Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

đặc điểm lâm sàng rối loạn loạn thần do sử dụng các chất dạng amphetamin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.23 KB, 107 trang )

1
B GIO DC V O TO B Y T
TRNG I HC Y H NI
Lấ MINH NGC
NGHIÊN CứU ĐặC ĐIểM LÂM SàNG RốI LOạN LOạN
THầN
do Sử DụNG CáC CHấT DạNG AMPHETAMIN ĐIềU
TRị NộI TRú TạI VIệN SứC KHỏE TÂM THầN BạCH
MAI Hà NộI
Chuyờn ngnh: Tõm thn
Mó s: : 60.72.22
LUN VN THC S Y HC
Ngi hng dn khoa hc:
1. TS. NGUYN VN TUN
2. PGS. TS. TRN HU BèNH
H NI 2013
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
LÊ MINH NGỌC
NGHI£N CøU §ÆC §IÓM L¢M SµNG RèI LO¹N DO
Sö DôNG C¸C CHÊT D¹NG AMPHETAMIN
LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
HÀ NỘI – 2013
3
LỜI CẢM ƠN
 Tôi xin cảm ơn Trường Đại học Y Hà Nội, Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh
viện Tâm thần Thái Bình tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu luận văn.
 Tôi xin chân thành cảm ơn Viện Sức khỏe Tâm thần, Bộ môn Tâm
thần, Phòng Đào tạo sau đại học, bộ phận quản lý cao học, các bộ môn tôi đã


học - Trường Đại học Y Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu luận văn.
 Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới PGS. TS. Trần Hữu Bình, nguyên Viện
trưởng viện Sức khỏe tâm thần và TS. Nguyễn Văn Tuấn. Hai thày đã tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo, luôn động viên, đóng góp những ý kiến quý báu cho tôi
trong quá trình học tập, nghiên cứu luận văn.
 Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới bố, mẹ đã nuôi dạy tôi
trong mấy chục năm qua.
 Xin cảm ơn vợ và con tôi đã dành những điều tốt đẹp nhất, tình cảm tốt
đẹp nhất để tôi có được ngày hôm nay.
 Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp luôn động
viên, giúp đỡ tôi trong trình học tập và nghiên cứu luận văn.
Hà Nội, tháng 2 năm 2013
NGƯỜI VIẾT LUẬN VĂN
LÊ MINH NGỌC
4
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn được tiến hành nghiên cứu nghiêm túc. Quá
trình lấy số liệu nghiên cứu, đọc và trích dẫn tài liệu tham khảo, xử lý số liệu
được tiến hành tỉ mỉ, chính xác. Tất cả số liệu và kết quả thu được trong luận
văn này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các thông tin của ĐTNC không được tiết lộ.
Hà nội, tháng 02 năm 2013
LÊ MINH NGỌC
5
các chữ viết tắt
AG: o giỏc
BN: Bnh nhõn
DSM IV: Tài liệu chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần - lần
thứ 4 (Diagnostic and Statistical Manual of Mental

Disorders, the 4
th
edition).
TNC: i tng nghiờn cu.
HT: Hoang tng
ICD - 10: Bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 (International
Classification of Diseases, the 10
th
edition).
TTPL: Tâm thần phân liệt.
6
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các chất dạng amphetamin - ATS (Amphetamin type stimulants).
ATS được tổng hợp vào năm 1887 bởi Rumani nhà hóa học Lazar
Edeleanu tại Berlin, Đức[30]. ATS được sử dụng trong lâm sàng vào những
năm đầu 1930. Năm 1938, báo cáo về rối loạn tâm thần do ATS đã được đưa
ra [22T]. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, Nhật Bản cho biết có nhiều người
sử dụng và lệ thuộc ATS tiêm tĩnh mạch. Đến cuối những năm 1960, Mỹ mới
chấp nhận rằng ATS có thể gây nghiện.Tuy nhiên, do lo ngại về việc sử dụng
sai hoặc quá dài ATS, cơ quan kiểm soát dược phẩm và thực phẩm Hoa Kỳ
(FDA) đã đưa chúng vào quy định khống chế từ giữa những năm 1960 [30].
Tại Việt Nam, chất được dùng phổ biến là ATS [11].
Vào cuối những năm 1980, các nước Anh, Úc và các nước Tây Âu việc
sử dụng ATS luôn vượt quá sử dụng cocain. Đến giữa những năm 1990, việc
sử dụng ATS tăng mạnh ở một số vùng của nước Mỹ, đặc biệt là California,
các bang Tây Nam và Tây Bắc [30].
ATS lưu hành ở Việt Nam vào cuối năm 1990. Hiện nay đã có mặt ở
khắp các thành phố trong toàn quốc. Năm 1999 trong khuôn khổ dự án B93
do UNDCP [11] tài trợ Bộ Lao động –Thương binh xã hội đã tiến hành khảo
sát 7905 người nghiện tại 7 tỉnh ở cả 3 miền Bắc, Trung Nam, có 1% nghiện

ATS, năm (2001) là 1,5%, năm 2003 là 4% chủ yếu là các học sinh sinh viên
từ 18-25 tuổi. Sử dụng ATS có xu hướng gia tăng ở Việt Nam [11].
Ảnh hưởng của ATS lên cơ thể bao gồm các hệ thống như tim mạch,
thần kinh, … và các rối loạn tâm thần. Rối loạn loạn thần ảnh hưởng nghiêm
trọng đến người sử dụng cũng như gia đình và xã hội. Các rối loạn loạn thần
thường gặp bao gồm ảo giác, hoang tưởng, kích động sững sờ và cảm xúc bất
thường đi từ sợ hãi mãnh liệt đến ngơ ngác [23].
7
Sử dụng ATS kéo dài làm biến đổi hệ dẫn truyền thần kinh dopamin và
gây ra các triệu chứng loạn thần. Sato (1992) thấy trên 76% người sử dụng
ATS có trạng thái loạn thần [21], 26-46% người lệ thuộc ATS có loạn thần
[24]. Loạn thần do sử dụng ATS gặp ở 60% người sử dụng trong vòng một
tuần và 80% trong vòng một tháng. Loạn thần thường tái phát ở những người
sử dụng ATS trên hai năm [30].
Hiện nay, Việt Nam chưa có nghiên cứu về loạn thần liên quan sử dụng
ATS. Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Đặc điểm lâm sàng rối loạn
loạn thần do sử dụng các chất dạng amphetamin” nhằm các mục tiêu sau:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng của rối loạn loạn thần do sử dụng ATS.
2. Một số nhận xét trong điều trị các rối loạn loạn thần do sử dụng ATS.
8
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái niệm
1.1.1. Các chất dạng amphetamni – ATS (Amphetamin type stimulants)
ATS được tổng hợp vào năm 1887. Ở Đức dùng để điều trị các trạng thái
ho kéo dài. Năm 1932 điều trị xung huyết mũi, hen phế quản. Năm 1937 điều
trị chứng ngủ rũ, parkinson sau viên não, chống trầm cảm, ngộ độc thuốc êm
dịu gây ngủ gây hưng phấn. Năm1920, ATS chiết xuất thành công ở Nhật
[30].
ATS là tất cả các chất tổng hợp có cấu trúc phân tử liên quan đến ATS

kích thích hệ thần kinh trung ương, tác động giống hormon tự nhiên là
adrenalin có cấu trúc hóa học và cấu trúc không gian:
Công thức hóa học: C
9
H
13
N
9
Nhiệt độ nóng chảy: 285-281 ° C (545-538 ° F), độ hòa tan trong nước: 50-
100 mg / ml (16C °).
1.1.2. Các dạng ATS:
MDMA (“ecstasy”, “adam”) là một trong loạt chất dạng ATS bao gồm:
3,4 ethylendioxyethylamamphetamin (MDEA, “Eve”),
3,4 amphetaminylendioxyamphetamin (MDA),
2,5-diamphetaminoxy-4-bromoamphetamin (DOB),
paraamphetaminoxyamphetamin (PMA) và các chất khác. Những loại
chất này tạo ra hiệu quả với đối tượng, lysergic acid diethylamid (LSD). Theo
như thế MDMA và các chất tương tự có thể đại diện cho một nhóm ma túy
riêng biệt (“entactogen”)[30].
1.1.3. Khái niệm về loạn thần
Loạn thần là một trong những vấn đề phức tạp còn nhiều tranh cãi trong
tâm thần học hiện nay. Tâm thần phân liệt là bệnh loạn thần điển hình [28];
tuy nhiên, các triệu chứng loạn thần còn xảy ra trong nhiều hội chứng khác.
Loạn thần được xếp vào nhóm các rối loạn được đặc trưng bằng sự diễn
giải sai và hiểu sai về bản chất thực tại. Loạn thần được phản ánh qua một số
triệu chứng, đặc biệt các rối loạn về tri giác (các ảo giác), các rối loạn niềm
tin và giải thích về môi trường (hoang tưởng) và các kiểu rối loạn tác phong
(kích động) [31].
10
Việc sử dụng bất hợp pháp của ATS ngày càng tăng trong nhiều nước

trên thế giới [26], nhu cầu điều trị chưa đáp ứng là vấn đề lớn hiện nay [24].
Điều này đặc biệt đúng với thực trạng các rối loạn tâm thần do ATS tại Việt
Nam. Nghiên cứu lâm sàng về các rối loạn tâm thần liên quan đến ATS từ đó
đề xuất phác đồ điều trị chuẩn là mối quan tâm kịp thời và cấp bách của các
bác sĩ lâm sàng, các nhà nghiên cứu và quản lý.
1.1.4. Lạm dụng và nghiện ATS
Lạm dụng ATS ngày càng phổ biến và gây tỉ lệ nhập viện tăng nhanh.
Tại Viện Sức khỏe tâm thần Bạch Mai, năm 2010 chỉ có 26/2847 số lượt
người bệnh nhập viện điều trị loạn thần do sử dụng ATS, chiếm 0,9%; năm
2011 tỉ lệ này là 59/2499, chiếm 2,4%. Số người bệnh loạn thần do ATS phải
nhập viện tăng tới 2,3 lần (59/26). Tại Bệnh viện tâm thần Hà nội, tỉ lệ này là
10,3 lần (93/9).
Tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện và lạm dụng ATS theo tiêu chuẩn chung
của ICD-10 hoặc DSM-IV [23], [11]. Song với ATS, người nghiện không có
sự lệ thuộc nghiêm trọng về mặt cơ thể nên có thể vài ngày hay vài tuần
ngưng sử dụng mà không cần dùng thuốc. Nghiện ATS có thể gây giảm sút
nhanh chóng khả năng đối phó với stress và nhu cầu cuộc sống. Người nghiện
ATS luôn đòi hỏi tăng liều cao hơn để đạt được cảm giác “phê” trước đó. Các
triệu chứng nhiễm độc ATS hầu như thoái triển sau 24 giờ và thoái triển hoàn
toàn sau 48 giờ [23].
Lạm dụng ATS: Sử dụng ATS gây ảnh hưởng rõ rệt đến các chức năng
xã hội, nghề nghiệp hoặc các bệnh cơ thể, nhưng không đủ tiêu chuẩn cho
chẩn đoán nghiện ATS.
Tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện theo ICD-10 [33]:
Có 3 hoặc nhiều hơn tiêu chí sau đây:
(a) Thèm muốn mãnh liệt hoặc cảm giác bắt buộc phải sử dụng ATS;
11
(b) Khó khăn trong việc kiểm soát các hành vi sử dụng ATS như khởi
đầu, chấm dứt hoặc mức độ sử dụng;
(c) Hội chứng cai thực thể;

(d) Có bằng chứng về sự dung nạp;
(e) Càng ngày càng trở nên thờ ơ với các thú vui hoặc sở thích khác;
(f) Tiếp tục sử dụng ATS mặc dù biết rõ về các hậu quả có hại.
1.2. ATS
1.2.1. Dược động học
ATS cổ điển thường được hít, ngửi, uống còn được tiêm và có tác dụng
tức thì. Thời gian bán huỷ còn tuỳ thuộc vào các dạng thuốc, liều lượng,
đường dùng và cách dùng (5 - 10mg ATS uống có thời gian bán hủy: 8 - 10
giờ). Thuốc bài tiết chủ yếu qua thận, một số ít qua nước bọt và mồ hôi. ATS
tan trong mỡ, hấp thu nhanh qua ống tiêu hóa vào máu rồi phân bố ra khắp cơ
thể, qua hàng rào máu não và có tác dụng một giờ sau khi uống. Thuốc được
tích lũy trong mô mỡ, tập trung nhiều ở não, qua màng rau thai dễ dàng và bài
tiêt qua sữa với tỷ lệ nhiều hơn huyêt tương[30][31].
1.2.2. Dược lực học
Các hiệu quả cường hóa, độc hại của thuốc ATS đóng vai trò quan trọng
trong việc hình thành lệ thuộc vào ATS và các rối loạn liên quan đến ATS
khác. Các thuốc ATS gây ra các tác động trên chủ thể rất giống nhau. Nếu
không nói là y hệt với những tác động gây ra bởi cocain. Cả hai loại ma túy
có thể gây ra cảm giác hoạt bát, trạng thái phê. Sự giảm sút hoạt động được
cải thiện. Có thể chán ăn và ngủ kém. Các kiểu độc tính là giống nhau mặc dù
không giống hệt nhau. ATS và cocain có thể gây ra hoang tưởng, ảo giác và
rối loạn tâm thần rõ ràng rất khó có thể phân biệt với tâm thần phân liệt thể
paranoid. Cả hai đều có thể gây ra nhiễm độc hệ tim mạch. Tuy nhiên, ATS
và cocain khác nhau rõ ràng ở cơ chế tác động đến tế bào, thời gian tác động
và đường chuyển hóa.
12
ATS làm tăng tính nói nhiều, tự tin và tính hòa đồng. Niềm tin của một
số người vào khả năng tăng cường chức năng tình dục của các chất này cũng
đóng một vai trò quan trọng. Các bằng chứng về việc ATS có thể tăng cường
khả năng tình dục vẫn chỉ là có tính giai thoại nhưng dường như thuyết phục

cả những người quan sát được đào tạo tốt. Những người sử dụng ATS, cả
quan hệ tình dục đồng giới và khác giới đều cho biết tần xuất hoạt động tình
dục với nhiều bạn tình hơn là những người sử dụng heroin[30][31].
1.2.3. Chuyển hóa
ATS được chuyển hóa chủ yếu ở gan, nhưng phần lớn thuốc được dùng
qua đường uống thì được đào thải nguyên chất qua đường nước tiểu. Thời
gian bán hủy của ATS được rút ngắn đáng kể khi nước tiểu có tính a xít. Thời
gian bán hủy của ATS sau các liều điều trị từ 7-19 giờ cũng có thể dài hơn tùy
từng loại ATS. Vì thế, sau liều độc, việc giải quyết các triệu chứng có thể mất
thời gian dài hơn (có thể đến vài ngày) với ATS so với cocain, phụ thuộc vào
độ pH của nước tiểu[30][31].
1.2.4. Cách sử dụng
Những đường sử dụng phổ biến các ma túy ATS có thể là uống, tiêm,
hấp thu qua mũi, niêm mạc miệng hoặc là đốt, hít khói và hấp thu qua phế
nang. Như với nicotin, các chất dạng thuốc phiện, cocain dạng tự do và
phecyclidin. ATS được hấp thu ngay lập tức và có tác động nhanh chóng.
Không giống như cocain, ATS có thể bị bay hơi mà không bị phá hủy cấu trúc
phân tử nhiều, vì thế không cần phải chuẩn bị ở dạng tự do để hút, hít [30]
[31].
Như là với các chất dạng thuốc phiện, các hiệu lực nhanh sau dùng
ATS đường tĩnh mạch hoặc hít đã tạo ra cảm giác sảng khoái mãnh liệt, được
gọi là “phê”. Thời gian phê ATS chưa được nghiên cứu trong các phòng thí
nghiệm nhưng nó được cho là ngắn hơn thời gian kích thích cảm xúc. Dù hiệu
13
lực khởi đầu nhanh sau khi hút ATS nhưng một số người dùng, đặc biệt là
nhóm thanh niên ở Anh và Úc vẫn chuyển sang tiêm tĩnh mạch. Những người
tiêm ATS cũng giống như những người tiêm các ma túy khác như heroin
cũng dùng chung các dụng cụ [30][31].
1.2.5.Dung nạp
Dung nạp và tăng nhạy phần lớn những người dùng ATS khi đi điều trị

cho biết nhu cầu ngày càng tăng lên để đạt được hiệu quả hưng phấn như
trước. Họ đã có hiện tượng dung nạp. Sự dung nạp ATS cũng gây ra các ảnh
hưởng về tim mạch.
Ở thử nghiệm trên động vật, việc sử dụng ATS hoặc ATS kéo dài (cũng
như là cocain) cũng tạo ra một kiểu mức độ nhạy cảm, trong đó phản ứng với
một liều nhất định thực sự được tăng lên. Một giả thuyết cho là sự tăng nhạy
hiệu quả của thuốc là do nhiều khơi gợi (kindling-sự kích thích) khác nhau trong
hệ thần kinh trung ương. Trong các nghiên cứu cổ điển về kindling, các kích
thích điện lên hệ chi, lúc đầu đạt hiệu quả thấp sau khi được nhắc lại nhiều lần.
Sau những ngày của ngưỡng hiệu lực giảm, thì sự lên cơn được kéo dài. Động
vật cũng cho thấy hiệu quả tương tự với các kích thích hệ thần kinh trung ương.
Vì thế, việc nhắc lại liều ATS cuối cùng đã tạo ra sự lên cơn hoặc các hành vi
rập khuôn mà không thấy được khi dùng liều đầu tiên. Tăng nhạy có thể kéo dài.
Tình trạng hoang tưởng và rối loạn nhiễm độc tâm thần mà những người
sử dụng ATS kéo dài thường bị được cho là hiện tượng có tăng nhạy. Những
người đã từng bị rối loạn tâm thầm do ATS có thể bị như vậy nhanh hơn sau
các phơi nhiễm [30][31].
1.2.6. Cơ chế tác dụng
14
Mặc dù ATS hạn chế tái hấp thu các amin đơn với mức độ nhỏ, tác
động chính của chúng là sự giải phóng amin đơn từ những nơi dự trữ ở đầu
mút thần kinh, nơi trở nên tăng tập trung amin đơn ở các khe synap. Sự giải
phóng dopamin ở nhân áp ngoài và các cấu trúc liên quan được cho là gây ra
các hiệu quả cường và nâng cao cảm xúc; việc giải phóng norepinphrin cũng
có thể gây ra các tác động tim mạch. Trái ngược với cocain, cái gắn với các
chất vận chuyển thần kinh và hạn chế tái hấp thu các chất vận chuyển thần
kinh được giải phóng vào các synap, các ma túy dạng ATS được đưa vào các
neuron nơi chúng được chuyển đến các điểm dự trữ neuron dẫn truyền. Bằng
cách thay đổi môi trường bên trong các điểm này, các ma túy làm các neuron
dẫn truyền rò rỉ vào tế bào chất và vào khe synap. Dopamin giải phóng vào tế

bào chất có thể bị ô xy hóa, kết quả là sản sinh ra các độc tố cao và phản ứng
hóa học (gốc ô xy, ô xy già và hydro xylquino). Một số nhiễm độc thần kinh
của ATS được gây ra, vì thế, không phải là do ma túy gây ra mà là do sự tích
tụ dopamin nội bào[30][31].
Amphetaminylphenidate, được sử dụng rộng rãi trong điều trị tăng
động giảm chú ý, có cơ chế tác động khác với các loại ma túy dạng ATS.
Nhưng nhìn chung cùng nhóm với chúng giống như: cocain,
amphetaminylphenidate tạo ra các tác động ở hệ thần kinh trung ương (NCS)
rộng hơn bằng cách khóa các chất vận chuyển dopamin chịu trách nhiệm tái
hấp thu dopamin từ các synap sau khi được giải phóng. Các nghiên cứu gần
đây đã gợi ý là khả năng sử dụng thấp của dùng amphetaminyphenidate
đường uống là do sự chiếm chỗ chậm của các chất vận chuyển dopamin trong
não bộ. Nó cần khoảng 60 phút đầu khi uống để tạo ra sự tập trung cao nhất ở
trong não bộ. Trong các nghiên cứu lâm sàng, chỉ có 1/7 người lớn cho biết có
“phê”sau liều gây ra phong tỏa 50% chất vận chuyển dopamin – một mức độ
phong tỏa tương đương với đạt được khi dùng những liều cocain tĩnh mạch.
15
Những nghiên cứu này và những nghiên cứu về các ma túy khác cho thấy
rằng các hiệu quả tăng cường phụ thuộc chủ yếu vào tỷ lệ thay đổi tập trung
dopamin ở những đường vẫn não thích hợp. Thêm nữa, không giống cocain,
chất mà thoát khỏi não tương đối nhanh, amphetaminylphenidate chiếm đoạt
các điểm vận chuyên trong một thời gian dài hơn nhiều[30][31].
Cơ chế thay đổi hệ thần kinh trung ương việc sử dụng ATS kéo dài dẫn
đến một số thay đổi thích ứng ở não bộ. Ví dụ: kích thích thụ cảm dopamin,
kích hoạt chu kỳ adenosin monophotsphate (cAMP) trong nơ ron ở trong
nhân áp ngoài và thể vân. Sự kích hoạt này khởi đầu một chuỗi hoạt động
trong tế bào đưa đến biểu hiện thay thế của một số gen, một số trong số đó
được trung hòa bởi sự phosphoryl hóa các yếu tố vận chuyện cAMP đáp ứng
các yếu tố sản xuất protein (CREB). Một trong những hoạt động của CREB là
tăng sao chép dynorphin ở axit ribonuclenoic (RNA). Hoạt động này là rất

quan trọng vì dynorphin là một chất chu vận lựa chọn k-opioid. Thụ thể chủ
vận K ngăn cản giải phóng dopamin. Sự tái diễn sợi trục ở bên từ các newron
ở nhân áp ngoài được cho là giải phóng dynorphin lên thụ thể k tại cổng
dopamin. Vì thế làm giảm hoạt động dopaminnrgic quá mức. Tuy nhiên, khi
dừng sử dụng ATS và việc giải phóng dopamin quá mức bị dừng lại, mức độ
bù cao của dynorphin duy trì và sau đó là giảm hoạt động dopaminrgic, kết
quả là làm tăng vật vã và khó chịu sau cai ATS[30][31].
Thêm nữa, các nron của nhân áp ngoài ngăn cản việc giảm độ tập trung
của proterin G
i
(để ngăn cản adenylyl cyclase) và tăng mức độ cAMP – kinase
protein phụ thuộc. Cả hai thay đổi này có thể kéo dài hàng tuần và có thể dẫn
đến con đường cAMP bất thường. Ở động vật, những sự tác động mà làm
thay đổi bất thường cAMP tạo ra tăng mức tự sử dụng cocain (và có thể là
ATS). Những sự thay đổi lâu dài ở con đường cAMP dẫn đến sự tái xuất hiện
một cơ chế dung nạp hiệu quả tăng cường của ATS[30][31].
16
Việc sử dụng nhắc lại ATS dẫn đến sự cảm ứng và tích lũy của các
protein dạng Fos, các kháng nguyên trường diễn liên quan đến Fos (FRAs).
Những kháng nguyên liên quan đến Fos trường diễn tồn tại lâu dài và khác
biệt với các protein dạng Fos được tìm thấy sau 1 liều dùng đầu tiên. Bên
cạnh những sự thay đổi dai dẳng về sao chép gen. Việc sử dụng ATS nhắc lại
đã phát sinh những thay đổi hình thái dai dẳng ở các nron ở nhân áp ngoài.
Việc vận chuyển glutamate, cái đóng vai trò quan trọng trong điều chỉnh hiệu
quả về sự thỏa mãn và tăng hành vi của cocain, dường như không liên quan
đến những hoạt động này của ATS. Sự khác nhau này có thể là quan trọng để
phân tích những thay đổi thích ứng sinh ra bởi hai nhóm ATS. Một số dẫn
truyền thần kinh khác có liên quan đến hoạt động ATS. Ví dụ, trình độ ngoại
bào của glutamate, các chính kích thích thần kinh trong não, đã được chứng
minh là làm tăng khả năng tiếp xúc với ATS. Phù hợp với những phát hiện

khác, hiệu ứng này đã được tìm thấy trong các lĩnh vực của bộ não liên quan đến
khen thưởng; cụ thể là, các nhân accumbens, thể vân, và vỏ não trước trán. Ngoài
ra, một số nghiên cứu cho thấy tăng nồng độ của norepinphrin, một chất truyền
thần kinh liên quan đến adrenalin, để đáp ứng với ATS. Điều này được cho là xảy
ra tắc nghẽn thông qua tái hấp thu cũng như thông qua các tương tác với tế bào
thần kinh vận tải vận chuyển norepinphrin. Những ảnh hưởng lâu dài của ATS sử
dụng vào phát triển thần kinh ở trẻ em chưa được thiết lập tốt. Dựa trên một
nghiên cứu chuột, sử dụng ATS trong thời niên thiếu có thể ảnh hưởng lớn bộ nhớ
làm việc[30][31].
Kích thích tác động ảnh hưởng hành vi của mình bằng cách điều chỉnh
một số dẫn truyền thần kinh quan trọng trong bộ não, bao gồm dopamin,
serotonin và norepinphrin . Tuy nhiên, hoạt động của ATS trong não dường
như là cụ thể;
[19]
thụ nhất định để đáp ứng các kích thích ở một số vùng của
não có xu hướng không làm như vậy trong các khu vực khác. Ví dụ, dopamin
17
thụ thể D2 trong vùng đồi thị , một vùng não liên quan đến hình thành những
kỷ niệm mới, xuất hiện để không bị ảnh hưởng bởi sự hiện diện của ATS [30]
[31].
Các hệ thống thần kinh chủ yếu bị ảnh hưởng bởi ATS chủ yếu liên
quan đến mạch thưởng của não. Hơn nữa, con đường dẫn truyền thần kinh có
liên quan đến phần thưởng khác nhau của não xuất hiện cho được các mục
tiêu chính của ATS. Một trong những chất truyền thần kinh là dopamin , một
sứ giả hoá học rất nhiều hoạt động trong mesolimbic và mesocortical đường
khen thưởng. Không ngạc nhiên, các giải phẫu thành phần của con đường
này, bao gồm các thể vân , các accumbens hạt nhân , và các bụng thể vân , đã
được tìm thấy là các trang web chính của hành động kích thích.[30][31]
Thực tế là kích thích hoạt động thần kinh ảnh hưởng đặc biệt ở các vùng
liên quan đến phần thưởng cung cấp cái nhìn sâu sắc hậu quả hành vi của

thuốc, chẳng hạn như sự khởi đầu rập khuôn của hưng phấn. Một sự hiểu biết
tốt hơn về cơ chế cụ thể do đó kích thích hoạt động có thể làm tăng khả năng
của chúng tôi điều trị ATS nghiện , như là phần thưởng của mạch não đã được
rộng rãi liên quan đến thói nghiện ngập của nhiều loại[30][31].
ATS nội sinh
ATS đã được tìm thấy có một số chất tương tự nội sinh, có nghĩa là, các
phân tử của một cấu trúc tương tự được tìm thấy tự nhiên trong não. l-
phenylalanin và β- Phenthylamin là hai ví dụ, được hình thành trong hệ thống
thần kinh ngoại biên cũng như trong bộ não của chính nó. Các phân tử này
được cho là để điều chỉnh mức độ của sự thích thú và sự tỉnh táo, trong số các
quốc gia khác liên quan tình cảm[30][31].
Dopamin
Các nghiên cứu rộng rãi nhất dẫn truyền thần kinh có liên quan đến ATS
hành động trong hệ thống thần kinh trung ương là dopamin. Tất cả các thuốc
18
gây nghiện xuất hiện để tăng cường thần kinh dopamin, trong đó có ATS và
ATS. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng ở các vùng chọn, làm tăng nồng độ của
ATS dopamin trong các khe synap thần kinh, từ đó nâng cao sự hưởng ứng
của tế bào thần kinh tiếp hợp bài. Điều này gợi ý hành động cụ thể tại các
phản ứng hưởng lạc với thuốc cũng như chất lượng của thuốc gây nghiện.
Các cơ chế cụ thể mà ảnh hưởng đến nồng độ dopamin ATS đã được
nghiên cứu rộng rãi. Hiện nay, cả hai giả thuyết chính đã được đề xuất, không
loại trừ lẫn nhau. Một lý thuyết nhấn mạnh đến hành động của ATS trên mụn
nước cấp, tăng nồng độ dopamin trong bào tương của các tiếp hợp tế bào thần
kinh trước khác tập trung vào vai trò của các phương tiện vận chuyển
dopamin DAT, và đề xuất rằng kích thích có thể tương tác với DAT để tạo ra
giao thông đảo ngược của dopamin từ các tế bào thần kinh trước synap vào
khe synap [20], [28], [29], [30].
Các giả thuyết trước đây được hỗ trợ bởi các nghiên cứu từ David
Sulzer phòng thí nghiệm của ở Đại học Columbia chứng minh rằng kết quả

tiêm ATS trong gia tăng nhanh chóng nồng độ dopamin cytosolic, trong khi
thuốc giảm số lượng các phân tử dopamin trong túi tiếp hợp. ATS là một chất
nền cho một cụ thể hấp thụ thần kinh vận chuyển túi khớp thần kinh được gọi
là VMAT2. Khi kích thích được đưa lên bởi VMAT2, túi các bản phát hành
các phân tử dopamin vào bào tương đổi. Việc phân phối lại dopamin sau đó
được cho là tương tác với DAT để thúc đẩy vận chuyển ngược lại. ATS và
các dẫn xuất ATS cũng căn cứ yếu chấp nhận proton, và có thể sụp đổ
gradient pH axit trong túi mà nếu không sẽ cung cấp năng lượng miễn phí cho
tích tụ chất truyền thần kinh: các "giả thuyết cơ sở yếu" của các hành động kích
thích cho thấy rằng sự sụp đổ của năng lượng miễn phí này góp phần phân bố lại
dopamin từ rất cao (mol) nồng độ trong túi để bào tương. Canxi có thể là một
phân tử quan trọng liên quan đến sự tương tác giữa kích thích và VMATS.
19
Sự gia tăng của dopamin cytosolic xuất hiện để kích hoạt độc thần kinh,
như là dopamin tự động dễ dàng ôxi hóa, do đó kích thích hoặc ATS của tăng
dopamin cytosolic có thể dẫn tới stress oxy hóa trong tế bào chất mà lần lượt
thúc đẩy autophagy liên quan đến suy thoái, các sợi trục thần kinh dopamin
và các tinh thể nhánh cây.
Giả thuyết thứ hai của hành động kích thích trên màng huyết tương vận
chuyển dopamin các định đề một tương tác trực tiếp giữa ATS và DAT . Các
hoạt động của DAT được cho là phụ thuộc vào phosphorylating kinase cụ thể,
chẳng hạn như kinase c protein , đặc biệt PKC-β. Khi phosphoryl hóa, DAT
trải qua một sự thay đổi conformational có kết quả trong việc vận chuyển
DAT-bound dopamin từ ngoại bào đến môi trường nội bào. Trong sự hiện
diện của ATS, tuy nhiên, DAT đã được quan sát với chức năng đảo ngược,
dopamin khạc nhổ ra khỏi tế bào thần kinh trước synap và vào trong khe
synap. Như vậy, ức chế tái hấp thu vượt của dopamin, ATS cũng kích thích
việc phát hành của dopamin phân tử vào khớp thần kinh.
Để hỗ trợ cho giả thuyết trên, nó đã được tìm thấy rằng PKC-β loại bỏ
các chất ức chế tác dụng của ATS về ngoại dopamin nồng độ trong thể vân

của chuột. Dữ liệu này cho thấy PKC β- kinase có thể đại diện cho một điểm
chốt quan trọng của sự tương tác giữa kích thích và DAT vận chuyển.
Hành động bổ sung của ATS đóng góp vào khả năng của nó để giải
phóng dopamin từ các tế bào thần kinh, bao gồm cả hành động như một chất
ức chế monoamin oxidase , một enzyme chịu trách nhiệm về sự cố dopamin
trong tế bào người; một khả năng để tăng cường sự tổng hợp dopamin rõ ràng
qua những hành động trên các enzyme hydroxylase tyrosin, mà tổng hợp các
tiền chất dopamin L-DOPA; và phong tỏa một số các DAT, một hành động
mà cổ phiếu ATS với cocain. Do sự kết hợp của những hành động này, ATS
20
có thể phát hành thêm dopamin đến nay, có thể cocain, thuốc gây nghiện
khác.
Serotonin
ATS đã được tìm thấy để phát huy tác dụng tương tự trên serotonin như
trên dopamin. Giống như DAT, việc vận chuyển serotonin SERT có thể được
gây ra hoạt động tại đảo ngược khi kích thích bằng cách kích thích. Cơ chế
này được cho là dựa vào các hành động của canxi ion, cũng như sự gần gũi
của các protein vận chuyển nhất định.
Sự tương tác giữa ATS và serotonin chỉ có ở các vùng đặc biệt của não,
ví dụ như chiếu mesocorticolimbic. nghiên cứu gần đây bổ sung định đề rằng
ATS gián tiếp có thể thay đổi hành vi của glutamatergic con đường mở rộng
từ các khu vực tegmental bụng đến vỏ não trước trán. Glutamatergic con
đường đều liên quan chặt chẽ với kích thích tăng ở mức độ của khớp thần
kinh. Tăng nồng độ ngoại bào của serotonin có thể do đó điều chỉnh các hoạt
động kích thích của tế bào thần kinh glutamatergic.
Khả năng đề xuất của ATS để tăng kích thích của glutamatergic con
đường có thể có ý nghĩa khi xem xét qua trung gian nghiện serotonin, có thêm
một hành vi hệ quả có thể là sự kích thích vận động rập khuôn xảy ra phản
ứng để tiếp xúc với ATS.
Các tác động khác cả tác động của ATS và chất dạng ATS đều không lựa

chọn cho dopamin. Các ma túy dạng ATS giải phóng norepinphrin và
serotonin. Một số tác động này là thích hợp cho các tác động độc của ATS,
đặc biệt là nhiễm độc hệ tim mạch.
1.3. Phân loại và bệnh sinh loạn thần
21
1.3.1. Phân loại loạn thần
Phân loại các rối loạn loạn thần đến nay vẫn còn chưa thống nhất và gây
nhiều tranh luận. Tiếp cận Kraepelin vẫn còn là cơ sở để phân loại trong cả
ICD10 và DSM –IV, mặc dù cả hai phân loại này đều có các rối loạn khác
phụ thêm, đặc biệt là các loạn thần cấp [29]. Cả hai phân loại đều nêu ra các
tiêu chuẩn cho mỗi nhóm chẩn đoán và nêu ra các rối loạn cần loại trừ với
đầy đủ các nét lâm sàng. Cách tiếp cận hội chứng học cho phép xem xét các
khía cạnh đa dạng là một mô hình có giá trị và thuận lợi hơn.
Bảng : Phân loại các rối loạn loạn thần, [29], [11]
DSM-IV
• Tâm thần phân liệt.
• Các rối loạn hoang tưởng.
• Trầm cảm nặng với các nét loạn thần.
• Rối loạn lưỡng cực với các nét loạn thần.
• Rối loạn loạn thần ngắn.
• Rối loạn dạng phân liệt.
• Rối loạn phân liệt cảm xúc.
• Các rối loạn loạn thần do bệnh lý nội khoa chung/ rối loạn loạn thần do
nghiện chất.
• Rối loạn loạn thần không biệt định ở nơi khác.
ICD10
• Tâm thần phân liệt.
• Rối loạn loại phân liệt.
• Rối loạn hoang tưởng.
• Các rối loạn loạn thần cấp và nhất thời.

• Rối loạn hoang tưởng cảm ứng.
• Các rối loạn phân liệt cảm xúc.
• Hưng cảm với các triệu chứng loạn thần.
• Giai đoạn trầm cảm nặng với các triệu chứng loạn thần.
• Rối loạn cảm xúc lưỡng cực (hưng cảm hoặc trầm cảm) với các triệu
chứng loạn thần.
• Rối loạn trầm cảm tái diễn với các triệu chứng loạn thần.
22
1.3.2. Bệnh sinh của loạn thần
Cơ chế bệnh sinh loạn thần đến nay chưa được sáng tỏ, dưới đây là một
số giả thuyết.
1.3.2.1. Cơ địa dễ bị bệnh
Một số người nhạy cảm với các loạn thần nói chung, và với một loại đặc
hiệu nói riêng. Bằng chứng cho thấy tính nhạy cảm sinh học và các yếu tố
môi trường như stress tâm lý xã hội và sử dụng chất đều là các yếu tố khởi
đầu. Tính đặc hiệu của cơ địa có lẽ là do yếu tố sinh học, mặc dù sự kết hợp
của các yếu tố nguy cơ khác nhau hầu như cũng ảnh hưởng lên tính nhạy cảm
này [30].
Một số yếu tố nguy cơ có thể xuất hiện sớm trong cuộc đời. Một “mô
hình phát triển thần kinh tâm thần” của tâm thần phân liệt đã dựa trên giả
thuyết rằng các yếu tố di truyền và không di truyền gây ra những biến đổi tinh
tế cho tổ chức não “trong tử cung” và thời gian sau đó. Các nghiên cứu hình
ảnh cấu trúc thần kinh đã cho thấy có những khác nhau ở não liên quan với
tâm thần phân liệt để dự đoán sự bắt đầu của loạn thần. Các bất thường về cơ
thể tinh tế của người bị tâm thần phân liệt cũng gợi ý có “sang chấn’ trước khi
sinh ra. Các kết quả bệnh lý thần kinh chứng minh sự phát triển não bị thay
đổi. Một số người bị tâm thần phân liệt đã biểu hiện các biến đổi nhẹ trong
khả năng nhận thức, vận động, ngôn ngữ và hành vi xã hội trong nhiều năm
trước khi bệnh bắt đầu. Cuối cùng, sự liên quan giữa tâm thần phân liệt, mùa
sinh và các biến chứng sản khoa gợi ý là các yếu tố làm trở ngại sự phát triển

sớm của não đã làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Mô hình phát triển thần kinh tâm thần nổi trội lên từ những năm 1980,
ngày nay càng tăng cường hơn, một số điều không còn được thừa nhận, do có
một mô hình thoái hóa thần kinh mới được gọi là “thần kinh tiến triển”. Mô
hình này gợi ý rằng có biến đổi hệ thần kinh trung ương xảy ra song song với
23
sự bắt đầu các triệu chứng. Nhược điểm chính của mô hình này là khó giải
thích về thời kỳ tiềm tàng kéo dài giữa các biến đổi não được cho là xung
quanh thời kỳ sinh đẻ và sự bắt đầu các triệu chứng. Quan niệm có một quá
trình thứ phát gần với biểu hiện triệu chứng là đáng tin cậy hơn, và là một lý
do cơ bản để can thiệp sớm.
1.3.2.2. Di truyền
Các nghiên cứu về gia đinh, sinh đôi và con nuôi chứng minh một cách
chắc chắn vai trò các gen. Mẫu di truyền không phải là theo Mendel cổ điển.
Thay vào đó, là đa gen, mỗi gen gây ra một hiệu quả nhỏ, có thể kết hợp với
tăng tính nhạy cảm. Trong khi bằng chứng ủng hộ cho các yếu tố di truyền là
rất mạnh thì hầu hết những người bị tâm thần phân liệt hoặc các rối loạn có
liên quan lại không có các thành viên trong gia đình bị bệnh (thí dụ: nguy cơ
cho họ hàng thế hệ thứ nhất là khoảng 10%). Như vậy, số lượng phát triển
tâm thần phân liệt tăng lên một cách rõ rệt khi có một thành viên trong gia
đình bị bệnh nhưng tỉ lệ của tất cả các trường hợp do các gen đơn độc thì
nhỏ.
Các nghiên cứu sinh đôi củng cố cho bằng chứng về di truyền, nhưng
cũng phát hiện ra vai trò của các yếu tố môi trường. Trong các cặp sinh đôi
một trứng có một người bị tâm thần phân liệt, thì 50% số còn lại sẽ phát triển
tâm thần phân liệt, so sánh mới chỉ có 10% trong các trường hợp sinh đôi hai
trứng. Các nghiên cứu đã xem xét các yếu tố làm giảm nhẹ đi tính nhạy cảm
di truyền. Các nghiên cứu, các cá thể con nuôi “có nguy cơ cao” (con của một
người bị tâm thần phân liệt) gợi ý rằng các biến đổi tâm lý xã hội tác động
qua lại với yếu tố nguy cơ này gây tăng hoặc giảm biểu hiện của tính nhạy

cảm.
1.3.2.3. Các biến chứng khi mang thai sinh đẻ
24
Cũng như các tác nhân gây stress sinh học tác động lên sự phát triển của
não và dẫn đến cá rối loạn giống như liệt não, chúng có thể cũng là cá yếu tố
nguy cơ cho tâm thần phân liệt. Thực vây, các biến chứng khi mang thai và
sinh đẻ làm tăng gấp đôi nguy cơ. Bản chất và xác định thời gian của các yếu
tố này còn chưa rõ ràng, nhưng giảm ô-xy và/hoặc là thiếu máu thường là có
liên quan và nhiễm trùng trước khi đẻ (thí dụ, cúm virus Coxsackie, Borna) có
thể cũng có vai trò quan trọng. Một lý thuyết liên quan đến vấn đề này gợi ý,
đáp ứng của người mẹ với nhiễm trùng (đặc biệt là giai đoạn phân bào và gian
kỳ) có thể có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển não của bào thai. Thiếu dinh
dưỡng trước khi đẻ (thí dụ: folate, vitamin D) có thể góp phần gây nguy cơ.
1.3.2.4. Nơi sinh và mùa sinh
Nguy cơ phát triển tâm thần phân liệt tăng lên cho những người sinh vào
mùa đông hoặc mùa xuân, có lẽ 10% các trường hợp. Và những người sinh ở
thành phố có nguy cơ tăng gấp hai lần so với những người sinh ở nông thôn.
Mùa sinh và nơi sinh tác động một cách rõ ràng như các dấu hiệu thay thế cho
các nguy cơ khác như nhiễm trùng, cách nuôi dưỡng và nhiễm các độc tố.
Trong khi tác động yếu hơn so với nguy cơ di truyền ở một cá nhân, thì với
một số lớn người bị phơi nhiễm các yếu tố nguy cơ này (thí dụ, sinh ở thành
phố) cần nhấn mạnh tầm quan trọng của chúng trong chăm sóc sức khỏe cộng
đồng. Thí dụ, nếu chúng ta biết người sinh ra ở thành phố có nguy cơ cao hơn
thì điều đó có thể có lợi hơn những hiểu biết về di truyền. Trong bệnh lao
cũng vậy, nghi ngờ có ảnh hưởng của yếu tố di truyền và có tác nhân gây
nhiễm trùng rõ ràng, nhưng chúng ta biết rằng thiếu dinh kduwowngx và ở
quá đông là những biến đổi tác dụng chính yếu đóng một vai trò quan trọng
trong cuộc chiến với bệnh này.
1.3.2.5. Cấu trúc và chức năng não
25

Hình ảnh thần kinh và bệnh lý thần kinh đóng góp cho những hiểu biết
cả chúng ta về tâm thần phân liệt. Các thay đổi về não bao gồm giãn rộng cấu
trúc não thất bên và não thất ba, giảm thể tích vỏ não (chủ yếu là chất xám) và
giảm thể tích của các thùy thái dương (bao gồm hồi hải mã) và đồi thị. Mât
đối xứng não bình thường là sự thay đổi khác nhau giữa các bán cầu trái-phải
(T-F) thường là không rõ ràng, ở mức độ vi thể, mất thần kinh đệm được coi
như bằng chứng về nguyên nhân thoái hóa thần kinh hoặc viêm nhiễm.
Hình ảnh thần kinh chức năng cho thấy có mối liên quan đáng chú ý với
bệnh lý tâm thần. Thí dụ: giảm dòng máu đi vào vỏ não thùy trán từng bên
liên quan với các triệu chứng âm tính và loạn chức năng các vùng trán thái
dương có thể nằm dưới bệnh cảnh như ảo giác và rối loạn tư duy. Bằng
chứng về các thay đổi của não xung quanh thời kỳ bắt đầu bị bệnh liên quan
rõ rệt với bệnh sinh và hỗ trợ tăng cường phát hiện sớm và can thiệp sớm.
Sự xuất hiện các thuốc có hiệu quả và phát hiện hiệu quả của thuốc trên
hệ thống trung gian thần kinh đã dẫn đến các thuyết hóa học thần kinh. Giả
định được biết đến nhiều nhất hiện nay là: hoạt tính quá mức dopamin tương
ứng với các triệu chứng dương tính. Tuy nhiên, vấn đề phức tạp hơn và vẫn
không hoàn thiện. Một số ít hệ thống trung gian thần kinh được mô tả đầy đủ,
và hàng loạt các nghiên cứu, bằng cách chứng minh rằng có nhiều loại recetor
dopamin cùng tồn tại, đã cho thấy lý thuyết ban đầu là quá đơn giản. Thêm
vào đó, vai trò của các chất trung gian thần kinh khác (serotonin, glutamat)
ngày càng được hiểu biết hơn.
1.3.2.6. Sử dụng chất
Sử dụng cannabis, ATS, đặc biệt nếu nghiện nặng và kéo dài, làm tăng
rõ rệt nguy cơ của các triệu chứng loạn thần ở những người nhạy cảm, cũng
như tái phát ở những người mới bị tâm thần phân liệt [29]. Cũng có các hậu
quả như thế đối với các chất cocain và các chất ATS. Một số người bị các

×