Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán và việc tuân thủ của kiểm toán viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.2 KB, 28 trang )

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỂ TÀI
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán đã
hình thành và phát triển ở Việt Nam hơn 20 năm qua, trở thành một nhu cầu
không thể thiếu đối với hoạt động kinh doanh và góp phần hoàn thiện, nâng cao
bộ máy quản lí doanh nghiệp. Kiểm toán đã trở thành công cụ đắc lực tham gia
tích cực vào việc kiểm tra, đánh giá, xác nhận độ tin cậy của các thông tin kinh
tế và tổ chức sắp xếp nhân lực trong doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất cũng như
các đơn vị hành chính sự nghiệp. Để đạt được hiệu quả cao trong cuộc kiêm
toán cần phải nâng cao tính tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán. Vì các chuẩn
mực này chính là cơ sở để thúc đẩy sự phát triển và nâng cao chất lượng của
cuộc kiểm toán nói chung.
Ngoài việc yêu cầu về trình độ chuyên môn các kiểm toán viên còn phải
luôn đảm bảo tuân thủ các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp vì đó là yếu tố
quyết định đến chất lượng của cuộc kiểm toán. Trong thời kỳ hội nhập, nền kinh
tế đất nước đang trên đà phát triền, đòi hỏi phải có một đội ngũ kiểm toán viên
giỏi chuyên môn và đầy đủ phẩm chất đạo đức, năng lực để bảo vệ và nâng cao
uy tính của nghề kiểm toán trong xã hội, đảm bảo chất lượng cao cho các cuộc
kiểm toán đáp ứng nhu cầu xã hội.
Nhận thức rõ về tầm quan trọng của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đối
với kiểm toán viên nên em chọn đề tài: “Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và
việc tuân thủ của kiểm toán viên”.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1.Mục tiêu chung
Vận dụng những kiến thức đã học về kiểm toán và các quy định về chuẩn
mực kiểm toán quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt Nam để làm rõ về chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp giúp kiểm toán có cái nhìn khái quát hơn về vấn đề tuân
thủ chuẩn mực đạo đức trong các cuộc kiểm toán. Từ đó tìm ra giải pháp nâng
cao tính tuân thủ chuẩn mực của kiểm toán viên.
1.2.2.Mục tiêu cụ thể


- Nhận thức đúng đắn về nội dung chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của
kiểm toán viên.
- Thực trạng tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán
viên hiện nay.
- Giải pháp nâng cao tính tuân thủ chuẩn mực của kiểm toán viên.
1
1.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.3.1.Phương pháp thu thập số liệu
Sử dụng số liệu thứ cấp, sử dụng các số liệu trên các bài báo, tạp chí,
Internet và các bài nghiên cứu có liên quan.
1.3.2.Phương pháp phân tích số liệu
Sử dụng phương pháp thống kê, phân tích và so sánh.
1.4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1.Thời gian
- Đề tài được thực hiện từ tháng 5/2014 đến tháng 6/2014
- Nguồn số liệu được thu thập từ năm 2009-2014
1.4.2.Không gian
Đề tài chủ yếu nghiên cứu về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của kiểm
toán viên và việc tuân thủ chuẩn mực này của các kiểm toán viên ở Việt Nam.
1.4.3.Đối tượng
Đối tượng chủ yếu mà đề tài hướng đến là các kiểm toán viên đang làm
việc và công tác ở Việt Nam.
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC NGHỀ
NGHIỆP
2.1.1 Khái niệm
Chuẩn mực kiểm toán hiểu theo nghĩa chung nhất là những quy phạm
pháp lý, là thước đo giống nhau cho những khách thể và chủ thể kiểm toán khác
nhau dùng để điều tiết các hành vi của kiểm toán viên và các bên có liên quan

theo định hướng và các mục tiêu xác định nhằm được thực hiện các chức năng
và mục tiêu của kiểm toán (Nguyễn Đình Hựu, 2012)
Chuẩn mực kế toán, kiểm toán là những văn bản được xây dựng dựa trên
cơ sở nguồn là Luật kế toán, Luật kiểm toán của từng quốc gia và Chuẩn mực
kế toán, kiểm toán quốc tế. Chuẩn mực kế toán, kiểm toán đưa ra những nguyên
tắc cơ bản và các quy định có tính nguyên tắc, là thước đo về phương pháp kỹ
thuật chủ yếu trong kế toán, kiểm toán, những hướng dẫn về thể thức áp dụng
các nguyên tắc và phương pháp cơ bản đó trong quá trình kế toán, kiểm toán.
Để hướng dẫn chi tiết hơn về các chuẩn mực có thông tư của Bộ tài chính…
2
Theo giáo trình Kiểm toán (2012), bộ môn Kiểm toán, Khoa Kế toán-
Kiểm Toán, trường ĐH Kinh tế TP. Hồ Chí Minh định nghĩa: “đạo đức nghề
nghiệp là những quy tắc để hướng dẫn các thành viên ứng xử và hoạt động một
cách trung thực, phục vụ cho lợi ích chung của nghề nghiệp và xã hội. Trong
nghề kế toán nói chung và kiểm toán nói riêng, các vấn đề về đạo đức nghề
nghiệp luôn được đặt lên hàng đầu. Đạo đức nghề nghiệp yêu cầu mỗi kiểm
toán viên phải là người có đạo đức và mỗi tổ chức kiểm toán phải là cộng đồng
có đạo đức. Vì thế, điều lệ đạo đức nghề nghiệp phải được xác định rõ ràng,
được công bố và trở thành yêu cầu bắt buộc trong nghề kiểm toán

.
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán là những quy tắc nhằm
hướng dẫn cho kiểm toán viên ứng xử và hoạt động một cách trung thực, phục
vụ cho lợi ích chung của nghề nghiệp và xã hội được quy định cụ thể trong
quyết định số 87/2005/QĐ-BTC ngày 1/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính,
hệ thống chuẩn mực kiểm toán quốc tế và hệ thổng chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam.
Trong chuẩn mực kiểm toán số 200 (Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam cập nhật theo thông tư 214/2012/TT-BTC), đoạn 14 có nêu ra vấn đề
“Kiểm toán viên phải tuân thủ chuẩn mực và các quy định về đạo đức nghề

nghiệp có liên quan, bao gồm cả tính độc lập, liên quan đến kiểm toán báo cáo
tài chính”. Các yêu cầu của Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp liên quan đến
kiểm toán báo cáo tài chính được quy định tại Phần A và Phần B của Chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán Việt Nam. (sau đây gọi là “Chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp”).
Phần A của Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quy định các nguyên tắc về
đạo đức nghề nghiệp đối với kiểm toán viên khi tiến hành cuộc kiểm toán báo
cáo tài chính, đồng thời hướng dẫn áp dụng các nguyên tắc đó. Các nguyên tắc
cơ bản mà kiểm toán viên phải tuân thủ theo yêu cầu của Chuẩn mực đạo đức
nghề nghiệp là :
- Độc lập;
- Chính trực;
- Khách quan;
- Năng lực chuyên môn và tính thận trọng;
- Tính bảo mật;
- Tư cách nghề nghiệp;
- Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn;
Phần B của Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đưa ra các ví dụ minh hoạ về
việc áp dụng các quy định chuẩn mực chung trong các tình huống cụ thể.
2.1.1 Tính tất yếu khách quan của yêu cầu chuẩn mực đạo đức nghề
nghiệp của kiểm toán viên
2.1.1.1 Vai trò của kiểm toán trong sự phát triển kinh tế xã hội
3
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, kiểm toán đã ra đời như một
yêu cầu tất yếu khách quan để đáp ứng được yêu cầu quản lý trong tình hình
mới. Cách mạng công nghiệp tạo đà cho sự phát triển của những đơn vị kinh
doanh lớn trong đó, các nhà quản lý có xu hướng sử dụng ý kiến của những cá
nhân là các chuyên gia hơn là sử dụng những cá nhân kiểm tra mang tính
nghiệp dư. Với sự phức tạp của môi trường kinh doanh và các cổ đông ngày
càng khó có thể tự kiểm soát hoạt động công ty mình đã đầu tư vì vậy họ cần có

sự bảo vệ và đảm bảo cho những khoản đầu tư của mình từ hoạt động của các
kiểm toán viên. Nghĩa vụ trước hết của kiểm toán viên là báo cáo một cách độc
lập theo ý kiến của mình dựa trên kết quả kiểm toán về mức độ trung thực và
hợp lý của các thông tin tài chính. Đồng thời trong một số trường hợp, kết quả
kiểm toán cho thấy doanh nghiệp có hành vi không tuân thủ pháp luật ở mức độ
nào đó mà theo qui định của pháp luật cần báo cáo cho các cơ quan chức năng,
khi đó kiểm toán viên còn có nghĩa vụ báo cáo lại cho các cơ quan chức năng
về hành vi vi phạm đó của doanh nghiệp. Các đối tượng sử dụng thông tin kiểm
toán rất đa đạng, họ có thể là những nhà quản lý cao cấp, giám đốc, cổ đông,
các cơ quan Chính phủ, các chuyên gia, nhà đầu tư tiềm năng, người tiêu
dùng…
Đối với những nhà quản lý doanh nghiệp, kiểm toán độc lập sẽ còn tạo
nên sự gia tăng độ tin cậy cho báo cáo tài chính của doanh nghiệp, và còn có thể
giúp doanh nghiệp hạn chế được khả năng xảy ra các sai phạm về kế toán, tài
chính…
Đứng ở góc độ xã hội, hoạt động kiểm toán độc lập đối với báo cáo tài
chính, khi được luật pháp quy định sẽ trở thành một công cụ bảo vệ sự ổn định
của nền kinh tế, đặc biệt với các nền kinh tế mà thị trường chứng khoán giữ vai
trò khá quan trọng. Chỉ có hoạt động kiểm toán khoa học thực sự mới đáp ứng
được những yêu cầu thông tin cho những quyết sách của Nhà nước và kiểm
toán đã thực sự thành cái nền vững chắc cho vai trò quản lý của Nhà nước.
Hoạt động kiểm toán cung cấp tài liệu đáng tin cậy giúp các nhà đầu tư có
hướng đầu tư đúng đắn. Vấn đề phân phối kết quả đầu tư có vai trò quan trọng
trong việc thu hút vốn đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng hợp lý
mọi nguồn đầu tư thông qua việc cung cấp những thông tin trung thực và khách
quan về tình hình tài chính doanh nghiệp.
Việc cung cấp các thông tin đáng tin cậy về kết quả kinh doanh, phân chia
lợi nhuận và tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán còn giúp cho bộ
phận người lao động, khách hàng, nhà cung cấp và những người quan tâm khác
được hiểu rõ hơn về thực chất tình hình kinh doanh của đơn vị.

Tóm lại, vai trò chính của kiểm toán là củng cố nề nếp hoạt động tài
chính, nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý. Thực hiện đồng thời hai chức
năng thực hiện tư vấn về quản lý và xác định rõ độ tin cậy của thông tin.
4
2.1.1.2 Sự cần thiết của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán
viên trong quá trình kiểm toán
Chuẩn mực là tiêu chuẩn đánh giá và định lượng các nghiệp vụ hoạt động
kiểm toán, hay nói cách khác là mẫu mực để hành nghề của hoạt động kiểm
toán. Thông qua các chuẩn mực đã phát triển một cách thích hợp, có thể đánh
giá trình độ chất lượng của hoạt động kiểm toán. Đồng thời các chuẩn mực
cũng là cơ sở cho việc giáo dục và đào tạo nhằm đạt được chuyên môn hoàn
hảo. Đối với những người không thuộc lĩnh vực kiểm toán như các nhà quản lý,
hội đồng quản trị, các cổ đông, nhà đầu tư và những ai quan tâm, các chuẩn
mực được sử dụng như là biện pháp hữu ích của dịch vụ kiểm toán mà mọi
người mong muốn có được.
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên có vai trò rất quan
trọng. Nó là một trong những quy tắc cơ bản của hoạt động kiểm toán. Bên
cạnh luật pháp và cùng với luật pháp, chính việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp
sẽ giúp cho các thanh viên luôn phải duy trì một thái độ nghề nghiệp đúng đắn,
giúp bảo vệ nâng cao uy tin cho nghề kiểm toán trong xã hội, bởi vì điều đó sẽ
tạo nên sự đảm bảo về chất lượng cao của dịch vụ cung ứng cho khách hàng và
xã hội.
Trường hợp người chịu trách nhiệm kiểm tra báo cáo tài chính nếu không
có đạo đức thì dễ xảy ra tình trạng thông đồng, bao che thông tin sai lệch dẫn
đến việc mất lòng tin trong công chúng. Do đó chuẩn mực đạo đức của kiểm
toán viên phải được xác định rõ ràng và được công bố rộng rãi để công chúng
biết, qua đó có thể đòi hỏi các hành vi đạo đức của kiểm toán viên cũng như
đánh giá các cam kết của ngành này.
2.2. NGUYÊN TẮC CỦA CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP
CỦA KIỂM TOÁN VIÊN

2.2.1 Tính độc lập
2.2.1.1 Khái niệm
Theo Nguyễn Đình Hựu (2012) có đề cập đến tính độc lập như sau: “Hoạt
động kiểm toán bị chi phối bởi nguyên tắc độc lập. Không có tính độc lập thì
những báo cáo của kiểm toán không có giá trị trong xã hội. Tính độc lập trong
kiểm toán có nghĩa là kiểm toán chỉ tuân thủ pháp luật, quy trình và chuẩn mực
kiểm toán phải được pháp luật thừa nhận, không một tổ chức, cá nhân nào có
quyền can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kiểm toán. Kiểm toán có quyền sử
dụng các biện pháp kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn để hoàn thành kiểm toán,
tạo lập bằng chứng và đưa ra những nhận xét độc lập, khách quan của mình.
Điều đó thể hiện ở chỗ các kiểm toán viên và đoàn thể kiểm toán phải có quan
điểm vô tư khi thực hiện kiểm toán, đánh giá kết quả và công bố kết quả kiểm
toán”.
5
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp yêu cầu kiểm toán viên phải đảm bảo
tính độc lập đối với đơn vị được kiểm toán. Chuẩn mực đạo đức quy định tính
độc lập bao gồm cả độc lập về tư tưởng và độc lập về hình thức. Sự độc lập của
kiểm toán viên đối với đơn vị được kiểm toán đảm bảo cho kiểm toán viên
trong việc đưa ra ý kiến kiểm toán mà không chịu tác động của bất kỳ yếu tố
nào.
- Độc lập về tư tưởng: là trạng thái suy nghĩ cho phép đưa ra ý kiến mà
không chịu ảnh hưởng của những tác động trái với những đánh giá
chuyên nghiệp, cho phép một cá nhân hành động một cách chính trực,
khách quan và có sự thận trọng nghề nghiệp;
- Độc lập về hình thức: là không có các quan hệ thực tế và hoàn cảnh có
ảnh hưởng đáng kể làm cho bên thứ ba hiểu là không độc lập, hoặc hiểu
là tính chính trực, khách quan và thận trọng nghề nghiệp của nhân viên
công ty hay thành viên của nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo không được
duy trì.
Theo Nguyễn Đình Hựu (2012) nguyên tắc độc lập thể hiện ở các mặt sau:

- “Độc lập về mặt lợi ích tài chính đối với các đơn vị được kiểm toán của tổ
chức tiến hành kiểm toán và nhân viên kiểm toán: lợi ích tài chính được
thể hiện khi kiểm toán viên sở hữu một số lượng cổ phần trong công ty
được kiểm toán hoặc công ty được kiểm toán có người thân thích họ
hàng, ruột thịt của kiểm toán viên hoặc đó không phải là đơn vị được
kiểm toán song có mối quan hệ giữa người đầu tư và người được đầu
tư…sẽ là vi phạm nguyên tắc độc lập.
- Độc lập về mặt quyền lực: Nếu một kiểm toán viên là thành viên của Hội
đồng quản trị hoặc một viên chức của đơn vị được kiểm toán hoặc có sự
dính líu thường xuyên với Ban quản trị và các quyết định mà Ban quản trị
lập có khả năng ảnh hưởng đến cách nhìn nhận tính độc lập của kiểm toán
viên. Nguyên tắc độc lập nghiêm cấm kiểm toán viên có quan hệ thân
thuộc với giám đốc hoặc viên chức của đơn vị được kiểm toán hoặc có
quan hệ lợi ích mới cơ sở được kiểm toán.
- Nguyên tắc độc lập cũng loại trừ trường hợp công ty kiểm toán độc lập
tiến hành kiểm toán với một đơn vị mà công ty đang có tranh chấp hoặc
đang thực hiện các dịch vụ ghi sổ và làm thuê kế toán.”
Như vậy, điểm cơ bản của kiểm toán viên phải giữ mối quan hệ độc lập,
vô tư đối với đối tượng kiểm toán và tất cả các thành phần chịu ảnh hưởng của
việc thực thi các trách nhiệm của kiểm toán viên. Trong mỗi cuộc kiểm toán, kể
cả các cuộc kiểm toán có liên quan đến dịch vụ tư vấn, quản trị và dịch vụ thuế,
sự phán xét nghề nghiệp của kiểm toán không được lệ thuộc vào sự phán xét
của người khác. Đó cũng là tiền đề cho nguyên tắc trung thực và khách quan.
2.2.1.2 Vai trò của tính độc lập trong kiểm toán
6
Tính độc lập có thể coi là cơ sở quan trọng để hoạt động kiểm toán trở nên
có hiệu quả. Đối với kiểm toán viên, tính độc lập là yêu cầu bắt buộc khi thực
hiện các cuộc kiểm toán, nó là tiền đề cơ bản bảo đảm cho công tác kiểm tra,
kiểm soát có hiệu lực và hiệu quả. Đặc biệt, khi kiểm tra tài chính công thì kết
quả kiểm tra của cơ quan, đơn vị, các tổ chức… nói chung, nhất là các cơ quan

đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước nói riêng điều chịu sự tác động nhiều
mặt. Tính độc lập đầy đủ của kiểm toán viên là yếu tố quan trọng trực tiếp tác
động đến chất lượng kiểm toán, bởi vì trong hoạt động kiểm toán mọi ý kiến
đánh giá, nhận xét và kết luận của kiểm toán viên đều dựa vào bằng chứng kiểm
toán và tuân thủ pháp luật không chịu sự tác động bất kỳ sức ép nào, nhất là sức
ép quyền lực… việc thực hiện nghiêm túc chuẩn mực này giúp kiểm toán viên
đưa ra những kết luận kiểm toán có tính chính xác cao, nâng cao chất lượng
hoạt động kiểm toán cũng như nâng cao độ tin cậy của các báo cáo kiểm toán.
2.2.2 Tính chính trực
2.2.2.1 Khái niệm
Chính trực là chỉ sự thẳng thắn, trung thực của mỗi cá nhân, tập thể khi
thực hiện hay đưa ra ý kiến đánh giá, nhận xét về một sự vật, hiện tượng nào
đó. Sự thẳng thắn, trung thực sẽ giúp cho các ý kiến, nhận xét của kiểm toán
viên không bị chi phối bởi các nguyên nhân bên ngoài khác, giúp cho chúng ta
có cái nhìn đúng đắn hơn về sự vật hiện tượng.
Người làm kiểm toán phải thẳng thắn, trung thực và có chính kiến rõ
ràng. Tính chính trực không đơn thuần chỉ là tính trung thực mà còn nhấn mạnh
đến sự công bằng và sự tín nhiệm. Để có được sự tin cậy từ phía người sử dụng
các báo cáo kết quả kiểm toán, các kiểm toán viên không được để bị nghi ngờ
và không được để bị chỉ trích. Tính chính trực đòi hỏi kiểm toán viên phải tuân
thủ cả về hình thức và tinh thần các chuẩn mực về đạo đức và các chuẩn mực về
kiểm toán. Tính chính trực cũng đòi hỏi kiểm toán viên tuân thủ các nguyên tắc
khách quan và độc lập, duy trì các chuẩn mực cao nhất về nhân cách và các
hành vi nghề nghiệp, đưa ra các quyết định vì lợi ích của công chúng và áp
dụng các tiêu chuẩn cao về tính chính trực trong khi xử lí công việc và các
nguồn lực của cơ quan kiểm toán. Kiểm toán viên phải có chính kiến rõ ràng
không thay đổi ý kiến do sự tác động của bên ngoài, yêu cầu này đòi hỏi kiểm
toán viên phải giữ vững lập trường, quan điểm của mình khi thực hiện kiểm
toán. Trong các cuộc kiểm toán, thường có rất nhiều nhân tố tác động đến kiểm
toán viên để phục vụ cho một lợi ích riêng nào đó, nếu không kiên định thì dễ bị

lay động từ đó dẫn đến thay đổi ý kiến của mình làm cho các báo cáo kiểm toán
không chính xác với thực tế.
2.2.2.2 Vai trò của tính chính trực trong kiểm toán
Tính chính trực là phẩm chất cốt lõi trong hệ thống chuẩn mực đạo đức
nghề nghiệp. Kiểm toán viên phải luôn tuân thủ tính chính trực trong hoạt động
7
kiểm toán vì nó là yêu cầu quan trọng ảnh hưởng đến độ tin cậy của các báo cáo
kiểm toán. Nếu không thực hiện đánh giá một cách đúng đắn thì không thể tạo
được niềm tin cho người sử dụng báo cáo kiểm toán, điều này làm mất đi ý
nghĩa của kiểm toán.
2.2.3 Tính khách quan
2.2.3.1 Khái niệm
Khi xem xét về một sự vật hiện tượng nào đó, chúng ta phải nhìn nhận nó
một cách vô tư, theo quan niệm cá nhân mình mà không để bị chi phổi bởi các
tác nhân bên ngoài, nhằm đưa ra những kết luận về sự vật hiện tượng một cách
trung thực và chính xác thì đó là biểu hiện của tính khách quan.
Kiểm toán viên phải công bằng, tôn trọng sự thật và không được thành
kiến, thiên vị. Kết quả kiểm toán phải mang tính khách quan. Trong công việc,
Kiểm toán viên không thể bị ảnh hưởng bởi các mối quan hệ cá nhân (gia đình,
tình cảm, kinh tế) với khách hàng mà mình đang phục vụ.
Đứng trước sự ảnh hưởng của các tác nhân có quyền lực, kiểm toán viên
phải luôn duy trì được sự trung lập về tư tưởng và hành động. Kiểm toán viên
phải duy trì tính độc lập đối với các ảnh hưởng về mặt quyền lực nhằm mục
đích thực hiện công việc kiểm toán một cách công bằng. Khi kiểm toán viên tư
vấn hoặc cung cấp các dịch vụ khác ngoài dịch vụ kiểm toán cho một đối tượng
kiểm toán thì cần thiết phải lưu ý xem các dịch vụ này có dẫn tới sự mâu thuẫn
về lợi ích hay không. Cụ thể là các kiểm toán viên nên đảm bảo rằng việc tư vấn
và các dịch vụ như vậy không bao gồm các trách nhiệm hoặc quyền hạn quản
lý, điều mà luôn cần phải gắn với ban lãnh đạo của đơn vị được kiểm toán.
Người làm kiểm toán không nên nhận quà hoặc tặng quà, dự chiêu đãi hoặc mời

chiêu đãi đến mức có thể làm ảnh hưởng đáng kể tới các đánh giá nghề nghiệp
hoặc tới những người họ cùng làm việc. Quà tặng hoặc chiêu đãi là quan hệ tình
cảm cần thiết nhưng người làm kế toán và người làm kiểm toán nên tránh các
trường hợp có thể ảnh hưởng đến tính chính trực, khách quan hoặc dẫn đến tai
tiếng nghề nghiệp.
Kiểm toán viên không được lợi dụng các thông tin nhận được trong quá
trình kiểm toán để mưu cầu sinh lợi cá nhân hoặc cho người khác cũng như
không được sử dụng thông tin để làm hại người khác. Kiểm toán viên không
nên sử dụng chức vụ chính thức của mình để đề bạt mục đích riêng và nên tránh
các mối quan hệ làm nảy sinh nguy cơ tham nhũng hoặc gây ra mối nghi ngờ về
tính trung thực và khách quan của kiểm toán viên.
2.2.3.2 Vai trò của tính khách quan trong kiểm toán
Nguyên tắc khách quan chỉ ra kiểm toán viên và các cơ quan kiểm toán
phải có trình độ và khả năng đáp ứng yêu cầu để đảm bảo thực hiện một cách
khách quan, công bằng và có hiệu quả các trách nhiệm đối với các báo cáo kiểm
toán, việc kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán phải được tiến hành một cách
8
thận trọng, theo đúng các yêu cầu, trách nhiệm nghề nghiệp. Có tuân thủ chặt
chẽ nguyên tắc này, chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến của kiểm toán mới
thực sự có hiệu quả. Thông tin mà kiểm toán viên cung cấp cho người sử dụng
mới thực sự trung thực và có ý nghĩa cho quản lý, đặc biệt là quản lý kinh tế.
Yêu cầu về tính khách quan đối với kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán là
nhân tố quyết định chất lượng hoạt động kiểm toán.
2.2.4 Năng lực chuyên môn và tính thận trọng
2.2.4.1 Khái niệm
Năng lực chuyên môn là khả năng làm việc của một cá nhân nào đó, dựa
trên những trình độ và kỹ năng nghề nghiệp mà họ có được thông qua quá trình
học tập, rèn luyện và kinh nghiệm tích luỹ.
Tính thận trọng là thực hiện công việc một cách tỉ mỉ, cẩn thận từng bước
một. Luôn đề cao sự cảnh giác, đề phòng các tình huống có thể xảy ra trong quá

trình thực hiện để hoàn thành công việc với chất lượng cao nhất.
Người làm kiểm toán không được thể hiện là có những khả năng và kinh
nghiệm mà bản thân không có. Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm
toán với đầy đủ năng lực chuyên môn cần thiết, với sự thận trọng cao nhất và
tinh thần làm việc chuyên cần. Kiểm toán viên có nhiệm vụ duy trì, cập nhật là
nâng cao kiến thức trong hoạt động thực tiễn, trong môi trường pháp lý và các
tiến bộ kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu công việc. Kiểm toán viên phải giữ được
phong cách chuyên nghiệp trước khách hàng, không được phép khuếch trương
thanh thế của đơn vị mình cũng như của bản thân. Có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, có ý thức bảo vệ danh dự và uy tín của đơn vị mà bản thân đang làm
việc.
Nguyên tắc về năng lực chuyên môn và tính thận trọng yêu cầu người làm
kế toán và người làm kiểm toán có các nghĩa vụ sau:
- Duy trì kiến thức và nghiệp vụ chuyên môn đạt yêu cầu quy định đảm bảo
cung cấp dịch vụ chuyên môn tốt nhất cho khách hàng hay chủ doanh
nghiệp.
- Hành động đúng mực, phù hợp với các chuẩn mực về kỹ thuật và nghề
nghiệp khi cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp.
Một dịch vụ chuyên nghiệp tốt yêu cầu người làm kiểm toán có các xét
đoán đúng đắn khi áp dụng kiến thức và kỹ năng chuyên môn để thực hiện dịch
vụ đó.
Năng lực chuyên môn có thể chia thành hai giai đoạn:
- Đạt được trình độ chuyên môn: Là đạt được bằng cấp xác nhận trình độ
được đào tạo như: trung cấp, cao đẳng, đại học, thạc sỹ, tiến sỹ hoặc
Chứng chỉ kiểm toán viên, Chứng chỉ hành nghề kế toán… Trình độ
9
chuyên môn có thể còn yêu cầu về kinh nghiệm làm việc (thời gian thực
tế làm nghề).
- Giữ vững được trình độ chuyên môn:
+ Giữ vững được trình độ chuyên môn là yêu cầu sự liên tục cập nhật

những thay đổi trong nghề nghiệp kế toán, kiểm toán, kể cả những công
bố quốc gia và quốc tế về kế toán, kiểm toán, các quy định phù hợp và
các yêu cầu khác của luật pháp.
+ Người làm kế toán và người làm kiểm toán cần phải tham gia, ít nhất là
chương trình cập nhật kiếm thức hàng năm theo luật định để đảm bảo
kiểm soát chất lượng trong hoạt động cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp,
nhất quán với các quy định của quốc gia và quốc tế phù hợp.
Việc duy trì năng lực chuyên môn yêu cầu quá trình nhận thức liên tục và
hiểu rõ các phát triển về kỹ thuật chuyên môn và các phát triển trong kinh
doanh. Sự phát triển chuyên môn liên tục giúp xây dựng và duy trì các năng lực
để người làm kế toán và người làm kiểm toán thực hiện công việc một cách
thành thạo trong các môi trường chuyên nghiệp.
Tinh thần làm việc thận trọng bao hàm cả trách nhiệm phải hành động
theo đúng các yêu cầu của dịch vụ một cách cẩn thận, kỹ lưỡng và kịp thời.
Người làm kế toán và làm kiểm toán cần thực hiện các biện pháp để bảo
đảm rằng những người làm việc về mặt chuyên môn dưới quyền của mình phải
được đào tạo và giám sát thích hợp.
2.2.4.2 Vai trò của năng lực chuyên môn và tính thận trọng trong
kiểm toán
Năng lực chuyên môn và tính thận trọng là yêu cầu bắt buộc đối với người
làm kiểm toán. Hoạt động kiểm toán tương đối phức tạp và đòi hỏi độ chính xác
cao, do vậy kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán phải được đào tạo về
chuyên môn phù hợp để có thể hoàn thành tốt công việc được giao. Chất lượng
kiểm toán sẽ sụt giảm và báo cáo kết quả kiểm toán có khả năng không chính
xác cao khi người thực hiện kiểm toán không đáp ứng được yêu cầu năng lực
chuyên môn. Song song với yêu cầu về chuyên môn thì trong suốt quá trình làm
việc, kiểm toán viên phải luôn ý thức thận trọng, tỉ mỉ, thực hiện từng giai đoạn,
đề phòng các sai sót có thể xảy ra.
2.2.5 Tính bảo mật
2.2.5.1 Khái niệm

Bảo mật là yêu cầu giữ kín những thông tin nghề nghiệp có được trong
quá trình kiểm toán, không được tiết lộ bất cứ thông tin nào khi chưa được phép
của người có thẩm quyền, trừ khi có nghĩa vụ phải công khai theo yêu cầu của
10
pháp luật hoặc trong phạm vi quyền hạn nghề nghiệp của mình đồng thời không
được sử dụng các thông tin đó vào mục đích cá nhân.
Trách nhiệm bảo mật phải được thực hiện kể cả sau khi chấm dứt mối
quan hệ giữa người làm kiểm toán với khách hàng hoặc chủ doanh nghiệp, tổ
chức. Chỉ có thể cung cấp thông tin khi được các cơ quan chức năng liên quan
hoặc trách nhiệm nghề nghiệp hoặc luật pháp yêu cầu. Người làm kiểm toán có
nghĩa vụ đảm bảo các nhân viên dưới quyền và những người được mời tư vấn
cũng tôn trọng nguyên tắc bảo mật. Ngay cả trong các mối quan hệ xã hội,
người làm kiểm toán cũng phải luôn chú ý duy trì tính bảo mật, phải cảnh giác
với khả năng vô tình làm lộ thông tin, nhất là trong các trường hợp có sự cộng
tác lâu dài với công ty liên kết, với người thân hay thành viên trong quan hệ gia
đình trực tiếp.
Tính bảo mật không chỉ biểu hiện ở việc không được tiết lộ thông tin.
Nguyên tắc tính bảo mật cũng yêu cầu người thu được thông tin trong quá trình
là kế toán, kiểm toán không được sử dụng các thông tin này để thu lợi cá nhân
hoặc thu lợi cho bên thứ ba.
Nguyên tắc bảo mật được quy định trong các văn bản pháp luật. Chuẩn
mực đạo đức hướng dẫn chi tiết về tính bảo mật sẽ phụ thuộc vào văn bản pháp
luật của Nhà nước và quy định của tổ chức nghề nghiệp trong từng thời kỳ.
Những nội dung cần hiểu biết khi xác định thông tin bảo mật có thể được
công bố hay không:
- Khi được phép công bố. Khi khách hàng hoặc chủ doanh nghiệp cho phép
công bố thông tin thì cần xem xét lợi ích của tất cả các bên, bao gồm cả
bên thứ ba có thể bị ảnh hưởng.
- Khi pháp luật yêu cầu công bố như:
+ Cung cấp tài liệu hoặc bằng chứng trong quá trình tiến hành kiện

tụng;
+ Cung cấp tài liệu hoặc bằng chứng trong quá trình điều tra, thanh
tra vi phạm pháp luật.
- Khi quyền lợi và trách nhiệm nghề nghiệp yêu cầu công bố thông tin:
+ Để tuân thủ các chuẩn mực kỹ thuật và tiêu chuẩn đạo đức, như
khi đưa ra ý kiến về sự trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính,
trong đó có ý kiến ngoại trừ, ý kiến không chấp nhận vì có sự hạn
chế và sự yếu kém của doanh nghiệp.
+ Để bảo vệ lợi ích nghề nghiệp của người làm kế toán và người làm
kiểm toán trong các vụ kiện tụng.
+ Để tuân thủ việc kiểm soát chất lượng (hoặc kiểm tra định kỳ) của
tổ chức cấp trên, cơ quan nhà nước hay hội nghề nghiệp.
11
+ Để đáp ứng yêu cầu điều tra của cơ quan pháp luật.
- Khi người làm kế toán và người làm kiểm toán xác định là thông tin bảo
mật có thể được công bố thì cần chú ý:
+ Có phải tất cả thông tin sẽ công bố đều rõ ràng hoặc đã được
chứng minh hay không; Khi có tình huống liên quan đến thực tế
hoặc ý kiến chưa được chứng minh thì phải sử dụng khả năng xét
đoán nghề nghiệp để xác định mức độ và hình thức công bố phù
hợp;
+ Nên trao đổi thông tin với những bên có trách nhiệm đối với vấn
đề sẽ công bố;
+ Xét đoán xem liệu người làm kế toán và người làm kiểm toán có
phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với việc trao đổi thông tin và
những thông tin sẽ công bố không.
Trong tất cả những trường hợp kể trên, người làm kế toán và người làm
kiểm toán nên xem xét sự cần thiết phải xin ý kiến của Hội nghề nghiệp, chuyên
gia hoặc chuyên gia tư vấn pháp luật.
2.2.5.2 Vai trò của tính bảo mật trong kiểm toán

Các thông tin mà kiểm toán viên đưa ra trong các báo cáo kiểm toán có
trách nhiệm pháp lý cao, nên đòi hỏi những thông tin này phải tuyệt đối chính
xác và phải được giữ bí mật không được tiết lộ khi chưa có sự cho phép của
những người có thẩm quyền. Những thông tin này nếu bị lộ ra bên ngoài, sẽ rất
dễ bị kẻ xấu lợi dụng với những mục đích không tốt làm ảnh hưởng đến khách
hàng và mất uy tín của kiểm toán viên. Vì vậy, yêu cầu về tính bảo mật các
thông tin của kiểm toán nhằm thực hiện tốt công tác kiểm toán, phục vụ cho
những lợi ích chính đáng, hợp pháp đối với những người sử dụng các báo cáo
kiểm toán.
2.2.6 Tư cách nghề nghiệp
2.2.6.1 Khái niệm
Tư cách nghề nghiệp là một khái niệm dùng để chỉ các điều kiện cần phải
có của một người khi thực hiện công việc. Bao gồm các điều kiện về năng lực
chuyên môn, về phẩm chất đạo đức và về kiến thức xã hội… để đảm bảo kiểm
toán viên có thể hoàn thành tốt công việc của mình.
Kiểm toán viên phải được đào tạo qua những trường lớp nhất định, bồi
dưỡng trình độ cần thiết theo quy định của kiểm toán Nhà nước cả mặt lý luận
và thực tế về các nghiệp vụ chuyên ngành tương xứng với tính chất, phạm vi và
mức độ phức tạp của nhiệm vụ kiểm toán được giao. Kiểm toán viên phải trau
dồi và bảo vệ uy tín nghề nghiệp, không được gây ra những hành vi làm giảm
uy tín nghề nghiệp. Phải chủ động, sáng tạo, có khả năng thích ứng với mọi
12
nhiệm vụ được giao, biết ứng xử phù hợp với sự đa dạng, phong phú của nhiệm
vụ cũng như các đối tượng kiểm toán.
2.2.6.2 Vai trò của tư cách nghề nghiệp trong kiểm toán
Công việc kiểm toán đòi hỏi phải có trình độ cao, độ tin cậy lớn nên yêu
cầu về tư cách nghề nghiệp là rất quan trọng, vì kiểm toán viên đủ tư cách nghề
nghiệp mới có thể mang lại chất lượng tốt nhất cho cuộc kiểm toán.
Kiểm toán viên phải không ngừng học hỏi, trau dồi kiến thức trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để

đáp ứng yêu cầu công việc một cách tốt nhất.
2.2.7 Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn
2.2.7.1 Khái niệm
Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn việc tuân thủ các yêu cầu về chuyên
môn trong suốt quá trình thực hiện công việc. Kiềm toán viên phải thực hiện
công việc kiểm toán theo những kỹ thuật và chuẩn mực chuyên môn đã quy
định trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế
được Việt Nam chấp nhận) cũng như các quy định pháp luật hiện hành. Các
chuẩn mực kiểm toán này quy định các nguyên tắc, thủ tục cơ bản và hướng
dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc và tuân thủ cơ bản liên quan đến hoạt động
kiểm toán.
Kiểm toán viên phải có thái độ hoài nghi mang tính nghề nghiệp trong
quá trình lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán, phải luôn ý thức rằng có thể tồn
tại những tình huống dẫn đến những sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính.
Ví dụ: Khi nhận được bản giải trình của Giám đốc đơn vị, kiểm toán viên không
được thừa nhận ngay các giải trình đó là đúng, mà phải tìm được những bằng
chứng cần thiết chứng minh giải trình đó.
2.2.7.2 Vai trò của tuân thủ chuẩn mực chuyên môn trong kiểm
toán
Yêu cầu quan trọng của công việc kiểm toán là phải có độ chính xác cao
nên việc tuân thủ chuẩn mực chuyên môn là điều rất cần thiết. Việc tuân thủ các
chuẩn mực chuyên môn sẽ giúp kiểm toán viên hạn chế những sai sót, nâng cao
chất lượng của cuộc kiểm toán, góp phần giải quyết tốt các vấn đề kinh tế - xã
hội.
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG TUÂN THỦ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC NGHỀ
NGHIỆP CỦA KIỂM TOÁN VIÊN
13
3.1 NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CHUNG THỰC TRẠNG CỦA VIỆC
TUÂN THỦ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA

KIỂM TOÁN VIÊN
3.1.1 Thực trạng chung của việc tuân thủ chuẩn mực đạo đức của
kiểm toán viên hiện nay
Hơn hai mươi năm là một chặng đường không dài nhưng đã chứng kiến
những bước phát triển vượt bậc của ngành Kiểm toán độc lập còn non trẻ của
Việt Nam. Với số lượng gần 200 công ty Kiểm toán đang hoạt động trong lĩnh
vực này tính đến cuối năm 2010, ngành kiểm toán trở nên khá sôi động. Số
lượng các công ty hoạt động trong ngành tăng lên nhanh chóng cùng với các
dịch vụ cung cấp ngày càng đa dạng và chuyên nghiệp cho thấy kiểm toán là
một nhu cầu thiết thực của nền kinh tế, vì vậy yêu cầu đạo đức đặt ra cho kiểm
toán viên càng quan trọng hơn. Sự ra đời ngày càng nhiều của các công ty kiểm
toán đồng nghĩa với việc sức cạnh tranh giữa các công ty sẽ khá cao, các công
ty cung cấp dịch vụ kiểm toán tranh nhau giảm giá dịch vụ để thu hút khách
hàng. Theo bà Trịnh Hồng Nguyệt cho biết: “Khi công ty kiểm toán nhận một
hợp đồng cung cấp dịch vụ với mức phí thấp hơn nhiều so với mức phí của
công ty kiểm toán trước đó, hoặc so với mức phí của công ty khác đưa ra, khả
năng xảy ra nguy cơ do tư lợi là đáng kể, điều này đã vi phạm đạo đức nghề
nghiệp, trừ khi: Công ty đó có thể chứng minh là họ đã cử kiểm toán viên hành
nghề đủ khả năng thực hiện công việc trong một khoảng thời gian hợp lý; và tất
cả các chuẩn mực kiểm toán sẽ được áp dụng nghiêm chỉnh, các hướng dẫn và
qui trình quản lý chất lượng dịch vụ sẽ được tuân thủ”. Ngoài ra, còn xuất hiện
dịch vụ cho mượn danh kiểm toán để được phép hành nghề, khi bị phát hiện thì
cả “Kiểm toán viên cho mượn danh” cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
về các ý kiến nhận xét của “người mang danh Kiểm toán viên” trên “Báo cáo
kiểm toán có vấn đề”.
Ngày nay, các công ty kiểm toán có quy mô trung bình trở lên đều đã xây
dựng các chính sách và các thủ tục kiểm soát chất lượng, có thiết lập một số
chính sách về việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy
đủ yêu cầu của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Thường chỉ nêu ra các yêu cầu
căn bản như:

- Yêu cầu các nhân viên không nên quá thân mật với khách hàng, không
được nhận bất kỳ một khoản tiền hay quà của khách hàng;
- Yêu cầu các nhân viên không được làm điều gì ảnh hưởng, làm mất uy tín
của công ty nói riêng và nghề nghiệp nói chung;
- Không được tiết lộ bất kỳ một thông tin nào về khách hàng khi chưa được
sự đồng ý của khách hàng, trừ khi có yêu cầu của các cơ quan chức năng
được luật pháp quy định.
Đối với các công ty mới thành lập, có quy mô nhỏ thì chưa xây dựng được
chính sách kiểm soát chất lượng một cách hoàn chỉnh thường chỉ tiến hành phổ
14
biến các chính sách thủ tục liên quan đến đạo đức nghề nghiệp cho tất cả các
nhân viên trong công ty. Các công ty này đảm bảo kỹ năng và năng lực chuyên
môn của kiểm toán viên thông qua việc xây dựng cho mình một quy trình tuyển
dụng nhân viên. Chú trọng vào việc đào tạo kèm cặp trong quá trình làm việc.
Việc hình thành và phát triển của kiểm toán Việt Nam là nhu cầu không
thể thiếu của nền kinh tế thị trường, nhằm tăng cường công tác kiểm tra, kiểm
soát và giám sát quá trình sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính. Kiểm toán
Việt Nam còn non trẻ, hoạt động kiểm toán mới chỉ thực sự bắt đầu trong những
năm gần đây nên đòi hỏi phải tăng cường công tác quản lý, giám sát các hoạt
động kinh tế - xã hội. Nhìn chung, trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp
của kiểm toán viên được nâng cao nhưng so với các nước tiên tiến vẫn có một
khoảng cách khá xa, vẫn còn tồn tại không ích các vấn đề liên quan đến hoạt
động kiểm toán do nguyên nhân chủ yếu là kiểm toán viên thiếu trình độ
chuyên môn khiến sụt giảm lòng tin của công chúng đối với kiểm toán viên.
Hằng năm, VACPA (Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam) thông qua
việc sinh hoạt Hội nghề nghiệp và việc kết hợp với Bộ Tài chính tổ chức kiểm
tra việc hành nghề và đăng kí hành nghề của các kế toán viên và kiểm toán viên
tại các tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ kiểm toán nhằm phát hiện những sai
phạm nếu có. Khi phát hiện người có hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp là
Hội viên của VACPA, đầu tiên VACPA yêu cầu Hội viên tự kiểm điểm và tuỳ

thuộc vào mức độ để đưa quyết định xử phạt thích hợp. Nếu vi phạm ở mức độ
nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đến uy tín nghề nghiệp, gây hậu quả xấu trong xã
hội, Hội viên đó sẽ bị khai trừ khỏi Hội nghề nghiệp; ở mức độ nghiêm trọng
hơn, VACPA báo cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xử lý. Mặc dù đã
có những biện pháp chế tài, răng đe nhưng vẫn còn tồn tại khá nhiều vụ việc sai
phạm chuẩn mực đạo đức làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của kiểm toán viên đối
với công chúng. Một vài vụ việc không tốt liên quan đến hoạt động kiểm toán
xảy ra trong các năm vừa qua:
- Vì hạn chế về mặt chuyên môn cũng như thiếu thận trọng nên kiểm toán
viên đã mắc sai lầm trong việc đánh giá Báo cáo tài chính của doanh
nghiệp. Cụ thể như trường hợp BCTC năm 2008 và 2009 của Công ty cổ
phần dược phẩm Viễn Đông (DVD) do Công ty trách nhiệm hữu hạn
(TNHH) kiểm toán và tư vấn (A&C) và Công ty TNHH Enrst&Young
kiểm toán. Nguyên Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng giám đốc công
ty cổ phần dược phẩm Viễn Đông cùng một số người khác đã lập nhiều tài
khoản, thông đồng thực hiện việc mua, bán cổ phiếu của công ty cổ phần
dược phẩm Hà Tây (DHT) tạo ra cung cầu giả tạo, thao túng giá cổ phiếu
DHT. Ngoài ra, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng giám đốc công ty
cổ phần dược phẩm Viễn Đông cùng một số đối tượng đã lập ra nhiều
công ty do người trong gia đình và bạn bè đứng tên làm lãnh đạo, nhưng
thực chất chỉ để kinh doanh lòng vòng, tạo doanh thu ảo cho DVD; cung
15
cấp một số thông tin không đúng thực tế (làm giá), nhằm chào bán cổ
phiếu của DVD ra công chúng và hỗ trợ đăng ký niêm yết cổ phiếu DVD.
Do đó, BCTC của công ty đã không phản ánh đúng tình trạng tài chính
của DN. Tuy hai công ty kiểm toán không phải chịu trách nhiệm liên đới,
nhưng uy tín đã bị ảnh hưởng đáng kể.
- Do thiếu thái độ hoài nghi nghề nghiệp, đánh giá chủ quan và ít kinh
nghiệm thực tế nên kiểm toán viên Nguyễn Hồng Quang của công ty
TNHH BDO Việt Nam đã đưa ra các kết luận sai trên báo cáo tài chính

năm 2009 của Công ty CP Kim Tín Hưng Yên. Theo Uỷ ban chứng khoán
Nhà nước (UBCKNN), trên Báo cáo tài chính năm 2009 của Công ty CP
Kim Tín Hưng Yên có sự nhầm lẫn, sai sót một số chỉ tiêu trong Báo cáo
lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh Báo cáo tài chính; chưa trình bày về các
bên liên quan và giao dịch giữa các bên có liên quan, chi phí sản xuất theo
yếu tố trên Thuyết minh Báo cáo tài chính. Tuy nhiên, tại Báo cáo kiểm
toán Báo cáo tài chính năm 2009 của Công ty CP Kim Tín Hưng Yên ký
ngày 15/3/2010 do Kiểm toán viên Nguyễn Hồng Quang của Công ty
TNHH BDO Việt Nam lập đã không ghi ý kiến về các sai phạm nêu trên
của Công ty CP Kim Tín Hưng Yên theo quy định. Việc làm này đã vi
phạm Điểm a Khoản 1 Điều 12 Quyết định 89/2007/QĐ-BTC. Tương tự,
tại Báo cáo kiểm toán Báo cáo tài chính năm 2010 của Công ty CP Chứng
khoán Nam An do Kiểm toán viên Nguyễn Phương Lan Anh của Công ty
Kiểm toán Mỹ AA lập đã không ghi đầy đủ ý kiến về những sai phạm của
Công ty CP Chứng khoán Nam An trong việc cho các cổ đông nội bộ và
người có liên quan vay tiền (khoản phải thu nội bộ chiếm 99% khoản phải
thu) theo quy định; sau khi phát hành báo cáo kiểm toán, các sai phạm nêu
trên cũng không được thông báo cho UBCKNN. Cùng thời điểm đó, tại
Báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính năm 2010 của Công ty CP Quản lý
Quỹ Đầu tư Chiến Thắng do Kiểm toán viên Nguyễn Thị Phấn của Công
ty TNHH Kiểm toán và Kế toán Hà Nội lập đã không ghi ý kiến về các sai
phạm của Công ty CP Quản lý Quỹ Đầu tư Chiến Thắng về việc cho các
bên liên quan vay tiền và không thuyết minh các khoản phải thu khác
chiếm tỷ trọng lớn theo quy định; sau khi phát hành Báo cáo kiểm toán,
các sai phạm nêu trên cũng không được thông báo cho UBCKNN. Theo
quy định tại Khoản 4 Điều 35 Nghị định 85/2010/NĐ-CP, UBCKNN đã
xử phạt vi phạm hành chính đối với 3 kiểm toán viên trên mỗi người 60
triệu đồng; đồng thời, đình chỉ có thời hạn tư cách được chấp thuận của
kiểm toán viên.
- Ngày 5/1/2012, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước ban các quyết định xử

phạt hành chính và đình chỉ có thời hạn tư cách được chấp thuận của kiểm
toán viên đối với 2 kiểm toán viên là Nguyễn Diệu Trang của Công ty
TNHH Dịch vụ tài chính Kế toán và Kiểm toán và Tô Đình Hoài của
Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán Hà Nội. Trường hợp của kiểm toán
16
viên Nguyễn Diệu Trang, tại báo tài chính năm 2010 của CTCP Quản lý
Quỹ Đầu tư Hapaco, kiểm toán viên đã không ghi ý kiến về các sai phạm
của công ty trong việc không trình bày về khoản đầu tư vượt vốn chủ sở
hữu do vay để đầu tư tài chính. Đối với kiểm toán viên Tô Đình Hoài,
tại báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính năm 2010 của CTCP Quản lý Quỹ
SGI, kiểm toán viên đã không ghi ý kiến về các sai phạm của công ty
trong việc cho các bên liên quan vay tiền và chưa tách bạch tài sản của nhà
đầu tư ủy thác và tài sản của công ty. Sau khi phát hành báo cáo kiểm
toán, các sai phạm nêu trên cũng không được thông báo cho Ủy ban chứng
khoán.
- Chủ tịch VACPA đã ký quyết định xử lý kỷ luật khiển trách/cảnh cáo các
hội viên có sai phạm về chất lượng dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính
năm 2012. Diện cảnh cáo có 1 công ty kiểm toán và 14 kiểm toán viên/hội
viên, diện bị khiển trách có 8 công ty kiểm toán và 14 kiểm toán viên/hội
viên. Nguyên nhân do các cá nhân, tổ chức này chưa tuân thủ đầy đủ các
quy định của chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành trong quá trình
cung cấp dịch vụ kiểm toán Báo cáo tài chính các năm 2012, 2011,
2010…Với những trường hợp công ty kiểm toán, kiểm toán viên bị phát
hiện vi phạm các quy định về đăng ký hành nghề cũng như vi phạm chuẩn
mực nghề nghiệp trong đợt kiểm tra chất lượng do VACPA thực hiện hồi
cuối năm 2012, tới đầu tháng 7/ 2013, Bộ Tài chính mới có quyết định xử
phạt. Nhưng đối với nhà đầu tư và thị trường, như vậy là chưa đủ, bởi với
đặc thù của hoạt động kiểm toán, không thể bỏ qua trách nhiệm của công
ty kiểm toán. Phạt cá nhân là một bước tiến nhưng không nên chỉ dừng lại
ở đó. Vì khi tiến hành một cuộc kiểm toán, ngoài kiểm toán viên trực tiếp

thực hiện, còn có bộ phận soát xét chất lượng, thực hiện đánh giá rủi ro,
đại diện ban giám đốc công ty kiểm toán ký báo cáo kiểm toán…, nên cần
xử lý trách nhiệm liên đới của công ty chứng khoán.
- Cuối năm 2013, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) hàng năm đều có
kiểm toán, nhưng không phát hiện được sai phạm, khuyết điểm để kịp thời
có biện pháp khắc phục, chấn chỉnh cũng đã làm mất lòng tin của những
người sử dụng báo cáo kiểm toán đối với kiểm toán viên.
- Ngày 14/01/2014, Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA)
nhận từ Bộ Tài chính Quyết định từ số 3297/QĐ-BTC đến 3311/QĐ-BTC
ngày 31/12/2013 về việc đình chỉ hành nghề kiểm toán từ ngày
01/01/2014 đến ngày 31/12/2014 đối với 15 kiểm toán viên, thuộc 12 công
ty kiểm toán. Lý do là các kiểm toán viên này đã không đảm bảo số giờ
cập nhật kiến thức trong năm 2013. Trong số này, có kiểm toán viên của
cả công ty kiểm toán trong danh sách được chấp thuận kiểm toán tổ chức
niêm yết như E&Y, KPMG, Grand Thornton, Công ty kiểm toán và dịch
17
vụ tin học Sài Gòn, Công ty TNHH Kiểm toán VACO, Công ty TNHH Tư
vấn thuế kế toán và kiểm toán AVINA - IAFC.
- Ngày 8/5, Công an tỉnh Hà Tĩnh đã bắt quả tang 4 cán bộ Cơ quan Kiểm
toán Nhà nước (trụ sở Hà Nội) tham gia đánh bạc tại phòng 306, khách
sạn B.M, TP.Hà Tĩnh. Sự việc đã gây mất uy tính của Kiểm toán viên
trong mắt công chúng.
Các vụ việc nêu trên là những sai phạm đã được phát hiện và được xử lí,
với nghề kiểm toán, thì nguyên tắc độc lập, trung thực, khách quan được nhắc
đến hằng ngày. Nhưng thực tế đã có những kiểm toán viên bằng khả năng của
mình đã “tư vấn” cho doanh nghiệp đóng vai trò là khách hàng từ lỗ sang lãi để
thu phí dịch vụ vài trăm triệu đồng. Điển hình là việc của doanh nghiệp mới
được thành lập với tên công ty cổ phẩn AP, vẫn giữ nguyên cơ sở vật chất cũ
nhưng về mặt lĩnh vực hoạt động được che phủ bới cái tên nghe “sành điệu”
hơn: đầu tư bất động sản, thương mại và công nghệ ngân hàng. Sau đó công ty

phát hành cổ phiếu ra bên ngoài. Trong tình hình thị trường chứng khoán sôi nổi
năm 2008, các nhà đầu tư đã dốc hầu bao mua với giá 40.000 đồng/cổ phiếu. Để
qua mặt nhà đầu tư ngoài công ty, đơn vị kiểm toán đã tư vấn bán cho nhân viên
trong công ty với giá trên 20.000 đồng/cổ phiếu và làm như đã bán hết không
còn để bán. Các nhà đầu tư tranh nhau mua mà không nghiên cứu kỹ đã ngâm
đắng bởi không lâu sau đó công ty làm ăn chậm, tiến tới phá sản. Trong vụ này,
công ty kiểm toán P lấy hơn 300 triệu đồng phí tư vấn.
Với các công ty Nhà nước, nếu làm ăn thua lỗ quá hai năm giám đốc sẽ có
thể bị thôi chức, nên hết năm đầu tiên đã có công ty thuê kiểm toán với mục
đích rõ ràng là hợp lý hoá khoản lãi giả. Theo một chuyên gia kiểm toán tài
chính, đã có trường hợp công ty kiểm toán độc lập GP biến khoản lỗ gần 100 tỉ
đồng của Tổng công ty K thành lãi. Kiểm toán viên đã tư vấn lập một công ty
khác và “vẽ” ra những giao dịch ảo đem lại lợi nhuận cho Tổng công ty K. Tiền
lãi ảo nhưng những khoản lỗ đã biến mất khỏi sổ sách của Tổng công ty K.
Theo chính một kiểm toán viên của công ty TNHH kiểm toán A, việc biến
doanh nghiệp từ lổ sang lãi với kiểm toán viên thật ra không khó nếu được cấp
trên đồng ý. Một bản kết quả kinh doanh “bị phù phép”, theo chuyên gia kiểm
toán, hoàn toàn có thể được kiểm toán viên phát hiện và thông báo. Tuy nhiên,
kiểm toán viên cũng có thể linh động để một khoản lỗ hoặc khoản lợi nhuận của
kỳ này qua kỳ kế toán năm sau.
Kiểm toán viên không tuân thủ nguyên tắc khách quan, trung thực có thể
thực hiện thủ thuật loại trừ những vùng, điểm để không kiểm toán. Loại trừ là
quyền được quốc tế công nhận giúp kiểm toán viên bỏ qua những điểm không
đủ thông tin, chứng từ. Tuy nhiên khi không công tâm, kiểm toán viên có thể lợi
dụng điều này để bỏ qua cho doanh nghiệp được kiểm toán một “điểm đen”.
Những chiêu trò này có thể dễ dàng phát hiện với những công ty kiểm toán độc
lập uy tín, có quy trình soát xét nội bộ chặt chẽ. Nhưng đối với công ty kiểm
18
toán độc lập “dễ tính”, sự bắt tay có thể đem lại lợi ích tính bằng tiền tỉ cho
doanh nghiệp và thiệt hại tương tự cho nhà đầu tư. Thực tế tại Việt Nam, có

công ty kiểm toán độc lập khi kiểm tra đã loại trừ đến bảy điểm lớn. Có trường
hợp một báo cáo tài chính có 80 chỉ tiêu thì kiểm toán độc lập đã loại trù tới 20
chỉ tiêu “nhạy cảm”. Theo PGS.TS Đặng Văn Thanh, chủ tịch Hội Kế toán và
kiểm toán VN, nếu một báo cáo kiểm toán có quá nhiều điểm loại trừ có thể
khiến kết quả kiểm toán không còn giá trị. Về mặt pháp lý, không thể xử lý các
công ty kiểm toán độc lập ở những điểm họ loại trừ, tuy nhiên công ty kiểm
toán uy tín thường phân tích rõ tại sao họ loại trừ và lên tiếng cảnh báo.
PGS.TS Đặng Văn Thanh nói thêm: “Trong ngành kiểm toán ở VN đang
có vấn đề lớn mà pháp luật cần nghiên cứu để có quy định rõ hơn là quyền và
phạm vi loại trừ trong kết luận kiểm toán. Chuyện loại trừ này rất dễ bị lợi dụng
chứ không hẳn do không đủ chứng từ, tài liệu. Do đó cần có quy định chặt chẽ
hơn đối với KTĐL như việc công nợ nếu không đối chiếu được, tài sản không
đánh giá được thì KTV không được đưa ra ý kiến chắc chắn về kết quả tài
chính của doanh nghiệp. Thông điệp đưa ra cũng phải có tính cảnh báo với
người sử dụng kết quả kiểm toán”.
3.1.2 Nguyên nhân chủ yếu của việc không tuân thủ chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên
Theo nghị định 105/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập đã đưa ra mức xử phạt bằng tiền quá
thấp, mặc dù trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, doanh nghiệp có thể hợp tác với
kiểm toán để khai khống biến lỗ thành lãi hàng chục tỷ đồng.
Những ví dụ điển hình về mức xử phạt hành chính còn thấp gồm: những
kiểm toán viên “mất đạo đức” thực hiện kiểm toán cho khách hàng khi khách
hàng, đơn vị được kiểm toán có yêu cầu trái với đạo đức nghề nghiệp, trái với
yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ hoặc trái với quy định của pháp luật cũng
chỉ bị pháp luật phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Phạt tiền từ
40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với tổ chức thuê, mượn hoặc sử dụng
chứng chỉ kiểm toán viên của người không làm việc tại đơn vị mình để thực
hiện hoạt động nghề nghiệp kế toán, kiểm toán độc lập và giả mạo, tẩy xóa, sửa
chữa Giấy chứng nhận đăng ký hành nghề kiểm toán. Nhưng nếu thực hiện

thành công những sai phạm trên thì có thể thu được lợi ích cao hơn mức xử phạt
nên tính răn đe ko cao.
Việc cung cấp dịch vụ còn chịu tác động của quy luật cung cầu, cạnh
tranh. Do vậy, giá phí kiểm toán thấp (đặc biệt đối với các công ty kiểm toán
nhỏ) đã ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện đúng đắn, đầy đủ các công việc
kiểm toán. Các công ty kiểm toán nhỏ thương hiệu còn yếu, uy tín chưa cao nên
lợi thế cạnh tranh duy nhất của công ty kiểm toán nhỏ nằm ở mức giá. Điều này
khiến nhiều người lo ngại không chỉ cạnh tranh bằng phí, nhiều công ty kiểm
toán độc lập sẵn sàng cạnh tranh cả bằng sự dễ tính. Theo ông Đặng Văn
19
Thanh, nếu việc áp dụng cách giảm phí và giảm cả chất lượng kiểm toán được
nhiều công ty áp dụng thì qua vụ việc Vinashin, có thể thấy thiệt hại cho xã hội
sẽ khó có thể đo đếm được.
Sự xung đột lợi ích ngay trong mối quan hệ giữa kiểm toán viên và khách
hàng. Vấn đề cơ bản trong mối quan hệ kiểm toán viên và khách hàng là ở chỗ
các kiểm toán viên có xu hướng phụ thuộc vào bộ máy quản lý của doanh
nghiệp, những người trực tiếp quyết định tới việc ký các hợp đồng và chi trả các
phí dịch vụ kiểm toán. Nhân tố này luôn song hành với mỗi cuộc kiểm toán và
kiểm toán viên được các doanh nghiệp trả tiền cho việc tiến hành các dịch vụ
kiểm toán hoạt động sản xuất kinh doanh của chính các doanh nghiệp đó. Các
công ty kiểm toán thiếu sự cân nhắc hợp lý giữa chức năng tuân thủ các chuẩn
mực nghề nghiệp và việc duy trì và phát triển khách hàng, sự cân nhắc này
không được phổ biến chi tiết đến từng kiểm toán viên.
3.2 NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI CỦA VIỆC TUÂN THỦ CHUẨN
MỰC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA KIỂM TOÁN VIÊN
Phần lớn các Kiểm toán viên được đào tạo ở các Học viện, Trường Đại
học chỉ mang tính chất lý luận, chưa sát với thực tế. Ngoài ra, việc đào tạo
Kiểm toán viên ở các công ty kiểm toán thường mang tính chất kinh nghiệm
chưa vận dụng những lý luận kiểm toán hoặc việc đào tạo Kiểm toán viên theo
chuẩn quốc tế ở các hãng kiểm toán. Do đó, việc vận dụng kiến thức vào hoạt

động kiểm toán thực tế thường không phù hợp. Mặt khác, một số kiểm toán
viên còn hạn chế về kỹ năng tin học và trình độ ngoại ngữ cũng làm ảnh hưởng
đến chất lượng kiểm toán. Vì hiện nay, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu rất
nhiều nên kiểm toán viên có thể thường xuất tiếp xúc với các chứng từ tiếng
nước ngoài, các doanh nghiệp đều áp dụng phần mềm tin học vào kế toán nên
để phục vụ cho việc kiểm tra thuận lợi và nhanh chóng thì kiểm toán viên phải
trang bị những kiến thức về tin học.
Theo phản ánh của các công ty kiểm toán, việc tồn tại nhiều văn bản
không thống nhất, chưa cụ thể và đôi khi chưa phù hợp với thực tế, các thông tư
hướng dẫn ban hành chưa kịp thời đã gây không ít khó khăn cho kiểm toán viên
trong quá trình hành nghề. Việc thiếu quy định cụ thể về đánh giá sai sót, vi
phạm của công ty kiểm toán, kiểm toán viên và mức độ xử lý vi phạm khi thực
hiện kiểm toán doanh nghiệp niêm yết có thể là nguyên nhân khiến sai sót trên
báo cáo kiểm toán vẫn tái diễn, nhưng số vụ xử phạt lại rất ít.
Kiểm toán viên bị chi phối bởi nhiều yếu tố, sức ép về mặt địa vị, lợi
ích… làm ảnh hưởng đến việc tuân thủ tính độc lập và khách quan trong quá
trình kiểm toán và đưa ra các kết luận kiểm toán. Bằng cách từ chối chi trả chi
phí thoả đáng cho công ty kiểm toán, ban giám đốc khách hàng có thể gây sức
ép đối với kiểm toán viên và công ty kiểm toán trong việc mở rộng phạm vi
điều tra, hay việc đưa ra ý kiến trung thực về thực trạng, tình hình tài chính
20
doanh nghiệp vốn có. Điều này chứng minh kiểm toán viên phải đối mặt với
một mâu thuẫn rõ ràng về quyền lợi. Ban giám đốc khách hàng cũng có thể ra
quyết định cắt hợp đồng vô lý để gây sức ép với kiểm toán viên, điều này khiến
cho kiểm toán viên khó tuân thủ được chuẩn mực đạo đức. Ở Việt Nam tình
hình phổ biến hiện nay là các công ty kiểm toán cung cấp các dịch vụ tư vấn
thuế cũng như là quản lý trong các mảng kinh doanh khác nhau hay là cung cấp
dịch vụ tư vấn nhân sự. Điều này có nghĩa là kiểm toán, công ty kiểm toán có
thể bị phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của công ty khách hàng để tiếp tục hợp
đồng kinh tế có lợi.

Sự cạnh tranh giữa các công ty kiểm toán đã buộc họ phải chú ý hơn vào
việc tuyên truyền. Nếu không hài lòng kiểm toán viên thì ban giám đốc công ty
khách hàng hoàn toàn có thể lựa chọn ra kiểm toán viên khác, khiến cho kiểm
toán viên tâm lý sợ mất lòng khách hàng, làm ảnh hưởng đến việc tuân thủ các
chuẩn mực về đạo đức của kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán.
Đoạn 106 của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp đã nêu về việc “quá phụ
thuộc” vào phí dịch vụ của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo sẽ tạo nguy cơ
tư lợi làm ảnh hưởng tính độc lập của kiểm toán viên nhưng chuẩn mực lại
không nêu rõ như thế nào là “quá phụ thuộc” nên rất khó để kiểm toán viên áp
dụng vào thực tế. Xung đột lợi ích ảnh hưởng đến việc tuân thủ các nguyên tắc
đạo đức nghề nghiệp, nhưng vấn đề này không được trình bày đầy đủ, cụ thế
trong chuẩn mực hiện hành. Ở đoạn 147, 148 của chuẩn mực đạo đức hiện hành
có quy định về việc kiểm toán viên và công ty kiểm toán có thể đi vay và cho
vay đối với khách hàng nếu khoản đi vay và cho vay không đáng kể đối với cả
công ty kiểm toán hoặc kiểm toán viên và khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo.
Nhưng trong chuẩn mực lại không quy định rõ như thế nào là “không đáng kể”
nên gây khó khăn cho việc quản lý tính tuân thủ chuẩn mực này đối với kiểm
toán viên.
Sự không đồng bộ giữa chuẩn mực đạo đức và nghị định do Chính phủ
ban hành cũng gây khó khăn cho việc chấp hành chuẩn mực đạo đức của kiểm
toán viên. Trong chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, ở đoạn 190 có quy định “nếu
khách hàng kiểm toán không phải là công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán, công ty kiểm toán có thể cung cấp các dịch vụ kế toán và ghi sổ kế toán
theo thủ tục thoả thuận trước với điều kiện các nguy cơ tự kiểm tra có thể được
giảm xuống mức có thể chấp nhận được. Còn nếu khách hàng kiểm toán là công
ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán, thì công ty kiểm toán không
được cung cấp dịch vụ kế toán, ghi sổ kế toán, lập báo cáo tài chính”. Trong khi
đó ở Điều 27, Nghị định 105/2004/NĐ-CP ban hành ngày 30/3/2004 của Chính
phủ quy định là: “Doanh nghiệp kiểm toán không được thực hiện kiểm toán
trong trường hợp “đang cung cấp dịch vụ ghi sổ kế toán, lập báo cáo tài chính,

dịch vụ kiểm toán nội bộ, định giá tài sản, tư vấn quản lý, tư vấn tài chính hoặc
đã thực hiện các dịch vụ trên trong năm trước cho khách hàng” không phân biệt
21
là khách hàng có niêm yết hay không”. Trong trường hợp này nếu kiểm toán
viên tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, công ty vẫn có thể chấp nhận
hợp đồng kiểm toán. Nhưng nếu chấp nhận hợp đồng kiểm toán thì công ty sẽ
vi phạm Nghị định 105/2004/NĐ-CP.
CHƯƠNG 4
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TÍNH TUÂN THỦ
CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA KIỂM
TOÁN VIÊN
Để nâng cao tính tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp thì yếu tố quan
trọng nhất chính là ý thức của mỗi kiểm toán viên. Bản thân kiểm toán viên khi
bước vào nghề phải nhận thức đúng ngành nghề và sự nổ lực thực sự thông qua
việc:
- Cần phải có kiến thức và sự hiểu biết tương đối rộng và toàn diện ở nhiều
lĩnh vực và khía cạnh liên quan đến kiểm toán. Chủ động tiếp cận với
thực tế hoạt động nghề nghiệp kế toán, kiểm toán để hình thành kiến thức
kiểm toán trên phương diện lý luận và thực tiễn.
- Không ngừng nâng cao phát triển chuyên môn nghiệp vụ bằng việc tham
gia các khoá học nâng cao nghiệp vụ. Đồng thời phải rèn luyện khả năng
sáng tạo riêng của mình cũng như học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm với các
đồng nghiệp. Kiểm toán viên không chỉ trau dồi kiến thức chuyên môn
mà còn phải luôn luôn cập nhật các thông tin về tin học, về ngoại ngữ và
về các lĩnh vực khoa học kỹ thuật cũng như xã hội khác. Nhiều trường
hợp những lỗi vi phạm dù nhỏ hay lớn, nhưng để có bằng chứng kiểm
toán thì phải kiểm chứng xác thực và có sức thuyết phục cao. Khi cần
thiết người kiểm toán viên có tâm với nghề sẽ không bao giờ giấu dốt, có
thể hỏi trực tiếp đồng nghiệp của mình để cùng nghiên cứu, tranh luận
hoặc làm sáng tỏ vấn đề đưa ra đánh giá, kết luận đảm bảo tính khách

quan, chính xác, trung thực… cũng là hình thức học hỏi thêm từ các đồng
nghiệp.
- Cần phải thường xuyên tu dưỡng và rèn luyện phẩm chất của một cán bộ
kiểm toán, rèn luyện cho mình tính chính trực, độc lập, vô tư, công bằng,
cẩn thận, siêng năng, có tinh thần trách nhiệm. Luôn có thái độ cầu tiến,
học hỏi và đúc kết kinh nghiệm thực tế kiểm toán. Việc làm này góp phần
giúp kiểm toán viên hình thành kỹ năng kiểm toán cho mình cũng như có
tố chất để trở thành một kiểm toán viên chuyên nghiệp.
- Nguyên tắc cơ bản nhất của mổi kiểm toán viên là tính độc lập, nó được
thể hiện qua tư thế, tác phong và bản lĩnh nghề nghiệp. Song nó không
đồng nghĩa với việc kiểm toán viên chỉ thông qua chứng từ sổ sách… để
có thể đưa ra ý kiến kết luận vì bất cứ cuộc kiểm toán nào cũng không đủ
thời gian, chi phí cho kiểm toán viên làm việc này. Mỗi kiểm toán viên
22
phải tranh thủ và thu thập thông tin, tài liệu của mọi người liên quan ở
trên. Do vậy, mối quan hệ giữa kiểm toán viên với những người này ảnh
hưởng tới chất lượng cuộc kiểm toán và tuân thủ các chuẩn mực đã đề ra.
Kiểm toàn viên giải quyết tất cả các quan hệ này và kết hợp với tính độc
lập của một người kiểm toán viên sẽ nâng cap chất lượng kiểm toán và
đảm bảo được tính tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp.
Về phía các tổ chức, công ty kiểm toán:
- Nâng cao sự hiểu biết của công chúng về vai trò, trách nhiệm pháp lý của
các kiểm toán viên bằng các phương tiện truyền thông. Ngoài ra cần sắp
xếp đúng người, đúng việc (theo trình độ, năng lực kiểm toán viên). Mua
bảo hiểm cho kiểm toán viên trong đơn vị.
- Cần có sự liên kết chặt chẽ, phối hợp nhịp nhàng với các cơ sở đào tạo
kiểm toán viên, các tổ chức nghề nghiệp. Các công ty có thể nhận sinh
viên năm cuối đến tham gia vào hoạt động công ty, để giúp các sinh viên
tiếp cận sớm với thực tế kiểm toán và môi trường nghề nghiệp.
- Có thể tham gia vào hoạt động dạy và học ở nhà trường, như tham gia ý

kiến về xây dựng nguồn nhân lực kiểm toán, tham gia viết bài chuyên
môn trên góc độ thực tế hoạt động kiểm toán, tham gia báo cáo thực tế
kiểm toán cũng như trả lời và cung cấp thông tin cập nhật về hoạt động
nghề nghiệp cho sinh viên…
- Phải xây dựng được một phương pháp quản lý tốt và môi trường kiểm
toán chuyên nghiệp. Vì đó là yếu tố quan trọng góp phần không nhỏ đến
chất lượng kiểm toán viên, để kiểm toán viên an tâm công tác, cống hiến
và có điều kiện nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ.
Về phía Nhà nước:
- Nhà nước phải đảm bảo cho các công ty kiểm toán cũng như các kiểm
toán viên có được sự cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật, nâng cao
năng lực và thế mạnh của công ty kiểm toán trong nước nhằm phát huy
vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong lĩnh vực kiểm toán.
- Ban hành đầy đủ và có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng các văn bản pháp quy
về đạo đức kiểm toán.
- Có biện pháp chế tài và xử phạt nghiêm đối với các hành vi vi phạm
chuẩn mực đạo đức của kiểm toán viên.
- Hoàn thiện các quy định đạo đức nghề nghiệp, đảm bảo sự thống nhất,
đồng bộ giữa các quy định trong chuẩn mực với các nghị định, thông tư
của Chính phủ ban hành.
Về phía nhà trường và các tổ chức đào tạo:
23
- Nhà trường phải có kế hoạch tuyển chọn phù hợp nhu cầu, chất lượng đầu
vào cao, số lượng hợp lí. Trong quá trình đào tạo phải xác định học sinh,
sinh viên là trung tâm với phương pháp chủ động trong lĩnh hội kiến thức.
- Xây dựng hệ thống tài liệu phục vụ giảng dạy học tập bao gồm các giáo
trình lí thuyết và các bài giảng thực tiễn các tình huống và quy trình kiểm
toán các văn bản pháp luật… đồng thời đổi mới phương pháp giảng dạy
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng. Hơn nữa, qua
đào tạo các giảng viên có thể tác động tới những sinh viên giỏi tham gia

vào công tác kế toán kiểm toán.
- Nhà trường cần trang bị đầy đủ cơ sở vật chất cần thiết cho công tác
giảng dạy và nghiên cứu khoa học của giáo viên và sinh viên bởi đây là
một trong những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy.
Trong quá trình đào tạo phải luôn đề cập, phổ biến, nhắc nhở học sinh, sinh
viên về đạo đức, tác phong và tư cách nghề nghiệp.
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN
Càng đi sâu vào cơ chế thị trường hội nhập khu vực và thế giới, trong thời
đại bùng nổ thông tin thì việc rèn luyện, phát triển đức – tài của đội ngũ cán bộ,
kiểm toán viên là rất quan trọng. Do đó phải đào tạo nguồn cán bộ, kiểm toán
viên cơ bản, chuyên sâu nghề nghiệp, có đầy đủ phẩm chất và năng lực, đức và
tài, đảm bảo tính liên tục, kế thừa và phát triển. Càng ngày càng có nhiều chủ
thể tham gia vào các quan hệ kinh tế với những lợi ích khác nhau. Các bên luôn
hướng tới tối đa hoá và bảo vệ lợi ích kinh tế của mình trong các giao dịch kinh
tế. Chính vì thế nhu cầu về minh bạch hoá thông tin trong nền kinh tế càng ngày
càng được xem trọng. Hoạt động kiểm toán là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá
trình minh bạch hoá thông tin tài chính trong nền kinh tế Việt Nam. Để đảm bảo
được tính khách quan trong kết luận của kiểm toán viên về chất lượng thông tin
trên các bảng khai tài chính đòi hỏi phải có sự chấp hành nghiêm chỉnh chuẩn
mực đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động kiểm toán. Kiểm toán viên phải đảm
bảo luôn tuân thủ các chuẩn mực về đạo đức trong suốt quá trình hành nghề của
mình. Muốn có chất lượng và hiệu quả một cuộc kiểm toán phải dựa trên cơ sở
vững chắc của đạo đức nghề nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đình Hựu, 2012. Cẩm nang kiểm toán. Nhà xuất bản Chính Trị
Quốc Gia – Sự Thật, trang 64-72.
2. Bộ môn Kiểm toán, Khoa Kế toán – Kiểm toán, 2012. Kiểm toán. Nhà
xuất bản Lao động xã hội, trang 30-31.
24

3. Bộ tài chính, 2005. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán
Việt Nam.
4. Bích Diệp, 2013. Dính sai phạm, 9 công ty và 28 kiểm toán viên bị kỷ
luật, < />toan-vien-bi-ky-luat-702350.htm>
5. Tổng Kiểm toán Nhà nước Đinh Tiến Dũng, Tạp chí Kiểm toán số ra
10/2011, < />nghiep-va-van-hoa-ung-xu-cua-kiem-toan-vien-anh-huong-truc-tiep-den-
chat-luong-kiem-toan.sav>
6. Th.s Đinh Thị Thuỷ, 2014. Tạp chí Tài chính số 3/2014,
< />trong-linh-vuc-ke-toan-kiem-toan-cua-Viet-Nam/47590.tctc >
7. Bắt giữ 4 kiểm toán viên Nhà nước đánh bạc.
< />bac/104/13771344.epi>
8. Xử phạt kiểm toán viên. < />vien/127/7845345.epi>
9. Thêm 2 kiểm toán viên bị phạt do vi phạm quy định về kiểm toán.
< />phat-do-vi-pham-quy-dinh-ve-kiem-toan.htm>
10. Phan Hải, 2013. Kiểm toán viên sai phạm, xử nhẹ vì thiếu chế tài?
< />vi-thieu-che-tai-14324.html>
11. Theo thuvienphapluat. Kiểm toán độc lập: "Phù phép” lỗ thành lãi.
< />25

×