khi đẻ hoặc chấm dứt thai
nghén 42 ngày (tức là thời kỳ hậu sản). Các tai biến này thường xuất hiện đột
ngột, ít có dấu hiệu báo trước và chiếm khoảng 85% các trường hợp tử vong
mẹ do có nguyên nhân sản khoa trực tiếp gây ra [69].
Tổ chức Y tế thế giới xác định tai biến sản khoa gồm 7 loại thường gặp
bao gồm [89]: băng huyết, nhiễm khuẩn, vỡ tử cung, sản giật, đẻ khó, chuyển
dạ kéo dài, tai biến do sẩy/nạo phá thai và chửa ngoài tử cung. Tại Việt Nam
xác định có 5 loại tai biến sản khoa là: 4 tai biến nặng cho mẹ (băng huyết,
nhiễm khuẩn, vỡ tử cung và sản giật) và một tai biến cho con (uốn ván rốn).
Hiện nay, Bộ Y tế đã đề xuất tai biến do sẩy/nạo, phá thai thay cho tai biến do
uốn ván rối vì tai biến này đã được loại trừ ở Việt Nam từ năm 2005.
1.1.1.1. Chảy máu (băng huyết)
Chảy máu sau đẻ là một biến chứng cấp tính hay gặp trong sản khoa và
rất nguy hiểm nếu không được xử trí kịp thời. Chảy máu sau đẻ là nguyên
nhân chính gây tử vong mẹ ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam,
lượng máu chảy ra quá mức bình thường ảnh hưởng xấu đến toàn trạng của
sản phụ. Trong một cuộc đẻ bình thường, trong thời kỳ sổ rau, khối lượng
máu mất từ 80 - 100ml, nếu chảy trên 300ml thì gọi là bất thường. Với những
người yếu sẵn, đã thiếu máu trong thời kỳ có thai, nếu chảy máu trong thời kỳ
4
sổ rau chưa quá 300ml cũng có thể ảnh hưởng đến toàn trạng cảu thai phụ và
có thể gây sốc do mất máu [69]. Theo một định nghĩa khác, lượng máu mất
sau đẻ chiếm khoảng 10% khối lượng máu của toàn cơ thể, nếu lượng máu
mất sau đẻ từ 1% trọng lượng cơ thể trở lên thì gọi là chảy máu sau đẻ (băng
huyết sau sinh) [47]. Vì vậy, khối lượng máu chảy để có thể gọi là chảy máu
bất thường ít hay nhiều là tùy trường hợp cụ thể, nhất là ở tuyến xã, cần xử trí
sớm để khỏi bị động và nguy cơ đến thai sản. Chảy máu sau đẻ là biến chứng
thường gặp, chẳng những trong các cuộc đẻ khó mà còn gặp ngay cả trong
những cuộc đẻ thường. Chảy máu sau đẻ có thể xảy ra sớm trong vòng 24 giờ
sau sổ thai hoặc xảy ra muộn hơn 24 giờ sau đẻ đến 6 tuần đầu của thời kỳ
hậu sản [29].
Theo tác giả Lê Điềm, ở Việt Nam, sản phụ bị thiếu máu trong ba tháng cuối
chiếm tỷ lệ khoảng 50 - 60%, vì vậy có thể tạm thời quy định nếu lượng máu
mất sau đẻ từ 300ml trở lên con như chảy máu sau đẻ (băng huyết) [31].
Một trong những nguyên nhân hàng đầu của băng huyết sau sinh la do
đờ tử cung. Do vậy, các nhà chuyên môn khuyến cáo, xử trí tích cực giai đoạn
3 của cuộc chuyển dạ, như sử dụng oxytocin, kéo dây rốn có kiểm soát, xoa tử
cung có thể đề phòng được trên 60% số trường hợp băng huyết sau đẻ. Việc
xử trí này nên được thực hiện thường quy trên mọi trường hợp đẻ có cán bộ y
tế hỗ trợ.
* Một số yếu tố nguy cơ gây chảy máu sau đẻ: Chảy máu sau đẻ
thường xảy ra trên những sản phụ sinh con thứ 3 trở lên hoặc sản phụ có bệnh
lý tiền sản giật, sản giật. Quá trình chuyển dạ kéo dài dẫn đến sản phụ bị đờ tử
cung, do căng giãn quá nhiều khi có thai, do cơ tử cung kém, do rau không
bong, do chấn thương đường sinh dục, nạo phá thai nhiều lần, sản phụ bị thiếu
máu hay các bệnh lý nội khoa như tiểu cầu thấp, rối loạn đông máu cũng là
những yếu tố nguy cơ gây chảy máu sau đẻ.
5
1.1.1.2. Nhiễm khuẩn hậu sản
Nhiễm khuẩn hậu sản là nhiễm khuẩn xẩy ra ở sản phụ đẻ hoặc sẩy mà
khởi điểm là từ đường sinh dục (âm đạo, cổ tử cung, tử cung vùng rau bám ).
Trong các loại TBSK thì nhiễm khuẩn hậu sản hoàn toàn có thể phòng tránh
được nếu dự phòng tốt. Nhiễm khuản hậu sản thường liên quan đến nạo phá
thai không an toàn, thời gian chuyển dạ kéo dài, đỡ đẻ không đảm bảo vệ sinh
vô trùng.
Một số yếu tố nguy cơ của nhiễm khuẩn hậu sản gồm [68]:
+ Ối vỡ non, vỡ sớm: Tùy thời gian ối vỡ sớm có thể gây nhiễm khuẩn
hậu sản ở mức độ nghiêm trọng khác nhau.
+ Sản phụ có bệnh viêm nhiễm đường sinh dục dưới, ví dụ như viêm
âm đạo, viêm cổ tử cung.
+ Thăm khám nhiều lần âm đạo mà không đảm bảo vệ sinh, vô trùng
không vô khuẩn và sát khuẩn sản khoa tốt.
+ Các thủ thuật, phẫu thuật sản khoa không vô khuẩn nhu: mổ lấy thai,
thủ thuật bóc sau.
+ Bế sản dịch, sót rau
Có nhiều hình thái nhiễm khuẩn hậu sản trên lâm sàng và giải phẫu, từ
nhẹ đến nặng bao gồm [69]:
- Nhiễm khuẩn ở tầng sinh môn, âm hộ, âm đạo
- Viêm nội mạc tử cung
- Viêm tử cung toàn bộ
- Viêm phần phụ
- Viêm phúc mạc khư trú ở đáy chậu, tiểu khung
- Viêm phúc mạc toàn bộ
6
- Nhiễm khuẩn máu: Trong tất cả các hình thái của nhiễm khuẩn hậu sản
thì nhiễm khuẩn máu, viêm phúc mạc toàn bộ những hình thái nặng nhất, tiên
lượng rất xấu và gây tử vong rất cao.
Chăm sóc y tế đóng vai trò đặc biệt trong việc phòng nhiễm khuẩn hậu
sản. Để góp phần giảm tỷ lệ mắc và chết do nhiễm khuẩn hậu sản và tránh
những yếu tố nguy cơ của nhiễm khuẩn hậu sản cầm chăm sóc chu đáo sản
phụ trước đẻ, trong khi chuyển dạ, trong và sau cuộc đẻ. Để đạt được những
yêu cầu trên một trong những cong việc cần đặc biệt chú ý việc thực hiện bốn
sạch sẽ [2], bao gồm: bàn tay đỡ đẻ sạch, dụng cụ sạch, môi trường đỡ đẻ
sạch và sản phụ sạch.
1.1.1.3. Vỡ tử cung
Vỡ tử cung là một tai biến rất nguy hiểm trong sản khoa, có thể xảy ra
trong thời kỳ thai nghén và nhất là thời kỳ chuyển dạ. Nếu không được phát
hiện và xử trí kịp thời thì tai biến đó sẽ gây tử vong cả mẹ và con [69] . Song
nếu quản lý thai nghén và theo dõi tốt sản phụ trong khi chuyển dạ thì có thể
tránh được tai biến này. Về thực chất, tai biến vỡ tử cung là chảy máu, song
nó được sắp xếp riêng để nhấn mạnh tầm quan trọng. Thường gặp vỡ tử cung
khi chuyển dạ [29].
Vỡ tử cung có thể xảy ra tự nhiên, không có sự can thiệp thủ thuật của
người nữ hộ sinh hay bác sĩ, có thể vỡ do can thiệp như truyền oxytocin hoặc
tiến hành các thủ thuật cắt thai, hủy thai, giác hút, forceps không đúng chỉ
định [62].
Một số nguyên nhân nguy cơ gây vỡ tử cung [69]:
- Nguyên nhân về phía mẹ:
+ Các loại đẻ khó do khung chậu hẹp tuyệt đối, khung chậu giới hạn,
khung chậu méo.
7
+ Có sẹo mổ cũ ở tử cung: Sẹo mổ thân tử cung để lấy thai, sẹo mổ khâu
lại vỡ tử cung, sẹo mổ do thủng tử cung.
+ Các loại rách ở cổ tử cung kéo dài lên gần đoạn dưới phục hồi xấu.
+ Đẻ nhiều lần, nạo phá thai nhiều lần làm tử cung nhão, mỏng dễ vỡ.
+ Đẻ khó do các u tiền đạo như u xơ tử cung, u nang buồng trứng
- Nguyên nhân về phía thai:
+ Đẻ khó do thai to toàn bộ: trọng lượng thai trên 4000g, gây bất tương
xứng giữa thai và khung chậu.
+ Đẻ khó do thai to từng phần, ví dụ như não úng thủy không được phát
hiện và can thiệp đúng lúc.
+ Đẻ khó do ngôi, kiển bất thường: Ngôi mặt cằm cùng, ngôi vai
+ Đẻ khó do các thai dính nhau trong sinh đôi làm thể tích thai lớn có
thể gây vỡ tử cung.
- Nguyên nhân do can thiệp:
+ Do truyền oxytocin hoặc thuốc tăng cơn co không đúng chỉ định và
liều lượng
+ Do can thiệp thủ thuật: Nội xoay trong thai ngôi vai, kéo thai thô bạo trong
ngôi mông, giác hút, forceps không đúng chỉ định và không đủ điều kiện.
+ Đề nghị sản phụ rặn khi ngôi thai chưa lọt
1.1.1.4. Sản giật/tiền sản giật
Sản giật là một tai biến nghiêm trọng, biển hiện bằng một trạng thái co
giật liên tiếp rồi sau đó là hôn mê, xảy ra trong những tháng cuối của thai
nghén, trong chuyển dạ hoặc cũng có thể sau đẻ [69].
Sản giật là biến chứng của tiền sản giật [69], khoảng 75% sản giật xảy
ra ở ba tháng cuối thai kỳ 20% trong chuyển dạ và 1 - 5% trong thời kỳ hậu
8
sản, chủ yếu trong 48 giờ đầu sau đẻ. Sản giật còn là triệu chứng của các bệnh
tăng huyết áp hay do bệnh thận mạn tính bị nặng lên khi có thai, thường gặp
trong các trường hợp: người trẻ, đẻ con so, người lao động nặng, mệt mỏi mà
gần đến tháng đẻ không được nghỉ ngơi, thời tiết quá lạnh. Sản giật thường có
các dấu hiệu báo trước như: khó chịu, nhức đầu, hoa mắt, mệt mỏi, phù, tiểu
ít, albumin niệu tăng rõ rệt, huyết áp tăng, có khi lên tới 200/170mmHg. Sản
giật thường có các biểu hiện bằng những cơn co giật qua bốn giai đoạn: Giai
đoạn xâm nhiễm, giai đoạn giật cứng, giai đoạn giật giãn cách, giai đoạn hôn
mê. Sản giật có thể gây tử vong mẹ và con trong cơn giật.
Tiền sản giật là bệnh nhiễm độc thai nghén thường gặp, biểu hiện tình
trạng huyết áp cao với protein niệu, xảy ra sau tuần lễ thứ 20 của thai kỳ và
biến mất hoàn toàn sau khi sinh. Tiền sản giật có thể xuất hiện sớm hơn, trước
tuần 20, trong trường hợp đa thai và thai trứng. Giai đoạn tiền sản giật có thể
diễn biến khoảng vài giời, vài ngày, vài tuần, tùy mức độ nặng hay nhẹ của
bệnh; cũng có thể thoáng qua gần như bỏ qua giai đoạn này [68].
Nếu tiền sản giật không được điều trị có thể dẫn đến biến chứng như:
rau bong non, phù phổi, xuất huyết não, rối loạn tâm thần cho mẹ hoặc tử
vong (10%). Tiền sản giật có thể khiến người mẹ bị tổn thương các cơ quan
gan, thận chảy máu (máu chảy không cầm được hay co giật khi chuyển dạ)
làm thai nhi chậm phát triển, suy thai, thậm chí chết trong tử cung. Do chưa
xác định được rõ nguyên nhân của tiền sản giật nên chưa có cách điều trị đặc
hiệu và phòng ngừa bệnh này.
* Một số yếu tố nguy cơ liên quan đến sự phát triển nhiễm độc thai
nghén, sản giật và tiền sản giật [68].
- Tuổi mẹ: Tuổi thai phụ quá đến sự phát sinh nhiễm độc thai nghén,
sản giật và tiền sản giật [68]:
9
- Số lượng thai: thai đôi, đa thai
- Chế độ dinh dưỡng: Tỷ lệ nhiễm độc thai nghén cao hơn ở người suy
dinh dưỡng, thiếu acid folic, thiếu các yếu tố vi lượng: Ca, Mg, Ze
- Chế độ làm việc: Chế độ làm việc nặng nhọc, căng thẳng về tinh thần
là yếu tố nguy cơ.
- Tiền sử sản khoa đã có nhiễm độc thai nghén, tiền sản giật, sản giật.
Nhiễm độc thai nghén – sản giật/ tiền sản giật cũng là một hình thái
TBSK và là nguyên nhân thường gặp gây tử vong mẹ. Việc quản lý thai
nghén, khám thai định kỳ để phát hiện sớm những bất thường trong thai sản
và xử trí kịp thời những bất thường này có thể giảm tỷ lệ mắc và tử vong do
nhiễm độc thai nghén- sản giật / tiền sản giật.
1.1.1.5. Uốn ván sơ sinh
Uốn ván là bệnh do độc tố uốn ván tác động vào hệ thần kinh cơ. Sau
khi người bệnh có vết thương hở tiếp tục xúc với với nha bào uốn ván có
trong đất, môi trường xung quanh. Ví dụ: vết thương bẩn hoặc cuống rốn trẻ
sơ sinh bị bẩn. Mọi lứa tuổi đều có thể bị mắc bệnh uốn ván. Bệnh có thể gặp
và nguy hiểm ở trẻ sơ sinh được gọi là uốn ván sơ sinh (UVSS). Hầu hết trẻ
sơ sịnh mắc UVSS đều tử vong. UVSS hay gặp ở vùng nông thôn, miền núi
nơi có tỷ lệ đẻ tại nhà cao, đẻ và chăm sóc rốn không đảm bảo vô trùng.
Trong năm 2000. Tổ chức Y tế thế giớ ước tính có 200.000 trẻ sơ sinh tử
vong vì bệnh UVSS [69].
Một số điểm chính cửa UVSS:
- Bệnh uốn ván do vi khuẩn có trong môi trường gây bệnh
- Nhiễm trùng xảy ra khi đẻ không sạch, khi sử dụng dụng cụ cắt rối bị
nhiễm bẩn.
10
- Lý do chính dẫn đến uốn ván sơ sinh là: dụng cụ cắt rốn không tiệt
khuẩn, người đỡ đẻ không sát khuẩn và băng gạc không tiệt khuẩn.
- Hầu hết trẻ mắc UVSS đều chết.
- Cách tốt nhất để phòng bệnh uốn ván là tiêm vắc xin uốn ván, làm
sạch vết thương và loại bỏ tổ chức hoại tử.
WHO, UNICEF and UNFPA đặt mục tiêu loại trừ UVSS toàn cầu vào
năm 2005, là giảm số mắc UVSS xuống dưới 1/1000 trẻ đẻ sống trong một
năm ở tất cả các huyện. Mục tiêu này đã được xác định lại bởi một cuộc họp
Đại Hội Đồng Liên Hiệp quốc năm 2002 [19]. Vì vi khuẩn uốn ván luôn tồn
tại trong môi trường nên việc thanh toán bệnh uốn ván là không thể thực hiện
được. Việc tiêm vắc xin đạt tỷ lệ cao cần duy trì ngay cả sau khi đã đạt mục
tiêu toàn cầu.
Uốn ván rốn đã không được WHO xếp là một trong những TBSK nữa
và ở Việt Nam, ngày 23 tháng 2 năm 2006, Tổ chức Y tế thế giới đã thông
báo chính thức công nhận “Việt Nam là nước đã loại trừ được bệnh uốn ván
sơ sinh” [20]. Hiện nay, Vụ sức khỏe Sinh sản đã đề nghị Bộ Y tế thay tai
biến do uốn ván rốn sơ sinh bằng tai biến do nạo hút thai.
1.1.1.6. Tai biến do nạo phá thai
Phá thai là việc áp dụng các kỹ thuật nhằm chấm dứt thai nghén mà kết
quả làm cho thay sẩy trước 22 tuần. Khái niệm phá thai được phân biệt với
sẩy thai tự nhiên. Phá thai là chấm dứt thai nghén một cách có chủ ý do thai
nghén ngoài ý muốn hoặc do các chỉ định điều trị khi thai nghén để lại hậu
quả xấu cho mẹ (trong một số bệnh tật như tim, thận, gan mạn tính,
HIV/SIDS ) hoặc cho con (các dị tật bẩm sinh để lại hậu quả nặng nề cho trẻ
về thể chất và tinh thần).
11
Phá thai là thủ thuật được thực hiện nhiều trên thế giới mà chủ yếu là
để loại trừ các thai nghén ngoài ý muốn. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề gây
tranh cãi về mặt đạo đức cũng như các quan niệm, triết lý trong xã hội.
Phá thai không an toàn là một thủ thuật chấm dứt thai nghén ngoài ý
muốn được thực hiện bởi những người không có kỹ năng cần thiết hoặc là
môi trường thực hiện không đáp ứng các điều kiện y tế tối thiểu hoặc cả hai
(WHO). Hàng năm trên thế giới có khoảng 19 triệu ca phá thai không an toàn,
chiếm gần một nửa tổng số ca nạo phá thai. 95% số ca nạo phá thai không an
toàn được thực hiện tại các nước đang phát triển [80].
Ở một số khu vực, có đến 50% tổng số tử vong liên quan đến thai
nghén ở phụ nữ do nạo phá thai không an toàn. Tính ra cứ mỗi phút qua đi lại
có 40 phụ nữ trải qua nạo phá thai không an toàn, và mỗi ngày lại có 200
người bị chết vì nguyên nhân này. Châu Á có khoảng 10,5 triệu ca trong
nwam 2000, chiếm 55% số nạo phá thai không an toàn, cao nhất so với bất kỳ
khu vực nào trên thế giới, tiếp đến là châu Phi: 4,2 triệu, Mỹ la tinh và vùng
Caribee: 3,7 triệu [112].
Theo Hội Sản phụ khoa Việt Nam, cứ năm ngày lại có một phụ nữ chết
do nạo hút thai không an toàn. Hiện nay chưa có biện pháp quản lý các cơ sở
nạo phá thai và đó cũng là nguyên nhân chính làm trở ngại cho việc hạ thấp tỷ
lệ phá thai [40].
Ngoài 5 tai biến sản khoa kể trên (trừ tai biến do UVSS). Tổ chức Y tế
thế giới còn xếp thêm hai loại nữa thuộc tai biến sản khoa. đó là: chuyển dak
kéo dài/ đình trệ hoặc đẻ khó và chửa ngoài tử cung [89].
1.1.1.7. Chuyển dạ kéo dài/ đình trệ hoặc đẻ khó
Đẻ khó thì một trong những yếu tố như cơ co tử cung, phần mềm
khung chậu, thai nhi và phần phụ của thai không được bình thường đem lại
12
hậu quả là cuộc chuyển dạ kéo dài và ngôi thai khó lọt, khó sổ, có khi không
thể đẻ được [69].
Nguyên nhân có thể là cơn co bất thường, khung chậu hẹp, phần mềm
giãn nở không tốt, ngôi bất thường, phần phụ của thai như màng ối, nước ối,
dây rau, bánh rau không bình thường.
Ngoài những nguyên nhân chủ yếu trên, còn có nguyên nhân khác gây
đẻ khó, đó là tình trạng toàn thân của thai phụ. Thai phụ bị các bệnh như thiếu
máu nặng, bệnh phổi, bệnh thận, bệnh tim, bệnh nhiễm khuẩn, khi chuyển dạ
cần phải can thiệp vì không thể rặn được hoặc không để thai phu rặn.
Có thể phân loại các nguyên nhân chủ yếu của đẻ khó như sau:
- Đẻ khó do khung chậu
- Đẻ khó do khối u tiền đạo
- Đẻ khó do tử cung, âm đạo, tầng sinh môn
- Đẻ khó do con co tử cung
- Đẻn khó do phần phụ của thai
- Đẻ khó do thai to và ngôi thai.
Nói chung, ở người con so, thời gian chuyển dạ trung bình là 16 - 24
giờ, ở người con dạ là 8 - 12 giờ. Bình thường thời kỳ sổ thai ở người con so
là 50 phút, người con dạ là 20 phút [69].
Các trường hợp chuyển dạ bất thường, bao gồm:
+ Giai đoạn I của chuyển dạ kéo dài > 12 giờ (pha tiềm vàng)
+ Giai đoạn II của chuyển dạ kéo dài > 1 giờ tính từ giai đoạn II tích
cực (pha tích cực – khi sản phụ bắt đầu muốn rặn).
+ Bất tương xứng khung chậu và thai nhi, ngôi ngang, ngôi trán, ngôi
do âm đạo, tầng sinh môn cứng hơn người con dạ.
13
Để khắc phục những trường hợp đẻ khó, chuyển dạ kéo dài, một trong
những nhiệm vụ hàng đầu là công tác chăm sóc trước, trong và sau khi sinh.
Theo dõi và phát hiện được những trường hợp đẻ khó, chuyển dạ kéo dài để
có được những biện pháp xử trí phù hợp, kịp thời sẽ mang lại sự an toàn cho
cả mẹ và con.
1.1.1.8. Chửa ngoài tử cung
Chửa ngoài tử cung là tình trạng được thụ thai và làm tổ ngoài tử cung.
Trong quá trình phát triển thai to lên và không được bảo vệ (tử cung) gây
chảy máu từ bọc thai ở ngoài tử cung, biểu hiện bằng chậm kinh, ra máu, đau
bụng. Tai biến này rất nguy hiểm, nếu không chẩn đoán và xử trí kịp thời thì
sẽ bị mất máu và dẫn đến tử vong. Hiện nay, tai biến này đang có xu hướng
tăng lên.
Một số yếu tố nguy cơ liên quan đến CNTC [38]:
- Tuổi của bệnh nhân: Nhóm phụ nữ trên 35 tuổi có nguy cơ mắc
CNTC cao vì phụ nữ lớn tuổi thường bị viêm sinh dục gây hậu quả xấu và để
lại di chứng cho tử cung, vòi trứng do đó kích thích quá trình làm tổ ngoài tử
cung của trứng đã thụ thinh [37].
- Tiền sử viêm nhiễm: Vì quá trình viêm nhiễm nhiều lần đã làm hẹp
lòng vòi tử cung, làm tăng nguy cơ chửa ngoài tử cung.
- Tiền sử phẫu thuật vùng tiểu khung: Các phẫu thuật vùng này làm
tăng nguy cơ dính trong ổ bụng hoặc viêm nhiễm vùng tiểu khung mà hậu quả
gây co, kéo, xoắn, gập vòi tử cung làm cản trở quá trình di chuyển của trứng
và gây nên CNTC.
- Tiền sử nạo hút thai, sẩy thai: NHT càng nhiều, nguy cơ sót rau hoặc
viêm nhiễm sau NHT càng tăng, sẽ làm viêm nhiễm vòi tử cùng đặc biệt là
14
khi sẩy thai, ra huyết kéo dài càng làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn đường sinh
dục, làm tăng nguy cơ CNTC.
Tóm lại, trên cơ sở những khái niệm từng loại TBSK, có sự khác nhau
và phân loại các TBSK giữa WHO và Việt Nam. Bảng tổng hợp dưới đây sẽ
thấy rõ sự phân loại TBSK.
Bảng 1.1. Thống kê các loại TBSK phân theo WHO và Việt Nam
TT Các loại TBSK Phân loại WHO
Phân loại
Việt Nam
1. Chảy máu trước, trong và sau đẻ X X
2. Chuyển dạ kéo dài/ đình trệ X
3. Nhiễm khuẩn hậu sản X X
4. Tai biến do sẩy. nạo phá thai X X
*
5. Tiền sản giật/ Sản giật X X
6. Chửa ngoài tử cung X
7. Vỡ tử cung X X
8. Uốn ván sơ sinh X X
* Vụ sức khỏe sinh sản đang đề nghị Bộ Y tế Việt Nam thay tai biến do uốn
ván rốn bằn tai biến do sẩy/ nạo phá thai, vì tai biến này hiện đã được loại
trừ ở Việt Nam.
1.1.2. Những yếu tố nguy cơ liên quan đến tai biến sản khoa
15
1.1.2.1. Những nguy cơ từ người mẹ và thai nhi trong các thời kỳ thai nghén.
Thai nghén là một quá trình sinh lý bình thường, nhưng nó liên quan
nhiều đến nguy cơ về sức khỏe và sự sống của cả mẹ và con. Quá trình mang
thai là thời gian chờ đợi đầy hy vọng và hạnh phúc, nhưng cũng là thời gian
của sự lo lắng đối với người phụ nữ và gia đình. Ngày xưa, cha ông ta có câu
“Chửa là cửa mả”. Chính vì vậy trong quá trình mang thai có ý nghĩa rất quan
trọng. Nó giúp đem lại sự sống, niềm vụ, hạnh phúc trọn vẹn cho cả mẹ, con, gia
đình và xã hội.
a, Định nghĩa thai nghén có nguy cơ cao
Thai nghén có nguy cơ cao là tình trạng thai không có lợi cho mẹ và
thai nhi có thể dẫn tới tử vong cho cả mẹ hoặc thai nhi. Nhưng thai phụ có
khả năng bị nguy cơ cao, nếu được chăm sóc tốt, thường xuyên sốt thời gian
thai nghén, có thể hạn chế được sự nguy hiểm cho thai phụ. Làm tốt công tác
phát hiện thai nghén có nguy cơ cao để chăm sóc kịp thời sẽ giảm tỷ lệ mắc
bệnh và tử vong cho cả mẹ và con.
b, Nguy cơ da thể trạng và tiền sử người mẹ
- Cơ thể người mẹ kém phát triển: Chiều cao dưới 1,45m, cân nặng
dưới 35kg. Có thể đây là biểu hiện gián tiếp của cơ thể yếu, khung chậu bé.
- Câu trúc khung chậu bất thường: Khung chậu hẹp, lệch, méo, khung
chậu nhỏ, cuối cùng là đẻ khó, mẹ bị vỡ tử cung, con bị chết.
- Mẹ tuổi nhiều: Con so, mẹ trên 35 tuổi, con dạ mẹ trên 45 tuổi. Người
chửa con so nhiều tuổi có tầng sinh môn rắn, thai khó sổ và dễ bị ngạt khi sổ.
Người chửa con dạ nhiều tuổi, có thể thai không được bình thường , tử cung
bị nhéo, con so kém phát triển, ngôi không thuận.
16
- Đã đẻ nhiều lần: Từ 4 lần trở lên. Tử cung mềm, khó giúp ngôi bình
chỉnh tốt, khi chuyển dạ cơn co tử cung có thể yếu, sau đẻ dễ bị đờ tử cung
dẫn tới băng huyết.
- Tiền sử sẩy hoặc đẻ lần trước phải can thiệp: như nạo nhiều lần, foóc
– xép, mổ đẻ sẽ để lại tổn thương ở tử cung với sẹo yếu, có thể gây nứt rạn,
vỡ tử cung trong khi chuyển dạ, cũng có khi sự kém phát triển của thai trong
thời kỳ thai nghén, khiến lần có thai này phải cảnh giác.
- Tiền sử bị tiền sản giật/sản giật, chảy máu sau khi đẻ: sẽ là nguy cơ
cao và cũng có thể lập lại trong làn có thai này.
c, Những nguy cơ do các bệnh nội khoa người mẹ đang mắc
Các bệnh tim mạch:
- Làm người mẹ yếu sức, không đảm bảo ôxy và dinh dưỡng cho thai
phát triển trong tử cung.
- Người mẹ yếu sức không chịu đựng được những thay đổi sinh lý nặng
nề của thai nghén.
- Người mẹ khó chịu đựng được những gắng sức trong khi chuyển dạ
đẻ như cơ co tử cung, rắn đẻ
Các bệnh về máu: Thiếu máu, rối loạn đông máu. Thiếu máu làm mẹ yếu sức.
thai kém phát triển, mẹ khó chịu đựng những gắng sức trong khi chuyển dạ. Rối
loạn đông máu có thể dẫn tới tăng băng huyết sau đẻ, trong thời kỳ sổ rau.
Các bệnh viêm gan, viêm thận, lao phổi, hen phế quản:
- Viêm gan có thể làm suy gan, giảm khả năng thải độc của cơ thể, dẫn
tới hôn mê, tiên lượng rất nặng.
- Viêm thận có thể dẫn đến phù, huyết áp cao, dẫn đến tiền sản giật và
có thể sẽ gây nên sản giật.
17
- Lao phổi và hen phế quản làm người mẹ thiếu ô xy trường diễn, thai
kém phát triển và yếu. Khi chuyển dạ, tình trạng thiếu ô xy lại càng trầm
trọng, có thể dẫn đến sự suy thai nặng, ngạt thai, suy hô hấp nặng do mẹ.
18
d, Những nguy cơ do tình trạng thai nghén hiện tại nguy cơ trong 3 tháng đầu:
- Sẩy thai: có thể gây chảy máu nhiều, đòi hỏi phải gải quyết cấp cứu.
Sẩy thai, sót rau có thể gây rong huyết, nhiễm khuẩn.
- Chửa ngoài tử cung: Thường gặp ở vòi trứng, thai không phát triển
được lâu, vòi trứng sẽ bị vỡ sớm và gây chảy máu trong dự dội có tính chất
cấp cứu, rất nguy hiểm cho tính mạng người mẹ.
- Chửa trứng: Có thể gây nghén nặng, thiếu máu, nhiễm độc. Khi sẩy
gây chảy máu nhiều. Biến chứng có thể thành ung thư nguyên bào nuôi, tiên
lượng xấu.
Nguy c ơ trong 3 tháng giữa và cuối:
- Thai chết lưu trong tử cung: Gây chảy máu trong khi sẩy hoặc đẻ. Rất
dễ bị nhiễm khuẩn khi bị vỡ ối sớm, sẩy hoặc đẻ kéo dài.
- Đẻ non, thai kém phát triển trong tử cung: Thai dễ bị sang chấn trong
khi đẻ, dễ bị ngạt, thai nhi yếu, khó nuôi.
- Đa ối, thiểu ối: Có thể kèm theo một tỷ lệ nhất định thai dị dạng. Đa ối
làm ngôi thai bình chình không tốt, dễ dẫn tới ngôi thai bất thường. Khi
chuyển dạ, cơn co hỗn loạn, dễ đờ tử cung sau đẻ. Nước ối ít cũng làm ngôi
thai bình chỉnh không tốt, ít được bảo vệ khi có cơn cơ tử cung và dễ suy thai.
- Nhiễm độc thai nghén
- Thai già tháng: Do suy rau, thoái hóa rau, tuần hoàn rau thai kém, thia
bị thiếu ô xy, dễ suy, ngạt trong khi chuyển dạ. Lượng nước ối giảm cũng dễ
bị suy thai.
- Ngôi thai bất thường vào tháng cuối cùng của thời kỳ thai nghén. Có
nhiều khả năng vẫn giữ nguyên ngôi thai bất thường trong khi chuyển dạ và
gây đẻ khó.
19
- Song thai, đa thai: Thai có thể vướng vào nhau, có thể ngăn cản sự
bình chỉnh của rau, gây cản trở trong cuộc đẻ. Tử cung to, cơn co có thể
không đều và sau đẻ dễ đờ tử cung.
- Nguy cơ trong khi chuyển dạ đẻ:
- Rau tiền đạo: Có thể làm ngôi bình chỉnh không tốt, gây khó đẻ, ngăn
cản đường ra của thai. Gây chảy máu khi có thai, đặc biệt gây chảy máu nhiều
khi chuyển dạ và khi bong rau.
- Rau bong non: Dẫn tới suy thai, chết thai, chảy máu mẹ.
- Vỡ tử cung: Là một tai biến trong sản khoa, có thể xảy ra trong khi
có thai trong những tháng cuối và nhất là trong khi chuyển dạ. Gây chết thai,
chảy máu mẹ, có thể gây tử cung.
- Sản giật.
- Rối loạn cơn co tử cung: Đặc biệt cơn co quá mau, quá mạnh, dẫn tới
suy thai, vỡ ối sớm, vỡ tử cung
- Vỡ ối sớm, ối vỡ non: Dẫn tới suy thai, nhiễm khuẩn ối.
- Chuyển dạ kéo dài: Dẫn tới suy thai, vỡ tử cung
- Sa cuống rốn: Dẫn tới chết thai
Nguy cơ sau đẻ:
- Đờ tử cung: Gây băng huyết
- Sót rau: Gây chảy máu và nhiễm khuẩn
- Chấn thương đường sinh dục: Gây chảy máu
1.1.2.2. Những yếu tố nguy cơ ngoài thai nghén liên quan đến TBSK
Khi người phụ nữ mang thai có dấu hiệu nguy hiểm liên quan đến tai
biến sản khoa, người phụ nữ đối mặt với một số rào cản. Một trong những rào
cản này là kinh tế như: thiếu tiền để trả cho dịch vụ. Một trong những rào cản
20
nữa là yếu tố văn hóa, ví dụ: đời sống phụ nữ có giá trị thấp kém, phong tục
tập quán lạc hậu. Một rào cản nữa là yếu tố địa lý như: khoảng cách đi lại xa
và đường sá xấu. Bất kỳ yếu tố nào ở trên gây ra sự chậm trễ điều trị có ảnh
hưởng đến mạng sống của bà mẹ [90]. Những yếu tố ảnh hưởng gây ra sự
chậm trễ, có thể xếp thành các nhóm. Tác giả Deborah Maine [90] mô tả và
sắp xếp các nhóm của sự chậm trễ đó thành mô hình “3 chậm trễ” từ năm 1991.
Tới năm 2001, trong cuốn Chuẩn bị cho sự sinh đẻ và sãn sàng đối phó với TBSK
“Birth prepare and complication rea diness” WHO đã đưa thêm một nhóm của sự
chậm trễ nữa và dựa trên mô hình của Deborah Maine vẽ lại thành mô hình “4
chậm trễ” (The 4 Delays) được trình bày ở sơ đồ dưới đây [113].
Sơ đồ 1.1. Mô hình 4 chậm
Các yếu tố ảnh hưởng sử
dụng dịch vụ và kết quả
Nhận thức của gia đình,
cộng đồng, xã hội và bản
thân người phụ nữ
Các yếu tố
kinh tế xã hội/ văn hóa
Tiếp cận cơ sở y tế
Chất lượng chăm sóc
Các thời kỳ chậm
Giai đoạn 1:
Nhận ra dấu hiệu
Nguy hiểm
Giai đoạn 2:
Quyết định tìm kiếm chăm
sóc
Giai đoạn 3:
Xác định và đi đến cơ sở y tế
Giai đoạn 4:
Tiếp nhận điều trị đầy đủ và
thịch hợp
21
Về thực chất mô hình 3 chậm trễ hoặc 4 chậm trễ cũng là một, bởi
Deborah Min đã gộp sự chậm trễ của giai đoạn 1 và 2 vào làm một, trong khi
WHO lại muốn tách giai đoạn 1 và giai đoạn 2 thành hai giai đoạn riêng rẽ
cho rõ ràng hơn.
a, Chậm trễ nhận ra dấu hiệu nguy hiểm
Khi những dấu hiệu nguy hiểm xuất hiện, trong hầu hết các trường hợp
đòi hỏi chính người phụ nữ và bản thân gia đình họ nhận biết thật nhanh
những dấu hiệu và tình trạng nguy hiểm đó. Phần đông những người phụ nữ
có thai và gia đình họ đều không xác định được những dấu hiệu nguy hiểm
dẫn đến tai biến sản khoa, hơn nữa, họ không biết làm gì khi có những dấu
hiệu nguy hiểm xuất hiện. Nghiên cứu đã cho thấy một số phụ nữ ở Ấn Độ đã
không biết đâu là dấu hiệu của sự tai biến hoặc dấu hiệu bình thường, chẳng
hạn như dấu hiệu chảy máu hoặc dấu hiệu phù trong cơ thể. Họ lại có những
niềm tin truyền thống cho thấy đó là dấu hiệu mang thai con trai. Tại Nepal,
một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng có dưới 50% gia đình của người phụ nữ
tử vong trong thời gian mang thai, trong quá tình đẻ và sau đẻ nhận biết được
những dấu hiệu nguy hiểm. Khám thai là cơ hội lý tưởng nhất cho cán bộ y tế
cung cấp thông tin về những dấu hiệu, nguy cơ của tai biến sản khoa cho phụ
nữ mang thai và những thành viên trong gia đình họ đi cùng. Ở Ấn Độ, rất nhiều
phụ nữ đã không nhận được dịch vụ khám thai phù hợp và đương nhiên nhiều
phụ nữ đã không nhận được dịch vụ khám thai phù hợp và đương nhiên không
nhận được những thông tin liên quan đến dấu hiệu nguy hiểm khi có thai.
Trình độ dân trí và phong tục tập quán cũng ảnh hưởng đến sự chậm trễ
này. Ví dụ, một số dân tộc thiểu sổ có phong tục đẻ tại nhà, nên họ không
chuẩn bị sẵn sàng cho việc chuyển tuyến khi có bất kỳ dấu hiệu nguy hiểm nào.
22
b, Chậm trễ quyết định đến cơ sở y tế
Một khi những dấu hiệu nguy hiểm đã được nhận biết, lại xuất hiện một
số chậm trễ nữa, đó là chậm trễ trong việc quyết định sử dụng dịch vụ y tế và
chậm trẽ quyết định đến sở y tế. Gia đình, người thân đã bỏ phí nhiều thời
gian giá trị để quyết định làm gì và gọi ai giúp đỡ, đi tới đâu và ai sẽ là người
đi cùng người phụ nữ cũng như việc tổ chức vận chuyển người phụ nữ đó đi
cấp cứu và vấn đề kinh phí nữa. Sự chậm trễ này có thể là hàng giờ hoặc thậm
chí hàng ngày.
Sự chậm trễ này còn chịu ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, phong tục tập
quán và hoàn cảnh kinh tế gia đình. Ví dụ, không có ai đưa người phụ nữ tới
cơ sở y tế để cấp cứu khi chưa được phép của chồng người phụ nữ đó. Hoặc
có những dân tộc họ không muốn mang vợ tới cơ sở y tế để đẻ vì họ không
muốn cho ai nhìn thấy “chỗ kín” của vợ mình. Trong trường hợp mọi thứ
chuẩn bị cho cấp cứu người phụ nữ đã sẵn sàng, nhưng hoàn cảnh kinh tế gia
đình eo hẹp, không đủ khả năng chi trả khi chuyển người phụ nữ lên tuyến
trên, sự chần chừ lưỡng lự này là yếu tố gây chậm trễ mà trong cấp cứu sản
khoa không cho phép có nhiều thời gian lãng phí như vậy.
c. Chậm trễ trong việc chuyển tới cơ sở y tế thích hợp
Một khi gia đình đã quyết định tìm kiếm tới dịch vụ chăm sóc, sự chậm
trễ tiếp theo có thể là việc tiếp cận được cơ sở y tế thích hợp, gia đình phải
tìm kiếm phương tiện vận chuyển, việc này có thể sẽ gặp khó khăn, nhất là về
ban đêm. Những phương tiện sẵn có thường lại cực kỳ chậm, ví dụ như xe bò.
Chính vì vậy, những cơ sở y tế tại địa phương đòi hỏi phải có được những
biện pháp xử trí tại chỗ thích hợp trước khi sản phụ được cấp cứu tới cơ sở y
tế có dịch vụ cấp cứu sản khoa. Khi họ quyết định cuối cùng là tìm kiếm sự
chăm sóc tại cơ sở y tế hiện đại, họ thường tới cơ sở y tế cộng đồng, nơi mà
23
dịch vụ chăm sóc sản khoa thường không sẵn sàng, và sự chuyển tiếp theo là
đến cơ sở y tế khác, nơi có dịch vụ cấp cứu – cơ sở y tế này hoàn toàn xa với
cơ sở y tế cộng đồng.
Sự chậm trễ này liên quan trực tiếp đến các yếu tố tiếp cận cơ sở y tế có
khả năng cấp cứu sản khoa, ảnh hưởng của gia đình, cộng đồng, phương tiện
giao thông (những trường hợp ở xa hoặc khu vực đó không có cơ sở y tế thích
hợp), cho nên chuyển tuyến muộn.
Những yếu tố ảnh hưởng đến sự chậm trễ này là sự sẵn có phương tiện
vận chuyển cấp cứu, khoảng cách tới nơi có cấp cứu sản khoa và chất lượng
của đường sá. Một khi phương tiện vận chuyển có sẵn, nhưng khoảng cách
quá xa hoặc chất lượng đường quá xấu, trong những trường hợp như vậy, có
khi người phụ nữ đã tử vong trước khi tới nơi cấp cứu.
d. Chậm trễ trong việc nhận được sự điều trị thích hợp tại cơ sở y tế
Một khi người phụ nữ và gia đình của họ đã đến được cơ sở y tế thích
hợp, sự chậm trễ khác có thể lại xảy ra. Có thể gia đình đưa người phụ nữ tới
khu vực không phải là cấp cứu sản chẳng hạn, ví dụ khám bệnh nhân ngoại
trú, và thế là lại tiêu phí mất thời gian chờ đợi, xếp hàng. Có thể gia đình
không đồng ý với việc điều trị mà bác sĩ khuyên, có thể họ không sẵn sàng
hiến máu khi mà người phụ nữ có nhu cầu truyền máu, họ cũng không nhất trí
khi được yêu cầu phải phẫu thuật, hoặc có thể họ không có khả năng mua sắm
thuốc men và phương tiện dụng cụ cấp cứu cần thiết. Trong một vài trường
hợp, bác sĩ hoặc thầy thuốc gây mê không có tại bệnh viện, và phải gọi người
trực cấp cứu, trong những trường hợp khác trang thiết bị hoặc phương tiện
cấp cứu không sẵn có, phải mua ở bên ngoài, hoặc nhu cầu truyền máu khẩn
cấp nhưng không sẵn có [113].
24
Sự chậm trễ này có liên quan chặt chẽ đến trình độ chuyên môn môn
cũng như thái độ phục vụ của người thầy thuốc. Chẳng hạn, một khi người
phụ nữ được đưa tới cơ sở y tế thích hợp kịp thời và đúng lúc, những người
thầy thuốc lại thờ ơ, chậm chạm trong việc đưa ra những quyết định xử trí
đúng. Hoặc khi người thầy thuốc đó nhiệt tình, tích cực, nhưng chuyên môn
của họ hạn chế, nên đã xử trí sai, không thích hợp. Tất cả những lý do đó đã
làm tăng nguy cơ biến chứng của các dấu hiệu tai biến sản khoa của người
phụ nữ và có thể dẫn đến tử vong.
1.2. Đặc điểm dịch tễ học về tình hình tai biến sản khoa
1.2.1. Tai biến sản khoa trên thới giới
Trên thế giới, cứ mỗi phút, có một phụ nữ bị tử vong từ các tai biến do
sinh đẻ và có thai, có nghĩa là gần 1.600 phụ nữ bị tử vong môi ngày, tương
đương hơn nửa triệu phụ nữ tử vong mỗi năm. Thêm vào đó, đi cùng với mỗi
ca tử vong còn có hơn 20 ca bị chấn thương, nhiễm trùng hay bết tật, ước tính
khoảng 10 triệu phụ nữ mỗi năm. Chính vì vậy, tại Hội nghị thiên niên kỷ của
Liên Hiệp quốc tháng 9 - 2000, các nhà lãnh đạo tham dự đến từ 189 quốc gia
đã nhất trí đưa ra tuyên bố thiên niên kỷ là đến năm 2015 phấn đấu giảm 3/4
số bà mẹ tử vong vì tai biến sản khoa do có thai và sinh đẻ [114].
WHO xác định có ít nhất 15% số bà mẹ mang thai bị TBSK [47,110].
Có 90% những trường hợp TBSK và tử vong mẹ xuất hiện tại các nước đang
phát triển. Tỷ lệ TBSK và tỷ suất tử vong mẹ cao nhất trên toàn cầu thuộc về
vùng Cận sa mạc Sahara của châu Phi, tiếp theo là vùng Trung – Nam - Á.
Các nghiên cứu gần đây được tiến hành bởi WHO, UNICEF, UNFPA chỉ ra
rằng cứ 16 phụ nữ có thai và sinh đẻ ở vùng Cận sa mạc Sahara châu Phi sẽ
có nguy cơ tử vong 1 phụ nữ do TBSK. So với tỷ lệ này ở các nước đã phát
triển là 1 trong 2.800 phụ nữ (bảng 1.2). Nguy cơ cao nhất thuộc về nước
25
Sierra Leone và Afghanistan, nơi mà cứ 6 người phụ nữ có thai và sinh đẻ sẽ
có nguy cơ 1 người bị tử vong do tai biến sản khoa liên quan tới có thai và
sinh đẻ [109].
Bảng 1.2. Tình hình tử vong mẹ tại các vùng trên thế giới [114]
Vùng
Tỷ suất tử vong
mẹ (trên 100.000
trẻ đẻ sống)
Số các bà
mẹ tử vong
Nguy cơ tử
vong mẹ 1 phụ
nữ trên
Toàn thế giới 400 529.000 74
Châu Âu 24 1.700 2.400
Các nước đã phát tiển 20 2.500 2.800
Châu Phi 830 251.000 20
Các nước đang phát triển 440 527.000 61
Bắc Phi 130 4.600 210
Cận sa mạc Sahara 920 247.000 16
Châu Á 330 253.000 94
Đông Á 55 11.000 840
Trung – Nam Á 520 207.000 46
Đông Nam Á 210 25.000 140
Tây Á 190 9.800 120
Châu Mỹ La tinh – Caribê 190 22.000 160
Châu Đại dương 240 530 46
Nguồn: Tử vong mẹ năm 2000, dự báo bởi WHO, UNICEF và UNFPA
Tại Ấn Độ, có 136.000 phụ nữ bị tử vong mỗi năm do các tai biến từ
sinh đẻ và có thai, kèm theo là hàng triệu phụ nữ bị TBSK. Những bước khác
có tử vong mẹ cao là Malawi, Angola, Niger, Tanzania, Rwanda, Mali va
Somalia [112]. Khoảng 1 triệu những đưa trẻ sẽ phải sống không có mẹ mỗi
năm vì hậy quả của tử vong mẹ. Trong vòng 2 năm sau thì số trẻ này sẽ bị tử
vong cao gấp từ 3 - 10 lần những đưa trẻ sống cùng cả bố và mẹ.