Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả phẫu thuật u biểu mô lành tính tuyến mang tai từ năm 2009 -2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 86 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tuyến mang tai là tuyến nước bọt lớn nhất của cơ thể. U tuyến mang tai
chiếm 70-80% các u tuyến nước bọt nói chung và đa số là lành tính [1].
U tuyến nước bọt là một bệnh hiếm gặp, ở các nước Phương Tây tỷ lệ
mắc khoảng 2,5 - 3,0 trường hợp trên 100.000 dân mỗi năm, trong đó u tuyến
mang tai chiếm 70-80 % các u tuyến nước bọt nói chung [1][2][3].
Triệu chứng lâm sàng u tuyến mang tai nói chung thường ngèo nàn,
trong khi đó đặc điểm và phân loại mô bệnh học lại rất phong phú. Các típ mô
bệnh học u tuyến mang tai có tiên lượng rất khác nhau và đòi hỏi chỉ định
điều trị phù hợp trong từng trường hợp nhằm hạn chế các tai biến, biến chứng,
tái phát cho người bệnh [1][2][3][8][9]. Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh
và thăm dò chức năng như siêu âm, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ, chọc
hút tế bào…, chỉ có vai trò góp phần cho chẩn đoán [1][5][9][10][11][12][13].
Phương pháp có giá trị nhất cho phép xác định bản chất khối u, góp phần
quan trọng trong điều trị chính là chẩn đoán giải phẫu bệnh. Vì vậy việc tìm
ra mối tương quan giữa đặc điểm lâm sàng và mô bệnh học có một ý nghĩa
quan trọng trong chẩn đoán và điều trị u tuyến mang tai.
Phẫu thuật là phương pháp điều trị chủ yếu đối với u tuyến nước bọt
mang tai [5][14][20]. Nhưng phương pháp phẫu thuật lấy u hay là cắt thùy
nông hoặc cắt toàn bộ tuyến mang tai, tùy thuộc vào vị trí u ở thùy nông
hay thùy sâu, kích thước u. Khối u ở thùy nông thì làm gì, thùy sâu thì
phẫu thuật như thế nào, là vấn đề còn nhiều tranh luận. Ở nước ta, kết quả
điều trị u tuyến mang tai còn tồn tại sự khác biệt về tỷ lệ tái phát, liệt mặt
2
sau mổ liên quan đến chẩn đoán, đánh giá và quan điểm chỉ định điều trị
phẫu thuật [20].
Trên thế giới đã có nhiều tác giả nghiên cứu về u tuyến nước bọt mang
tai, ở Việt nam đã có một số tác giả nghiên cứu về vần đề này như Hàn Thị
Vân Thanh (2001), Vũ Trung Lương (2001), Nguyễn Đức Khải (2003), Trần
Quang Long (2006), Phạm Tiến Chung (2010)…. Nhưng mỗi tác giả lại tập


trung nghiên cứu một hướng khác nhau do vậy chưa có cái nhìn tổng quan về
bệnh lý u tuyến mang tai. Do vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả phẫu thuật u biểu
mô lành tính tuyến mang tai từ năm 2009 -2013” với mục hai tiêu:
1. Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng u biểu mô lành tính
tuyến mang tai.
2. Đánh giá kết quả phẫu thuật u biểu mô lành tính tuyến mang tai từ
năm 2009 đến năm 2013.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1. ĐẶC ĐIỂM PHÔI THAI HỌC, GIẢI PHẪU, MÔ HỌC VÀ SINH
LÝ HỌC TUYẾN MANG TAI
2. Phôi thai học
Trước kia người ta cho rằng các tuyến nước bọt có chung nguồn gốc
nội bì. Thực ra các tuyến nước bọt dưới hàm, dưới lưỡi và một số tuyến nước
bọt phụ phát sinh từ nội bì, còn tuyến nước bọt mang tai phát sinh từ ngoại bì.
Những mầm tuyến mang tai xuất hiện vào tuần thứ bảy của thời kỳ
phôi dưới hình thức tăng sinh của ngoại bì miệng nguyên thủy. Lúc mới đầu,
mầm của tuyến nước bọt phát sinh từ lớp sinh sản của biểu mô miệng, chúng
tiến sâu vào trung mô, tới vùng tương ứng với vị trí vĩnh viễn.Đầu của những
mầm ấy chia nhánh, trung mô xung quanh tạo ra những vách liên kết định ranh
giới cho những thùy và tiểu thùy tuyến.Ở đầu các mầm xảy ra sự biệt hóa tế bào
để tạo ra các nang tuyến.Những tế bào nhày được tạo ra và hoạt động trước khi
trẻ ra đời, còn tế bào tiết nước chỉ hoạt động sau khi trẻ ra đời [22].
3. Giải phẫu tuyến mang tai
Tuyến nước bọt mang tai là tuyến ngoại tiết có trọng lượng khoảng
30g, nằm phía dưới ống tai ngoài, giữa ngành lên của xương hàm dưới và cơ
ức đòn chũm. Tuyến được bọc trong mạc tuyến mang tai do mạc cổ nông tạo
nên. Người ta chia tuyến ra làm hai thùy là thùy nông và thùy sâu tương ứng

với vùng nhu mô tuyến nằm ở phía ngoài hay phía trong của dây VII và các
nhánh của nó (thực ra việc chia này chỉ là quy ước còn bản thân tuyến không
chia thành các thùy) [6].
4
Hình thể ngoài và liên quan.
Tuyến hình tháp có 3 mặt, 3 bờ và hai cực [23].
- Mặt ngoài: chỉ có da và mạc nông che phủ, trong tổ chức dưới da có
dây thần kinh tai lớn và các hạch bạch huyết nông.
- Mặt trước: áp vào bờ sau ngành lên của xương hàm dưới và cơ cắn, cơ
chân bướm trong và dây chằng chân bướm hàm. Mặt trướcTMT còn liên quan
với bó mạch hàm trên và dây thần kinh tai thái dương ở ngang mức khuyết cổ
xương hàm dưới.
- Mặt sau: liên quan với mỏm chũm, giáp với bờ trước cơ ức đòn chũm,
bụng sau cơ hai bụng, mỏm trâm và các cơ trâm. Động mạch cảnh ngoài sau
khi lách qua khe giữa cơ trâm lưỡi và cơ trâm móng, nằm ép và đào thành
rãnh vào mặt sau TMT rồi chui vào trong tuyến, động mạch và tĩnh mạch
cảnh trong ở trong và sau hơn ngăn cách với tuyến bởi mỏm trâm và các cơ
trâm, thần kinh mặt từ lỗ châm chũm đi xuống cũng chui vào trong tuyến ở
phần sau trên của mặt này.
- Bờ trước: có ống tuyến mang tai thoát ra (ống Sténon). Ở trên ống
tuyến đôi khi gặp tuyến mang tai phụ (có trong khoảng 20% các trường hợp),
các nhánh của dây thần kinh mặt và động mạch ngang mặt thoát ra khỏi tuyến
dọc bờ này.
- Bờ sau: nằm dọc theo ống tai ngoài, mỏm chũm và bờ trước cơ ức đòn chũm.
- Bờ trong: là nơi giao tiếp giữa mặt trước và mặt sau, nằm dọc dây
chằng trâm hàm dưới
- Cực trên: nằm giữa khớp thái dương hàm (ở trước) và ống tai ngoài (ở
sau), liên quan với bó mạch thái dương nông và dây thần kinh tai thái dương.
- Cực dưới: nằm giữa cơ ức đòn chũm và góc hàm dưới, liên quan ở
trong với tĩnh mạch, động mạch cảnh trong và dây thần kinh dưới lưỡi.

5
Các thành phần nằm trong tuyến mang tai: gồm các mạch máu, thần
kinh lách giữa các thuỳ của tuyến và lần lượt từ sâu ra nông gồm có động
mạch cảnh ngoài với 2 ngành cùng là động mạch thái dương nông và động
mạch hàm, nông hơn có tĩnh mạch sau hàm dưới được tạo nên bởi tĩnh mạch
thái dương nông, tĩnh mạch hàm và nằm ở nông nhất là dây thần kinh mặt.
Thần kinh mặt chui vào tuyến ở phần sau trên rồi chạy ra trước và xuống dưới
phân chia trong tuyến và thoát ra ở bờ trước tuyến, phân chia tuyến ra làm hai
phần (phần nông và phần sâu).
Ống tuyến mang tai: ống tuyến (ống Stenon) được tạo nên do sự hợp
nhất của hai nghành chính trong phần trước của tuyến thoát ra khỏi tuyến ở bờ
trước. Ống chạy bắt chéo qua mặt ngoài cơ cắn, uốn cong theo bờ trước cơ
này vòng qua cục mỡ Bichat ở má, xuyên qua 2 bó cơ mút để đổ vào trong
khoang tiền đình miệng ở mặt trong của má bằng 1 lỗ nhỏ đối diện với răng
hàm lớn thứ II hàm trên. Ống Stenon dài 5cm, đường định hướng của ống là
đường kẻ từ bình nhĩ tới giữa đường nối cánh mũi và mép. Có thể di chuyển
đưa ống Stenon lên mắt để chữa bệnh khô giác mạc. Mốc để tìm ống ở má là
giao điểm của 2 đường vạch, một đường từ dái tai tới cánh mũi và một đường
từ bình nhĩ tới mép.
4. Mô học tuyến mang tai
Cả hai loại tuyến nước bọt chính và tuyến nước bọt phụ đều được cấu
tạo gồm hệ thống nang và ống tuyến. Các tuyến nước bọt chế tiết nước bọt
thanh dịch, nhày, hoặc hỗn hợp thanh dịch- nhày. Tuyến mang tai và các tuyến
phụ thuộc lưỡi (gọi là tuyến von Ebner) chế tiết nước bọt thanh dịch. Các
tuyến vùng miệng, tuyến nằm mặt bên và gốc lưỡi chế tiết nước bọt chứa
nhiều chất nhày. Tuyến dưới hàm, tuyến dưới lưỡi, các tuyến phụ nằm trong
niêm mạc mũi, đầu lưỡi chế tiết nước bọt hỗn hợp thanh dịch và nhày.
6
Nước bọt được tạo ra bởi các nang tuyến, nước bọt do tuyến thanh dịch
tiết ra có nồng độ amylase cao, các nang tuyến nhày tiết ra nước bọt chứa

nhiều chất nhày. Đơn vị chức năng của các tuyến nước bọt là nang chế tiết và
các ống dẫn của chúng và các tế bào cơ biểu mô. Nang chế tiết có thể là nang
thanh dịch, nang nhày hoặc loại hỗn hợp.
Nang thanh dịch cấu tạo bởi các tế bào có hình tháp, nhân nằm ở cực
đáy tế bào. Các tế bào nang thanh dịch có nhiều hạt chế tiết nội bào chứa tiền
enzym, nhuộm PAS (periodic acid shiff) dương tính, ưa kiềm mạnh và kháng
diastase. Đặc điểm nổi bật của các tế bào nang tanh dịch là có nhiều nhú liên
kết giữa các tế bào lớp đáy.
Nang nhày cấu tạo bởi các tế bào hình trụ, nhân tròn nằm gần cực đáy
tế bào, bào tương sáng. Đặc điểm nổi bật của các tế bào nang nhày là hoạt
động chế tiết chất nhày acid và chất nhày trung tính.
Hoạt động chế tiết của các tế bào nang tuyến được đổ vào các ống dẫn
đầu tiên. Các ống dẫn khó nhận thấy trên các tiêu bản mô học thông thường.
Biểu hiện trên mô học thường qui ống dẫn được cấu trúc bởi một lớp tế bào
hình khối lớn, nhân nằm ở trung tâm tế bào. Các ống dẫn liên tiếp với hệ
thống ống góp hình sao lớn hơn. Các ống góp cấu tạo từ lớp tế bào trụ cao ưa
acid, giàu ty thể. Các tế bào ống góp có nhiều nếp gấp nguyên sinh chất ở cực
đáy và các nếp gấp này giúp điều hòa nhịp chế tiết nước bọt. Các ống góp liên
tiếp với hệ thống ống liên thùy. Các ống liên thùy được lót bởi lớp biểu mô trụ
giả tầng chứa một ít tế bào nhày.
Các tế bào cơ biểu mô có hình rổ, nằm giữa màng đáy và màng bào
tương tế bào biểu mô nang tuyến, bắt màu nhuộm HE nhẹ, bao bọc bên
ngoài mỗi nang tuyến. Chúng chứa các sợi actin, myosin cơ trơn và những
sợi tơ cơ trung gian, khi nhuộm hóa mô miễn dịch thấy các sợi này bắt
7
màu đậm của cytokeratin-14 hình sao quanh các nang tuyến. Khi các tế
bào cơ biểu mô co lại chúng tạo ra một áp lực nhất định bên trong lòng hệ
thống ống dẫn tuyến. Các tế bào cơ biểu mô cũng nằm bao quanh các ống
dẫn đầu tiên, nhưng tại các ống góp hình sao thì không thấy rõ. Về mặt
siêu cấu trúc, tế bào chất của các tế bào cơ biểu mô chứa một mạng lưới

các sợi actomyosin chạy song song với mặt ngoại tế bào, các hạt chứa
glycogen và lypofuscin, các tiểu ẩm bào [24][25].
5. Sinh lý tuyến nước bọt mang tai
Trung bình một ngày cơ thể bài tiết 1000 ml đến 1500 ml nước bọt
trong đó 25% là của tuyến mang tai với việc tiết nước là chủ yếu.
Sinh lý nước bọt
Nước bọt có vai trò làm ẩm khoang miệng, tiêu hóa một phần tinh bột
và chất béo, làm sạch răng, ức chế sự phát triển vi khuẩn, phân hủy các đại
phân tử thức ăn để tạo ra các sản phẩm có thể kích thích vào các nụ vị giác
của lưỡi giúp chúng ta nhận biết được vị thức ăn, nước bọt cũng làm ẩm thức
ăn, gắn các thức ăn với nhau giúp cho quá trình nuốt được dễ dàng.
Nước bọt là một dung dịch nhược trương, trong đó 97- 99,5% là nước,
ngoài ra còn chứa các men và các chất điện giải gồm:
- Amylase: tiêu hóa bước đầu tinh bột tại khoang miệng.
- Lipase: tiêu hóa chất béo, enzym này được hoạt hóa bởi acid của dịch
vị, tiêu hóa chất béo trong thức ăn sau khi chúng được nuốt vào dạ
dày.
- Chất nhày: liên kết các thức ăn, bôi trơn chúng tạo thuận lợi cho quá
trình nuốt.
- Lysozym: giết chết vi khuẩn.
- IgA: ức chế sự phát triển của vi khuẩn.
8
- Chất điện giải: Na, K, Cl, Phosphate, Bicarbonate.
Nước bọt có độ pH = 6,8-7,0, độ pH của nước bọt khác so với các vùng
khác của ống tiêu hóa, nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt hóa hay khử hoạt tính
các enzym tiêu hóa. Ví dụ như amylase nước bọt tiêu hóa tinh bột từ trong
khoang miệng nhưng bị bất hoạt khi gặp pH acid của dạ dày, trong khi lipase
nước bọt thuộc lưỡi thì chỉ được hoạt hóa khi gặp môi trường acid tại dạ dày.
Kiểm soát tiết nước bọt
Các tuyến nước bọt nằm rải rác trong khoang miệng, tiết nước bọt liên

tục nhằm giữ ẩm niêm mạc miệng. Các tuyến nước bọt lớn nằm bên ngoài
khoang miệng bị kích thích tiết khi có thức ăn đưa vào khoang miệng.
Việc tiết nước bọt được điều hòa bởi thần kinh phó giao cảm và thần
kinh giao cảm thuộc hệ thần kinh tự chủ của cơ thể. Các nhánh phó giao cảm
điều hòa bài tiết nước bọt cả khi có thức ăn kích thích và khi không có sự kích
thích của thức ăn. Khi chúng ta ăn, các receptor nhận cảm áp lực và hóa học
tại khoang miệng sẽ gửi các tín hiệu về các nhân cầu và nhân tủy thuộc thân
não (nhân phụ trách điều hòa bài tiết nước bọt). Kết quả, phản xạ chế tiết đi
theo nhánh vận động dây VII và dây IX kích thích tuyến tăng tiết nước bọt
chứa nhiều thanh dịch và enzyme. Khi chúng ta nhai bất kỳ thứ gì trong
miệng đều gây kích thích các receptor nhận cảm áp lực, ngay cả khi nhai giả
(nhai không), các loại thức ăn, dịch có vị chua như chanh, dấm đều kích thích
rất mạnh các receptor nhận cảm hóa học. Trên thực tế, khi ngửi thấy mùi vị
thức ăn, nhai kẹo mềm, ăn các loại kem, các chất có bạc hà cũng có thể
kích thích tiết rất nhiều nước bọt. Khi có các kích thích phần thấp đường
tiêu hóa như nhiễm độc do vi khuẩn, thức ăn, ưu toan đường tiêu hóa kích
thích gây buồn nôn đều gây tăng tiết nước bọt để làm sạch hoặc trung hòa
các tác nhân gây kích thích.
9
Trái ngược với tác dụng điều hòa tiết nước bọt của hệ phó giao cảm,
các nhánh giao cảm kích thích bài tiết nước bọt giàu chất nhày. Nếu hệ giao
cảm bị kích thích mạnh sẽ làm co mạch nuôi tuyến làm giảm chế tiết nước bọt
và làm khô miệng. Nếu có tình trạng mất nước cũng gây ức chế bài tiết nước
bọt và lưu lượng máu tuần hoàn đến nuôi tuyến ít đi [26].
6. DỊCH TỄ HỌC, NGUYÊN NHÂN VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ
7. Dịch tễ học u tuyến nước bọt
Tính trên toàn thế giới, tỷ lệ mắc u tuyến nước bọt dao động 0,4-13,5/10
vạn dân [17]. Tỷ lệ ung thư tuyến nước bọt dao động 0,4 – 2,6 ca/10 vạn dân.
Ở Mỹ, ung thư tuyến nước bọt chiếm 6% các ung thư đầu- cổ, 0,3% tổng số
ung thư toàn cơ thể [17]. Tỷ lệ mắc các típ mô học khác nhau theo vùng địa

dư. Trong quần thể bệnh nhân u tuyến mang tai có nguồn gốc là người Đan-
mạch, Pensylvania có 30% là u Warthin, tỷ lệ này gấp 7 lần so với các quần
thể khác. Tỷ lệ ung thư típ biểu bì nhày ở bệnh nhân thuộc Vương quốc Anh
là 2,1%, thấp hơn đáng kể so với tỷ lệ chung trên toàn thế giới (5-15%). Có
một nghiên cứu tỷ lệ mắc u tuyến nước bọt tại vùng Bắc Mỹ rất cao, chỉ riêng
típ ung thư lympho-biểu mô đã chiếm 25% tổng số ung thư tại vùng địa dư
này [18]. Một điều tra khác chỉ ra rằng, tỷ lệ mắc ung thư tuyến nước bọt
trong quần thể người gốc Malaysia cao hơn hẳn người gốc Trung hoa và Da
đỏ. Một số nghiên cứu cũng chỉ ra sự khác biệt tỷ lệ mắc và tỷ lệ các típ ung
thư giữa các thành phố [20].
U tuyến nước bọt ít gặp ở trẻ em, nếu gặp u tuyến nước bọt trẻ em thì tỷ lệ
u ác tính cao hơn người lớn. Tổn thương khối tại tuyến nước bọt trẻ em có thể
là bất thường mạch máu, nang, viêm, u thực sự. Tổn thương khối hay gặp
nhất trong tuyến mang tai của trẻ em là hạch lympho. U lành hay gặp nhất
tuyến mang tai trẻ em là u máu. U biểu mô lành tính hay gặp nhất ở trẻ em là
u hỗn hợp (u tuyến đa hình) [11].
10
Tại Mỹ, có khoảng 2500 ca u tuyến nước bọt mới được chẩn đoán mỗi
năm. U tuyến mang tai chiếm 80% tổng số u tuyến nước bọt. Trong các tổn
thương dạng u tại tuyến mang tai, có 75 % là u thực sự, 25 % là các tổn
thương giả u (viêm, nang). Trong nhóm tổn thương u thực sự, 70-80% là u
lành tính. Loại trừ u Warthin, các u lành tuyến mang tai có tỷ lệ nam/nữ là
1/1, tuổi trung bình thường xung quanh 50 tuổi [9].
Phân bố theo vị trí, tuổi, giới
Có 64-80 % các u tuyến nước bọt biểu hiện ở tuyến mang tai, 7-11%
xuất hiện ở tuyến dưới hàm, <1% tuyến dưới lưỡi và 9-23% xuất hiện ở các
tuyến nước bọt phụ. Tỷ lệ ác tính tăng dần theo mức độ nhỏ của tuyến nước
bọt, tỷ lệ ác tính của u tuyến mang tai là 15-32%, của u tuyến dưới hàm là 41-
45%, của u tuyến dưới lưỡi là 70-90% và các tuyến nước bọt phụ là 50%. Có
đến 80-90% các u biểu hiện lưỡi, sàn miệng là u ác tính. Phụ nữ thường có tỷ lệ

bệnh cao hơn, tuy nhiên sự biến động tỷ lệ giới thay đổi lớn theo típ u. Độ tuổi
trung bình của u lành và ác tính của tuyến nước bọt lần lượt là 46 và 47 tuổi.
Nhóm mắc cao nhất là những người độ tuổi 60-70 tuổi [10],[17],[18],[19]. Mặc
dù vậy, nhóm tuổi mắc các típ ung thư biểu bì nhày, UTBM tế bào nang, các u
tuyến đa hình lại là 30-40 tuổi [18]. Nhóm bệnh nhân dưới 17 tuổi, tần suất
mắc các u trung mô của các tuyến nước bọt chính giống như u biểu mô của
người trưởng thành. Trong nhóm bệnh nhân này, các u tuyến đa hình, UTBM
biểu bì-nhày, UTBM típ tế bào nang tuyến chiếm khoảng 90% các u biểu mô,
tần suất các u lành tính và ác tính như nhau. Trong tất cả các típ mô bệnh học
u, u tuyến đa hình là loại hay gặp nhất, chiếm khoảng 50%. U warthin là loại
u lành tính hay gặp thứ 2. Trong nhóm u ác tính, ung thư biểu mô típ biểu bì-
nhày là loại hay gặp nhất. Hầu hết các u tuyến tế bào ống và ung thư biểu mô
tuyến đa hình độ thấp phát sinh từ các tuyến nước bọt phụ trong khi gần toàn
bộ u tuyến warthin thấy ở tuyến mang tai và các hạch quanh mang tai [18].
11
8. Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ.
Vai trò của virus: một số loại virus có vai trò trong bệnh sinh u tuyến
nước bọt như: EBV(Epsein Barr Virus) và UTBM típ limpho-biểu mô, nhưng
điều này không được chấp nhận trên các bệnh nhân thuộc Châu Á. EBV
không có vai trò rõ ràng trong các típ UTBM khác hoặc những vùng mô tuyến
lành lân cận. Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng vai trò bệnh nguyên của
EBV hoặc CMV (cytomegalovirus) trong bệnh sinh các u tuyến nước bọt lành
tính. SV40 có vai trò trong u tuyến đa hình nhưng không có mối tương quan
có tính thuyết phục nào giữa các u tuyến nước bọt và các loại virus khác như
HPV, virus sinh polyp…
Bức xạ: có những bằng chứng thuyết phục chứng minh mối liên quan
giữa phơi nhiễm với bức xạ ion hóa và phát sinh u tuyến nước bọt. Các
nghiên cứu theo dõi dọc trong một thời gian dài ở nhóm người còn sống phơi
nhiễm phóng xạ trong hai vụ nổ bom nguyên tử tại Hiroshima và Nagasaki
thấy tăng nguy cơ mắc u tuyến nược bọt lành tính gấp 3,5 lần, mắc ung thư

tuyến nước bọt gấp 11 lần so với nhóm chứng, nguy cơ này có liên quan trực
tiếp với mức độ phơi nhiễm. Nhóm người này có tần suất mắc cao với cả hai
loại u: UTBM biểu bì-nhày, u Warthin. Điều trị bằng bức xạ ion hóa, đặc biệt
là chiếu xạ vùng đầu cổ làm tăng rõ rệt nguy cơ mắc ung thư tuyến nước bọt.
Nguy cơ này cũng tăng lên trong các bệnh nhân điều trị bệnh lý tuyến giáp
bằng I
131
, bệnh nhân chụp răng định kỳ. Những người phơi nhiễm tia cực tím
cũng có tăng nguy cơ mắc bệnh. Chưa loại trừ nguy cơ đến từ việc phơi
nhiễm với khí Radon và sóng điện thoại di động.
Phơi nhiễm Nghề nghiệp: công nhân ở một số ngành công nghiệp có
tăng nguy cơ mắc bệnh như: chế biến cao su, công nghiệp thăm dò, công
nghiệp khai khoáng, công nghiệp sản xuất xe hơi, nhân viên tiệm cắt tóc,
làm đẹp. Quần thể người ở vùng Quebec- Canada có tăng nguy cơ với
phơi nhiễm ami-an.
12
Lối sống và dinh dưỡng: trong các nghiên cứu bệnh-chứng cho thấy,
không có sự liên quan nào giữa nghiện rượu, thuốc lá và u tuyến nước bọt.
Nghiên cứu của tác giả Horn-Ross và cộng sự chỉ ra nam giới có nguy cơ mắc
bệnh cao hơn nữ giới. Tuy nhiên điều đó có liên quan rõ giữa tỷ lệ hút thuốc
lá ở nam giới và tỷ lệ u Warthin của nhóm này (chỉ đối với u Warthin). Phơi
nhiễm với bụi silic, dầu dùng trong nấu ăn cũng làm tăng nguy cơ mắc
UTBM tuyến nước bọt trong quần thể người Trung quốc. Và nguy cơ sẽ tăng
cao hơn khi phơi nhiễm với Chromium, Nikel, bụi ami-ăng, bụi xi-măng
trong các nghiên cứu tại Châu Âu. Nguy cơ mắc bệnh cũng tăng lên trong
nhóm người ăn thức ăn giàu cholesterol [19].
9. CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ U TUYẾN MANG TAI
10. Chẩn đoán
1.3.1.1. Lâm sàng
Đa số các trường hợp u tuyến mang tai bao gồm cả lành tính và ác tính

chỉ biểu hiện là một khối u vùng mang tai mà không có triệu chứng cơ năng.
[2][3][9][20]. Khi khối u ở thùy sâu tuyến mang tai có thể gây phồng vùng
hàm ếch và amydal, u có thể phát triển và lan rộng trong khoang cạnh họng
gây triệu chứng nuốt vướng [20][21]. Đau xuất hiện khi có nhiễm trùng, chảy
máu, thoái hóa nang đối với các u lành tính, đau ở các khối u ác tính do u xâm
nhiễm thần kinh. Liệt thần kinh, hạch cổ sưng to là các dấu hiệu gơi ý một
khối u ác tính. Thời gian phát triển khối u không có ý nghĩa báo trước u ác
tính [2][3]. Các u tuyến mang tai lành tính thường có hình tròn, ranh giới rõ
có độ chun giãn và di động. Khi khối u hạn chế di động có thể do viêm, xơ
hóa hoăc khối u nằm ở thùy sâu của tuyến. Các u tuyến mang tai ác tính
thường có mật độ cứng, ít hoặc không có giới hạn, di động hạn chế hoặc
không di động, da vùng u có thể bị xâm nhiễm hoặc loét [20].
13
Cần thăm khám lâm sàng tỉ mỉ đánh giá sự di động, kích thước, xâm
nhiễm vào các cơ quan lân cận như da, xương. Đánh giá xâm lấn thần kinh
mặt, dây hạ thiệt, dây lưỡi, các nhánh khác của đám rối cổ, nhóm hạch cổ.
Cần khám tỉ mỉ các tuyến dưới hàm, dưới lưỡi, niêm mạc miệng.
1.3.1.2. Cận lâm sàng
Chọc hút tế bào: chọc hút tế bào là xét nghiệm cần làm khi chẩn đoán một
u tuyến nược bọt. Có thể tiến hành chọc hút dưới hướng dẫn của siêu âm, sử
dụng phương pháp đánh giá này đặc biệt có ý nghĩa với các khối u nhỏ, tránh
chọc vào dây thần kinh, mạch máu. Chọc hút kim nhỏ có khả năng phân biệt
tổn thương lành tính và ác tính trong khoảng 85% các trường hợp. Chọc hút
kim nhỏ cũng là phương pháp đơn giản và có giá trị cao trong phân biệt giữa
tổn thương viêm, lành tính, ác tính. Hơn nữa, thủ thuật này cũng giúp loại trừ
các nguyên nhân khác gây một khối tuyến mang tai như u lympho là loại u mà
phẫu thuật không phải là phương pháp điều trị được lựa chọn. Do đó, khi có
kết quả tế bào học và/hoặc mô bệnh học sẽ giúp phẫu thuật viên có kế hoạch
phẫu thuật đúng và hợp lý [1][[6].
Sinh thiết chẩn đoán: khi chọc hút kim nhỏ không xác định được tính chất

lành tính hay ác tính, cần chỉ định sinh thiết chẩn đoán mô bệnh học. Sinh
thiết mở được chỉ định đối với các khối u thùy nông tuyến mang tai. Hoặc cần
chỉ định sinh thiết kim ngay khi các nhà tế bào học thiếu kinh nghiệm và
không khẳng định chẩn đoán, nghi ngờ tổn thương là u lympho. Sinh thiết
kim cần phải thực hiện dưới hướng dẫn của siêu âm nhằm làm giảm nguy cơ
tổn thương thần kinh mặt và động mạch nuôi tuyến [2][27][28]. Sinh thiết
kim u tuyến mang tai dưới hướng dẫn của siêu âm là phương pháp rất có giá
trị trong chẩn đoán u tuyến mang tai. Theo Paris và cộng sự (2003) độ nhạy,
độ đặc hiệu, độ chính xác khi phát hiện khối u ác tính lần lượt là 87%, 94% và
14
91% [28]. Tác giả Đinh Xuân Thành và cs (2009), nghiên cứu 34 bệnh nhân
sinh thiết kim tuyến mang tai dưới hướng dẫn của siêu âm tại Bệnh viện Răng
Hàm Mặt Quốc Gia, đối chiếu kết quả sinh thiết và giải phẫu bệnh sau mổ cho
kết quả: kỹ thuật lấy được bệnh phẩm đạt 33/34 trường hợp đạt 97%, 1/34
trường hợp không rõ chẩn đoán do bệnh phẩm lấy ra không đủ tiêu chuẩn
chẩn đoán. Trong đó có 32/33 trường hợp có chẩn đoán phù hợp với chẩn
đoán mô bệnh học sau mổ, giá trị chẩn đoán phân biệt tổn thương lành tính,
ác tính đạt 100%, chẩn đoán các u ác tính có giái trị dự báo đạt 100%. Không
có biến chứng đáng kể nào xảy ra trong và sau khi làm thủ thuật [27].
Sinh thiết tức thì (cắt lạnh): trong chẩn đoán tất cả các ung thư đầu cổ đã
khẳng định vai trò của sinh thiết tức thì. Nhưng trong chẩn đoán ung thư
tuyến mang tai, vai trò của phương pháp này đang còn bàn luận. Một nghiên
cứu tổng kết 2460 ca thực hiện phương pháp sinh thiết tức thì cho thấy giá trị
trong phân biệt u lành hay u ác tính tuyến nước bọt của phương pháp này đạt
96%. Tỷ lệ âm tính giả là 1,1%, tỷ lệ dương tính giả là 2,6%. Những sai lầm
trong nhóm chẩn đoán dương tính giả của phương pháp này đều là u tuyến đa
hình. Trong sinh thiết tức thì, u tuyến đa hình hay được chẩn đoán quá mức
thành UTBM nang dạng tuyến, UTBM biểu bì nhày. UTBM biểu bì nhày là típ
hay bị chẩn đoán âm tính giả nhất. Các típ ung thư biểu mô tế bào nang tuyến, tế
bào nang dạng tuyến, UTBM đến sau u tuyến đa hình và một số u lim-phô là

những típ khó chẩn đoán chính xác trong sinh thiết tức thì [6].
Chẩn đoán hình ảnh: siêu âm, chụp cộng hưởng từ (MRI), chụp cắt lớp vi
tính (CT-scan) là các phương pháp chẩn đoán hình ảnh u tuyến nược bọt.
Chẩn đoán hình ảnh được dùng để vẽ bản đồ sự xâm lấn của khối u và mô tả
được các đặc điểm khối u. Một số khối u lành tính như u tuyến đa hình, u
Warthin có thể được chẩn đoán xác định bằng chẩn đoán hình ảnh, tuy nhiên
15
chẩn đoán hình ảnh không bao giờ có giá trị là tiêu chuẩn vàng loại trừ ác
tính. Các đặc điểm của u ác tính trên hình ảnh như bờ khối u không rõ ràng,
xâm lấn cấu trúc lân cận, hạch di căn [10][11][12][13][29].
Siêu âm là một thủ thuật đầu tiên được chỉ định để thăm khám chẩn đoán
đối với một khối u TMT. Tuy nhiên, chụp CLVT, CHT được chỉ định khi có
gợi ý lâm sàng khối u có nguy cơ ác tính cao. CLVT, CHT đánh giá toàn bộ
khối u, sự xâm nhiễm khối u của thùy sâu tuyến mang tai, sự xâm lấn khối u
vào khoang cạnh khẩu hầu. Xét một cách toàn diện, CHT có một số ưu điểm
vượt trội so với CLVT trong chẩn đoán u tuyến mang tai trong chẩn đoán xâm
nhiễm phần mềm như các xâm nhiễm thần kinh đặc biệt thần kinh mặt và
nhạy hơn CLVT trong phát hiện di căn xương [29].
1.3.1.3. Phân loai mô bệnh học u tuyến mang tai
Theo phân loại của tổ chức Y tế thế giới năm 1991, bổ xung năm 1992.
U tuyến nước bọt được phân loại như sau:
U biểu mô lành tính tuyến nước bọt
- U tuyến đa hình thái
- U cơ-biểu mô
- U tuyến nang bạch huyết (U Warthin hay Cysadéno lymphome)
- U tuyến dạng tế bào đáy
- U tuyến dạng ống tuyến
- U tế bà ưa a xít (Oncocytome)
- U nhú dạng ống
+ U biểu mô tuyến nước bọt dạng nhú chia nhánh

+ U nhú đảo ngược
+ U nhú nội ống
16
- U tuyến bạch huyết và u tuyến dạng bã
- U nguyên bào tuyến nước bọt
Ung thư biểu mô tuyến nước bọt
- Ung thư biểu mô tuyến dạng tế bào tuyến nang
- Ung thư biểu mô biểu bì- nhày
- Ung thư biểu mô dạng tuyến nang
- Ung thư biểu mô tuyến đa hình thái độ thấp
- U hỗn hợp ác tính
+ Ung thư biểu mô trên u tuyến đa hình thái
+ Ung thư biểu mô dạng liên kết
+ U hỗn hợp dạng di căn
- Ung thư biểu mô vảy
- Ung thư biểu mô tuyến dạng tế bào đáy
- Ung thư biểu mô -cơ biểu mô
- Ung thư biểu mô tuyến tế bào sáng
- Ung thư biểu mô tuyến nang
- Ung thư biểu mô không biệt hóa
+ Ung thư biểu mô không biệt hóa loại tế bào nhỏ
+ Ung thư biểu mô không biệt hóa loại tế bào lớn
+ Ung thư biểu mô – bạch huyết biểu mô
- Ung thư biểu mô ưa a xít, ung thư biểu mô ống tuyến nước bọt
- Ung thư biểu mô tuyến dạng bã
- Ung thư biểu mô dạng cơ biểu mô, ung thư biểu mô tuyến vảy
- Ung thư biểu mô không xếp loại
17
Các loại u không thuộc u biểu mô tuyến
- U lành tính

+ U máu lành tính: U mạch, u bạch mạch, u máu – bạch mạch
+ U thần kinh lành tính: U xơ thần kinh
+ U lành tổ chức liên kết
+ U mỡ
- U ác tính: Ung thư tổ chức liên kết: Ung thư mạch – tổ chức liên
kết, ung thư mỡ- tổ chức liên kết, ung thư tổ chức liên kết Kaposi.
Các u di căn tuyến nước bọt: là những u di căn từ nơi khác đến tuyến nước
bọt, hay gặp nhất là di căn của ung thư biểu mô vảy, ung thư hắc tố.
11. Điều trị
Phẫu thuật là phương pháp điều trị cơ bản đối với u tuyến mang tai nói
chung và ung thư tuyến mang tai nói riêng, phẫu thuật u tuyến mang tai cần phải
đạt được hai yếu tố cơ bản là lấy bỏ toàn bộ khối u với diện cắt đảm bảo về mặt
bệnh học và hạn chế tối đa những biến chứng và di chứng của phẫu thuật, trong
đó quan trọng nhất là tình trạng liệt mặt sau mổ. Đối với ung thư tuyến mang tai
giai đoạn sớm, độ mô học thấp có thể điều trị khỏi bằng phẫu thuật đơn thuần.
Xạ trị bổ trợ sau phẫu thuật đối với trường hợp bệnh ở giai đoạn muộn, độ mô
học cao, có di căn hạch cổ đã được chứng minh tăng khả năng kiểm soát tại chỗ,
tại vùng và kéo dài thời gian sống thêm trong u tuyến mang tai ác tính. Tia xạ
đơn thuần được áp dụng trong trường hợp bệnh tái phát hoặc ở giai đoạn muộn
không còn khả năng phẫu thuật [14][19][20][30][31].
11.1.1.1. Các phương pháp phẫu thuật
Các phương pháp phẫu thuật bao gồm
- Phẫu thuật lấy bỏ nhân khối u: là phẫu thuật lấy bỏ khối u trong vỏ xơ có
thể kèm theo một phần nhu mô tuyến. Phẫu thuật này có ưu điểm đơn giản, dễ
18
thực hiện thường được áp dụng với loại u lympho tuyến nằm ở cực dưới của
tuyến, còn với những trường hợp khác thì biện pháp này hiện nay không còn
được thự hiện bởi lý do:
+ Không kiểm soát tốt đường đi và phân nhánh của dây VII, dễ làm tổn
thương trong quá trình phẫu tích dẫn đến liệt mặt ngoại biên sau mổ.

+ Tỷ lệ tái phát khá cao, từ 20 – 45 %, do không lấy triệt để các tế bào
nằm xung quanh khối u [20][21][30][31].
- Phẫu thuật cắt thùy nông tuyến mang tai: là phẫu thuật cắt toàn bộ khối u
cùng thùy nông của tuyến (phần nhu mô tuyến nằm phía ngoài bình diện dây
thần kinh VII), được chỉ định cho các khối u ở thùy nông và phần nhu mô
tuyến bao quanh không quá mỏng, trong trường hợp ung thư, phần nhu mô
tuyến bao quanh khối u cần phải đạt > 1cm [21][30]. Đây cũng là kỹ thuật
thường được áp dụng nhất nhằm tránh tất cả các nguy cơ của phẫu thuật của
lấy khối u đơn thuần.
- Phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến mang tai: được thực hiện khi khối u nằm ở
thùy sâu, hoặc với khối u thuộc thùy nông nhưng có hướng phát triển về phía
thùy sâu và phần nhu mô tuyến bao quanh quá mỏng (khối u lúc này tiếp xúc
với mặt nông các nhánh dây VII). Trong trường hợp này thân hoặc nhánh của
dây VII có thể bị cắt đoạn theo yêu cầu bệnh tích, song thái độ bảo tồn tối đa
dây VII là yêu cầu luôn được đặt ra cho phẫu thuật viên.
- Phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến mang tai mở rộng: loại phẫu thuật này ngoài
việc lấy toàn bộ tuyến còn cắt bỏ những cấu trúc giải phẫu lân cận như da
vùng tuyến mang tai, ống tai ngoài, vành tai, mỏm chũm….nếu khối u ác tính
xâm lấn đến tổ chức này.
1.3.2.2 Tai biến, biến chứng
Phẫu thuật u tuyến mang tai là loại phẫu thuật tinh tế do phải phẫu tích
các nhánh của dây VII trên một nhu mô giàu mạch máu. Các biến chứng có
19
thể xảy ra ngay sau phẫu thuật, hoặc sau một thời gian. Nói chung có hai
nhóm biến chứng:
- Biến chứng không đặc trưng cho phẫu thuật tuyến mang tai
- Biến chứng đặc trưng cho phẫu thuật tuyến mang tai
*Nhóm biến chứng không đặc trưng
Các biến chứng sớm trong vòng 10 ngày đầu.
- Chảy máu, tụ máu sau mổ: biến chứng này có thể gặp do vùng phẫu

tích rất giàu mạch máu, nhưng thường mức độ không nhiều lắm, nên thường
không cần phẫu thuật lại và có thể phòng ngừa bằng việc cầm máu tỷ mỷ khi
kết thúc cuộc mổ, băng ép đủ chặt cũng như dẫn lưu tốt.
- Nhiễm khuẩn vết mổ, chậm liền vết mổ: ít gặp, do không đảm bảo
nguyên tắc vô trùng hoặc trường hợp khối máu tụ bội nhiễm. Xử trí bằng việc
dùng kháng sinh, bơm rửa hốc mổ bằng huyết thanh mặn đẳng trương và hoặc
Bethidin kết hợp dẫn lưu tốt.
Các biết chứng muộn
- Hoại tử da vết mổ: thường chỉ xảy ra ở dưới thùy tai hay gặp khi đường
rạch da ở thùy này tạo nên góc nhọn thay vì đường cong, nhất là trên những
người hút thuốc lá.
- Sẹo lồi: rất dễ xảy ra trên cơ địa sẹo lồi, tuy nhiên rất hiếm gặp.
* Nhóm biến chứng đặc trưng
Các biến chứng sớm:
- Liệt mặt: liệt mặt có thể hoàn toàn hoặc không tùy theo tình trạng tổn
thương của nhánh hay thân dây VII. Tuy nhiên đa số các trường hợp là liệt
mặt tạm thời, sẽ phục hồi sau một thời gian (từ vài tuần đến vài tháng) và
thường là liệt nhánh của dây VII, trong đó hay gặp nhất là nhánh cổ mặt.
20
Nguyên nhân của tình trạng liệt mặt tạm thời có thể do chấn thương dây
VII trong quá trình phẫu thuật, rất hay gặp do tình trạng kéo căng đột ngột
dây VII, do tổn thương mạch nuôi, do phù nề. Liệt mặt vĩnh viễn sảy ra do cắt
đứt dây VII, trong trường hợp cắt dây VII nên tiến hành nối hoặc gép đoạn
dây VII sớm nhằm tránh những biến chứng liệt mặt.
- Rò tuyến mang tai: nguyên nhân rò tuyến mang tai là do phần tuyến để
lại tiếp tục tiết nước bọt qua vết mổ, hoặc nước bọt đọng lại thành túi ở vùng
mổ. Xử trí bằng cách băng ép, tia xạ với liều thích hợp (khoản 2000 rads) sẽ
làm giảm tạm thời hoạt động của phần tuyến nước bọt còn lại để đường rò
được lấp lại. Nếu các phương pháp này không có tác dụng, có thể phẫu thuật
làm sạch hoặc thậm chí cắt bỏ phần tuyến còn lại.

- Khít hàm: ít gặp và nhanh phục hồi, nguyên nhân có thể sang chấn cơ
cắn hoặc khớp thái dương hàm khi mổ (do động tác kéo Farabeuf ra trước).
- Lõm da vùng tuyến mang tai: di chứng này luôn xảy ra trong mọi
trường hợp bởi sự thiếu hụt tổ chức sau phẫu thuật. Để làm giảm tình trạng
này, việc bóc tách vạt cân cổ nông phủ vùng tuyến mang tai sẽ mang lại một
lợi ích lớn. Ngoài ra các vạt cơ ức đòn chũm, cơ nhị thân, cân cơ thái dương
khi phủ vào hốc mổ cũng giúp cải thiện kết quả.
Biến chứng muộn: hội chứng Frey
Hội chứng này bao gồm các biểu hiện: tiết mồ hôi, nóng và đỏ da vùng
mang tai xảy ra khi ăn. Hội chứng này được Dupheix mô tả lần đầu năm
1726, tới năm 1923 tác giả Lucie Frey người Ba Lan đã tìm ra cơ chế bệnh
sinh và gọi đây là hội chứng tai thái dương.
Các triệu chứng xuất hiện sau phẫu thuật 1-2 tháng thậm chí vài năm nhưng
hay gặp nhất là sau 6 tháng, đây là thời điểm mà những nhánh đối giao cảm chi
phối tiết dịch cho tuyến mọc trở lại sau khi bị cắt trong quá trình phẫu thuật, đi vào
21
tuyến mồ hôi, mạch máu trong da, vốn do thần kinh giao cảm chi phối cũng đã bị
cắt đứt khi phẫu tích kết quả làm xuất hiện hội chứng Frey khi ăn.
Các test phát hiện hội chứng Frey:
- Test Minor: bôi lên da vùng mang tai dung dịch gồm cồn iod, dầu
thầu dầu, cồn 95
0
C, cho bệnh nhân nhai một lát chanh tươi, test dương tính
nếu hội chứng Frey xuất hiện làm màu của Iod đổi sang xanh.
- Test giấy thấm (Blotting paper): so sánh trọng lượng giấy thấm
trước và sau khi thấm mồ hôi nếu có, xuất hiện khi ăn.
Nhìn chung, hội chứng Frey thường nhẹ và bệnh nhân cũng không chú ý
nhiều nên ít khi phải can thiệp điều trị. Việc điều trị được đặt ra khi những rối
loạn này gây khó nhiều cho bệnh nhân. Các phương pháp điều trị bao gồm:
Điều trị nội khoa

- Thuốc chống tiết dịch: kem Glycopyrolate 0,1% bôi lên da trước khi
ăn
- Thuốc kháng cholinergic: kem Scopolamine bôi da tác dụng sau 4 ngày
Do thuốc có thể ngấm vào mạch máu nên đôi khi gặp tác dụng phụ
(thường nhẹ) như mạch nhanh, khô miệng, rối loạn tiểu tiện
Điều trị ngoại khoa: ít khi thực hiện.
- Cắt dây nhĩ ( thần kinh Jacobson) kết quả không ổn định
- Cắt thừng nhĩ: thường phối hợp với cắt dây nhĩ
- Đặt mảnh cân cơ thái dương vạt cơ ức đòn chũm vào hốc mổ
Xạ trị: cũng được một số tác giả đề nghị nhưng không cải thiện nhiều
hội chứng này.
11.2. TÁI PHÁT
Tất các các khối u tuyến mang tai đều có thể tái phát nếu như lần điều
trị đầu tiên không triệt để, vấn đề này đôi khi cần những phẫu thuật chuyên
22
biệt nhằm giải quyết tối ưu về mặt khối u cũng như trên phương diện chức
năng dây VII.
Sự tái phát gặp nhiều nhất trong các khối u tuyến đa hình thái, thông
thường bắt nguồn từ việc lấy bỏ khối u và phần nhu mô bao quanh khối u một
cách không đầy đủ, điển hình là phẫu thuật lấy bỏ nhân khối u đơn thuần, với
tỷ lệ tái phát lên tới 20-45% trong thời gian ngắn, tỷ lệ này giảm một cách có
ý nghĩa khi thực hiện lấy bỏ khối u cùng thùy nông hay toàn bộ tuyến mang
tai, chỉ còn 2% và trong thời gian khá dài từ 10-20 năm. Ngoài ra sự tái phát
của u tuyến đa hình thái có thể bắt nguồn do sự chuyển dạng ác tính về mô
học nhưng căn nguyên này cũng hiếm khi xảy ra.
23
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Gồm các bệnh nhân được chẩn đoán u biểu mô lành tính tuyến mang tai,

chẩn đoán dựa vào kết quả giải phẫu bệnh sau mổ, được khám và điều trị tại
Bệnh viện K từ tháng 01 năm 2009 đến hết tháng 9 năm 2013.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
- Có kết quả giải phẫu bệnh là u biểu mô lành tính tuyến mang tai
- Được điều trị phẫu thuật
- Hồ sơ lưu trữ đầy đủ
- Có thông tin theo dõi sau điều trị
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Hồ sơ nghiên cứu không đầy đủ.
- Các trường hợp không có kết quả mô bệnh học.
- Các trường hợp u tuyến mang tai có mô bệnh học không phải là u biểu
mô lành tính tuyến mang tai.
- Các bệnh nhân đã được điều trị phẫu thuật từ tuyến trước đến khám và
điều trị vì tái phát.
- Bệnh nhân có các bệnh lý thần kinh gây liệt mặt mà không phải do
bệnh lý u tuyến mang tai.
- Các bệnh nhân không có thông tin theo dõi sau điều trị
2.2. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mô tả hồi cứu và tiến cứu có theo dõi dọc.
24
2.3. CỠ MẪU NGHIÊN CỨU
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho việc ước tính một tỷ lệ
N: cỡ mẫu
P: tỷ lệ mắc u biểu mô lành tính tuyến nước bọt mang tai trong bệnh lý khối
u toàn cơ thể (P= 0,001- 0,0038 theo kết quả của các nghiên cứu trước) [1].
α: Mức ý nghĩa thống kê
Z
2
1-α/2
: giá trị thu được từ bản Z tương ứng với mức α được chọn

d: khoảng sai lệch mog muốn giữa tỷ lệ thu được từ mẫu và tỷ lệ của
quần thể (d=0,01- 0,05).
Chọn P=0,01; α=0,05; d=0,02
Tra bảng ta có Z
2
1-α/2
= 1,96
Áp dụng công thức tính được cỡ mẫu tối thiểu là 90 bệnh nhân.
2.4. PHƯƠNG PHÁP CHỌN MẪU
Chọn mẫu theo phương pháp thuận tiện, lấy tất cả các bệnh nhân có đủ
tiêu chuẩn vào nghiên cứu
2.5. CÁC BIẾN SỐ NGHIÊN CỨU
Sử dụng tư liệu trong hồ sơ bệnh án, trực tiếp khám bệnh nhân với
nhóm tiến cứu và những bệnh nhân đến khám lại, thu thập thông tin theo mẫu
bệnh án in sẵn về các biến số sau:
25
2.5.1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng
2.5.1.1. Lâm sàng
- Tuổi, giới
- Các triệu chứng cơ năng: đau tại u, ù tai, tê bì vùng mang tai, nuốt
vướng, sốt
- Thời gian từ khi phát hiện bệnh đến khi vào viện, thời gian được tính
theo tháng
-Tình trạng toàn thân: ghi nhận các yếu tố ảnh hưởng của bệnh tới toàn
thân như như gầy sút, sốt.
- Đặc điểm u khi khám
+ Vị trí u: bên phải, bên trái
+ Mật độ: mềm, chắc
+ Ranh giới:rõ, không rõ
+ Kích thước:đo đường kính u lớn nhất (đơn vị đo mm)

+ Độ di động u: di động dễ, hạn chế, không di động
+ Các triệu chứng đi kèm: đau tại u, liệt VII ngoại biên, khít hàm, dấu
hiệu đẩy lồi thành bên họng
2.5.1.2.Cận lâm sàng
- Siêu âm:vị trí u thuộc thùy nông hay thùy sâu, số lượng u, mật độ u,
ranh giới u, hình dạng tình trạng xâm lấn các cấu trúc xung quanh, tình trạng
hạch cổ.
- Chụp cắt lớp vi tính:

×