Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

nghiên cứu đặc điểm lâm sàng rối loạn thần kinh tự trị trong rối loạn lo âu lan tỏa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (932.73 KB, 81 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn lo âu là một trạng thái cảm xúc có từ thời xa xưa và đã được
các nhà khoa học La Mã thời cổ đại mô tả . Tại Mỹ rối loạn này khá phổ biến
gặp 24,9% trong cuộc đời . Rối loạn lo âu lan tỏa là thể bệnh hay gặp nhất
khoảng từ 5 – 8% dân số , chiếm 50 % trong số các rối loạn lo âu điều trị nội
trú .
Trên lâm sàng triệu chứng cơ bản là lo âu không có chủ đề rõ ràng,
không khu trú vào một hoàn cảnh sự kiện xung quanh nào. Bệnh nhân lo sợ
bản thân hoặc người ruột thịt sẽ sớm mắc một bệnh, hoặc tai nạn, hoặc lo lắng
về một tương lai bất hạnh, nghèo khổ, cô đơn. Lo âu thường kéo dài nhiều
ngày, nhiều tuần, nhiều tháng khiến bệnh nhân mất ăn mất ngủ và biểu hiện
trên cơ thể là sự hưng phấn quá mức của hệ thần kinh tự trị được biểu hiện
trên các cơ quan tim mạch, tiêu hóa, hô hấp .
Hệ thần kinh tự trị điều khiển các hoạt động ngoài ý muốn, có vai trò
điều hòa huyết áp động mạch, co bóp và bài tiết của ống tiêu hóa, co cơ bàng
quang, tiết mồ hôi và nhiều hoạt động khác để cơ thể giữ được sự ổn định
trong môi trường sống luôn luôn thay đổi. Khi xuất hiện các yếu tố nguy cơ
như lo lắng, bất an, cơ thể phản ứng lại các yếu tố đó như nhịp tim có thể tăng
gấp 2 lần sau 3 – 5 giây.
Biểu hiện của rối loạn lo âu lan tỏa đa dạng bởi các triệu chứng cơ thể,
triệu chứng rối loạn thần kinh tự trị nên ít được chẩn đoán sớm và điều trị
đúng. Rối loạn này thường dễ bị nhầm lẫn, tỉ lệ được chẩn đoán đúng là 28% .
Tỉ lệ bệnh nhân đến các chuyên khoa khác : 64% bệnh nhân khám thần kinh,
43,3% ở tim mạch trước khi được chẩn đoán đúng và điều trị tại khoa tâm thần.
Đi khám tại các khoa khác như tiêu hóa, hô hấp, đông y cũng chiếm tỷ lệ từ
15,6% đến 18,9% .
1
Rối loạn lo âu lan tỏa không những ảnh hưởng đến sức khỏe, công việc
của người bệnh mà còn tăng chi phí chăm sóc điều trị bệnh nhân. Tại Mỹ
(1999) tổng chi phí cho 1 bệnh nhân rối loạn lo âu lan tỏa trong 1 năm là 2138
USD còn Australia (1997) tiêu tốn 205,1 triệu AUS cho tất cả bệnh nhân .


Ở nước ta chưa có một nghiên cứu đầy đủ và chuyên biệt về rối loạn
thần kinh tự trị trong rối loạn lo âu lan tỏa. Chính vì sự quan trọng của triệu
chứng đặc trưng rối loạn thần kinh tự trị trong rối loạn lo âu lan tỏa và để góp
phần chẩn đoán sớm, đúng bệnh, chúng tôi tiến hành chọn đề tài: “Nghiên
cứu đặc điểm lâm sàng rối loạn thần kinh tự trị trong rối loạn lo âu lan
tỏa” với mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng của rối loạn thần kinh tự trị trên các bệnh
nhân rối loạn lo âu lan tỏa điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm
Thần.
2. Nhận xét kết quả điều trị rối loạn thần kinh tự trị ở các bệnh nhân
nói trên.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Một số vấn đề về rối loạn lo âu lan tỏa
1.1.1 Một số khái niệm về rối loạn lo âu lan tỏa
Lo âu là triệu chứng ít xuất hiện trong y văn chuyên khoa tâm thần từ
trước thế kỉ 19. Kinh điển lo âu được định nghĩa là sự sợ hãi lan tỏa (peur
généraliséc), không có đối tượng thực, xác định, hiện thời và thấy rõ. Các tác
giả Pháp phân biệt hai từ “anxiété” (lo âu) và “angoisse” (lo sợ) về cường độ :
anxiété thể hiện mức độ nhẹ hơn angoisse và cho rằng anxiété là biểu hiện về
mặt tâm thần còn angoisse là biểu hiện về mặt thân thể của cùng một trạng
thái cảm xúc .
Rối loạn lo âu là sự sợ hãi quá mức, không có nguyên nhân, do chủ
quan của người bệnh và không thể giải thích được do một bệnh tâm thần khác
hoặc do một bệnh cơ thể. Rối loạn lo âu là rối loạn mà bệnh nhân không thể
kiểm soát được, biểu hiện mạn tính và tiến triển, thậm chí có thể xảy ra dưới
dạng kịch phát .
Rối loạn lo âu lan tỏa với nét chính là lo âu lan tỏa và dai dẳng nhưng
không khu trú vào hoặc hơn nữa không trội lên mạnh mẽ trong bất kì hoàn

cảnh môi trường đặc biệt nào (nghĩa là lo âu tự do – lơ lửng). Như trong các
rối loạn lo âu khác, các triệu chứng ưu thế rất thay đổi, nhưng phổ biến là
bệnh nhân phàn nàn luôn cảm thấy lo lắng, run rẩy, căng thẳng cơ bắp, ra mồ
hôi, đầu óc trống rỗng, đánh trống ngực, chóng mặt, khó chịu vùng thượng vị.
Sợ bản thân hoặc người thân sẽ sớm mắc bệnh hoặc bị tai nạn, đồng thời với
các loại lo âu và linh tính điềm gở. Rối loạn này phổ biến ở phụ nữ và thường
liên quan đến stress môi trường mạn tính. Tiến triển của nó có thay đổi nhưng
có xu hướng mạn tính .
3
1.1.2 Lịch sử nghiên cứu và dịch tễ học rối loạn lo âu lan tỏa
Người La Mã thời kì Cicero’s đã dùng từ anxietas để chỉ sự lo lắng đến
sau nỗi sợ hãi .
Năm 1621, Robert Burton cho rằng có mối liên quan mật thiết giữa cảm
giác lo lắng, sợ hãi với các biểu hiện của cơ thể như mạch nhanh, khó thở, đau
tức ngực, chóng mặt, mệt mỏi .
Vào thế kỉ 19 các nhà khoa học đã nghiên cứu sâu hơn về các triệu
chứng của lo âu, nổi bật là Benedict Morel (1809 –1873) đã khẳng định rằng
có mối liên quan chặt chẽ giữa lo âu với các triệu chứng cơ thể và sự thay đổi
ở hệ thần kinh tự trị .
Năm 1871 trong một bài báo có nhan đề “hội chứng tim bị kích thích”
(on irritable heart) Jacob Dacosta đã mô tả một hội chứng gọi là “soldier’s
heart” (hội chứng tim ở binh sĩ) với các triệu chứng tim mạch mạn tính không
có tổn thương thực thể kèm theo lo lắng, mệt mỏi rất thường gặp trong binh
lính tại cuộc nội chiến ở Mỹ (1861-1865). Về sau từ này được dùng cho binh
lính tham gia chiến tranh thế giới thứ 1, thứ 2 bị hội chứng này cũng như
những người sống sót sau cuộc ném bom nguyên tử ở Nhật Bản .
Năm 1894 khi viết học thuyết phân thần, Freud đã chỉ ra một hội chứng
riêng biệt gọi là “tâm căn lo âu” (anxiety neurosis) trong chứng suy nhược
thần kinh. Vào thời điểm đó, rối loạn phân ly và rối loạn nghi bệnh được xếp
vào suy nhược thần kinh và được cho là bệnh lý tâm thần, còn tình trạng

hoảng sợ có lo âu, theo Freud có liên quan đến những yếu tố sinh học cơ thể.
Freud cũng là người đầu tiên mô tả đặc điểm của lo lắng mà ông gọi là “chờ
đợi lo âu” “anxious expectation”. Theo đó trong “tâm căn lo âu” bao gồm
hoảng sợ, lo lắng quá mức, các triệu chứng cơ thể. Từ đây, cụm từ “lo âu lan
tràn” (free floating anxiety) (sau này được đổi thành rối loạn lo âu lan tỏa hay
4
rối loạn lo âu toàn thể) được hình thành với những đặc điểm nổi bật như: lo âu
quá mức, bồn chồn, dễ bị kích thích, lo sợ mạn tính , .
Với sự phát triển của y học, các rối loạn lo âu đã được nghiên cứu và
hoàn thiện. Từ bảng phân loại DSM III (1980) và DSM III.R (1987) Hội Tâm
thần học Hoa Kì đã không dùng các bệnh tâm căn “neurosis” mà thay bằng
cụm từ các rối loạn lo âu “Anxiety disorders” và Rối loạn lo âu lan tỏa là một
thể bệnh nằm trong nhóm này được đặt mã 300.02. Năm 1994 DSM IV xuất
bản vẫn xếp Rối loạn lo âu lan tỏa trong mục các rối loạn lo âu , .
Năm 1968, Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization - WHO)
cho ra đời Bảng Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 8, (International
Classification of Diseases, ICD-8), và xếp tâm căn lo âu được vào mục 300.0.
Năm 1978, ICD-9 đổi tên tâm căn lo âu thành trạng thái lo âu và vẫn nằm ở
mục 300.0. Năm 1992, WHO đưa ra ICD 10 hoàn toàn mới và được sử dụng
hầu hết trên thế giới. Theo đó Rối loạn lo âu lan tỏa được đặt mã F41.1 nằm
trong mục Các rối loạn lo âu và được mô tả trong chương F4: “Các rối loạn
bệnh tâm căn có liên quan đến stress và dạng cơ thể” .
Các triệu chứng cơ thể trong rối loạn lo âu lan tỏa thường gặp ở các cơ
quan như hệ tim mạch, hệ tiêu hóa, hệ hô hấp, hệ thần kinh. Chính vì vậy các
rối loạn này thường được khám và điều trị ở các chuyên khoa khác, chỉ 28%
số bệnh nhân rối loạn lo âu lan tỏa được chẩn đoán kịp thời và thỏa đáng ở
chuyên khoa tâm thần . Nhiều trường hợp chỉ được chẩn đoán đúng và điều trị
sau 5-10 năm khởi phát bệnh .
Một số nghiên cứu về rối loạn lo âu lan tỏa hiện nay:
Theo Nguyễn Thị Bình (2010) tỉ lệ bệnh rối loạn lo âu lan tỏa sống vùng

nông thôn chiếm 30%, tỉ lệ bệnh nhân rối loạn lo âu lan tỏa chiếm 50% bệnh nhân
rối loạn lo âu điều trị nội trú, nhóm tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất trong những bệnh
nhân rối loạn lo âu lan tỏa là nhóm 36-45 tuổi (30%) và 46-55 tuổi (28,9%).
5
Nhóm bệnh nhân dưới 25 tuổi và trên 65 tuổi chiếm tỷ lệ thấp nhất (4,4%; 3,3%).
Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân nghiên cứu là 42,5 ± 11,2 .
Theo Trần Trung Hà (2002) thì tuổi mắc rối loạn lo âu lan tỏa trung
bình là 36 ± 10, lứa tuổi hay gặp 20-30 chiếm 34,2% .
Theo một nghiên cứu tại Mỹ thì tỉ lệ Rối loạn lo âu lan tỏa chiếm
khoảng 5% dân số với tỉ lệ nữ: nam 2: 1. Cũng theo nghiên cứu này thì có tỉ lệ
mắc trong 1 năm là 3,1% .
Tại Mỹ theo một nghiên cứu được áp dụng theo tiêu chuẩn của DSM
IV thì tỉ lệ rối loạn lo âu lan tỏa mắc trong một năm là 3,1%, tỉ lệ mắc gặp
trong cuộc đời là 5,7%. Tỉ lệ thấp nhấp trong các nhóm tuổi là 18-29 (4,1%),
nhóm trên 60 tuổi (3,65%), còn cao nhất là từ 45-59 tuổi chiếm 7,7% .
Tại Australia được áp dụng theo tiêu chuẩn ICD-10 thì tỉ lệ mắc rối
loạn lo âu lan tỏa khoảng 2-8% dân số, tỉ lệ hay gặp nhất từ 20-40 tuổi .
Theo Dan J Stein (2009) cho thấy, rối loạn lo âu lan tỏa thường thấy có
tỷ lệ thấp trên những đối tượng sống ở vùng thành thị, tỷ lệ cao ở lứa tuổi trên
30, cao nhất là từ 30 đến 40 tuổi. Tỉ lệ nữ: nam là 3,6: 1.
Theo Witchen (2002) tỉ lệ rối loạn lo âu lan tỏa gặp khoảng 4% dân số .
Theo Hoffman (2008) thì rối loạn lo âu lan tỏa chiếm 5,7% dân số và là rối
loạn lo âu phổ biến nhất .
Theo nghiên cứu của Heimberg (2004) thì rối loạn lo âu lan tỏa chiếm tỷ
lệ 37% trong các rối loạn lo âu được điều trị nội trú .
1.1.3 Bệnh nguyên - bệnh sinh
Rối loạn lo âu lan tỏa biểu hiện đa dạng, là sự kết hợp giữa các triệu
chứng tâm thần và các triệu chứng cơ thể, vì vậy nguyên nhân và cơ chế sinh
bệnh cũng rất phức tạp, kết hợp giữa các yếu tố di truyền, sinh lý, sinh hóa và
các yếu tố tâm lý xã hội.

6
- Các yếu tố sinh học
+ Với tất cả các hoạt động tâm thần, lo âu cả binh thường và bệnh lí đều
được phản ánh trong não như là một thực thể sinh học. Một số hợp chất
hormon thần kinh tác động lên các vùng của não mỗi khi một người cảm nhận
lo âu. Các lí thuyết sinh học dựa một phần vào các biện pháp khách quan so
sánh chức năng não ở bệnh nhân rối loạn lo âu với chức năng não ở người
bình thường. Có một số người có nhạy cảm hơn với lo âu vì cơ sở sinh học
cảm nhận lo âu là khác nhau .
+ Yếu tố di truyền: Theo các nghiên cứu chỉ ra rằng bố mẹ, con cái, anh
chị em ruột của bệnh nhân rối loạn lo âu lan tỏa thì 19,5% có nguy cơ mắc
bệnh này trong khi những người khác chỉ là 3,5%. Ở phụ nữ sinh đôi cùng
trứng khi 1 người mắc rối loạn lo âu lan tỏa thì người còn lại nguy cơ bị bệnh
là 30% . Còn theo một nghiên cứu khác thì anh chị em ruột, bố mẹ của bệnh
nhân rối loạn lo âu lan tỏa có nguy cơ mắc là 22%, tỉ lệ mắc của cặp sinh đôi
cùng trứng là cao hơn so với cặp đôi khác trứng .
+ Các chất dẫn truyền thần kinh:
Gama Aminobutiric Acide (GABA): GABA là một aminoacide có chức
năng ức chế dẫn truyền thần kinh. Các thụ thể của GABA có ở hầu hết các
phần của não nhưng tập trung nhiều ở những vùng vỏ não có liên quan đến
cảm xúc sợ hãi, lo âu như thùy trán, hồi hải mã, hạnh nhân. Thực nghiệm trên
động vật cho thấy sự rối loạn chức năng hệ GABA gây ra triệu chứng của rối
loạn lo âu lan tỏa. Khi GABA gắn vào thụ thể của hệ GABA-negic sẽ làm
tăng quá trình khử cực màng tế bào thần kinh thông qua việc mở kênh clo, kết
quả làm giảm và ức chế hoàn toàn các xung động thần kinh. Một trong số các
thuốc điều trị lo âu hay được sử dụng nhất là các benzodiazepine, khi
benzodiazepine gắn vào thụ thể của chúng sẽ làm tăng ái lực của GABA với
7
các receptor của hệ GABA-necgic, làm tăng tác dụng ức chế dẫn truyền thần
kinh dẫn đến giảm các triệu chứng lo âu , , .

Norepinephrine: Norepinephrin là chất dẫn truyền thần kinh có liên
quan đến cơ chế bệnh sinh của các rối loạn lo âu. Norepinephrine gặp chủ yếu
ở vùng cầu não, phóng chiếu qua bó trước giữa tới vỏ não, hệ viền, đồi não,
thân não, tủy sống (những vùng có đáp ứng với stress và tạo ra cảm xúc sợ
hãi, lo âu) , .
Serotonin: Chất dẫn truyền thần kinh serotonin (5-HT) được coi là có
vai trò quan trọng trong rối loạn lo âu lan tỏa. Đường dẫn truyền của hệ
serotonergic bắt nguồn từ nhân raphe đi đến các vùng của vỏ não có vai trò
điều chỉnh cảm xúc lo âu như: hồi hải mã, tuyến hạnh nhân. Tăng hoặc giảm
chức năng hệ serotonergic đều dẫn đến rối loạn lo âu lan tỏa , , .
Hệ thống dưới đồi - tuyến yên – tuyến thượng thận: Trục dưới đồi -
tuyến yên - tuyến thượng thận là một hệ thống thần kinh nội tiết có liên quan
đến quá trình điều chỉnh cảm xúc lo âu. Các thông tin về sự sợ hãi và lo âu lan
truyền từ hệ viền đến vùng dưới đồi làm sản xuất ra corticotropin-releasing
(CRF), CRF kích thích tuyến yên sản xuất ACTH, chất này kích thích tuyến
thượng thận giải phóng cortisol, đây là hormon duy trì sự cân bằng và chuẩn
bị cho sự đối mặt với nguy hiểm, đe dọa. Có sự tăng cao nồng độ cortisol trên
bệnh nhân rối loạn lo âu lan tỏa, từ đó gián tiếp làm tăng quá trình vận chuyển
serotonin. , , .
- Các yếu tố tâm lý xã hội
+ Vai trò của sang chấn tâm lý: Các xung đột trong cuộc sống, tình trạng
hôn nhân, tình trạng kinh tế gia đình có vai trò quan trọng trong bệnh sinh rối
loạn lo âu lan tỏa. Stress là một phần của đời sống, một số stress cho con
8
người ta cảm giác dễ chịu, một số khác gây khó chịu hoặc trung tính (không
có phản ứng gì).
+ Chúng ta phản ứng với stress tùy theo nhu cầu hiểu biết về tình huống.
Phản ứng với stress có thể rất khác nhau từ các cảm xúc trung tính đến các
cảm xúc dương tính rất mạnh. Lúc đó cơ thể đáp ứng với các trải nghiệm mới
rất khác nhau. Có các thông tin sẽ làm rối loạn người cảm nhận stress và gây

hoạt hóa cơ thể. Phản ứng của cơ thể có nguy cơ khuếch đại, nếu tình huống
kéo dài đến mức gây ra các rối loạn nặng về mặt sinh lí cũng như tâm lí, cảm
giác mất an toàn và sự khó chịu lan tỏa là đặc trưng của lo âu , .
- Vai trò của nhân cách
+ Một số người có nhân cách yếu, thường được mô tả như là “lo âu bẩm
sinh”. Họ lo buồn vì những nguyên cớ nhỏ, căng thẳng vì những sức ép và
cảm thấy sợ hãi vì năng lực của họ. Họ thường là những người dễ xúc động,
dễ sợ hãi, cẩn thận quá mức và thiên về trải nghiệm lo âu hơn những người
cùng tuổi với họ trong các tình huống tương ứng. Tính cách lo âu có những
khác nhau cá nhân song tương đối ổn định hướng về lo âu. Những người trải
qua quá nhiều những sự kiện xấu trong cuộc đời, có lẽ có trạng thái “căng
thẳng” mạn tính .
- Một số thuyết tâm lý
+ Thuyết phân thần: Theo S.Freud lo âu là tín hiệu đến với cái tôi mà
một xung năng không thể chấp nhận được đang dồn nén một hiện tượng có ý
thức và giảm tải năng lượng vì là một tín hiệu lo âu đánh thức cái tôi để đưa
ra phòng vệ chống lại sức ép nội tâm. .
+ Thuyết nhận thức: Tâm lí nhận thức quan tâm đến quá trình tư duy.
Mô hình nhận thức: kích thích tác động lên nhận thức từ đó mới dẫn đến sự
đáp ứng. Liệu pháp nhận thức nhằm vào sự thay đổi những cảm xúc và hành
9
động có ảnh hưởng lên tư duy của người bệnh. Liệu pháp nhận thức khẳng
định sự xuất hiện của một triệu chứng là sản phẩm mối tương tác chặt chẽ
giữa những hiện tượng trước đó với một hoàn cảnh và đáp ứng đã xảy ra
trong hoàn cảnh với những biểu hiện về cảm xúc, nhận thức, ứng xử .
+ Thuyết hành vi: Lo lắng và sợ hãi là 2 khía cạnh liên quan chặt chẽ
hành vi cảm xúc. Người khỏe mạnh khi gặp lo lắng có trải nghiệm chống lại
các tín hiệu đó hoặc các tín hiệu tác nhân không đặc hiệu, không đủ mạnh để
ảnh hưởng. Người ta cho rằng các trải nghiệm đó như một lợi thế sinh học
giúp con người chống lại các tác nhân hoặc phòng tái hiện như sau “chuyến

bay” (flight or fight). Những người nhân cách lo âu khi gặp các tác nhân lo âu
là đáp ứng theo phản xạ có điều kiện với các kích thích đặc hiệu của môi
trường. Các triệu chứng xuất hiện bao gồm tăng nhịp tim, căng cơ, chóng mặt,
buồn nôn, đau tức ngực là do sự kích hoạt hệ thần kinh tự trị. Và họ tập trung
vào bản thân để tìm nguồn gốc tác nhân và cố gắng vượt qua. Những người
này có thể học tập để có một đáp ứng lo âu của nội tâm bằng cách bắt chước
với đáp ứng lo âu của bố mẹ (lí thuyết học tập xã hội) , .
1.1.4 Tiêu chuẩn chẩn đoán RLLALT theo ICD 10 năm 1992
Theo bảng phân loại bệnh tật lần thứ 10 của tổ chức y tế thế giới (1992)
rối loạn lo âu lan tỏa được chẩn đoán: Về thời gian có tối thiểu 6 tháng với sự
căng thẳng nổi bật, lo lắng, cảm giác lo sợ về các sự kiện hàng ngày và bệnh
nhân kèm theo ít nhất 4 trong 22 triệu chứng. Trong đó phải có ít nhất một
triệu chứng trong các triệu chứng khích thích thần kinh tự trị.
+ Hồi hộp, tim đập mạnh, hoặc nhịp tim nhanh.
+ Vã mồ hôi.
+ Run.
+ Khô miệng (không do thuốc hoặc mất nước) .
10
Để hỗ trợ cho chẩn đoán rối loạn lo âu lan tỏa người ta còn sử dụng trắc
nghiệm tâm lý.
+ Test Hamilton
Thang đánh giá lo âu Hamilton (Hamilton anxiety rating scale -
HARS) do bác sĩ Max Hamilton thiết kế năm 1960 và đưa vào áp dụng rộng
rãi. HARS bao gồm 14 nhóm câu hỏi cho các triệu chứng, tương đối đầy đủ
khách quan và chính xác.
Điểm được tính với 5 mức độ từ không có đến rất nặng ứng với mức điểm
0 = không có; 1 = nhẹ; 2 = trung bình; 3 = nặng; 4 = rất nặng. Sau đó tính tổng
cộng: dưới 7 điểm là không có lo âu; từ 8-14 điểm: lo âu mức độ nhẹ; từ 15-19
điểm: lo âu mức độ trung bình; trên 20 điểm: lo âu mức độ nặng .
+ Test Zung

Thang điểm đánh giá lo âu Zung Self - Rating Scale (SAS) được
thiết kế bởi William WK Zung năm 1971, một bác sĩ tâm thần từ Đại học
Duke, để định lượng mức độ lo lắng của bệnh nhân.
Test Zung là một bộ gồm 20 câu hỏi đánh giá để đo lường mức độ lo
lắng đã được chuẩn hóa, sử dụng nhanh. Mỗi câu hỏi được ghi trên một dãy
từ 1 đến 20 (dựa trên những trả lời: không có hoặc hầu như không đáng kể,
thỉnh thoảng, thường xuyên, luôn luôn có) và cho điểm từ 1 đến 4.
Kết quả được tính bằng
%
80
X
×

(X là số điểm tính được từ 20 mục trên)
Trên 50% : lo âu bệnh lý. Dưới 50%: không có lo âu bệnh lí .
1.1.5 Đặc điểm lâm sàng của rối loạn lo âu lan tỏa
Theo ICD 10 năm 1992 thì rối loạn lo âu lan tỏa được chẩn đoán dựa
trên 22 triệu chứng được chia thành 6 nhóm lớn. Tuy nhiên trên lâm sàng triệu
chứng cơ bản là lo âu, hoảng sợ với đặc điểm không có chủ đề rõ ràng, mang
tính chất vô lý, mơ hồ về các sự kiện thường nhật khiến người bệnh luôn bận
11
tâm suy nghĩ với thời gian kéo dài vài tuần, vài tháng có khi lặp đi lặp lại và biểu
hiện trên cơ thể là sự hưng phấn quá mức của hệ thần kinh tự trị.
+ Tim mạch: Bệnh nhân thường có đánh trống ngực, mạch nhanh, đau
vùng trước tim khiến bệnh nhân cảm giác như bị bóp nghẹt lại, đau nặng
ngực, có cơn co thắt mạch đầu chi (tím đầu chi) hoặc giãn mạch đỏ bừng mặt.
+ Tiêu hóa: Bệnh nhân có cảm giác co thắt thanh quản, nói khó, co thắt
thực quản và dạ dày, nôn hoặc buồn nôn, ỉa chảy hoặc buồn đại tiện nhiều
nhưng đi số lượng ít, tiết nước bọt nhiều hoặc khô miệng.
+ Hô hấp: Khó thở, nghẹt thở hay thở nhanh nông, hụt hơi.

+ Tiết niệu: Đi tiểu nhiều, tiểu dắt, liên tục có nhu cầu vào nhà vệ sinh.
+ Thần kinh – cơ: rung cơ mặt, rung mi mắt liên tục, run cơ tay chân,
đau vùng vai gáy, đau giả thấp khớp.
+ Da và cảm giác giác quan: Nổi da gà, tăng tiết mồ hôi lòng bàn tay bàn
chân. Nghe kém, nhìn mờ, tăng và loạn cảm giác, chóng mặt .
1.2 Vai trò của hệ thần kinh tự trị trong rối loạn lo âu lan tỏa
1.2.1 Khái niệm và lịch sử nghiên cứu
Từ trước đây các nhà nhà khoa học quan niệm cảm xúc được cảm nhận
khác với ý nghĩ thông thường. Ý chí được chi phối bởi bộ não và phù hợp với
các tác động từ môi trường bên ngoài còn cảm xúc được liên kết với các cơ
quan trong cơ thể như trái tim là chỗ ngồi của tình yêu (seat of love). Sang thế
kỉ 18 Bichat (1771-1802) đã chia cuộc sống thành hai hình thức riêng biệt,
một (sống quan hệ) được chi phối bởi bộ não, và hai (thực vật, đời sống) được
chi phối bởi hạch bụng. Đời sống thực vật được xem là sự kết nối niềm đam
và độc lập của giáo dục, chi phối bởi hoạt động độc lập của hạch bụng, một
chuỗi “bộ não nhỏ” (little brains). Còn theo Pinel một nhà tâm thần học nổi
tiếng người Pháp và cũng là thầy của Bichat coi bệnh tâm thần gây ra bởi
chức năng bất thường của các hạch.
12
Người đầu tiên đưa khái niệm hệ thần kinh tự trị (autonomic nervous
system) là Langley (1852-1925), ông coi hệ thần kinh tự trị là một hệ độc lập
với hệ thần kinh trung ương (central nervous system) và năm 1903 chính thức
đưa ra khái niệm này .
Tuy ngày nay tâm lý học hiện đại vẫn dùng từ chức năng thực vật
(vegetative functions) nhưng theo các tài liệu giải phẫu thần kinh, tâm thần thì
autonomic nervous system dùng để chỉ hệ thần kinh tự trị để phân biệt hệ thần
kinh trung ương central nervous systems .
Theo từ điển tiếng Anh Mỹ đã chỉ ra rõ autonomic neurous system là
hệ thần kinh tự trị, còn vegetive là chức năng thực vật .
Tại Việt Nam, trong giải phẫu học trước đây Đỗ Xuân Hợp và các tài

liệu tiếng Pháp đều sử dụng cụm từ hệ thần kinh thực vật. Nhưng hiện nay
Trịnh Văn Minh đã sử dụng cụm từ hệ thần kinh tự trị (hay tự chủ) trong giải
phẫu để thay thế cụm từ trước đây cho phù hợp với y văn thế giới và hệ thống
từ chuẩn hóa quốc tế năm 1985, 1997 .
Theo Nguyễn Văn Siêm viết trong từ điển y học tâm thần học thì
autonomic nervous system (ANS) là hệ thần kinh tự trị, còn vegetative
nervous system là hệ thần kinh thực vật .
1.2.2 Sinh lí và giải phẫu hệ thần kinh tự trị
Khác với hệ thần kinh trung ương (các hoạt động được điều khiển bởi
bộ não), hệ thần kinh tự trị chuyên điều khiển các hoạt động ngoài ý muốn
của con người, như hoạt động của tim, cơ quan hô hấp, hệ tiêu hóa, có vai trò
điều hòa chức phận của nhiều cơ quan, hệ thống để sự cân bằng nội môi của
cơ thể luôn giữ ổn định trong môi trường sống luôn luôn thay đổi. Hệ thần
kinh tự trị làm nhiệm vụ thiết lập các tác động giữa cơ thể và môi trường, đặc
biệt là điều hoà các quá trình hoạt động bên trong cơ thể .
13
Khi có sự kích thích hệ thần kinh tự trị gây ra một số triệu chứng về tim
mạch, cơ, tiêu hóa và hô hấp. Biểu hiện ngoại biên của lo âu hoặc là khác với
các trạng thái lo âu hay là có tương quan thống nhất với trải nghiệm chủ quan
về lo âu. Vào khoảng 30 năm đầu thế kỉ 20, Walter Canon đã chứng minh
rằng các con mèo khi tiếp xúc với tiếng chó sủa thì biểu hiện sợ hãi về mặt
hành vi, sợ hãi kết hợp với giải phóng epinephrin của tuyến thượng thận.
James Lange cho rằng lo âu chủ quan là đáp ứng với các hiện tượng
ngoại lai đó. Hiện nay người ta cho rằng ở hệ thần kinh trung ương, lo âu diễn
ra trước các biểu hiện lo âu ngoại biên trừ khi có một nguyên nhân ngoại lai
đặc hiệu như u tế bào ưa crome (pheocrome oxytoma). Biểu hiện thần kinh tự
trị tăng trương lực giao cảm thích ứng chậm hơn với các kích thích lặp đi lặp
lại và đáp ứng quá mức với các kích thích cường độ trung bình .
Hệ thống thần kinh tự trị hình thành từ các trung tâm tuỷ sống, thân não
và vùng dưới đồi, xuất phát những sợi thần kinh tới các tạng, mạch máu và cơ

trơn. Trước khi tới cơ quan thu nhận, các sợi này đều dừng ở một sinapse tại
hạch, vì vậy có sợi trước hạch và sợi sau hạch. Khác với những bộ phận do hệ
thần kinh trung ương điều khiển, các cơ quan do hệ thần kinh tự trị chi phối
vẫn có thể hoạt động tự động khi cắt đứt những sợi thần kinh đến chúng. Hệ
thống thần kinh tự trị được chia thành hai hệ giao cảm và phó giao cảm khác
nhau về cả giải phẫu và chức phận sinh lý .
- Phân loại theo giải phẫu
Điểm xuất phát
+ Hệ giao cảm xuất phát từ những tế bào thần kinh ở sừng bên của tuỷ
sống từ đốt sống ngực thứ nhất đến đốt sống thắt lưng thứ 3 (T1- L3).
+ Hệ phó giao cảm xuất phát từ não giữa, hành não và tuỷ cùng. Ở não
giữa và hành não, các sợi phó giao cảm đi cùng với các dây thần kinh trung
14
ương: dây III vào mắt; dây VII vào các tuyến nước bọt; dây IX vào cơ mi, các
tuyến tiết nước mắt, nước bọt, tuyến tiết niêm mạc mũi, miệng, hầu; dây X
vào các tạng trong ngực và ổ bụng. Ở tuỷ cùng, xuất phát từ các đốt sống
cùng thứ 2 đến thứ 4 (S2 - S4) để chi phối các cơ quan trong hố chậu.
Hạch
+ Hệ giao cảm có 3 nhóm hạch: Chuỗi hạch cạnh cột sống nằm hai bên
cột sống. Nhóm hạch trước cột sống, gồm hạch tạng, hạch mạc treo và hạch
hạ vị, đều nằm trong ổ bụng. Nhóm hạch tận cùng gồm những hạch nằm cạnh
trực tràng và bàng quang.
+ Hệ phó giao cảm: các hạch nằm ngay cạnh hoặc ngay trong thành cơ quan.
Sợi thần kinh
+ Hệ giao cảm: một sợi tiền hạch thường tiếp nối với khoảng 20 sợi hậu
hạch cho nên khi kích thích giao cảm, ảnh hưởng thường lan rộng.
+ Hệ phó giao cảm: một sợi tiền hạch thường chỉ tiếp nối với một sợi
hậu hạch, cho nên xung tác thần kinh thường khu trú hơn so với xung tác giao
cảm. Tuy nhiên, đối với dây X thì ở đám rối Auerbach và đám rối Meissner
(được coi là hạch) thì một sợi tiền hạch tiếp nối với khoảng 8000 sợi hậu

hạch. Vì hạch nằm ngay cạnh cơ quan, cho nên các sợi hậu hạch phó giao cảm
rất ngắn , .
Hệ thống thần kinh tự trị trong não
+ Hệ thần kinh trung ương và hệ thần kinh tự trị luôn luôn có mối liên
quan chặt chẽ với nhau để đảm bảo tính thống nhất của cơ thể. Những mối
liên quan đó đã và đang được tìm thấy ở vùng dưới đồi, hệ viền, hồi hải mã, là
những nơi có các trung tâm điều hòa thân nhiệt, điều hòa huyết áp, nội tiết, cảm
xúc, hành vi Trong hệ thần kinh trung ương cũng có các chất dẫn truyền thần
kinh và các receptor như của hệ thống thần kinh tự trị.
15
- Hệ thần kinh tự trị có hệ thần kinh giao cảm và phó giao cảm, gồm có
các trung khu tự trị nằm ở:
+ Não và tủy sống.
+ Các hệ thống hạch cạnh sống và hạch ngoại vi.
+ Các đường dẫn truyền của hệ thần kinh giao cảm và phó giao cảm nằm
trong tổ chức các dây thần kinh sọ não, tủy sống và các dây thần kinh tự trị.
+ Hoạt động của hệ thần kinh giao cảm và phó giao cảm trong cơ thể
luôn cân đối nhau và là một thể thống nhất, khi có sự mất cân đối sẽ gây ra
các rối loạn các cơ quan trong cơ thể .
Sơ đồ 1.1. Hệ thần kinh tự trị trong cơ thể
16
- Phân loại theo chức năng sinh lý
Chức năng sinh lý
Chức năng sinh lý của hai hệ giao cảm và phó giao cảm trên các cơ quan
nói chung là đối kháng nhau .
Bảng1.1: Sự chi phối hoạt động của hệ giao cảm và phó giao cảm với
các cơ quan
Cơ quan đích Hệ giao cảm Hệ phó giao cảm
Mắt Giãn đồng tử, lồi mắt, rộng
khe mi

Co đồng tử, thụt nhãn cầu,
hẹp khe mi
Tuyến nước bọt Tiết nước bọt đặc, ít Loãng, nhiều
Tim Tăng nhịp tim, tăng huyết áp Giảm nhịp tim, giảm huyết áp
Phế quản Giãn Co
Ruột, dạ dày Giảm nhu động, giảm tiết dịch Tăng nhu động, tăng tiết dịch
Mạch máu Co mạch Giãn mạch
Da Co mạch, tái nhợt Giãn mạch, đỏ
Chất gây hưng phấn Adrenalin, Ephedrin, Canxi Acetylcholin, Eserin, Kali
Chất gây ức chế Chlohydrat, Bromua Atropin, Scopolamin
Sinapse và chất dẫn truyền thần kinh
+ Khi ta kích thích các dây thần kinh (trung ương và tự trị) thì ở đầu mút
của các dây đó sẽ tiết ra những chất hóa học làm trung gian cho sự dẫn truyền
giữa các dây tiền hạch với hậu hạch, hoặc giữa dây thần kinh với các cơ quan
thu nhận. Chất hóa học làm trung gian cho sự dẫn truyền đó gọi là chất dẫn
truyền thần kinh. Hệ thống thần kinh của người có hàng chục tỷ nơron. Sự
thông tin giữa các nơron đó cũng dựa vào các chất dẫn truyền thần kinh. Các
thuốc ảnh hưởng đến chức phận thần kinh thường là thông qua các chất dẫn
truyền thần kinh đó. Chất dẫn truyền thần kinh ở hạch giao cảm, phó giao
cảm và hậu hạch phó giao cảm đều là acetylcholin, còn ở hậu hạch giao cảm
là noradrenalin, adrenalin và dopamin (gọi chung là catecholamin). Các chất
17
dẫn truyền thần kinh tác động đến màng sau sinap làm thay đổi tính thấm của
màng với ion Na +, K+ hoặc Cl -Do đó gây ra hiện tượng biến cực (khử cực
hoặc ưu cực hóa). Ion Ca++ đóng vai trò quan trọng trong sự giải phóng chất
dẫn truyền thần kinh.
Các chất dẫn truyền khác
Trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng phần lớn
các nơron trung ương và ngoại biên có chứa 2 hoặc nhiều chất dẫn truyền, có
thể được giải phóng ra cùng một lúc ở sinapse khi dây thần kinh bị kích thích.

Như vậy, ở hệ thần kinh tự trị, ngoài acetylcholin (ACh) và noradrenalin
(NA), còn có những chất dẫn truyền thần kinh (neurotransmitters) khác cùng
được giải phóng và có thể có vai trò như chất cùng dẫn truyền
(cotransmitters), chất điều biến thần kinh (neuromodulators) hoặc chính nó
cũng là chất dẫn truyền (transmitters). Người ta đã tìm thấy trong tuỷ thượng
thận, trong các sợi thần kinh, trong hạch thần kinh tự trị hoặc trong các cấu
trúc do hệ thần kinh tự trị chi phối một loạt các peptid sau: enkephalin, chất P,
somatostatin, hormon giải phóng gonadotropin, cholecystokinin, vasoactive
intestinal peptide (VIP), neuropeptid Y (NPY) Vai trò dẫn truyền của ATP,
VIP và NPY trong hệ thần kinh tự trị đã được coi là những chất điều biến tác
dụng của NA và ACh. Như vậy, bên cạnh hệ thần kinh tự trị với sự dẫn truyền
bằng ACh và NA còn tồn tại một hệ thống dẫn truyền khác được gọi là dẫn
truyền không adrenergic, không cholinergic (Nonadrenergic, non cholinergic
transmission). Burnstock đã thấy có các sợi thần kinh purinergic chi phối cơ
trơn đường tiêu hóa, đường sinh dục- tiết niệu và một số mạch máu.
Adenosin, ATP là chất dẫn truyền, các receptor gồm receptor adenosin (A
hoặc P1) và receptor ATP (P2). Các dưới typ receptor đều hoạt động thông
qua protein G, còn receptor P 2x lại thông qua kênh ion. Methylxantin
(cafein, theophylin) là chất ức chế các receptor này. Nitric oxyd cũng là một
18
chất dẫn truyền của hệ NA có tác dụng làm giãn mạch, giãn phế quản. Nitric
oxid có ở nội mô thành mạch, khi được giải phóng sẽ hoạt hóa guanylyl
cyclase, làm tăng tổng hợp GMPv, gây giãn cơ trơn thành mạch. Các chất dẫn
truyền thần kinh được tổng hợp ngay tại thân tế bào thần kinh, sau đó được
lưu trữ dưới thể phức hợp trong thành phần nằm ở đầu mút thần kinh để tránh
bị phá huỷ. Dưới tác dụng của những luồng xung tác thần kinh, từ thành phần
dự trữ đó, chất dẫn truyền thần kinh được giải phóng ra dưới dạng tự do, có
hoạt tính để tác động tới các receptor. Tại các khe synapse chúng được thu hồi
một phần trở lại vào chính các đầu mút thần kinh vừa giải phóng ra, hoặc bị
phá huỷ rất nhanh bởi các enzym đặc biệt. Acetylcholin bị cholinesterase thuỷ

phân, còn noradrenalin và adrenalin thì bị oxy hóa và khử amin bởi catechol
oxy- methyl- transferase (COMT) ở khe synapse và mono - amin- oxydase
(MAO) ở trong tế bào thần kinh trước synapse. Đặc biệt:
+ Dây giao cảm đi tới tuỷ thượng thận không qua một hạch nào cả. Ở tuỷ
thượng thận, dây này tiết ra acetylcholin để kích thích tuyến tiết ra adrenelin.
+ Các ngọn dây hậu hạch giao cảm chi phối tuyến mồ hôi tiết ra
acetylcholin.
+ Các dây thần kinh vận động đi đến các cơ xương (thuộc hệ thần kinh
trung ương) cũng giải phóng ra acetylcholin.
+ Trong não, các xung tác giữa các nơron cũng hoạt động thông qua
acetylcholin. Ngoài ra còn có những chất trung gian hóa học khác như
serotonin, catecholamin, acid - gama- amino- butyic (GABA) ,, .
1.2.3 Một số rối loạn tâm thần có biểu hiện rối loạn thần kinh tự trị
Theo Trần Hữu Bình trên bệnh nhân trầm cảm có biểu hiện dạ dày-ruột chức
năng, các biểu hiện nóng rát, co thắt khó chịu thượng vị có tỷ lệ cao 82,5% .
19
Theo Trần Thị Hà An trên bệnh nhân rối loạn cơ thể hóa thì rối loạn thần
kinh thực vật biểu hiện 37,7% bệnh nhân cả quá trình điều trị và biểu hiện
27,5% bệnh nhân lúc mới vào viện .
Theo La Đức Cương trên bệnh nhân rối loạn hỗn hợp lo âu trầm cảm thì
có tới 61,8% bệnh nhân có đồng thời 2 triệu chứng rối loạn thần kinh tự trị, có
58,1% bệnh nhân có triệu chứng hồi hộp đánh trống ngực .
Theo Trần Nguyễn Ngọc khi nghiên cứu đau trên các bệnh nhân rối loạn
liên quan đến stress thì 87,5% bệnh nhân đau có rối loạn thần kinh tự trị .
Lo lâu và trầm cảm có liên quan đến hệ thống thần kinh chức năng tự trị.
Nghiên cứu trên phụ nữ có rối loạn lo âu trầm cảm thấy phụ nữ bị hội chứng
ruột kích thích với những phụ nữ không có triệu chứng của rối loạn hoặc trên
các chỉ số hoạt động của tim, cân bằng hệ thống thần kinh tự trị, và hoạt động
tự trị nói chung. Sử dụng bảng kiểm và chẩn đoán để xác định lo âu trầm cảm
và một màn hình Holter được sử dụng để ghi lại khoảng RR trên 24 giờ. Một

so sánh tương tự đã được thực hiện với các theo dõi khách quan. Trong số
những phụ nữ bị hội chứng ruột kích thích, những người rối loạn có đối giao
cảm thấp hơn trong suốt thời gian 24 giờ so với phụ nữ không có rối loạn. Các
chỉ số của sự cân bằng tự trị cao hơn một chút ở phụ nữ với một rối loạn so
với những người không có rối loạn. Sự khác biệt tương tự cũng được nhìn
thấy trong theo dõi .
Khi nghiên cứu trên các bệnh nhân trầm cảm tại Đức, Brown nhận thấy
rằng bệnh cảnh hồi hộp đánh trống ngực xuất hiện nhiều hơn người bình
thường khi có tác động tâm lí (tích cực hay tiêu cực) .
Sylvia Kreibig nghiên cứu ảnh hưởng của cảm xúc tới hệ thần kinh tự trị
đã chỉ ra rằng: Khi con người gặp các yếu tố cảm xúc tiêu cực (lo lắng, sợ hãi,
giận dữ) thì kích thích hệ thần kinh tự trị huyết áp tâm thu, tâm trương đều
tăng, nhịp thở nhanh và nông hơn nhưng sau khi yếu tố cảm xúc trôi qua, các
20
chỉ số trở về bình thường. Còn khi gặp yếu tố cảm xúc tích cực (yêu, giải trí,
vui vẻ) thì hầu như hệ thần kinh tự trị không bị kích thích hoặc kích thích
không đáng kể .
Theo Mussgay khi nghiên cứu rối loạn thần kinh tự trị tim mạch trên
nhóm bệnh nhân rối loạn hoảng sợ điều trị nội trú, có 41% bệnh nhân biểu
hiện rối loạn chức năng tim mạch và cao hơn nhóm bệnh nhân rối loạn hoảng
sợ điều trị ngoại trú và ông cho rằng những bệnh nhân điều trị ngoại trú gặp
các yếu tố lo âu thường xuyên nên thích nghi với lo âu tốt hơn những bệnh
nhân điều trị nội trú .
1.3 Điều trị rối loạn lo âu lan tỏa
1.3.1 Nguyên tắc điều trị
Rối loạn lo âu lan tỏa là một bệnh có thể tiến triển mạn tính nếu không
được điều trị kịp thời và đúng phương pháp. Mục tiêu của điều trị là làm
giảm các triệu chứng cơ thể, nhận thức bệnh và thích ứng với các sự kiện
công việc hàng ngày, phòng ngừa tái phát. Trên các thử nghiệm lâm sàng
điều trị được coi là đáp ứng khi giảm 50% số triệu chứng và thuyên giảm

là khi giảm gần như các triệu chứng. Để đạt mục tiêu ngoài thuốc kiểm
soát các triệu chứng, thì liệu pháp tâm lí kết hợp điều trị hoặc sau giai
đoạn cấp để bệnh ổn định phòng ngừa tái phát , .
1.3.2 Liệu pháp hóa dược
- Benzodiazepine
Benzodiazepine (BZD) là thuốc hàng đầu được sử dụng vì có đặc điểm
ức chế đặc biệt trên hệ thống lưới hoạt hóa đồi thị hệ viền và các nơron kết
hợp của tủy sống do đó có tác dụng an dịu, chậm các hoạt động, an thần
giải lo âu, tác dụng gây ngủ khi mất ngủ liên quan đến bồn chồn lo lắng.
+ Cơ chế tác dụng:
21
BZD gắn trên các receptor đặc hiệu với nó trên thần kinh trung ương.
Bình thường khi không có BZD các receptor của BZD bị một protein nội sinh
chiếm giữ làm cho GABA (trung gian hóa học có tác dụng ức chế trên thần
kinh trung ương) không gắn vào được receptor của hệ GABA-ergic làm cho
kênh Cl của nơron khép lại. Khi có mặt BZD, do có ái lực mạnh hơn protein
nội sinh, BZD đẩy protein nội sinh và chiếm lại receptor do đó GABA mới
gắn được vào receptor của nó và làm mở kênh Cl, Cl đi từ ngoài vào trong tế
bào gây hiện tượng ưu cực hóa. BZD tác dụng gián tiếp làm tăng hiệu quả của
GABA, tăng tần số mở kênh Cl.
BZD làm tăng ái lực của receptor GABA với GABA và làm tăng lượng
GABA trong não. Trên hệ adrenergic trung ương BZD làm giảm hoạt lực của
các nơron NA ở liềm đen và làm giảm cả tốc độ tái tạo NA., .
+ Điều trị
Khởi đầu bằng liều thấp rồi tăng dần, nếu kéo dài cần đánh giá tình
trạng hàng tháng, khi ngừng thuốc phải giảm liều theo lộ trình ¼ tổng liều
hàng tuần. Diazepam(Seduxen) 5-10 mg, Clonazepam(Rivotril) 0,75-2 mg,
Lorazepam (Temesta) 1-3 mg , .
- Buspirone
Buspirone (Buspar) là thuốc điều trị rối loạn lo âu thế hệ mới.Thuốc

có cấu trúc hóa học khác hẳn với các thuốc cổ điển và BZD. Điểm đặc biệt
quan trọng là thuốc dùng xen kẽ hay thay thế khi điều trị BZD thất bại
trong rối loạn lo âu.
+ Cơ chế tác dụng:
Buspirone không có tác dụng lên kênh Cl thông qua GABA .
Buspirone là chất đồng vận đồi thị lên Seretonin phần lớn lên receptor 5-
HT1A trước sinap, phần nhỏ lên receptor 5-HT1A sau sinap, có nhiều ở hệ viền,
hồi hải mã, não giữa, đồi thị, hành-cầu não, thể vân, hạ khâu não và tiểu não.
22
Nguyên nhân rối loạn lo âu liên quan tới hấp thu seretonin,tác dụng của
Buspirone vào hấp thu seretonin do đó tác dụng giải lo âu hiệu quả cao .
+ Điều trị:
Khởi đầu 5mg x 3 lần/ngày cứ 3 ngày tăng dần 5mg đến khi có hiệu quả.
Liều tối đa 60 mg/ngày. Trung bình 15-30 mg/ngày.
Đối với bệnh nhân rối loạn lo âu dùng phối hợp Buspirone và BZD sẽ
cho hiệu quả cao hơn nhiều so với dùng đơn trị liệu.
Khi điều trị BZD phải dừng mà thay bằng Buspirone thì có thể:
• Dùng ngay Buspirone và tăng liều từ từ trong khi ngừng luôn BZD.
• Dùng Buspirone tăng dần liều trong 2-3 tuần rồi bắt đầu giảm
liều BZD
- IMAO (Thuốc ức chế men Monoamine Oxidas ):
Trong những thập niên 80 – 90 thế kỉ XX thì IMAO là thuốc kinh điển
đầu tay điều trị trầm cảm, các rối loạn lo âu. Tuy nhiên IMAO có:
• Nhiều tác dụng phụ : tụt huyết áp tư thế, nhiễm độc gan, lú lẫn
• Phải có chế độ ăn nghiêm ngặt tránh thức ăn có Tyrosin.
• Sử dụng IMAO tương tác với rất nhiều thuốc, khi thay thuốc phải
dừng IMAO 2 tuần rồi mới dùng thuốc khác sẽ ảnh hưởng kết quả điều trị vì khi
ngừng thuốc dễ xảy ra tình trạng bệnh nhân có thể nặng nề hơn , .
- Chống trầm cảm 3 vòng và SSRI (Ức chế tái hấp thu serotonin):
+ Cơ chế tác dụng :

Các thuốc chống trầm cảm hiện nay được chia thành 3 nhóm lớn:
Thuốc chống trầm cảm 3 vòng, 4 vòng.
Thuốc chống trầm cảm ức chế tái hấp thu seretonin khe sau sinap.
Các thuốc chống trầm cảm khác: Velafaxin(effexor), mitarzapine
(remeron), Bupropion, Trazodol
23
Đặc điểm chung là các thuốc chống trầm cảm đều có tác dụng ức chế
sự thu hồi serotonin trung ương, do đó làm tăng serotonin tự do ở hạnh nhân
não và hạ khâu não, chống được tâm trạng buồn rầu, thất vọng, muốn tự sát.
Nguyên nhân rối loạn lo âu cũng liên quan tới hấp thu seretonin nên các
thuốc CTC 3 vòng và SSRI ảnh hưởng tới sự hấp thu seretonin do đó tác dụng
giải lo âu có hiệu quả cao. Tuy tác dung giải lo âu không bằng nhóm BZD
nhưng các thuốc CTC nói chung đều có thể dùng phối hợp với BZD để nâng
cao hiệu quả điều trị ban đầu và có thể dùng lâu dài không gây ra trạng thái lệ
thuộc thuốc và hội chứng cai khi ngừng thuốc , .
+ Điều trị:
Về lí thuyết các thuốc chống trầm cảm đều hiệu quả trên các bệnh nhân
trầm cảm nhưng trầm cảm và lo âu là cùng chung một trục bệnh lí và cơ chế
sinh hóa não tương đối giống nhau nên các thuốc chống trầm cảm điều trị lo
âu cho hiệu quả tương đối tốt.
Dùng venlafaxin (Effexor) 75-150 mg tối đa 225 mg có hiệu quả sau 2
tuần, sau 6 tháng 70% triêu chứng lo âu hết.
Điều trị mitarzapine (Remeron) 15-30 mg, imipramin (Tofranin) 75-
200 mg cũng cho hiệu quả cao.
Các thuốc nhóm SSRI: Paroxetine 20-40mg, Fluoxetine 20-60 mg,
Sertraline 50–200 mg ,.
- – Blocker: (Thuốc hủy hệ Adrenalin )
Propranolon (Avlocardyl) được dùng để điều trị cơn lo âu cấp
Propranolol liều 20-40mg dùng điều trị làm giảm các triệu chứng đánh
trống ngực và run tay ở bện nhân rối loạn lo âu lan tỏa .

1.3.3 Liệu pháp tâm lý
24
Trong rối loạn lo âu lan tỏa, sang chấn tâm lý là yếu tố thúc đẩy rối loạn
rất quan trọng. Do đó, trong bảng Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 đã xếp
rối loạn lo âu lan tỏa vào chương F4:“Các rối loạn tâm căn có liên quan đến
stress và dạng cơ thể”. Sang chấn tâm lý làm cho bệnh khởi phát sớm, mức
độ bệnh nặng nề hơn, thời gian điều trị bệnh kéo dài và tăng nguy cơ tái phát
bệnh. Liệu pháp tâm lý giúp thay đổi nhận thức của bệnh nhân về các mối đe
dọa - nguy hiểm, sự xung đột, những vấn đề không giải quyết được và tạo
cho bệnh nhân kỹ năng đối phó với các vấn đề trên.
* Liệu pháp nhận thức: Liệu pháp nhận thức trong rối loạn lo âu lan tỏa
cũng giống như trong các rối loạn lo âu khác. Bao gồm:
- Nhận biết, đánh giá mối đe dọa, nguy hiểm. Hiểu được mối liên quan
giữa những nguy hiểm đe dọa đó với lo âu của mình.
- Nắm rõ các biểu hiện và sự tồn tại của lo âu bệnh lý: sự tăng quá mức
hoạt động thần kinh tự trị và các cảm xúc khó chịu khác. Hiểu được lo âu quá
mức là không có lợi. Bệnh nhân được luyện tập, thực hành các kỹ năng, được
ra các tình huống dẫn tới lo âu, từ đó được học cách giữ bình tĩnh, kiểm soát
lo âu và sau đó là loại bỏ lo âu.
* Liệu pháp hành vi: Liệu pháp hành vi dựa trên giả thuyết: lo âu bệnh lý
được duy trì chủ yếu bởi cảm giác căng thẳng, đặc biệt là căng cơ. Vì vậy,
giảm được biểu hiện căng cơ (thư giãn cơ) nhìn chung sẽ giảm được lo âu bệnh
lý. Mặt khác, liệu pháp hành vi giúp tăng khả năng kiểm soát các triệu chứng,
đặc biệt là triệu chứng căng thẳng quá mức. Tiến hành liệu pháp hành vi thông
qua kỹ thuật thư giãn cơ. Các bài tập này có tác dụng giảm căng thẳng của cơ
trơn và cơ vòng, giảm lo âu và các triệu chứng cơ thể kèm theo .
25

×