Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

nghiên cứu so sánh tình hình và thái độ xử trí thai từ 4000g trở lên ở những sản phụ đến đẻ tại bệnh viện phụ sản trung ương năm 1996 với năm 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1023.47 KB, 73 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Thai nghén và sinh đẻ là chức năng sinh lý quan trọng của người phụ
nữ. Trọng lượng khi sinh của trẻ có một vai trò quan trọng trong đời sống của
trẻ sơ sinh khi mà trẻ thay đổi môi trường sống từ trong buồng tử cung của
người mẹ sang môi trường không khí bên ngoài. Trọng lượng của trẻ là một
yếu tố góp phần không nhỏ tới tỷ lệ tử vong, tỷ lệ mắc bệnh trong thời kỳ sơ
sinh, sự phát triển về trí tuệ thể lực của trẻ sau này.
Trọng lượng trung bình của trẻ sơ sinh Việt nam là 3000g ± 200
[1]. Trẻ sơ sinh có cân nặng lớn hơn so với tuổi thai còn gọi là thai to.
Thai to ≥ 4000g có nhiều yếu tố thuận lợi để giúp trẻ phát triển tốt về thể
chất, tinh thần và vận động sau này. Tuy nhiên, ở những trường hợp đẻ thai to
≥ 4000g có thể xảy ra nhiều nguy cơ cho cả bà mẹ và trẻ sơ sinh. Phát hiện
và đánh giá nguy cơ thai to có ý nghĩa quan trọng trong chăm sóc, quản lý
thai nghén và tiên lượng cuộc đẻ.
Theo nghiên cứu của Vũ Thị Duyên [8] tại bệnh viện Bạch Mai
trong hai năm từ 2002 – 2003 trong 7615 trẻ sinh ra thì có 212 trẻ có cân
nặng ≥ 4000g chiếm tỷ lệ 2,78%. Một nghiên cứu khác của Vetr M [64] từ
năm 2000 – 2004 tỷ lệ đẻ thai ≥ 4000g ở Cộng hoà Czech là 10,8%…và gần
đây nhất là nghiên cứu của Lê Thị Yến trong năm 2002 bệnh viện Phụ Sản
Trung ương có 278 trẻ sinh ra có trọng lượng lớn hơn hoặc bằng 4000g chiếm
tỉ lệ 2,6% [22]. theo nghiên cứu của Mathew M [52] về các yếu tố nguy cơ
của thai to ≥ 4000g và các hậu quả lâm sàng trên 350 311 thai phụ cũng chỉ
ra rằng những người mẹ đẻ thai to thường có những yếu tố nguy cơ liên quan:
tiền sử bị tiểu đường từ trước hoặc tiểu đường xuất hiện trong khi mang thai,
béo phì, tăng cân nhiều khi mang thai, tỷ lệ phải can thiệp phẫu thuật mổ lấy
thai cao. Các biến chứng trong chuyển dạ: ngôi bất thường, chảy máu, sang
1
chấn đường sinh dục …. đều cao hơn nhóm phụ nữ đẻ con có trọng lượng
trung bình. Mặt khác, trẻ sơ sinh có cân nặng cao cũng hay gặp một số yếu tố
nguy cơ: sang chấn trong cuộc đẻ, ngạt, hạ đường máu…
Trong những năm gần đây ở Việt Nam, với sự phát triển của nền kinh


tế và xã hội, đời sống của người dân được cải thiện, việc chăm sóc và quản lý
thai nghén tốt hơn, trọng lượng trẻ sơ sinh cũng có xu hướng tăng hơn so với
những thập kỷ trước. Nguy cơ trong khi có thai và trong chuyển dạ của những
trường hợp thai ≥ 4000g cũng tăng lên. Như vậy quản lý thai nghén tốt, phát
hiện, điều trị sớm các yếu tố nguy cơ, dự đoán trọng lượng thai trước sinh,
phân tuyến đẻ đúng sẽ góp phần làm giảm các biến chứng trong và sau đẻ về
phía mẹ và thai cho các trường hợp đẻ thai phát triển quá mức trong tử cung.
Xuất phát từ tình hình thực tế và tầm quan trọng của vấn đề này, với mục tiêu
chăm sóc sức khoẻ ban đầu dành ưu tiên cho bà mẹ và trẻ em, chúng tôi tiến
hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu so sánh tình hình và thái độ xử trí thai
từ 4000g trở lên ở những sản phụ đến đẻ tại Bệnh viện Phụ sản Trung
ương năm 1996 với năm 2006".
Mục tiêu của nghiên cứu:
1. Xác định tỷ lệ thai ≥ 4000g ở những sản phụ đến đẻ tại Bệnh
viện Phụ sản Trung ương trong năm 1996 và năm 2006
2. So sánh một số yếu tố liên quan đến thai ≥ 4000g.
3. So sánh thái độ xử trí, các biến chứng cho mẹ và sơ sinh của các
trường hợp đẻ thai ≥ 4000g.
2
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Thuật ngữ.
Một số thuật ngữ sử dụng cho thai ≥ 4000g:
- Thai phát triển quá mức trong tử cung.
- Thai có trọng lượng lớn hơn so với tuổi thai tương ứng
- Thai to.
1.2. Định nghĩa thai to.
Theo WHO (Trích dẫn theo Mc Jntosh N) :
* Trẻ sơ sinh bình thường: 2500-3000g
* Thai nhẹ cân : < 2500g

* Thai to : ≥ 3500g
Trong nghiên cứu của Cunnigham [39] và Spellacy [59] thai to được định
nghĩa là thai cân nặng ít nhất 4000g hoặc hơn. Theo M.Hod và S.Aschkenazi
nghiên cứu tại Israel thì thai to là những thai có cân nặng trên 4000g.
Phân bổ tỷ lệ thai to cũng khác nhau rõ rệt giữa các nước. Theo nghiên
cứu thống kê cho thấy tỷ lệ thai ≥4000g ở các nước đã phát triển có tỷ lệ cao
hơn so với các nước đang phát triển. Tỷ lệ thai to gặp nhiều ở nước phát triển
như 10% ở Canada [30], 15% ở Đan Mạch [44] và ít gặp ở các nước phát
triển như 3,67% ở Bengal [40]. Tại Việt Nam, tỷ lệ thai ≥4000g ít gặp hơn và
theo thống kê của một số tác giả như Nguyễn Hữu Cần [3] khi nghiên cứu
trên 1000 trường hợp sinh ra trong 3 tháng cuối năm 1991 và 3 tháng đầu năm
3
1992 là 10 ca chiếm tỷ lệ 1% và theo tác giả Đào Quang Trung thống kê năm
1986 là 1,74%, của Lê Thị Yến [22] năm 2002 là 2,6%.
- Thai to toàn bộ còn gọi là thai mập: các kích thước của thai đều tăng
một cách cân đối.
- Thai to từng phần: chỉ một phần nào đó của thai phát triển quá mức;
đầu to, bụng to… Loại này thường do các bệnh lý dị dạng trầm trọng của thai:
não úng thuỷ, bụng cóc…
Trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ đề cập nghiên cứu những trường
hợp thai to toàn bộ.
Đánh giá sơ sinh theo cân nặng và tuổi thai.
- Sơ sinh cân nặng phù hợp với tuổi thai (AGA: Appropriate for
Gestation Age): có cân nặng tương xứng với tuổi thai từ đường bách phân vị
10
th
đến 90
th
.
- Sơ sinh cân nặng lớn hơn so với tuổi thai (LGA: Large for Gestation

Age): có cân nặng trên đường bách phân vị 90
th
.
- Sơ sinh cân nặng nhỏ hơn so với tuổi thai (SGA: Small for Gestation
Age): có cân nặng dưới đường bách phân vị 10
th
.
1.3. Sự phát triển và tính chất của thai nhi bình thường.
Nghiên cứu về phôi thai học, trong y văn toàn bộ quá trình phát triển
thai kể từ sau khi thụ tinh được chia làm 2 giai đoạn chính:
1.3.1. Giai đoạn phát triển phôi.
Bắt đầu tính từ khi thụ tinh đến tuần thứ tám (tương đương với tuần thứ
10 sau khi kỳ kinh cuối), đây là giai đoạn diễn ra sự hình thành, biệt hoá các
bộ phận, đặc trưng bởi sự tạo ra các mầm mô và cơ quan. Mầm của mọi cơ
4
quan đã hình thành và được sắp xếp vào vị trí nhất định ở cuối tuần thứ tám.
Trong giai đoạn này phôi tăng cân ít.
1.3.2. Giai đoạn phát triển thai.
Từ tuần thứ 9 đến đầu tuần thứ 40, trong thời kỳ này bào thai còn gọi là
thai nhi. Ở giai đoạn này các mô và cơ quan tiếp tục phát triển, lớn lên, trưởng
thành và biểu hiện các hoạt động chức năng. Đến tuần thứ 16 rau thai phát
triển hoàn chỉnh và đảm nhiệm hoàn toàn việc nuôi dưỡng thai nhi thông qua
hệ tuần hoàn rau thai.
Sự phát triển của thai theo quan niệm sinh học là quá trình trưởng thành
về mặt chức năng của các cơ quan và tổ chức. Biểu hiện bằng sự thay đổi về
thành phần cũng như kích thước của chúng trong mối tương quan với sự thay
đổi của cơ thể. Sự phát triển thai nhi là kết quả của hai quá trình: tăng về số
lượng và kích thước tế bào, hai quá trình xảy ra một cách đan xen và kế tiếp
nhau. Giai đoạn sớm nhất của quá trình phát triển là tăng số lượng tế bào, đó
là giai đoạn tăng sản. Giai đoạn giữa, kèm theo quá trình tăng sản là quá trình

tế bào to về kích thước. Đến giai đoạn cuối thì quá trình tế bào to ra đóng vai
trò chính còn quá trình tăng sản giảm dần trong vai trò phát triển của bào thai.
Sự phát triển thai kéo dài đến tuần thứ 38 sau đó bắt đầu có xu hướng chậm
lại, đến hết tuần 40 cân nặng thai nhi đạt tới mức tối đa.
1.3.3. Tính chất thai nhi đủ tháng.
Thai nhi đủ tháng có cấu tạo giải phẫu gần giống như người lớn, nhưng
về sinh lý tuần hoàn hô hấp có những điểm khác so với người lớn. Thai đủ
tháng có cân nặng trung bình 3000g ± 200g, có chiều dài trung bình 48 –
50cm. Các kích thước, trọng lượng và tư thế của thai nhi trong buồng tử cung
là những yếu tố quyết định cho cuộc đẻ [1].
5
* Tuần hoàn
Tim có 4 buồng nhưng 2 tâm nhĩ thông vớí nhau bởi lỗ Botal, động
mạch phổi thông với động mạch chủ bởi ống động mạch. Từ 2 động mạch
chậu trong tách ra 2 động mạch rốn đi theo dây rau vào bánh rau, máu đỏ đi
từ các mao mạch của các tua rau trở về nuôi dưỡng thai nhi qua tĩnh mạch
rốn. Chu kỳ tuần hoàn như sau: máu đỏ từ các gai rau mang các chất dinh
dưỡng và oxy đi vào thai nhi bằng tĩnh mạch rốn. Khi tới tĩnh mạch chủ dưới
máu đỏ sẽ pha trộn với máu đen từ nửa dưới cơ thể, để cùng đổ vào tĩnh mạch
chủ. Đến tâm nhĩ phải máu một phần xuống tâm thất phải để vào động mạch
phổi, một phần qua lỗ Botal sang tâm nhĩ trái. Vì phổi chưa làm việc nên một
phần máu từ động mạch phổi theo ống động mạch đến động mạch chủ. Động
mạch chủ cũng nhận máu từ tâm thất trái chảy ra, rồi đem đi nuôi khắp cơ thể,
đến động mạch hạ vị tách ra hai động mạch rốn đưa máu về bánh rau để trao
đổi chất. Như vậy, hầu hết máu trong thai nhi là máu pha trộn, nồng độ bão
hoà oxy thấp. Sau khi thai nhi sổ ra ngoài được gọi là trẻ sơ sinh, khi cuống
rốn được cắt thì rau đình chỉ chức phận của nó. Trẻ sơ sinh bắt đầu thở, phổi
bắt đầu hoạt động, tiểu tuần hoàn bắt đầu làm việc, lỗ Botal đóng lại, ống
động mạch teo đi, các mạch máu rốn và ống Arantius thôi làm việc. Trẻ sơ
sinh bắt đầu sống với hệ tuần hoàn vĩnh viễn giống như người lớn [1].

* Hô hấp
Thai nhi nằm trong tử cung sử dụng oxy trong máu người mẹ nhờ trao
đổi qua rau thai. Phổi chưa hoạt động nên xẹp, đặc, thả xuống nước thì chìm.
Cabonic từ các tế bào của thai nhi được chuyển vào các gai rau rồi thải vào các hồ
huyết để về máu người mẹ. Máu từ tĩnh mạch rốn đến thai nhi có oxy nên
mang mầu đỏ, trái lại máu ở động mạch rốn thì đen vì có chứa cacbonic. Sự
trao đổi oxy và cabonic qua gai rau do sự chênh lệch nồng độ giữa máu mẹ và
6
máu con quyết định, khi người mẹ bị ngạt thai nhi có thể nhường oxy cho mẹ
và có thể chết trước. Nhưng thai nhi sử dụng ít oxy nên khả năng chịu đựng
thiếu oxy của thai nhi khá cao. Máu động mạch của thai thường chỉ bão hoà
khoảng 75% oxy. Vì vậy trong trường hợp mẹ bị chết một cách đột ngột (do
tai nạn ) thì thai nhi có thể sống thêm một thời gian và người ta có thể đặt
vấn đề phẫu thuật nhanh để cứu thai nhi sau khi mẹ chết trong vòng 15 phút.
Tuy vậy, nếu thai nhi bị thiếu oxy thì sẽ có những hậu quả:
- Đầu tiên là toan khí do ứ đọng cabonic, sau đó bị toan chuyển hoá do
thừa acid lactic.
- Thiếu oxy sẽ gây hiện tượng tập trung tuần hoàn co mạch ngoại biên
và nội tạng để tập trung máu vào những bộ phận quan trọng như não, tim.
Tình trạng thiếu oxy làm tăng nhu động ruột và tống phân su vào nước ối. Vì
vậy nước ối có lẫn phân su là triệu chứng quan trọng của suy thai.
* Tiêu hoá
Khi còn trong bụng mẹ, thai nhi nhận những chất dinh dưỡng của mẹ từ
bánh rau, thẩm thấu qua thành của các gai rau.
Bộ máy tiêu hoá cũng có hoạt động chút ít. Trong ống tiêu hoá có phân
su là chất dịch sánh đặc, có chứa chất nhầy của niêm mạc dạ dầy, ruột, mật,
nước ối do thai uống vào và ít tế bào bong từ đường tiêu hoá [1].
1.3.4. Cân nặng của trẻ sơ sinh đủ tháng
Trẻ sơ sinh đủ tháng là các trẻ sơ sinh có tuổi thai từ hết tuần 37 đến hết
tuần 41 (259 - 287 ngày) [1]. Cân nặng của trẻ sơ sinh là yếu tố quan trọng để

đánh giá sự phát triển của thai nhi trong tử cung và tình trạng sức khoẻ của trẻ
sơ sinh sau khi đẻ, cân nặng của trẻ càng thấp, tỷ lệ tử vong và tỷ lệ mắc bệnh
của trẻ càng cao. Cân nặng thai bình thường nằm ở đường bách phân thứ 10
7
đến đường bách phân thứ 90 so với tuổi thai, thai nhỏ hơn so với tuổi thai nếu
cân nặng dưới đường bách phân thứ 10 so với tuổi thai và lớn hơn so với tuổi
thai nếu cân nặng trên đường bách phân thứ 90 so với tuổi thai [39],[56].
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về cân nặng trẻ sơ sinh tiến hành ở
nhiều vùng khác nhau, dựa trên những tiêu chuẩn chọn mẫu khác nhau và cho
những kết quả rất khác nhau. Tuy nhiên, các tác giả đều nhận thấy rằng thông
thường con rạ nặng hơn con so, trẻ sơ sinh trai nặng hơn trẻ sơ sinh gái và
điều kiện kinh tế xã hội là yếu tố ảnh hưởng rất có ý nghĩa đến cân nặng trẻ sơ
sinh [39].
Ở Việt Nam, theo các nghiên cứu về cân nặng trẻ sơ sinh, mặc dù rất khó
để so sánh vì các tác giả không đưa ra tiêu chuẩn chọn mẫu hoặc các tiêu
chuẩn chọn mẫu không thống nhất nhau, tuy nhiên, kết quả cho thấy, cân
nặng trung bình của trẻ sơ sinh Việt Nam đủ tháng đã có chiều hướng tăng lên
theo thời gian.
Bảng 1.1. Kết quả về cân nặng trẻ sơ sinh của một số tác giả Việt Nam
Tên tác giả
Cân nặng trẻ sơ sinh (g)
Trung
bình
Trai Gái
Nặng
nhất
Nhẹ
nhất
Nguyễn Huy Cận [4] (1967) 2998g 3015g 2967g 4000g 2000g
Nguyễn Hữu Cần [3] (1992) 3083g 3107g 3068g 4000g 2500g

Nguyễn Ngọc Khanh [16] (1995) 3021g 3068g 2967g
Nguyễn Cảnh Chương [7] (1998) 3184g 3270g 3093g 3890g 2577g
Phan Văn Quý [19] (1999) 3195g 3285g 3110g
Đàm Thị Quỳnh Liên [17] (2002) 3209g 3210g 3100g 5150g 1650g
Bộ môn Nhi Trường ĐHYHN [1] 3070g 3020g
Bộ môn Phụ sản trường ĐHYHN [1] 3000g
1.4. Nhu cầu phát triển thai bình thường.
8
1.4.1. Bánh rau:
Trong thời kỳ mang thai bánh rau hoạt động như một hệ thống các cơ
quan hoàn chỉnh. Bánh rau không đơn thuần chỉ là một hàng rào bảo vệ mà nó
còn thực hiện chức năng hô hấp, tiêu hoá, nội tiết cho thai. Bánh rau có ba
chức năng chính:
- Trao đổi chất dinh dưỡng và chất cặn bã giữa mẹ và thai, đảm bảo cho
thai sống và phát triển.
- Sản xuất và tiết hormon rau thai giúp người mẹ thích nghi với tình
trạng thai nghén.
- Duy trì hàng rào miễn dịch.
Sự phát triển của thai phụ thuộc rất nhiều vào sự trao đổi chất giữa mẹ
và con qua rau thai. Khả năng trao đổi chất giữa mẹ và con có tốt hay không
còn tuỳ thuộc vào cấu trúc và tình trạng của các gai rau. Cơ chế trao đổi chất
gồm nhiều cách:
- Cơ chế khuyếch tán: dựa vào sự khác biệt nồng độ chất thay đổi có
trọng lượng phân tử < 600 đơn vị dalton.
- Cơ chế khuyếch tán gia tăng: nhờ các yếu tố chuyên chở như ion
canxi, ion clo…, cơ chế này tiêu thụ nhiều năng lượng tế bào.
- Cơ chế vận chuyển chủ động.
- Hoạt động thực bào.
Nhờ các cơ chế này hoạt động trao đổi chất giữa hai hệ tuần hoàn của
mẹ và con diễn ra một cách liên tục. Lưu lượng tuần hoàn máu mẹ là

600ml/phút trong khi đó lưu lượng tuần hoàn máu thai là 70 – 200ml/phút.
9
Sự trao đổi chất khí xảy ra theo cơ chế khuyếch tán đơn thuần, tuỳ theo
áp xuất của các khí hoà tan trong máu mẹ và thai. Oxy có nồng độ cao trong
máu mẹ sẽ được vận chuyển sang thai, hemoglobin trong máu thai nhi có đặc
tính thu nhận oxy dễ dàng. Khí carbonic cũng được vận chuyển từ máu thai
nhi sang máu mẹ theo cơ chế này.
Nước và các chất điện giải qua rau thai nhờ cơ thể thẩm thấu, bánh rau
còn có khả năng dự trữ sắt và canxi nhất là vào cuối thời kỳ thai nghén.
Protein từ mẹ qua rau thai theo kích thước của các phân tử từ albumin
đến gamma globulin, sự vận chuyển này có hiệu quả hơn ở những tháng
cuối của thai nghén. Protein phân giải thành các acid amin để qua rau thai
sau đó các gai rau lại tổng hợp thành các protein đặc hiệu cho thai. Các
chất mỡ qua rau thai rất hạn chế, chỉ vài acid béo có trọng lượng phân tử
thấp mới qua được trong dầu. Các vitamin nhóm B, C và acid folic qua rau
thai dễ dàng hơn.
Ngoài ra rau thai còn đóng vai trò như một hàng rào bảo vệ không cho
vi khuẩn đi qua nhưng các virus như cúm, rubela…. có thể qua rau thai một
cách dễ dàng. Xoắn khuẩn giang mai có thể qua rau thai sau tháng thứ 5 và có
thể gây bệnh cho thai nhi. Các thuốc có trọng lượng phân tử dưới 600 đơn vị
dalton đều qua rau thai dễ, ngược lại các chất có trọng lượng phân tử trên
1000 đơn vị dalton khó qua rau thai. Tuy nhiên, việc các thuốc có hay không
qua rau thai còn phụ thuộc nhiều vào liều lượng, đường dùng và thời gian
dùng thuốc. Vì vậy việc sử dụng thuốc cho phụ nữ có thai phải hết sức thận
trọng. Các kháng thể có thể qua rau thai tạo khả năng miễn dịch thụ động cho
thai nhi.
Bánh rau còn tiết ra một số hormon vào máu cơ thể người mẹ làm cho
người mẹ thích nghi với tình trạng thai nghén và tạo điều kiện thuận lợi cho
10
sự phát triển của thai, chúng gồm hai nhóm: hormon loại peptid và các

hormon loại steroid.
1.4.2. Yếu tố nội tiết trong giai đoạn bào thai.
Người ta nhận thấy sự có mặt của các hormon trong sự phát triển và
duy trì thai. Các yếu tố phát triển giống như các hormon tuyến yên, tuyến
giáp, tuyến thượng thận tham gia vào cả hai thành phần phát triển là tăng sản
lượng lên về kích thước. Các yếu tố giống insulin đóng vai trò quan trọng
trong việc phát triển cân nặng lúc đẻ.
Như vậy, tuổi thai và sự phát triển của thai trong tử cung là hai yếu tố
đảm bảo cho quá trình phát triển bình thường của thai hoặc sẽ làm cho thai
chậm phát triển gây suy dinh dưỡng bào thai. Nếu nhu cầu phát triển thai
được đáp ứng quá mức hoặc một số tình trạng bệnh lý của mẹ và thai sẽ gây
thai phát triển quá mức trong tử cung.
1.5. Thai to và các yếu tố liên quan đến thai to
1.5.1. Thai to .
Trọng lượng trung bình của thai nhi đủ tháng ở người Việt nam khoảng
3000 – 3100g [1], thai to là thai có trọng lượng ≥ 3500g, ở châu Âu thai to là
thai có trọng lượng ≥ 4000g hoặc thai có trọng lượng trên đường percentile
90
th
theo tuổi thai.
Có hai loại thai to:
- Thai to toàn bộ hay còn gọi là thai mập: các phần của thai phát triển
cân đối, không có dấu hiệu bệnh lý.
- Thai to từng phần hay còn gọi là thai to bệnh lý: trọng lượng thai lớn
nhưng thai phát triển không cân đối, có thể chi có đầu to hoặc bụng to (não
úng thuỷ, bụng cóc). Loại này thường có dấu hiệu bệnh lý trầm trọng.
11
Đối với người đẻ con rạ, đẻ nhiều lần, khung xương chậu rộng rãi, thai
có trọng lượng ≥ 4000g cũng có thể đẻ đường dưới được, nhưng đối với
khung xương chậu bình thường, thai có trọng lượng 4000g trở lên có thể đẻ

đường âm đạo nhưng thường gây đẻ khó. Nói chung thai càng to thời gian
chuyển dạ càng kéo dài, tỷ lệ đẻ can thiệp foxep, phẫu thuật mổ lấy thai và đẻ
khó do vai cao.
Những thai có trọng lượng trên 4500g tỷ lệ chết trong đẻ và tỷ lệ chết
vì chấn thương tăng cao đặc biệt là đẻ khó do vai.
Thai ≥ 4000g thường gặp ở những người con rạ đẻ nhiều lần, do
nguyên nhân di truyền, ở những người béo phì, người mẹ bị tiểu đường, hoặc
thai quá ngày sinh. Cần phải chẩn đoán phân biệt thai to với đa thai, đa ối.
Việc ước tính trọng lượng thai trước khi sinh rất khó khăn, hiện nay
vẫn còn là thách thức với các nhà sản khoa. Chính vì vậy ở những trường hợp
có dấu hiệu nghi ngờ thai ≥ 4000g cần phải phối hợp giữa thăm khám lâm
sàng cẩn thận kết hợp với các thăm dò cận lâm sàng.
- Đánh giá lâm sàng: Miller và cộng sự [54] cho rằng nghi ngờ thai ≥
4000g nếu thai đủ tháng, chiều cao tử cung trên 40cm, tuy nhiên chiều cao tử
cung cũng còn phụ thuộc vào kỹ năng của người khám và bề dày thành bụng
của thai phụ
- Đánh giá siêu âm: giá trị của siêu âm trong đánh giá thai ≥ 4000g
chắc chắn hơn. Tuy nhiên sai số trong ước lượng trọng lượng thai bằng siêu
âm khoảng 10 – 15% [25]. Hiện nay đã có nhiều kỹ thuật đo phối hợp giữa
các số liệu trong chẩn đoán siêu âm: chu vi bụng qua tĩnh mạch rốn, đường
kính trung bình bụng, tính thể tích của thai nhi… Chính vì vậy độ chính xác
trong chẩn đoán thai ≥ 4000gr bằng siêu âm ngày càng được cải thiện. Một
số nghiên cứu [9], [35], [36] đã đưa ra biểu đồ phát triển thai nhi theo tuổi
12
thai, thấy trọng lượng thai phát triển nhanh vào những tháng cuối, cho nên
những phương pháp đánh giá trọng lượng thai bằng siêu âm thường có độ
chính xác cao hơn ở tuổi thai trên 38 tuần (sai số trong ước lượng trọng lượng
thai chỉ còn 6,3 – 6,9%). Năm 2002 Best và cộng sự [28] gợi ý một phương
pháp mới dựa trên siêu âm đo lớp mỡ dưới da đùi thai nhi, phương pháp này
có độ chính xác cao hơn ở nhóm thai nhỏ nên có giá trị trong sàng lọc thai

kém phát triển trong buồng tử cung.
Tóm lại không có một phương pháp đơn độc nào có giá trị để tiên
lượng thai ≥ 4000g với độ chính xác có thể chấp nhận được. Để đánh giá thai
≥ 4000g cần theo dõi thai nghén, phát hiện các yếu tố nguy cơ của thai ≥
4000g, thăm khám lâm sàng tỷ mỷ, phối hợp với các thăm dò cận lâm sàng.
- Đề phòng thai ≥ 4000g : đề phòng thai ≥ 4000g cũng đã được quan
tâm [25], ngoài những yếu tố không thể can thiệp: yếu tố gen, di truyền, thai
to ≥ 4000g ở người đẻ nhiều lần, thì việc quản lý điều trị có hệ thống bệnh
tiểu đường, giữ tình trạng ổn định của tiểu đường trong khi có thai cũng có
thể hạn chế được tình trạng thai phát triển quá mức trong tử cung [49].
- Xử trí thai ≥ 4000g: trước những trường hợp nghi ngờ thai ≥ 4000g có
sự bất tương xứng tương đối với khung chậu, cần phải làm nghiệm pháp lọt
ngôi chỏm khi đủ điều kiện, nếu thất bại chỉ định mổ lấy thai. Nếu nghiệm
pháp thành công, ngôi có thể lọt xuống người phụ nữ có thể đẻ được song có
thể gặp nhiều biến chứng: sang chấn thai nhi, chấn thương đường sinh dục
người mẹ, chảy máu sau đẻ. Vì vậy, cần phải cắt nới tầng sinh môn rộng, giác
kéo hay foxep lấy thai. Trong trường hợp có sự bất cân xứng giữa thai và
khung xương chậu rõ rệt cần chỉ định mổ lấy thai sớm để hạn chế các biến
chứng do đẻ đường âm đạo thai ≥ 4000g [1], [53].
13
1.5.2. Một số yếu tố liên quan đến thai to.
Những quan sát trước sinh liên quan đến thai ≥ 4000g bao gồm: sờ nắn
khối thai to chắc, mẹ tăng cân nhiều trong khi mang thai, những bà mẹ có tiền
sử đẻ thai to, tuổi cao, đẻ nhiều lần. Một số đặc trưng người phụ nữ đẻ thai to,
tuổi cao, đẻ nhiều lần. Một số đặc trưng người phụ nữ đẻ thai ≥ 4000g
thường có một trong 3 vấn đề đó là béo phì, tiểu đường và tuổi cao. Một điều
thú vị rằng thai ≥ 4000g thường gặp ở trẻ trai nhiều hơn trẻ gái. Thai ≥ 4000g
còn liên quan đến những người mẹ có tầm vóc cao lớn, ngoài ra có 1/3 số thai
≥ 4000g không rõ nguyên nhân. Theo Klebanoff và cộng sự [47] đã khẳng
định trọng lượng của bà mẹ lúc đẻ có liên quan chắc chắn đến trọng lượng của

đứa trẻ mà họ sinh ra.
1.5.2.1. Yếu tố về phía mẹ.
- Tuổi của mẹ: đã có nhiều công trình nghiên cứu chứng minh mối liên
quan giữa tuổi mẹ và cân nặng của trẻ. Kết quả nghiên cứu cho thấy các bà
mẹ dưới 20 tuổi và trên 35 tuổi có nguy cơ đẻ con nhẹ cân hơn so với nhóm
tuổi từ 21 – 34. Các bà mẹ trẻ do cơ thể chưa phát triển hoàn thiện, khung
xương chậu phát triển chưa chín muồi, mặt khác ở lứa tuổi này có thể do bà
mẹ còn thiếu kiến thức bảo vệ và chăm sóc thai nghén nên tăng nguy cơ đẻ
con nhẹ cân. Ở một số nghiên cứu thấy tỷ lệ thai ≥ 4000g thường gặp ở
những bà mẹ cao tuổi [58], [61], [64], điều này do phối hợp một số yếu tố
thuận lợi con rạ, tiền sử đẻ thai to…
- Dinh dưỡng của người mẹ khi mang thai: thai nhi sống và phát triển
trong buồng tử cung phụ thuộc hoàn toàn vào người mẹ qua tuần hoàn rau
thai. Vì vậy, chế độ dinh dưỡng của mẹ trong thời gian mang thai có tác động
rất lớn và được coi là những yếu tố liên quan đến sự phát triển của thai và ảnh
hưởng đến cân nặng của trẻ lúc đẻ. Ở Việt Nam việc đánh giá khẩu phần dinh
14
dưỡng cho các bữa ăn rất khó khăn, việc xác dịnh chế độ dinh dưỡng tốt trong
khi mang thai chỉ là tương đối khi người mẹ được tư vấn về chế độ ăn uống
khi mang thai và có thay đổi chế độ ăn phù hợp trong khi thai nghén. Tuy
nhiên, một số nghiên cứu nước ngoài đã chứng minh mối liên quan giữa chế
độ dinh dưỡng của người mẹ khi mang thai với cân nặng thai nhi [30], [51],
[54], [55].
- Tăng cân của bà mẹ trong quá trình mang thai: tổng số cân nặng của
mẹ tăng trong suốt quá trình mang thai bình thường từ 10 – 12kg, 3 tháng đầu
tăng khoảng 1 – 1,5kg, ba tháng giữa tăng khoảng 4 – 5 kg, ba tháng cuối tăng
khoảng 6kg. Tăng cân của mẹ trong quá trình mang thai có liên quan chặt chẽ
đến trọng lượng của trẻ sơ sinh khi đẻ [8]. Theo Bergmann [26] khi nghiên
cứu trên 2994 bà mẹ mang thai đã thấy sự tăng cân của bà mẹ có liên quan
đến cân nặng của con theo các quý:

+ Mỗi kilogram tăng cân của người mẹ trong quý I tương ứng với sự
tăng cân của con khi sinh là 18g/kg.
+ Mỗi kilogram tăng cân của người mẹ trong quý II tương ứng với sự
tăng cân của con khi sinh là 32,8g/kg.
+ Mỗi kilogram tăng cân của người mẹ trong quý III tương ứng với sự
tăng cân của con khi sinh là 17g/kg.
- Chiều cao của mẹ: Chiều cao và kích thước khung chậu của mẹ có
liên quan đến trọng lượng của trẻ sơ sinh trong quá trình chuyển dạ. Những bà
mẹ có chiều cao thấp liên quan đến khung chậu hẹp hay dẫn đến đẻ khó, có
nhiều biến chứng khi đẻ, thường đẻ con cân nặng hơn. Theo nghiên cứu của
Trần Thị Trung Chiến năm 2000 cho thấy chiều cao phụ nữ dưới 145cm là
mang yếu tố nguy cơ cho thai sản [5]. Nghiên cứu về chiều cao phụ nữ dưới
145cm là mang yếu tố nguy cơ cho thai sản [5]. Nghiên cứu về chiều cao của
15
phụ nữ 7 tỉnh cho thấy 90,7% phụ nữ có chiều cao từ 145cm trở lên và 9,3%
phụ nữ có chiều cao dưới 145cm. Theo nghiên cứu của Phan Văn Quý [19]
năm 1995 thì mối tương quan giữa chiều cao của mẹ với cân nặng của trẻ sơ
sinh khi đẻ là chặt chẽ với hệ số tương quan r = 0,03 và cho biết mẹ càng cao
thì đẻ con càng nặng cân.
Theo nghiên cứu của Vũ Thị Duyên [8] chiều cao của mẹ liên quan đến
trọng lượng thai lúc sinh với p < 0,01. Một số nghiên cứu nước ngoài cũng đá
chứng minh được mối liên quan dương tính giữa chiều cao mẹ với trọng
lượng thai khi sinh [30], [51], [54], [55].
- Khoảng cách giữa hai lần sinh của mẹ: trong quá trình mang thai dinh
dưỡng dự trữ của mẹ được huy động dần dần cho thai nhi. Để phục hồi lại sức
khoẻ cho bà mẹ sau đẻ nuôi con và chuẩn bị tốt cho đẻ lần sau đòi hỏi phải có
thời gian không quá ngắn (từ 2 – 4 năm). Những bà mẹ có thai lại trong vòng 2
năm sẽ không có đủ dự trữ năng lượng cho thai phát triển bình thường vì đã
tiêu hao nhiều năng lượng cho đẻ và nuôi con lần trước, dẫn đến hậu quả là
không đủ dinh dưỡng cho phát triển bào thai lần sau và gây nguy cơ cao đẻ con

nhẹ cân. Vì vậy khoảng cách giữa hai lần sinh hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển của thai trong tử cung. Tỷ lệ đẻ thai ≥ 4000gr cao hơn ở
nhóm có khoảng cách giữa hai lần sinh trên 5 năm, tuy nhiên một số tác giả cho
rằng mối tương quan này chưa có ý nghĩa thống kê [23], [48], [52], [55].
- Chỉ số khối cơ thể (BMI – Body Mass Index): Chỉ số khối cơ thể
được tính theo công thức: BMI = cân nặng (kg)/bình phương chiều cao (m).
Tiêu chuẩn phân loại dư cân và béo phì dựa trên BMI được Tổ chức y tế thế
giới điều chỉnh cho người Châu Á giới thiệu năm 2000 như sau:
BMI Phân loại
16
< 18,5 Nhẹ cân
18,5 – 22,9 Bình thường
23 – 24,9 Dư cân
25 – 29,9 Béo phì độ I
≥ 30
Béo phì độ II
Nhiều nghiên cứu đã đưa ra các bằng chứng chứng minh chỉ số khối cơ
thể liên quan đến sự phát triển của thai trong buồng tử cung, người mẹ béo
phì chỉ số khối cơ thể cao tỷ lệ đẻ thai ≥ 4000g càng cao [25], [50], [64].
BMI cao có thể do người mẹ tăng cân nhiều và có chế độ dinh dưỡng
hợp lý trong thời gian mang thai. Theo nghiên cứu của Vũ Thị Duyên [8]
trọng lượng mẹ lúc đẻ và số cân tăng trong khi mang thai có liên quan đến đẻ
thai ≥ 4000gr (p < 0,01. Wollschlaeger và cộng sự [66] cho biết trọng lượng
trung bình của bà mẹ khi đẻ và trước khi có thai ở nhóm thai to đều cao hơn
nhóm chứng sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Các nghiên cứu của Wen, Van
Hoorn, Stotland và Isaeve [44], [57], [60], [63] cũng cho các kết quả tương tự.
- Mẹ bị tiểu đường: tiểu đường là một bệnh nội tiết không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp lệ tình trạng sức khoẻ của người mẹ mà còn ảnh hưởng đến sự
phát triển của thai nhi. Theo tác giả Hoàng Thị Bích Ngọc [18] phụ nữ có thai
kèm theo tiểu đường gồm hai loại:

+ Phụ nữ bị tiểu đường trước khi có thai chiếm 2 – 4/1000 phụ nữ có
thai, đa số trong số họ là tiểu đường phụ thuộc insulin, một lượng ít hơn
những người nhiều tuổi là tiểu đường không phụ thuộc insulin thường là
béo phì.
+ Tiểu đường ở phụ nữ khi có thai, thuật ngữ này chỉ giới hạn những
phụ nữ sự khởi đầu hoặc nhận biết tiểu đường xảy ra lần đầu tiên trong thời
kỳ mang thai, có khoảng 3% số thai phụ mắc chứng bệnh này. Tiểu đường ở
17
phụ nữ có thai thường khởi phát ở tuần lễ thứ 24 của thai nghén, đôi khi cũng
có thể xuất hiện sớm hơn, tiểu đường khởi phát do nhu cầu tăng insulin của
quá trình phát triển thai. Khi thai nhi phát triển nhu cầu chuyển hoá đường
của sản phụ tăng lên, trong giai đoạn sau của thai nghén nhu cầu về insulin
tăng gấp 2 lần so với bình thường. Đồng thời cơ thể sản phụ có một số
hormon kháng insulin, cơ thể không đáp ứng đủ nhu cầu lượng insulin, đường
huyết sẽ tăng cao và xuất hiện tiểu đường.
Những người phụ nữ bị tiểu đường khi mang thai có thể ảnh hưởng xấu
đến thai nhi vì những lý do sau đây:
- Thứ nhất: sản phụ bị tiểu đường có nguy cơ tăng tỷ lệ sẩy thai so với
sản phụ không bị tiểu đường.
- Thứ hai: sản phụ bị tiểu đường có nguy cơ tăng dị tật bẩm sinh về tim
mạch cho con và có hiện tượng không cân đối về lớp mỡ dưới da.
- Thứ ba: là do hậu quả thai ≥ 4000g ở những thai phụ có xét nghiệm
đường huyết bất thường gây nên những biến chứng cho mẹ và thai trong
chuyển dạ cũng như sau đẻ. Nghiên cứu của Vũ Thị Duyên và Lê Thị Yến
[8], [22] ở những người mẹ có lượng đường máu > 6,5 mmol/l tỷ lệ đẻ con >
4000g cao hơn nhóm các bà mẹ có lượng đường máu ≤ 6,5 mmol/l sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Năm 2004, khi nghiên cứu về tỷ lệ đái
tháo đường thai kỳ và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ quản lý thai nghén tại
bệnh viện Phụ sản Trung ương và Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, tác giả Nguyễn
Đức Vy và cộng sự [21] lại chưa thấy mối liên quan giữa lượng đường máu

và tỷ lệ thai ≥ 4000g , một nghiên cứu về thai ≥ 4000g của Vetr năm 2005
[61] cũng cho kết quả tương tự. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu ở các nước
phương Tây [34], [38], [40], [41] đều cho kết quả có mối liên quan chặt chẽ
giữa đường huyết với tỷ lệ thai to. Các và đã đưa ra khuyến cáo: tất cả những
18
phụ nữ có thai cần được xét nghiệm sàng lọc đường máu ở quý II của thai
nghén. Những người có nguy cơ cao mà xét nghiệm âm tính thì cần xét
nghiệm lại vào quý III. Những thai phụ có đường máu tăng và tiểu đường phụ
thuộc Insulin 5 – 10% có triệu chứng của thai to [24], [25], [27], [29], [31].
- Bệnh của mẹ trong thời gian mang thai: theo các tài liệu trong y văn,
hầu hết các triệu chứng, bệnh tật liên quan đến thai nghén như nhiễm độc thai
nghén, sản giật, nhiễm khuẩn, nhiễm virut, thiếu máu … đều là cản trở sự
phát triển của thai gây ra đẻ non và chậm phát triển thai trong tử cung. Tuy
nhiên đã có một vài nghiên cứu chứng minh một số bệnh lý của mẹ trong thời
kỳ mang thai tác động làm thai phát triển quá mức trong tử cung: béo phì, tiểu
đường, cao huyết áp với thai nghén, tiền sản giật [61], [62], [64].
- Thiếu máu của mẹ trong thời gian mang thai: thiếu máu là sự giảm số
lượng hồng cầu hoặc giảm nồng độ huyết sắc tố ở máu ngoại vi dẫn đến thiếu
oxy để cung cấp cho các tổ chức của cơ thể. Sự nuôi dưỡng thai chịu ảnh
hưởng sự tưới máu tuần hoàn của người mẹ tới bánh rau và thai. Nếu tuần
hoàn máu mẹ đầy đủ sẽ cung cấp đủ dinh dưỡng cho thai và ngược lại nếu
người mẹ bị thiếu máu trong giai đoạn mang thai sẽ có ảnh hưởng xấu đến
thai. Theo thống kê của tổ chức y tế Thế giới thì 56% phụ nữ có thai ở các
nước đang phát triển bị thiếu máu và ở các nước phát triển thì tỷ lệ này là
18%. Thiếu máu trong thời kỳ thai nghén thường là nguyên nhân của sẩy thai,
đẻ non, thai suy dinh dưỡng trong tử cung và đẻ con nhẹ cân, điều này đã
được chứng minh bởi một số nghiên cứu trong nước của các tác giả Cù Thị
Minh Hiền, Đinh Thị Phương Hoà, Lê Thị Hồng Huệ, Hoàng Văn Tiến [10],
[13], [14], [20]. Ở phụ nữ có thai có thể bị thiếu máu sinh lý do sự tăng cân
không đồng đều giữa thể tích huyết tương và khối lượng hồng cầu. Nguyên

nhân thiếu máu đại đa số là do thiếu sắt và acid folic. Theo Đào Văn Chinh
[6] thì thiếu máu do thiếu chất sắt chiếm 80% các trường hợp thiếu máu khi
19
có thai khoảng 10 – 20% các phụ nữ ăn uống đầy đủ mà vẫn bị thiếu máu do
thiếu sắt. Các nghiên cứu trong và ngoài nước chưa tìm thấy mối liên quan
giữa lượng huyết sắc tố với tỷ lệ thai ≥ 4000g .
1.5.2.2. Yếu tố kinh tế xã hội.
Các yếu tố bao gồm nghề nghiệp, trình độ văn hoá, thu thập, chế độ
dinh dưỡng … có ảnh hưởng trực tiếp đến trọng lượng thai nhi. Điều kiện
kinh tế xã hội được cải thiện làm tăng điều kiện tiếp cận với những dịch vụ
chăm sóc sức khoẻ, dinh dưỡng tốt, quản lý thai nghén tốt hơn đã và đang
từng bước nâng cao chất lượng của các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ
em và góp phần làm giảm các biến chứng sản khoa cho mẹ và thai.
1.5.2.3. Yếu tố về phía thai.
- Tuổi thai: thai lớn dần lên trong tử cung theo tuổi thai, nếu không có
các dấu hiệu bệnh lý về phía mẹ và thai. Theo biểu đồ cân nặng thai nhi tương
ứng tuổi thai từ 22 - 42 tuần của Phan Trường Duyệt và cộng sự [6], tốc độ
phát triển cân nặng thai nhi trong tử cung tăng nhanh từ tuần 28, sau tuần 40
cân nặng thai nhi vẫn tiếp tục tăng. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Duyên và
Lê Thị Yến [8], [22], tỷ lệ đẻ thai ≥ 4000gr ở tuổi thai trên 40 tuần cao hơn tỷ lệ
thai to ở nhóm tuổi thai dưới 40 tuần. Khi nghiên cứu về tình hình thai quá ngày
sinh tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, Huỳnh Thị Bích Ngọc [18] thấy trọng
lượng trung bình ở trẻ sơ sinh của thai quá ngày sinh là 3308g ± 438, trọng
lượng trung bình ở trẻ sơ sinh của thai đủ tháng là 3131g ± 406 (p < 0,05).
Theo tác giả nước ngoài, thai quá ngày sinh là yếu tố nguy cơ rất quan
trọng của thai ≥ 4000g , là một trong những dấu hiệu chỉ điểm thai ≥ 4000g,
cùng một số dấu hiệu khác như béo phì và tiểu đường. Body và cộng sự [30]
cho biết 21% thai ≥ 4000g đẻ ở tuổi thai 42 tuần,chỉ có 12% thai ≥ 4000g đẻ
ở tuổi thai 40 tuần và đã đưa ra khuyến cáo gây chuyển dạ khi thai đủ tháng
20

có nghĩa là làm giảm các biến chứng của đẻ đường âm đạo cho những trường
hợp thai ≥ 4000g . Trong nghiên cứu của Specllacy và cộng sự [59], tỷ lệ thai
quá ngày sinh trong thai ≥ 4000g là 10,8%: nghiên cứu của Berard J. [25]
17% bệnh nhân đẻ ở tuổi thai sau 42 tuần.
- Giới tính thai: các nghiên cứu trong và ngoài nước đều cho cùng một
nhận xét: tỷ lệ thai ≥ 4000g ở trẻ sơ sinh trai cao hơn trẻ sơ sinh gái. Nhiễm
sắc thể giới Y có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của bào thai.
Năm 1968, Tamura và cộng sự [62] đã nhận xét ảnh hưởng đáng kể của
giới đối với cân nặng của trẻ sơ sinh trên một số trường hợp. Sự ảnh hưởng đó
thấy rõ sau 36 tuần, trọng lượng trẻ sơ sinh trai lớn hơn trẻ gái, đồng thời đã
nêu ra sự chênh lệch trong lượng con rạ lớn hơn so 100g từ tuần thứ 32 trở đi.
21
Chng 2
I TNG V PHNG PHP NGHIấN CU
2.1. i tng nghiờn cu.
- Gồm 2 nhóm:
Nhóm I: Hồi cứu hồ sơ các sản phụ sinh con 4000g tại Bệnh viện Phụ
sản Trung ơng từ tháng 1/1996 đến 12/1996.
Nhóm II: Hồi cứu hồ sơ các sản phụ sinh con 4000g tại Bệnh viện
Phụ sản Trung ơng từ tháng 1/2006 đến 12/2006.
2.1.1. Tiờu chun chn mu cho 2 nhúm
- Một thai
- S sinh cú cõn nng 4000g.
- Tr s sinh ra sng.
- Không có bất thờng thai và phần phụ
- Cỏc thụng tin v yu t nghiờn cu ca b m v tr s sinh c ghi
chộp y trong h s.
2.1.2. Tiờu chun loi tr.
- a thai
- Thai cht lu

- Thai bt thng
- H s khụng y thụng tin.
22
2.2. Phương pháp nghiên cứu.
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu.
Chúng tôi sử dụng phương pháp: nghiên cứu mô tả hồi cứu, phân tích
các thông tin về mẹ và trẻ sơ sinh.
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu.
Lấy mẫu nghiên cứu theo phương pháp mẫu toàn thể, gồm tất cả những
trường hợp thoả mãn tiêu chuẩn lựa chọn
2.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu:
- Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương
2.4. Kỹ thuật thu thập số liệu:
- Xây dựng mẫu bệnh án nghiên cứu
- Các số liệu được thu thập dựa trên mẫu bệnh án đã xây dựng
2.5. Các biến số nghiên cứu.
2.5.1. Đặc điểm của thai phụ
- Tuổi mẹ: tính theo tuổi dương lịch
- Khu vực sinh sống: thành thị, nông thôn.
- Trình độ học vấn.
- Nghề nghiệp.
- Tiền sử bệnh tật: tiểu đường, Basedow, tăng huyết áp, tim mạch, tiết
niệu, tiêu hoá và các bệnh khác.
- Tiền sử sản khoa: số lần đẻ đủ tháng, thiếu tháng, số lần nạo hút thai,
tiền sử đẻ con to.
23
2.5.2. Tình trạng thai nghén lần này:
- Chiều cao.
- Cân nặng
- Số cân tăng trong thời gian mang thai.

- Bệnh lý sản khoa trong thời kỳ mang thai: nạo sẩy thai, đẻ non, rau
tiền đạo, tiền sản giật, rau bong non, đa ối, thiếu ối…
- Bệnh lý nội khoa trong thời kỳ mang thai: bệnh thận, bệnh tim, tăng
huyết, tiểu đường, Basedow…
- Chỉ số đường huyết trong khi mang thai.
- Các thuốc sử dụng trong khi mang thai.
2.5.3. Tình trạng trẻ sơ sinh
- Tuổi thai
- Chiều cao tử cung, vòng bụng.
- Ngôi thai.
- Cách chuyển dạ: chuyển dạ tự nhiên, gây chuyển dạ.
- Cách đẻ: đẻ thường, đẻ có can thiệp, mổ lấy thai.
- Tình trạng trẻ sau đẻ:
+ Giới tính
+ Cân nặng
+ Apgar
24
2.5.4. Tai biến xảy ra trong cuộc đẻ
- Mẹ: rách tầng sinh môn, chảy máu, bí đái, nhiễm khuẩn…
- Con: ngạt, nhiễm khuẩn, hạ đường máu, co giật…
2.6. Một số tiêu chuẩn đánh giá có liên quan đến nghiên cứu
- Trọng lượng thai: tính bằng gam, trẻ được cân ngay khi đẻ hoặc sau
mổ, cân được chia độ chính xác tới 50g.
- Cân nặng mẹ khi đẻ: tính bằng kg, sai số cho phép là 0,5kg.
- Chỉ số khối cơ thể của mẹ trước đẻ (BMI - Body Mass Index): được
tính theo công thức:
BMI =
Trong đó: cân nặng tính theo kg, chiều cao tính theo mét
Cách đánh giá như sau:
BMI Phân loại

< 18,5 Nhẹ cân
18,5 - 22,9 Bình thường
23 - 24,9 Dư cân
25 - 29,9 Béo phì độ I
≥ 30 Béo phì độ II
- Đái tháo đường: đã được chẩn đoán và điều trị bệnh trước hoặc trong
bất kỳ giai đoạn nào của thai nghén.
- Basedow: đã được chẩn đoán và điều trị bệnh trước hoặc trong khi
mang thai.
25

×