Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Chiến lược bảo vệ Môi trường Quốc gia 20012010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.34 KB, 23 trang )

Chiến lược bảo vệ Môi trường Quốc gia 2001-2010

Chương I. Thực trạng môi trường và những thách thức

1. Ðánh giá tình hình thực hiện kế hoạch hành động quốc gia về môi trường và phát triển bền
vững giai đoạn 1991-2000
2. Môi trường tiếp tục xuống cấp

3. Tác động của môi trường toàn cầu

a. Vấn đề môi trường của các lưu vực sông Cửu long và sông Hồng
b. Vấn đề bảo vệ môi trường của các vùng rừng xuyên biên giới
c. Vấn đề mưa a-xít

d. Ô nhiễm tầng khí quyển và hiệu ứng nhà kính

e. Ô nhiễm biển và đại dương
g. Thủng tầng ôzôn
h. Chuyển dịch ô nhiễm


4. Những thách thức đối với môi trường Việt Nam
Chương II. Quan điểm, mục tiêu và các nội dung cơ bản của chiến lược
1. Các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo.
2. Các mục tiêu chiến lược
a. Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước
b. Bảo vệ môi trường đất và sử dụng bền vững tài nguyên đất

c. Bảo tồn đa dạng sinh học
d. Bảo vệ môi trường không khí
e. Bảo vệ môi trường đô thị và khu công nghiệp



g. Bảo vệ môi trường nông thôn
h. Bảo vệ môi trường biển, ven biển và hải đảo

i. Bảo vệ các vùng đất ngập nước
J. Bảo vệ môi trường thiên nhiên và di sản văn hóa
k. Sản xuất sạch hơn

n. Bảo vệ môi trường gắn với phát triển kinh tế - xã hội vùng
m. Bảo vệ môi trường gắn với phát triển các ngành kinh tế

o. Nghiên cứu khoa học, công nghệ về môi trường


Chương III. Tổ chức thực hiện chiến lược

1. Tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức về môi trường
2. Tăng cường vai trò của cộng đồng, doanh nghiệp, tư nhân trong bảo vệ môi trường

3. Tăng cường và đa dạng hoá đầu tư bảo vệ môi trường

4. Tăng cường năng lực quản lý nhà nước về môi trường
5. Mở rộng hợp tác quốc tế và thu hút sự tài trợ của quốc tế

6. Kết hợp chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia với chiến lược phát triển kinh tế xã hội

7. Lựa chọn hành động ưu tiên
8.Trách nhiệm và các cơ quan thực hiện

9.Giám sát và đánh giá việc thực hiện chiến lược




MỞ ÐẦU
Tình hình kinh tế xã hội nước ta trong thời gian qua, đặc biệt là từ khi thực hiện chính sách đổi
mới, đã có những bước phát triển đáng khích lệ, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm là
7%, cơ cấu kinh tế chuyển đổi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chúng ta cũng đã thu
được nhiều thành tựu trong các lĩnh vực sức khoẻ, giáo dục, văn hoá và tinh thần của toàn xã
hội và đã thực hiện tươ
ng đối thành công chiến lược Bảo vệ môi trường 1991 - 2000. Tuy nhiên,
do nhiều nguyên nhân khác nhau, quá trình phát triển cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề môi
trường nghiêm trọng. Môi trường đất, nước, không khí ở một số thành phố lớn, khu công nghiệp
tập trung và các khu đông dân cư đang bị suy thoái, ô nhiễm, tài nguyên thiên nhiên, đa dạng
sinh học đang bị cạn kiệt, sự cố môi trường có chiều hướng gia tăng.
Cùng với việc xây dựng chiế
n lược phát triển kinh tế- xã hội cho thời kỳ mới, chiến lược bảo vệ
môi trường Quốc gia giai đoạn 2001-2010 cũng đã được Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường
chuẩn bị.
Chiến lược bảo vệ môi trường Quốc gia giai đoạn 2001-2010 đã được nghiên cứu trong nhiều
năm, được sự tham gia đóng góp ý kiến của nhiều nhà quản lý, nghiên cứu, của hầu hết
Bộ/ngành ở trung ương và nhiều ban ngành ở các địa phương.
Dự thảo Chiến lược cũng đã được hàng nghìn cán bộ, nhân dân thuộc đủ mọi lứa tuổi, thành
phần, trình độ, nghề nghiệp tham gia lựa chọn mục tiêu, xác định các giải pháp thực hiện và các
chương trình hành động ưu tiên. Nhiều nhà tài trợ và chuyên gia nước ngoài cũng đã tham gia tư
vấn và hoàn thiện Chiến lược này.
Trong qúa trình chuẩn bị, nhiề
u nội dung quan trọng của dự thảo Chiến lược đã được sử dụng
để đưa vào các văn kiện liên quan của Ðảng, Quốc hội, Chính phủ và vận dụng vào thực tế hoạt
động của các ngành và địa phương.
CHƯƠNG I

THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG VÀ NHỮNG THÁCH THỨC
1. Ðánh giá tình hình thực hiện kế hoạch hành động quốc gia về môi trường và phát triển
bền vững giai đoạn 1991-2000
Tháng 6 năm 1991, Chính phủ đã thông qua Kế hoạch Quốc gia về môi trường và phát triển bền
vững 1991-2000. Ðây là văn bản có tính chiến lược đầu tiên đề cập đến tất cả các lĩnh vực môi
trường và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước.
Kế hoạch này đã được các Bộ/ngành, các địa phương triển khai thực hiện và đạt được những
kết quả quan trọng. Nhiều chính sách, văn b
ản pháp luật về bảo vệ môi trường đã được ban
hành như Luật Bảo vệ môi trường (1993), nghị định 175/CP về "hướng dẫn thi hành luật bảo vệ
môi trường", nghị định 26/CP về "xử phạt hành chính các vi phạm về bảo vệ môi trường". Ðặc
biệt năm 1998, Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Ðảng đã ban hành Chỉ thị 36/CT-TW về
"Tăng cường bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Hệ thống
quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ trung ương đến địa phương và ở các Bộ/ngành đã
được hình thành, ngày càng được tăng cường và đi vào hoạt động nề nếp. Ý thức trách nhi
ệm
về bảo vệ môi trường của các cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể, tư nhân, doanh nghiệp
và cộng đồng ngày càng được nâng cao. Nước ta đã có vai trò quan trọng trong hội nhập quốc tế
về bảo vệ môi trường, tham gia hầu hết các công ước và hiệp định quốc tế về bảo vệ môi
trường. Việc thực hiện tốt kế hoạch quốc gia đó đã góp phầ
n ngăn chặn ô nhiễm, giảm bớt tình
trạng suy thoái môi trường và sự cố môi trường.

Tuy đã đạt được nhiều kết quả nhưng một số nội dung của kế hoạch 1991-2000 vẫn chưa được
làm hoặc làm chưa tốt, như vấn đề quy hoạch môi trường lồng ghép với phát triển tài nguyên;
vấn đề chiến lược phát triển bền vững cấp ngành; vấn đề giáo dục và đào tạo, nâng cao nhận
thức môi trường; vấn đề quy hoạch phát triển đô thị
; vấn đề quản lý tổng hợp lưu vực; vấn đề
quy hoạch quản lý tổng thể vùng ven biển; vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học; v.v Hệ thống tổ
chức quản lý môi trường còn nhỏ bé, không tương xứng với nhiệm vụ, đầu tư cho bảo vệ môi

trường còn quá hạn chế, và giàn trải, v.v Những yếu kém này là những nguyên nhân góp phần
làm cho môi trường nước ta tiếp t
ục xuống cấp, đặt ra những thách thức nghiêm trọng cho giai
đoạn tới.
2. Môi trường tiếp tục xuống cấp
• Suy thoái rừng:
Mặc dù trong những năm gần đây, tỷ lệ che phủ rừng ở nước ta đã đạt mức khoảng 30% diện
tích tự nhiên, chiều hướng diễn biến rừng vẫn ở tình trạng suy thoái so với hơn nửa thế kỷ trước,
chất lượng rừng giảm sút.
Rừng ngập mặn, đầm phá đã bị khai thác quá mức, việc sử dụng rừng ngập mặn để
nuôi trồng
thuỷ sản trên quy mô lớn làm diện tích rừng này ngày càng bị thu hẹp.
• Ða dạng sinh học trên đất liền và dưới biển bị suy giảm:
Ðịa bàn cư trú của các loài động thực vật hoang dã bị thu hẹp và chia cắt. Nhiều loại động vật
quý hiếm bị săn bắt. Nhiều loài đã có nguy cơ bị tuyệt chủng. Nguồn gen quý hiếm bị suy giảm.
• Suy giảm chất l
ượng nguồn nước:
Nước thải sinh hoạt thành phố, đô thị, các khu công nghiệp xả trực tiếp vào kênh, mương, sông,
hồ dẫn đến tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng môi trường nước ở một số nơi như Hà nội, thành
phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Việt Trì, Biên Hoà. Chất lượng nước một số khu vực các sông Sài
Gòn, Cửu Long, Thị Vải, Ðồng Nai, Cầu đã bị suy giảm, nhiều chỉ tiêu nh
ư chất hữu cơ,
BOD5,COD, NH4,N, P cao hơn tiêu chuẩn cho phép, nguy cơ thiếu nước cho sinh hoạt và sản
xuất ở nhiều vùng ngày càng trầm trọng. Nguy cơ thiếu nước vào những thập kỷ tới có khả năng
xảy ra.
Nước biển ven bờ đã bắt đầu có dấu hiệu ô nhiễm. Hàm lượng các chất hữu cơ, chất dinh
dưỡng, kim loại nặng, vi sinh, hoá chất bảo vệ thực vật ở một số nơi vượt tiêu chuẩn cho phép 2-
5 lần. Hàm lượng dầu ở một s
ố vùng biển vượt quá tiêu chuẩn và đang có xu hướng tăng dần.
Nước ngầm đang bị cạn kiệt dần về lượng, bị ô nhiễm và suy giảm về chất. Mấy năm gần đây đã

xảy ra suy giảm mức nước ngầm vào mùa hè ở Tây Nguyên và các tỉnh miền núi phía Bắc.
• Ô nhiễm môi trường đô thị và khu công nghiệp:
Hiện nay nước ta có 623 thành phố, thị xã, thị trấn, trong
đó có 4 thành phố trực thuộc Trung
ương, 82 thành phố, thị xã thuộc tỉnh. Tỷ lệ dân đô thị trên tổng dân số năm 1986 là 19%; năm
1990 là 20%; năm 1999 là 23%; dự báo đến năm 2010 là 33% và năm 2020 là 45%.
Môi trường ở nhiều đô thị ở nước ta bị ô nhiễm do chất thải rắn và chất thải lỏng chưa được thu
gom và xử lý theo đúng quy định. Trong khi đó, khí thải, tiếng ồn, bụi của nguồn giao thông n
ội
thị và mạng lưới sản xuất quy mô vừa và nhỏ cùng với cơ sở hạ tầng yếu kém càng làm cho điều
kiện vệ sinh môi trường ở nhiều đô thị đang thực sự lâm vào tình trạng đáng báo động. Ðặc biệt
hệ thống cấp thoát nước lạc hậu, xuống cấp không đáp ứng được yêu cầu. Mức ô nhiễm không
khí về bụi và các khí thải độ
c hại nhiều nơi vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần, đặc biệt tại một
số thành phố lớn như Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh vượt tiêu chuẩn cho phép 2-5 lần.
Môi trường các khu công nghiệp, đặc biệt ở các khu công nghiệp cũ, các ngành hoá chất, luyện
kim, xi măng, chế biến đang bị ô nhiễm do các chất thải rắn, nước thải, khí thải và các chất thải
độc hại chưa được xử
lý theo đúng quy định. Các cơ sở công nghiệp do trong nước đầu tư chủ
yếu có quy mô nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu (chỉ có 20% xí nghiệp cũ đã đổi mới công nghệ).
Khoảng 90% cơ sở sản xuất cũ chưa có thiết bị xử lý nước thải.
Hiện nay đã hình thành gần 100 khu công nghiệp, khu chế xuất, công nghệ cao, nhưng chỉ
khoảng 1/3 trong số đó đã xây d
ựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và rất ít khu có hệ thống xử lý nước
thải tập trung.
• Suy thoái môi trường nông thôn:
Môi trường nông thôn đang bị ô nhiễm do các điều kiện vệ sinh và cơ sở hạ tầng yếu kém. Việc
sử dụng không hợp lý các loại hoá chất nông nghiệp cũng gây ô nhiễm môi trường nông thôn.
Việc phát triển tiểu thủ công, làng nghề và công nghiệp chế biến ở
một số vùng do công nghệ

sản xuất lạc hậu, qui mô sản xuất nhỏ, phân tán xen kẽ trong dân và hầu như không có thiết bị
thu gom, xử lý chất thải, đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Nước sinh hoạt và vệ sinh là vấn đề cấp bách, điều kiện vệ sinh môi trường nông thôn vẫn chưa
được cải thiện đáng kể, tỷ lệ số hộ có hố xí hợp vệ sinh chỉ đạt 28%-30% và 30% đến 40% số hộ
ở nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh.
• Ô nhiễm môi trường lao động:
Tại nhiều khu vực sản xuất không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn và sứ
c khoẻ nghề
nghiệp. Tình trạng ô nhiễm về bụi, hoá chất độc hại, tiếng ồn, nhiệt độ đã làm gia tăng tỷ lệ công
nhân mắc bệnh nghề nghiệp, nhất là trong các ngành hoá chất, luyện kim, vật liệu xây dựng, khai
thác mỏ v.v
• Sự cố môi trường:
Tai biến thiên nhiên gần đây có xu hướng gia tăng, hiện tượng lũ quét trên các lưu vực sông
nhỏ, lũ trên các sông lớn, bão, lố
c, mưa đá, mưa axit, hạn hán kếo dài, nứt đất, xói lở bờ sông
ven biển trong thập niên vừa qua đã gây thiệt hại to lớn về người, nhà cửa, tài sản, mùa màng ở
nhiều nơi.
Trong những năm qua sự cố tràn dầu vẫn xảy ra nhiều và gây thiệt hại lớn. Từ năm 1994 -1998
đã xác định được đối tượng gây ra 34 vụ với số lượng dầu tràn trên 4000 tấn.
Hậu qu
ả của chất độc hoá học do chiến tranh để lại còn nặng nề, hàng vạn trẻ em bị dị tật bẩm
sinh, hàng triệu héc ta rừng bị suy thoái.
Ngộ độc thực phẩm có chiều hướng ngày càng gia tăng và gây hậu quả nghiêm trọng cho hàng
vạn người.
3. Tác động của môI trường toàn cầu
Môi trường là vấn đề có tính liên ngành, liên vùng và toàn cầu. Vì vậy, môi trường nước ta cũng
chịu tác động bởi môi trường toàn cầu và môi trường xuyên biên giới với các quốc gia láng
giềng. Những tác động chính dưới đây cũng là những thách thức cần được quan tâm giải quyết.
a) Vấn đề môi trường của các lưu vực sông Cửu long và sông Hồng
Châu thổ sông Cửu Long là hạ lưu của 5 nước khác. Châu thổ Cửu Long tạo ra 40% yêu cầu

lươ
ng thực của nước ta, cho nên bất kỳ một hoạt động nào trên thượng lưu, đều tác động trực
tiếp đến môi trường và tình hình kinh tế-xã hội của đất nước. Sông Hồng là con sông chung với
Trung Quốc và những hoạt động thượng nguồn của sông Hồng đều có các mối liên can với vùng
đông dân nhất của nước ta.
b) Vấn đề bảo vệ môi trường của các vùng rừng xuyên biên giới
Các cánh rừng cũng là nh
ững hệ thống cùng chia sẻ chung và các tài nguyên đa dạng sinh học
quan trọng cần được bảo vệ vì quyền lợi chung. Khai thác gỗ bất hợp pháp, buôn bán săn bắt
động vật hoang dã trong các vùng có chung biên giới Trung Quốc, Lào và Campuchia, đang gây
ra huỷ hoại môi trường có ý nghĩa quan trọng toàn cầu.
c) Vấn đề mưa a-xít
Mưa a-xít là là do SO
2
và NOx do các ngành công nghiệp thải ra không khí, sau đó kết hợp với
nước, tạo thành các a-xít sulfuric và nitric. A-xít theo nước mưa, tuyết, sương, rơi trở lại mặt đất.
Mưa a-xít có thể tạo ra ô nhiễm xuyên biên giới, khi di chuyển cùng gió và mây từ vùng này sang
vùng khác. Những báo cáo của mạng lưới quan trắc quốc gia cho thấy, mưa a-xít từ nước ngoài
vào Việt Nam đang tăng lên. Các hậu quả tiềm tàng của mưa a-xít bao gồm phá huỷ cây trồng,
rừng và làm giảm sả
n lượng nông nghiệp, ô nhiễm các dòng sông, các hồ ảnh hưởng đến nuôi
trồng thuỷ sản và các sinh vật khác, phá huỷ các công trình kiến trúc.
d) Ô nhiễm tầng khí quyển và hiệu ứng nhà kính
Khí thải công nghiệp, khí thải của các phương tiện giao thông có động cơ, khí thoát ra từ các qúa
trình sinh học đã là các nguồn chủ yếu gây ô nhiễm môi trường không khí. Hàm lượng ngày càng
tăng của các loại khí CO
2
, CH
4
, là loại khí thải do các ngành công nghiệp có sử dụng nhiên

liệu hoá thạch thải ra đã gây hiệu ứng nhà kính với hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả đó được thể
hiện ở hai dạng:
- Sự thay đổi khí hậu của quả đất dẫn đến sự mất cân bằng của hệ sinh thái đã có ở đây.
- Mực nước biển dâng cao. Theo dự báo, đến giữa thế k
ỉ 21 nhiệt độ không khí bình quân trên
trái đất sẽ tăng thêm từ 1,5 - 4,5
o
C và mực nước biển trên toàn cầu sẽ dâng cao thêm từ 0,25 -
1,4m.
Ðồng thời, Hiện tượng El-nino, La- nina làm gia tăng mưa bão và hạn hán nghiêm trọng cho một
số vùng trên thế giới.
e) Ô nhiễm biển và đại dương
Ước tính đến năm 2000, tổng lượng chất phóng xạ có trong đại dương sẽ tăng nhiều lần so với
năm 1970, trong đó các chất thoát biến và chất phóng xạ sẽ tăng lên 100 lần, chất triti (hidro siêu
n
ặng) sẽ tăng 1000 lần.
Lượng dầu do đắm tàu, rò rỉ trong vận chuyển và phun ra từ giếng khai thác vào các đại dương
từ 5 - 10 triệu tấn/năm, số dầu do các xí nghiệp công nghiệp thải từ 3 - 5 triệu tấn.
Các hợp chất hữu cơ, kim loại nặng, các nguồn chất thải từ đất liền đã gây ô nhiễm ngày càng
nghiêm trọng.
Biển Ðông cũng đang nằm trong tình trạng chung như các đại d
ương và biển khác.
g) Thủng tầng ôzôn
Sự phá hoại tầng ôzon là nguy hại rất lớn đối với con người và thiên nhiên.
Nguyên nhân của sự phá hoại tầng ôdôn là do sự sử dụng và thải chất CFC, ngoài ra còn do các
hợp chất oxy nitơ được tạo ra trong khí thải của máy bay phản lực cỡ lớn và của các loại máy
bay khi bay vào tầng cao làm phân giải khí ôzon. Theo dự báo đến năm 2000 các máy bay cỡ
lớn bay ở tầng bình lưu sẽ tiêu hao hàng chục vạn tấn xăng dầu chúng sẽ thải ra một lượng lớn
oxit nitơ, có thể phá hoại 10% khí ôzon.
h) Chuyển dị

ch ô nhiễm
Theo tài liệu về qui hoạch môi trường của LHQ, mỗi năm toàn cầu có 500 triệu tấn rác thải nguy
hại, trong đó có 98% là của các nước phát triển. Việc một số nước phát triển chuyển dịch công
nghệ lạc hậu và các chất thải dưới nhiều hình thức khác nhau sang các nước đang phát triển là
một thực tế cần được chú trọng.
4. Những thách thức đối với môi trường Việt Nam
Hiện trạng môi trường tiếp tục xuống cấp và các vấn đề môi trường toàn cầu vừa nêu là những
thách thức nghiêm trọng đối với môi trường Việt Nam trong thời gian tới, đồng thời cũng có
những thách thức khác nữa.
• - Phát triển kinh tế - xã hội: Theo dự kiến, tốc độ tăng trưởng GDP phải đạt xấp xỉ
7%/năm và được duy trì liên tục đến 2010. Theo tính toán của các chuyên gia nước
ngoài, n
ếu GDP tăng gấp đôi thì nguy cơ ô nhiễm tăng gấp 3 đến 5 lần.
Từ các mục tiêu của kịch bản tăng trưởng kinh tế nêu trên có thể thấy nếu như trình độ công
nghệ sản xuất, cơ cấu sản xuất và trình độ quản lý sản xuất, quản lý môi trường không được cải
tiến thì sự tăng trưởng sẽ kéo theo tăng khai thác, tiêu thụ tài nguyên, năng lượng, dẫn đế
n khai
thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, tạo ra sự gia tăng các loại chất thải gây sức ép lên môi
trường. Tình trạng tài nguyên thiên bị cạn kiệt, chất lượng môi trường bị xuống cấp cũng chính là
những thách thức đặt ra đối với phát triển kinh tế- xã hôi.
- Sự tăng dân số và di dân tự do: Những thách thức về nhân khẩu của nước ta là rất nghiêm
trọng đối với tất cả các vấn đề môi trường và tài nguyên thiên nhiên. T
ăng dân số vẫn ở mức cao
và di dân nội bộ từ các khu vực nghèo tài nguyên thiên nhiên và kinh tế kém phát triển vẫn đang
tăng lên, không kiểm soát được. Trung bình trong 10 năm qua (1989 - 1999) tỷ lệ tăng trưởng
dân số là 1,7%. Với mức tăng trưởng như vậy thì theo các dự báo đến năm 2020 số dân nước ta
sẽ xấp xỉ 100 triệu người, tức là phải bảo đảm cuộc sống cho thêm gần 25 triệu người, tương

ng với một số dân nước ta trước năm 1945, trong khi tài nguyên đất, tài nguyên nước và các
dạng tài nguyên khác có xu thế suy giảm, vấn đề nghèo đói ở các vùng sâu vùng xa chưa được

giải quyết triệt để (hiện có 1750 xã ở diện đói nghèo). Tất cả những vấn đề trên là những thách
thức nghiêm trọng, gây ra sức ép to lớn đối với cả tài nguyên và môi trường trên phạm vi toàn
quốc.

- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Quá trình này đòi hỏi các nhu cầu về năng lượng, nguyên liệu
ngày càng to lớn, kéo theo chất lượng môi trường sống ngày càng xấu đi, nếu không có biện
pháp hữu hiệu ngay từ đầu. Mặt khác quá trình phát triển công nghiệp và đô thị hoá ở nhiều khu
vực, vùng lãnh thổ chưa quán triệt đầy đủ hoặc quán triệt chưa đúng quan điểm phát triển bền
vững, tức là chư
a tính toán đầy đủ hoặc tính đúng các yếu tố môi trường trong phát triển kinh tế -
xã hội của nhiều ngành, địa phương.
- Nhận thức về môi trường và phát triển bền vững còn thấp: Kiến thức và nhận thức về môi
trường và phát triển bền vững chưa được nâng cao cho các nhà ra quyết định, các nhà quản lý,
các doanh nghiệp và cộng đồng.Còn tồn tại nhiều quan điểm cực đoan về
môi trường.
- Du lịch, thương mại và môi trường: Trong nền kinh tế thị trường có tính đến các yếu tố môi
trường và hòa nhập với du lịch, thương mại khu vực và toàn cầu, nhất thiết phải xem xét việc
thay đổi mẫu hình tiêu thụ, phát triển các sản phẩm thân thiện môi trường, chuẩn bị cơ sở hạ
tầng về giao thông vận tải, năng lượng đồng thời với việc xem xét đồng bộ
vấn đề môi trường xã
hội, văn hoá, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. Việc phát triển kinh tế phải đi liền bảo vệ
môi trường, điều chỉnh dân số, xóa đói giảm nghèo trong tất cả các vũng lãnh thổ, các vùng sinh
thái của đất nước. Ðâylà một thách thức nghiêm trọng đối với nước ta.

- Năng lực quản lý môi trường bị hạn chế: Hiện trạng về công tác quản lý môi trường đang có
nhiều vấn đề chưa đáp ứng được yêu cầu của quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường, hệ thống
tổ chức quản lý hiện nay còn nhiều bất cập về nhân lực, nguồn lực và trang bị kỹ thuật và các cơ
chế phối h
ợp có hiệu quả giữa các bộ/ ngành và địa phương; đầu tư cho công tác bảo vệ môi
trường còn quá ít và thiếu tập trung, hệ thống các chính sách, luật pháp còn chưa đồng bộ, thiếu

tính hệ thống, các chính sách công cụ kinh tế trong quản lý môi trường còn ít được áp dụng.
Các chương trình giáo dục, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường chưa được tiến hành rộng
khắp, chưa phát huy được vai trò của các đoàn thể, các tổ chức chính trị
và xã hội, cũng như các
phong trào quần chúng tham gia công tác bảo vệ môi trường.
Các kiến thức phổ cập về môi trường chưa được đưa vào hệ thống giáo dục ở các cấp học, bậc
học.
Các thông tin về môi trường, về chính sách, pháp luật chưa được cung cấp và phổ biến thường
xuyên đến cộng đồng.
- Mẫu hình tiêu thụ: Phát triển kinh tế đang đem lại mức tă
ng thu nhập, mức tăng này sẽ làm
tăng mức tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ xa xỉ, đồng thời cũng làm tăng thêm lượng chất thải lên
môi trường. Mẫu hình tiêu thụ này là không phù hợp, thói quen này sẽ tác động nghiêm trọng lên
môi trường, đòi hỏi phải có sự thay đổi từ nhận thức đến hành động thực tế.
Nhằm giải quyết các thách thức nêu trên, cần khai thác triệt để các thuận lợi sau:
Ðứng trước những diễn biến xấu của môi trường toàn cầu, cộng đồng quốc tế và khu vực đều
cam kết phối hợp nỗ lực nhằm cải thiện môi trường vì mục tiêu phát triển bên vững cho cả thế hệ
hiện nay và các thế hệ sau này; cam kết hỗ trợ các nước chậm phát triển giải quyết các vấn đề
môi trường sinh thái. Ðặc biệt, các tổ chức tài chính thế
giới cũng khuyến khích các dự án đầu tư
theo hướng thân môi trường. Nếu có định hướng đúng và sớm tăng cường năng lực tiếp thu thì
nước ta có thể tranh thủ được các nguồn tài trợ quốc tế để giải quyết các vấn đề môi trường bức
xúc và bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia.
Chúng ta có thể rút ra những bài học quý giá, cả thành công lẫn không thành công, của các nước
khác để có thể
lựa chọn lộ trình thích hợp nhất cho quá trình phát triển của mình, để sao cho vừa
đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế mà không phải trả giá cao về môi trường. So với nhiều
nước, nước ta vẫn còn có những lợi thế nhất định về môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Nếu
các nguồn tài nguyên đó được sử dụng chuẩn mực và được bảo vệ đúng quy cách, thì các
nguồn tài nguyên này sẽ trở thành một lợi thế

trong cạnh tranh quốc tế, kể cả trước mắt lẫn lâu
dài. Cho dù các kỹ năng quản lý môi trường của nước ta còn bị hạn chế, nhưng những kinh
nghiệm tích luỹ trong những năm gần đây sẽ giúp chúng ta có khả năng xác định các định hướng
và lựa chọn đúng đắn hướng phát triển của mình trong thập kỷ tới đây.
CHƯƠNG II
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ CÁC NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHIẾN LƯỢC
1. Các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo.
Chỉ thị 36-CT/TW của Bộ Chính trị đã đưa ra những quan điểm, nguyên tắc cơ bản, thể hiện
đường lối, chủ trương về bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước
ta: "Coi công tác bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân; là nội
dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triể
n kinh tế - xã hội
của tất cả các cấp, các ngành; là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
Chính phủ cũng đã cam kết vận dụng các nguyên tắc và nội dung cơ bản của Chương trình Nghị
sự 21 vào điều kiện cụ thể của nước ta: "Coi phòng ngừa và ng
ăn chặn ô nhiễm là nguyên tắc
chủ đạo kết hợp với xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên; kết hợp phát huy
nội lực với tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững".
Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Ðảng và cam kết của Chính phủ, Chiến lược bảo vệ môi
trường quốc gia 2001 - 2010 ph
ải được xây dựng dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:
• Mục tiêu và nội dung của chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia không tách rời mục tiêu
và nội dung của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, mà nó phải là một bộ phận cấu
thành của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, được xây dựng theo hướng phát triển
bền vững.
• Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia phải dựa trên việc phân tích hiện trạng và dự
báo xu thế biến động môi trường của đất nước, trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Ðồng thời chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia phải phù hợp với nguồn lực của
quốc gia, được xây dựng trên cơ sở tiếp thu các bài học kinh nghiệm của các nước, thu

hút được đầu tư của nước ngoài và là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng các kế hoạch
môi trường quốc gia trung hạn và ngắn hạn.
2. Các mục tiêu chiến lược
• Mục tiêu tổng quát :
• Không ngừng bảo vệ và cải thiện môi trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và
sức khoẻ của nhân dân, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.

Mục tiêu chiến lược:
Tiếp tục phòng ngừa ô nhiễm, tăng cường bảo tồn đa dạng sinh học, chú trọng sử dụng hợp lý
các tài nguyên thiên nhiên và cải thiện môi trường.
Các mục tiêu cụ thể :
- Phòng ngừa ô nhiễm:
Tăng cường khả năng về quản lý, đầu tư, pháp luật cưỡng chế và các giải pháp hỗ trợ phòng
ngừa ô nhiễm môi trường nước, không khí, tiếng ồn, và chất th
ải rắn độc hại; nâng cao nhận
thức và kiến thức, cung cấp đầy đủ thông tin về phòng ngừa ô nhiễm cho toàn cộng đồng.
Xây dựng quy hoạch phát triển bền vững cho các đô thị, khu công nghiệp, nông thôn, các vùng
sinh thái.
áp dụng các công nghệ sạch, công nghệ thích hợp trong sản xuất và xử lý ô nhiễm môi trường .

Ðảm bảo thực hiện được tiêu chuẩn về môi trường tiệm cận với tiêu chuẩn của các nước tiên
tiến trong khu vực.
- Bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học:
Tăng cường khả năng về quản lý, đầu tư, pháp luật cưỡng chế và các giải pháp hỗ trợ để thực
hiện bảo tồn, phát triển và sử dụng b
ền vững đa dạng sinh học của các hệ sinh thái: rừng, biển,
trên cạn, dưới nước.
Bảo vệ, khôi phục và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên hiện có như tài
nguyên đất, rừng, nước, khoáng sản, năng lượng và tài nguyên đa dạng sinh học, v.v phục vụ
sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước.

Bảo tồn các vùng có hệ sinh thái đặc thù để duy trì cân bằng sinh thái, nâng tổng diện tích các
khu bảo vệ đa dạng sinh học (công viên, vườn và khu bảo tồn quốc gia) lên khoảng 2% diện tích
tự nhiên của cả nước.
- Cải thiện môi trường:
Tăng cường khả năng về quản lý, đầu tư, pháp luật cưỡng chế và các giải pháp hỗ trợ để tiến tới
xử lý triệt để các cơ sở
sản xuất có công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Tiến tới thu gom, xử lý về cơ bản chất thải rắn, chất thải công nghiệp, chất thải bệnh viện và chất
thải sinh hoạt ở các thành phố và khu dân cư đông đúc.
Tăng cường phục hồi và trồng mới rừng tiến tới đạt mức độ che phủ trên 40% diện tích cả nước
vào năm 2010.
Hạn chế sử dụng các hoá chất độc hại như: phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, các chất bảo quản
nông sản, thực phẩm, v.v
Phấn đấu đến năm 2010 đảm bảo 90% dân số được dùng nước hợp vệ sinh và các hệ thống vệ
sinh đạt tiêu chuẩn môi trường, xử lý về cơ bản các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái môi trường
nghiêm trọng do hậu quả của chiến tranh để l
ại và do hoạt động sản xuất gây ra.
Các nội dung chủ yếu của chiến lược
a) Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước
Nước là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng đối với đời sống sản xuất và sinh hoạt của con
người, để bảo vệ và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên này, trong chiến lược bảo vệ môi trường
quốc gia giai đoạn 2001-2010 cần ban hành bổ sung các tiêu chuẩn và các quy định bảo vệ đối
với các nguồn nước ngầm, nước m
ặt, các lưu vực, các đập chắn nước, đưa chất lượng nước ở
các thuỷ vực lớn đạt tiêu chuẩn chất lượng nước đã ban hành, đảm bảo chất lượng nước biển
tại khu vực ven biển cửa sông đạt tiêu chuẩn cho phép.
Phấn đấu đến năm 2005 cải tạo được khoảng 40% các dòng sông, hệ thống tiêu thoát nước, đặc
biệt là các dòng sông đi qua các khu dân cư tập trung, các khu công nghiệ
p và đô thị. Cả nước
cần tập trung xử lý triệt để 90% các nguồn gây ô nhiễm nước nghiêm trọng tại các khu công

nghiệp, giải quyết được các vấn đề về nước đối với các khu vực hoang mạc hoá.
Tổ chức đánh giá và kiểm soát được chất lượng, trữ lượng nước ngầm, có kế hoạch khai thác
và ban hành những quy định cụ thể về khai thác nguồn này.
b) Bảo vệ môi trườ
ng đất và sử dụng bền vững tài nguyên đất
Hoàn thiện chiến lược, quy hoạch và các văn bản pháp quy quản lý tài nguyên đất, bảo đảm việc
quản lý và sử dụng đất trống có hiệu quả. Việc sử dụng các hệ sinh thái, và địa lý đặc thù phải
dựa trên cơ sở cân bằng sinh thái và qui hoạch các khu bảo tồn.
Tăng cường các biện pháp quản lý, luật pháp và các biện pháp hỗ trợ để giải quyết hài hoà các
mâu thuẫn trong sử dụng đất với bảo vệ môi trường, giữa khai thác khoáng sản với tài nguyên
đất và các dạng tài nguyên khác.
c) Bảo tồn đa dạng sinh học
Các bộ, ngành và địa phương cần phối hợp tổ chức thực hiện tốt các nội dung kế hoạch hành
động quốc gia về đa dạng sinh họ
c, đồng thời tiến hành các chương trình bảo vệ, tăng cường tài
trợ, quản lý các vườn quốc gia, công viên biển, mở rộng các khu bảo vệ, phân cấp cho địa
phương, các tổ chức đoàn thể và cộng đồng quản lý những khu hệ bảo tồn đa dạng sinh học phù
hợp với năng lực của từng đơn vị.
Ðể bảo tồn đa dạng sinh học có hi
ệu quả cần nâng độ che phủ rừng lên 40% diện tích, trong đó
khoảng 20-30% rừng đặc dụng(bảo vệ) và khoảng10- 20% rừng sản xuất. Phải coi tăng diện tích
rừng như là một biện pháp hữu hiệu cân bằng sinh thái tự nhiên giữa các hệ sinh thái và chất
lượng môi trường.
Bảo vệ và sử dụng bền vững tài nguyên đa dạng sinh học các hệ sinh thái rừng phải đồng bộ vớ
i
việc bảo vệ các hệ sinh thái biển và xem đó là một nội dung quan trọng của chiến lược này.
d) Bảo vệ môi trường không khí
Với chức năng và nhiệm vụ của mình, từng đơn vị sản xuất, kinh doanh và các cơ quan quản lý
phải kiểm soát chặt chẽ việc phát thải khí CO
2

, SO
2
,CO, ô nhiễm bụi do các hoạt động sản xuất
công nghiệp, năng lượng, xây dựng, nông nghiệp, giao thông vận tải nhanh chóng tạo điều kiện
thực hiện chính sách không sử dụng xăng pha chì để giảm bớt ô nhiễm không khí. Từng bước
phấn đấu để bảo đảm môi trường không khí ở nước ta được trong lành theo các tiêu chuẩn tiếp
cận mức trung bình của các nước ASEAN.
e) Bảo vệ môi trường đô thị
và khu công nghiệp
Ðể duy trì chất lượng và cải thiện môi trường ở các đô thị và khu công nghiệp lâu dài, cần xây
dựng và ban hành chiến lược, quy hoạch và thể chế hoá bằng các văn bản pháp quy: luật, nghị
định, tiêu chuẩn, quy chế về quản lý chất thải rắn, chất thải nguy hại. Phấn đấu đến năm 2010 tất
cả các thành phố loại I, loại II, các đô thị đông dân, khu công nghiệp phải có các bãi chôn l
ấp và
xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại theo đúng tiêu chuẩn. Thu gom và xử lý 90% chất thải rắn
tại các đô thị và khu công nghiệp, thu gom và xử lý100% chất thải công nghiệp, chất thải bệnh
viện và quản lý 100% chất thải độc hại. Ðảm bảo ít nhất 60% thành phố đạt tiêu chuẩn về quy
hoạch không gian, cảnh quan sinh thái.
Cần có cơ chế chính sách và biện pháp đồng bộ để xử lý tri
ệt để đối với các cơ sở sản xuất, kinh
doanh, đang gây ô nhiễm nghiêm trọng về nước, không khí, và tiếng ồn.
Bằng nhiều biện pháp để xây dựng hoàn thành cơ bản cải tạo, cải thiện các hệ thống cấp nước,
tiêu thoát nước, các cơ sở vệ sinh môi trường ở các thành phố trực thuộc Trung ương, thành
phố loại 2.
g) Bảo vệ môi trường nông thôn
Bảo vệ môi trường nông thôn không có nghĩa chỉ gìn giữ môi trường trong sạch trong vùng mà
còn cần có nhiều biện pháp để ngăn chặn ô nhiễm có tính chất phòng ngừa đ
ó là việc xây dựng
và ban hành các tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường gắn với an toàn thực phẩm, tiến tới hạn chế
về cơ bản và thay thế sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật độc hại.

Thực hiện chính sách kế hoạch hoá gia đình để tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần đảm bảo không còn hộ đói nghèo ở nông thôn. Phấn
đấu đến năm 2010 đảm bảo 90% số
hộ ở nông thôn được cung cấp nước hợp vệ sinh, thu gom và xử lý được 90% chất thải sinh
hoạt và xử lý về cơ bản chất thải nguy hại, chất thải bệnh viện, các vùng nông thôn đều có cơ sở
hạ tầng đạt tiêu chuẩn môi trường.
h) Bảo vệ môi trường biển, ven biển và hải đảo
Cũng như chiến lược phát tri
ển kinh tế - xã hội của đất nước, vấn đề bảo vệ môi trường biển,
ven biển và hải đảo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia.
Bảo vệ môi trường biển, ven biển và hải đảo bao gồm các nội dung và liên quan đến các lĩnh vực
sau:
Chiến lược phát triển kinh tế biển phải được xây dựng theo quan điểm sử dụ
ng tổng hợp, hợp lý
đi đôi với bảo vệ tài nguyên và môi trường biển và ven bờ. Lĩnh vực này cần được các ngành
khai thác dầu khí, giao thông vận tải, thuỷ sản, lâm nghiệp, du lịch, thực hiện đầy đủ các yêu
cầu bảo vệ môi trường trong ngành và phối hợp với nhau cùng bảo vệ môi trường liên quan đến
biển, ven biển và hải đảo.
Chiến lược thực hiện các công ước và hiệp định qu
ốc tế và khu vực liên quan đến biển và đại
dương và liên quan đến môi trường biển.
Chiến lược quản lý môi trường biển và ven biển với mục tiêu cơ bản là tiến hành thành công xoá
đói giảm nghèo và phát triển kinh tế một cách bền vững tại vùng duyên hải thông qua các hoạt
động quản lý và bảo vệ môi trường trong vùng.
Chiến lược quản lý môi trường biển và ven biển bao gồm phân vùng chức năng biển và ven biển,
quản lý tổ
ng hợp các hoạt động khai thác và nuôi trồng thuỷ sản ven biển, thành lập hệ thống các
khu bảo tồn biển và ven biển, phát triển và cải thiện sinh kế cho những cộng đồng duyên hải,
phòng ngừa và giảm thiểu tác hại của thiên tai ven biển, trước hết là bão, lụt, xói lở và nước
dâng đặc biệt là ở các tỉnh miền Trung và tăng cường năng lực quản lý môi trường biển và ven

biển.
Thực hiện nội dung bảo vệ môi trường biển, ven biển và hải đảo là một nhiệm vụ cấp bách trong
thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia.
i) Bảo vệ các vùng đất ngập nước
Ðất ngập nước là một hợp phần đặc biệt quan trọng của môi trường. Bảo vệ các vùng đất ngập
nước về lâu dài là nhằm quản lý việc sử d
ụng có hiệu quả các vùng đất ngập nước, bảo vệ đa
dạng sinh học trong vùng, đồng thời duy trì các chức năng sinh thái, chức năng kinh tế - xã hội
của những vùng đất này.
Các hoạt động trước mắt nhằm bảo vệ môi trường trong vùng gồm:
• Chấm dứt việc sử dụng đất ngập nước một cách không bền vững, chỉ chú trọng giá trị
kinh tế, chuyển đổ
i mục đích sử dụng không hợp lý.
• Bảo tồn các giá trị đa dạng sinh học hiện còn của các vùng đất ngập nước.
• Khôi phục các hệ sinh thái đất ngập nước ở các vùng nhạy cảm về môi trường.

• áp dụng các hệ canh tác nông-lâm-ngư nghiệp bền vững, bảo đảm sự cân bằng giữa
các chức năng sinh thái - kinh tế - xã hội của đất ngập nước.

j) Bảo vệ môi trường thiên nhiên và di sản văn hóa
Các di sản văn hoá, thiên nhiên của đất nước có vai trò đặc biệt đối với công tác bảo vệ môi
trường do tính độc đáo, đặc thù, quí hiếm, có một không hai về các khía cạnh văn hoá và môi
trường.
Nước ta có nhiều di sản văn hoá, thiên nhiên có tầm cỡ quốc tế và quốc gia trong đó có những di
sản đã được thế giới công nhận (Huế, Hạ Long, Hội An, Mỹ Sơ
n) hoặc chuẩn bị công nhận
(Phong Nha-Kẻ Bàng, ).
Cần phải coi việc gìn giữ, bảo vệ và tôn tạo môi trường văn hoá, tự nhiên cho di sản văn hoá,
thiên nhiên của đất nước như một bộ phận quan trọng của Chiến lược bảo vệ môi trường quốc
gia.

Bộ phận này của Chiến lược phải tính toán đầy đủ đến việc bảo vệ đồng bộ các loại môi trườ
ng
văn hoá, nhân văn, lịch sử, sinh thái, của từng di sản.
k) Sản xuất sạch hơn
Sản xuất sạch hơn là sự áp dụng liên tục một chiến lược phòng ngừa tổng hợp về môi trường
đối với qui trình công nghệ, các sản phẩm và dịch vụ nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm thiểu
các rủi ro có thể xảy ra, bảo đảm sức khoẻ, an toàn và chất lượng môi tr
ường.Ðể thực hiện sản
xuất sạch hơn cần xây dựng một chương trình có tính chất quốc gia, ban hành các chính sách
khuyến khích chuyển giao công nghệ sạch và tổ chức tiếp xúc trao đổi, thông tin về sản xuất
sạch hơn giữa các nhà doanh nghiệp, các chuyên gia trong nước và Quốc tế về sản xuất sạch
hơn và những người quản lý.
n) Bảo vệ môi trường gắn với phát triển kinh tế - xã hội vùng
Chiến lược bảo vệ môi trường tại các vùng và các lưu vực sông cần được lồng ghép với các
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và phải phù hợp với điều kiện tự nhiên và đặc đi
ểm kinh tế- xã
hội có tính đặc thù của mỗi vùng. Nội dung lồng ghép chủ yếu là căn cứ vào hiện trạng môi
trường vùng và những thách thức về môi trường trong tương lai chịu sự tác động của các hoạt
động kinh tế trong vùng và các mục tiêu kinh tế - xã hội được đặt ra. Ðặc biệt chú trọng đến mối
quan hệ tương tác về mặt môi trường với các vùng xung quanh (kể cả của nước ngoài nếu có);

ng lực giải quyết các vấn đề môi trường của vùng. Nhận thức của nhân dân trong vùng và các
tập tục văn hoá-môi trường liên quan và nêu rõ các phương án tổ chức thực hiện chiến lược
vùng.
m) Bảo vệ môi trường gắn với phát triển các ngành kinh tế
Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia 2001-2010 gắn với các ngành kinh tế được lựa chọn phù
hợp với cơ cấu kinh tế trong chiến lược phát triể
n kinh tế - xã hội bao gồm các lĩnh vực: nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn; công nghiệp, kết cấu hạ tầng và dịch vụ và
được lồng ghép hài hoà theo hướng "cùng phát triển".

Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn được xác định là một trọng điểm ưu
tiên trong giai đoạn 2001-2010. Sự phát triển của lĩnh vực này sẽ làm thay đổi cơ cấu của nền
kinh tế và sẽ có tác d
ụng mạnh mẽ đến môi trường theo hướng tích cực. Chiến lược bảo vệ môi
trường phải được lồng ghép trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các ngành này theo
những nội dung chủ yếu sau:
• Qui hoạch môi trường gắn với qui hoạch ổn định các vùng sản xuất lương thực, bảo đảm
an ninh lương thực đồng thời bảo đảm gìn giữ môi trường. Ðổi mới c
ơ cấu cây trồng
trong nông nghiệp, bảo vệ, khôi phục và phát triển tài nguyên rừng theo hướng là những
tác nhân tích cực đối với hệ sinh thái. Xây dựng nông thôn mới gắn liền với chiến lược
vệ sinh môi trường nông thôn nhằm nâng cao chất lượng sống và đổi mới phương thức
sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp theo hưóng tiên tiến hiện đại ít gây ô
nhiễm môi trường.
• Công nghiệp được phát triển theo h
ướng đa dạng hoá sản phẩm với kỹ thuật sản xuất
tiên tiến hiện đại sẽ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của ngành này, nhưng sẽ có 2 hướng
tác động tích cực và tiêu cực đến môi trường. Ðể giảm thiểu tác động tiêu cực và đẩy
mạnh lợi thế tác động tích cực, chiến lược bảo vệ môi trường cần gắn một số nội dung
sau:
• áp dụng công nghệ sản xuất sạch, sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn tài nguyên
thiên nhiên và qui hoạch ngành công nghiệp đồng bộ với qui hoạch môi trường, đặc biệt
chú trọng các khâu khai thác, sử dụng nguyên nhiên liệu, xử lý chất thải công nghiệp.

Kết cấu hạ tầng là một lĩnh vực có nhiều tác động tích cực đến môi trường, mạng lưới giao thông
đường bộ, đường thủy không hợp lý sẽ là tác nhân phá hủy hệ sinh thái hai bên đường, gây ô
nhiễm môi trường nước mặt trên sông, biển và ô nhiễm tiếng ồn trong các khu đô thị, dân cư,
Chiến lược môi trường cần được lồng ghép trong chiến lược kết cấu hạ tầng một số nội dung
chủ yếu sau:
• Qui hoạch mạng lưới giao thông đồng bộ với qui hoạch các vùng sinh thái, khu bảo tồn

thiên nhiên (trên đất liền và dưới biển), xây dựng chính sách cung cấp nước sạch và xử
lý nước thải và qui hoạch kết cấu hạ tầng ở các khu công nghiệp, dân cư, gắn với qui
hoạch xử lý chất thải (rắn và lỏng).
Dịch vụ là loại hình phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh t
ế thị trường hiện đại, nhanh
mang lại lợi nhuận cho nền kinh tế. Nhưng cũng chính vì lợi nhuận và sự "nhanh nhậy" của cơ
chế thị trường là những tác nhân gây ô nhiễm môi trường nhanh nhất. Cần khai thác lợi thế trong
ngành dịch vụ như: du lịch sinh thái, đổi mới phong tục tập quán văn hóa, lễ hội, theo hướng
thân môi trường với những nội dung chủ yếu là:
• Tôn tạo cả
nh quan sinh thái gắn với lợi ích của ngành du lịch, xây dựng chính sách và
qui chế dịch vụ, thương mại liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường và duy trì và khôi
phục nếp sống văn hoá lành mạnh có lợi cho môi trường.
o) Nghiên cứu khoa học, công nghệ về môi trường
Cần tăng cường năng lực và đẩy nhanh tốc độ nghiên cứu khoa học công nghệ về môi trường
nhằm đặt nền móng vững chắc để
phát triển ngành môi trường, phục vụ một cách có hiệu quả
các vấn đề về môi trường, đảm bảo cho việc phát triển kinh tế - xã hội của nước ta được bền
vững.
Nghiên cứu khoa học công nghệ còn nhằm tạo cơ sở để đánh giá chính xác hiện trạng môi
trường, đề xuất các giải pháp tối ưu để bảo vệ môi trường cũng như phục vụ việc ho
ạch định các
chính sách quản lý môi trường, đồng thời áp dụng các công nghệ môi trường tiên tiến trong việc
giải quyết các vấn đề ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường.
Ðể công tác nghiên cứu khoa học công nghệ về môi trường thực sự có hiệu quả cần xây dựng
cơ sở nghiên cứu môi trường đủ khả năng đảm đương nhiệm vụ nghiên cứu môi trường tầm
quốc gia, tiến hành các chương trình nghiên c
ứu các vấn đề bức xúc, trọng tâm, khuyến khích
các nghiên cứu bảo vệ môi trường.


CHƯƠNG III
TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC

Ðể đạt được các mục tiêu và nội dung của Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 2001-2010,
các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương và toàn cộng đồng tổ chức thực hiện tốt các
giải pháp chính dưới đây:
1. Tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức về môi trường
Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, một trong những biện pháp thực hiện tốt chiến
lược là tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức môi trường cho mọi người dân, cộng đồng,
các doanh nghiệp, các nhà ra quyết định, và các cán bộ của các cơ quan quản lý nhà nước các
cấp. Chú trọng đào tạo cán bộ cho cơ sở ở tỉnh, thành phố, quận, huyện và ở phường, xã có các
kiến thức, nh
ận thức môi trường ở địa phương, đào tạo và phát triển đội ngũ chuyên gia môi
trường phục vụ cho công tác quản lý nghiên cứu.
Tổ chức nâng cao nhận thức môi trường cho cộng đồng, tư nhân, doanh nghiệp, các tổ chức
chính trị, xã hội thông qua các biện pháp phổ biến kiến thức pháp luật, tuyên truyền, phổ cập hoá
nhận thức môi trường theo các chương trình và thông tin môi trường như tivi, đài, báo hoặc mở
lớp t
ập huấn vv và các phương tiện khác; Xây dựng mạng lưới phổ biến, nâng cao, đổi mới
nhận thức môi trường với sự tham gia của các đoàn thể, các tổ chức phi chính phủ, các tuyên
truyền viên môi trường, thí điểm chương trình cung cấp thông tin về môi trường cho cộng đồng;
Thực hiện xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, như tổ chức quần chúng tham gia các phong
trào Xanh-Sạch-Ðẹp, VAC, VACR, cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trườ
ng, gia đình văn hóa
mới, dưới các hình thức phù hợp đối với mọi lứa tuổi, giới tính, dân tộc. Thông qua các phong
trào để giáo dục các ý thức và đạo đức bảo vệ môi trường.
Tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh đề án đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo
dục quốc dân (Tất cả các cấp học, kể cả đại học và sau đại học).
2.Tăng cường vai trò của cộng đồng, doanh nghiệp, tư nhân trong bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân. Việc thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường

đương nhiên đòi hỏi sự tham gia của cộng đồng, của các doanh nghiệp và tư nhân.
Các tổ chức cộng đồng ở cơ sở, các tổ chức chính trị - xã hội tham gia thực hiện chiến lược bảo
vệ môi trường Quốc gia 2001-2010 trong các kế hoạch, các chương trình và các phong trào
quần chúng tham gia bảo vệ
môi trường.
Nhà nước thực hiện chính sách xã hội hoá bảo vệ môi trường bằng luật pháp, các văn bản pháp
lý, để huy động cộng đồng tham gia vào các hoạt động quản lý môi trường các cấp, vào việc ra
các quyết định liên quan của các cơ quan nhà nước; tổ chức quản lý môi trường địa phương
lồng ghép nội dung bảo vệ môi trường vào các phong trào hiện có, tổ chức truyền thống, giáo
dục nâng cao nhận thức cho cộng đồng.
Các tư nhân, các doanh nghiệp thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường theo các qui định của
pháp luật, các chính sách và kế hoạch của nhà nước như đầu tư cải thiện môi trường, tổ chức
sản xuất sạch hơn để thực hiện hệ thống qu
ản lý môi trường doanh nghiệp theo tiêu chuẩn
780/4001 hoà nhập vào thị trường thương mại trong khu vực và quốc tế. Nhà nước có chính
sách tư nhân hoá dịch vụ môi trường.
3. Tăng cường và đa dạng hoá đầu tư bảo vệ môi trường
Ðầu tư là một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện thành công chiến lược bảo vệ môi
trường. Ðầu tư bảo vệ môi trường phải được thực hiện xã hội hoá, huy động mọi nguồn lực trong
và ngoài nước và theo nguyên tắc:"người gây ô nhiễm phải đầu tư". Hình thức xã hội hoá và
nguyên tắc đầu tư này phải được quán triệt sâu rộng trong tất cả các cấp lãnh đạo củ
a Ðảng,
chính quyền và các nhà quản lý đến từng người dân sống trong cộng đồng.

Ðầu tư bảo vệ môi trường phải được đa dạng hoá về hình thức và nguồn vốn nhằm huy động
được mọi nguồn lực trong xã hội. Hình thức đầu tư bao gồm đầu tư bằng trí lực, vật lực, ngày
công lao động hữu ích và bằng tiền, Trong đó toàn xã hội tham gia đầu tư bảo vệ môi trường
dưới mọi hình thức và chủ yếu đầu tư cho những ch
ương trình, dự án, mang tính cộng đồng;
các đơn vị sản xuất kinh doanh đầu tư cho việc phòng ngừa ô nhiễm, xử lý sự cố, cải tạo, bảo vệ

môi trường trong phạm vi quản lý của đơn vị mình. Ngân sách nhà nước đóng vai trò chủ đạo
trong việc đầu tư để bảo vệ môi trường có tính liên vùng, liên ngành và thực hiện các dự án quốc
gia, quốc tế.
Nguồn vốn đầu tư bảo v
ệ môi trường được huy động từ ngân sách nhà nước, từ các doanh
nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, từ nguồn viện trợ ODA,
GEF và các tổ chức trong, ngoài nước và trong cộng đồng dân cư.
Mức đầu tư bảo vệ môi trường phải được tăng cường theo nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế,
trước mắt trong giai đoạn 2001-2005 hàng năm toàn xã hộ
i cần đầu tư để bảo vệ môi trường
không dưới 1% GDP, trong đó huy động khoảng 2% tổng chi ngân sách của nhà nước. Các
doanh nghiệp được tính vốn đầu tư bảo vệ môi trường trong giá thành chi phí sản xuất để huy
động từ 1-2% tổng chi phí của doanh nghiệp, ngoài ra cần huy động trong cộng đồng dân cư và
từ các nguồn viện trợ khác để đầu tư bảo vệ môi trường dưới mọi hình thức khác nhau.
Nhà n
ước qui định mức kinh phí mà các doanh nghiệp phải đầu tư cho bảo vệ môi trường, xử lý
chất thải và có chính sách khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ thân thiện môi trường.
Tranh thủ kinh phí từ các dự án Quốc tế song phương, đa phương cho bảo vệ môi trường.
Ban hành Nghị định về tăng cường và đa dạng các nguồn vốn bảo vệ môi trường, trong đó dự
kiến hàng năm tăng dần tổng chi ngân sách cho hoạt động bảo vệ môi trường 10%, thành lập cơ
chế tài chính như Quỹ Môi trường Quốc gia, địa phương, ngành và ngân hàng môi trường.
Thành lập Quỹ Môi trường Quốc gia để huy động các nguồn lực của Nhà nước, cộng đồng, của
các tổ ch
ức trong và ngoài nước và sự ủng hộ, tài trợ của các tổ chức quốc tế để tập trung giải
quyết các vấn đề môi trường bức xúc ưu tiên. Quỹ môi trường là cơ chế tài chính để giải quyết
những vấn đề bất cập hiện nay về đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường. Quỹ hỗ trợ đầu tư cho
việc phòng, chống, khắc phục suy thoái, ô nhiễm và s
ự cố môi trường; hỗ trợ các dự án bảo vệ
môi trường; hỗ trợ các dự án xử chất thải và đầu tư thay thế công nghệ sạch. Quỹ Môi trường là
tổ chức tài chính Nhà nước hoạt động trên phạm cả nước, hoạt động theo điều lệ được Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt. Quỹ môi trường được khai thác các nguồn kinh phí thu được từ việc
áp dụng các công cụ
kinh tế như thuế, phí, quota chất thải, đặt cọc ký cược môi trường, các
công kinh tế này cần được nghiên cứu và triển khai một cách đồng bộ với các giải pháp: hỗ trợ,
khuyến khích, tăng cường năng lực cưỡng chế, tăng cường trang thiết bị kỹ thuật kiểm tra giám
sát, quan trắc môi trường, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn môi trường.
4. Tăng cường năng lực quản lý nhà nước về môi trường
Phát triển bền vững trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và thực hiện chương
trình hành động của thế kỷ 21, thế kỷ của chuẩn mực về sinh thái nhân văn, của hội nhập khu
vực và toàn cầu hoá trong thương mại với môi trường. đòi hỏi phải kiện toàn tổ chức, tăng
cường năng lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trườ
ng.
Kiện toàn bộ máy tổ chức của hệ thống quản lý nhà nước về môi trường từ trung ương đến địa
phương, nâng cấp hệ thống cơ quan quản lý môi trường trung ương thành lập Tổng cục Môi
trường, hoặc Bộ Môi trường và kiện toàn tổ chức quản lý môi trường ở các Bộ/ngành; kiện toàn
tổ chức quản lý môi trường ở cấp tỉnh, thành phố, quận huyện và các vùng kinh tế
trọng điểm,
các khu công nghiệp tập trung, .v.v
Tăng cưòng năng lực quản lý nhà nước về môi trường phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của hệ
thống tổ chức như tăng cường nguồn lực về nhân lực về đầu tư cho các hoạt động quản lý môi
trường; chú trọng đầu tư cho nghiên cứu chính sách và pháp luật, kiểm soát ô nhiễm và chất
thải, thanh tra, hệ
thống quan trắc và phân tích môi trường, giáo dục và nâng cao nhận thức môi
trường, cũng như tăng cường các cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động quản lý Nhà nước về
môi trường từ Trung ương đến địa phương.
Nghiên cứu thành lập một cơ chế quản lý liên ngành, có thể là một hội đồng quốc gia về phát
triển bền vững để điều phối thực hi
ện các mục tiêu, nội dung các chương trình trong chiến lược
bảo vệ môi trường quốc gia 2001-2010 cũng như thực hiện chương trình hành động của thế kỷ
21 mà Việt Nam đã ký kết

5. Mở rộng hợp tác quốc tế và thu hút sự tài trợ của quốc tế
Môi trường quốc gia liên quan đến môi trường xuyên biên giới khu vực và toàn cầu, vì vậy sự
nghiệp bảo vệ môi trường của Việt nam cũng gắn với sự nghiệp bảo vệ môi trường trong khu
vực và trên toàn thế giới thông qua việc thực hiện các Công ước quốc tế về môi trường, tham gia
các chương trình, dự án đa phương hoặc song phương về bảo vệ môi trường.

Phải tổ chức kiểm soát chặt chẽ bằng các biện pháp luật pháp, hành chính nghiêm ngặt đi đôi
với đối thoại, thương lượng trong việc vận dụng các thoả thuận, các công ước, luật pháp quốc tế
và thu hút tài trợ quốc tế như thu hút sự trợ giúp của các nhà tài trợ, của nguồn ODA, của Quỹ
môi trường toàn cầu (GEF), của các hợp tác quốc tế đa phương, song phương.Phải tă
ng cường
cơ chế phối hợp thông qua việc thành lập Hội đồng các nhà tài trợ môi trường có thành viên là
đại diện của các tổ chức Quốc tế như chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Ngân
hành Thế giới (WB), Hiệp hội bảo vệ thiên nhiên thế giới (IUCN),
Hàng năm cần tổ chức diễn đàn các nhà tài trợ, tiến hành các hoạt động trao đổi thông tin, thảo
luận về các chủ đề có liên quan, các c
ơ chế hợp tác giữa các bên liên quan, giữa các nhà tài trợ
và giữa chính phủ với các nhà tài trợ để phối hợp các nguồn viện trợ cho các chương trình, dự
án hợp tác về môi trường.
Trên cơ sở chiến lược bảo vệ môi trường, cần xây dựng kế hoạch đầu tư dài hạn, xác định các
mục tiêu và danh mục các chương trình, dự án ODA và dự án GEF để cân đối nguồn ngân sách
quốc gia với hỗ trợ tài chính qu
ốc tế. Ðể sử dụng các nguồn tài chính quốc tế đó có hiệu quả,
cần thiết phải tăng cường năng lực các cơ quan đầu mối quốc gia, quốc tế về các chương trình,
dự án thu hút từ nguồn tài trợ quốc tế, nhất là các dự án được tài trợ từ nguồn vốn ODA, GEF.
Ðối với nguồn vốn ODA cần nâng tỷ trọng viện trợ ODA cho môi trường lên 2 l
ần so với tổng vốn
viện trợ, đồng thời điều chỉnh cơ cấu ODA cho môi trường, tập trung viện trợ nhiều hơn cho các
dự án ưu tiên của chiến lược, tăng cường năng lực cho các cơ quan quản lý môi trường ở TW,
bộ/ ngành và địa phương; Chú trọng khai thác nguồn ODA theo cơ chế của Nghị Ðịnh thư

KYOTO trong lĩnh vực biến đổi khí hậu.
C
ần nhiều biện pháp có hiệu quả nhằm tranh thủ tối đa các dự án GEF để hoà nhập các mục tiêu
môi trường quốc gia với mục tiêu môi trường toàn cầu trong các lĩnh vực ưu tiên đã được lựa
chọn. Ðể thu hút được nhiều dự án từ nguồn GEF, nhà nước đầu tư phát triển năng lực cho tổ
chức GEF- Việt Nam, cơ quan điều phối quốc gia trong lĩnh vực huy động ngu
ồn GEF ở nước ta.
6. Kết hợp chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia với chiến lược phát triển kinh tế xã hội
Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 2001-2010 là một bộ phận của chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội và là cơ sở để xây dựng chiến lươc bảo vệ môi trường của các ngành, vùng và địa
phương. Các chiến lược đó được thực hiện trong 2 giai đoạn 5 năm: 2001-2005 và 2006-2010.
Giai đoạn 2001-2005 tập trung vào việc kết hợp giữa chiến lược kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội của tất cả các ngành, lĩnh vực nhằm xác định khuôn khổ thích hợp để giám sát, báo cáo và
có tính trách nhiệm. Các hoạt động và kế hoạch về bảo vệ môi trường sẽ được chuẩn bị để đưa
vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Giai đoạn chính trong quá trình này là xây dựng và thực
hi
ện kế hoạch môi trường cho các vùng kinh tế và vùng đa dạng sinh học được ưu tiên. Các
chương trình kiểm soát sự ô nhiễm môi trường, xây dựng năng lực và nâng cao kỹ năng quản lý
môi trường.
Giai đoạn 2006-2010 tập trung thực hiện các dự án ngăn ngừa ô nhiễm môi trường. Trong giai
đoạn này phải xử lý triệt để, đóng cửa hoặc di chuyển địa điểm các cở sở sản xuất
đang gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng, những cơ sở lạc hậu và không có khả năng đáp ứng được các
tiêu chuẩn môi trường; Thực hiện các dự án cải thiện môi trường dự án nhằm khôi phục và nâng
cao chất lượng môi trường.
Các mục tiêu và nội dung của Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 2001-2010 được kế hoạch
hoá trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, các kế hoạch Ngành,
địa phương và theo
vùng kinh tế.
Bộ Kế hoạch và Ðầu tư và Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường có trách nhiệm thiết lập nhóm

công tác liên bộ để hoà nhập các kế hoạch hành động của Chiến lược bảo vệ môi trường quốc
gia trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, 5 năm và 10 năm chiến lược phát triển
kinh tế xã hội. Nhóm công tác này cần thực hiện ít nhất trong 2 năm, có nguồn ngân sách riêng
cho hoạ
t động của nhóm, thành phần nhóm gồm các nhà kinh tế môi trường để giúp phân tích lợi
ích chi phí của các chính sách phát triển chọn lọc.
7. Lựa chọn hành động ưu tiên
Việc lựa chọn ưu tiên hành động trong tổ chức thực hiện luôn là vấn đề có ý nghĩa quan trọng
đối với sự thành công của chiến lược. Thông thường các ưu tiên hành động được lựa chọn theo
nội dung, theo địa bàn và theo các mối quan hệ giữa chúng với thời gian.
Các chương trình hành động ưu tiên: được lựa chọn theo nội dung sau khi đã xác định các
mục tiêu ưu tiên được trình bày trong phụ lục I. Mức độ
ưu tiên cao nhất được giành cho 7
chương trình sau đây:
• Xây dựng và thực hiện kế hoạch chủ đạo, toàn diện phát triển công nghiệp bền vững,
bao gồm tất cả các giai đoạn sẻ dụng tài nguyên, sản xuất và quản lý chất thải.
• Tiếp tục ban hành các tiêu chuẩn và quy định về bảo vệ môi trường và sử dụng bền
vững các nguồn nước mặt, các lưu vực, các đập ch
ứa nước và nước ngầm.
• Xây dựng chiến lược và kế hoạch quản lý khu chứa chất thải rắn, chất thải nguy hại và
hệ thống xử lý hiệu quả cho tất cả các thành phố loại I và II, các khu đô thị có mật độ dân
cư cao.
• Nâng cấp hệ thống và tăng cường năng lực cho các cơ quan quản lý môi trường từ trung
ương đến địa phương và tại các Bộ, ngành.
• Ðưa giáo dục môi trườ
ng vào hệ thống giáo dục quốc dân, bao gồm tất cả các cấp học
và bậc học.
• Phát huy các phong trào bảo vệ môi trường tại các tổ chức xã hội như thanh niên, phụ
nữ, cựu chiến binh, nông dân và các tổ chức tình nguyện khác.
• Củng cố hệ thống quản lý và sử dụng bền vững Tài nguyên rừng thông qua các hình

thức tham gia của cộng đồng.
Mức độ ưu tiên "trung bình" gồm 20 chương trình.
Và mứ
c độ ưu tiên "thấp" gồm 82 chương trình còn lại.
Các địa bàn ưu tiên: Là các khu bảo tồn, các vườn quốc gia cả trên đất liền và trên biển đã đư
công nhận hoặc đang được đề nghị Chính phủ công nhận, các cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng, các khu vực hoặc vùng đã bị nhiễm độc hoặc đang bị ô nhiễm trầm trọng. Các địa
bàn ưu tiên này được trình bày trong phụ lụ
c II
Ưu tiên theo thời gian: Các chương trình hành động ưu tiên loại "cao" và "trung bình", các hoạt
động bảo tồn, phục hồi và cải thiện ở các địa bàn ưu tiên sẽ được thực hiện trong cả 2 kỳ kế
hoạch 5 năm: 2001-2005 và 2006-2010.
8. Trách nhiệm và các cơ quan thực hiện
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng chính phủ, Bộ KHCN&MT phối hợp cùng với các bộ,
ngành và các địa phương tổ chức thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia.
Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, theo chức năng và nhiệm vụ chịu trách nhiệm lập kế hoạch, lồng ghép
nội dung của chiến lược bảo vệ môi trườ
ng trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn
2001-2010, trong các kế hoạch năm kế hoạch 5 năm và 10 năm của đất nước Bộ Kế hoạch và
Ðầu tư và Bộ Tài chính có trách nhiệm trong việc phân bổ và tìm nguồn tài chính cần thiết để
thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia cũng như thực hiện kế hoạch bảo vệ môi
trường của các B
ộ, ngành và địa phương.
Bộ Kế hoạch và Ðầu tư và Bộ Tài chính sẽ đưa ra các chính sách nhằm khuyến khích các cơ sở
sản xuất, cá nhân, các tổ chức đầu tư cho lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Dựa trên chiến lược phát triển kinh tế xã hội và kế hoạch quốc gia về bảo vệ môi trường giai
đoạn 2001-2010, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường và Bộ Kế hoạch và Ðầu t
ư phối hợp
với Bộ Tài chính, các bộ ngành và địa phương cụ thể hoá các kế hoạch hành động ở các bộ
ngành, địa phương để thực hiện kế hoạch quốc gia về bảo vệ môi trường trong từng giai đoạn.

9. Giám sát và đánh giá việc thực hiện chiến lược
Hàng năm và mỗi năm, Bộ KH& ÐT và Bộ KH,CN&MT cùng với Bộ Tài chính và các bộ, ngành
và địa phương xem xét và đánh giá việc thực hiện Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 2001-
2010. Mỗi bộ phận chương trình chình sẽ được giám sát và đánh giá theo các mục tiêu đã đề ra.

Từng Bộ, ngành và địa phương phải trình bản báo cáo đánh giá tiến độ thực hiện lên Thủ tướng
chính phủ. Nếu như Hội đồng quốc gia phát triển bền vững được thành lập, Hội đồng sẽ điều
phối quá trình giám sát và đánh giá sau đó trình báo cáo đánh giá tổng thể lên Thủ tướng Chính
phủ. Bản đánh giá này có những kiến nghị điều chỉnh và bổ sung kế hoạ
ch thực hiện bảo vệ môi
trường quốc gia./.

×