Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Bước đầu nghiên cứu đặc điểm khối tế bào gốc máu ngoại vi dùng điều trị một số bệnh máu tại viện huyết học truyền máu trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (873.86 KB, 96 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ghép tế bào gốc tạo máu là quá trình truyền tế bào gốc vào máu như
truyền máu, sau khi đã điều kiện hóa với hóa trị liệu hay xạ trị, nhằm tiêu diệt
tế bào ác tính và tạo điều kiện cho quá trình mọc ghép. Đây là phương pháp
điều trị hiện đại hiệu quả cho bệnh lý huyết học và một số bệnh lý khác. Trên
Thế giới, ghép tế bào gốc tạo máu đã phát triển, số lượng ca ghép tăng lên rất
nhanh.Theo báo cáo của J. Douglas Rizzo, Trung tâm nghiên cứu Ghép máu
và tủy xương (CIBMTR): Năm 1999, có khoảng 5 000 ca ghép đồng loại,
6 000 ca ghép tự thân. Nhưng đến năm 2009, tăng lên 27 000 ca ghép đồng
loại và 33 000 ca ghép tự thân .
Hiện nay, nguồn tế bào gốc sử dụng cho ghép chủ yếu được lấy từ máu
ngoại vi, tủy xương, máu dây rốn. Tuy nhiên do có nhiều ưu điểm như: Không
cần gây mê, thủ thuật ít xâm lấn nên nguồn tế bào gốc máu ngoại vi chiếm phần
lớn các ca ghép tế bào gốc tạo máu: 80% các ca ghép đồng loại, 95% các ca
ghép tự thân (CIBMTR-2010). Tại Viện HH-TM Trung ương, tế bào gốc máu
ngoại vi được sử dụng cho tất cả các ca ghép đồng loại và tự thân.
Quá trình thu nhận tế bào gốc là công đoạn đầu tiên và quan trọng của
ghép tế bào gốc tạo máu để cung cấp khối tế bào gốc đảm bảo số lượng tế bào
gốc (TB CD34+) cho ghép. Trên thực tế, khi tiến hành thu nhận tế bào gốc
máu ngoại vi huy động có khoảng 5 – 30 % các ca thu nhận thất bại , , . Việc
tiến hành thu nhận lại gây tốn kém, phiền toái cho BN/NH và BN có thể mất
lựa chọn ghép như một phương pháp điều trị. Vì vậy các Trung tâm ghép đã
quan tâm nghiên cứu vấn đề này nhằm giảm thiểu các ca thất bại thu nhận tế
bào gốc , , , , , .
Khối TBG sau thu nhận có thể được truyền ngay trong vòng 24h - 72h
(khối TBG tươi – fresh stem cells graft ), cũng có thể bảo quản đông lạnh
trong nhiều năm (khối TBG đông lạnh – cryopreserved stem cells graft ).
2
Trong quá trình bảo quản, đặc biệt bảo quản đông lạnh, các TBG tạo máu có
thể bị ảnh hưởng như: Mất tế bào, giảm tỷ lệ tế bào sống, nhiễm khuẩn,…. do


đó việc có các quy trình xử lý, bảo quản tế bào gốc sau thu nhận là rất quan
trọng. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu khảo sát đánh giá khối tế bào gốc
sau bảo quản đông lạnh , , , có nghiên cứu đã chỉ ra không có sự khác biệt về
thời gian mọc mảnh ghép khi dùng khối tế bào gốc đông lạnh hay dùng khối
tế bào gốc tươi .
Tại Viện HH-TM Trung ương, quá trình thu nhận tế bào gốc đã được
tiến hành từ năm 2006, và quá trình bảo quản đông lạnh tế bào gốc được thực
hiện từ 9/2012. Việc nghiên cứu về đặc điểm khối tế bào gốc máu ngoại vi
phục vụ cho điều trị ghép là thực sự có ý nghĩa nhằm đảm bảo khối tế bào gốc
đạt các tiêu chuẩn cho ghép tế bào gốc tạo máu, góp phần vào thành công của
điều trị ghép. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó chúng tôi tiến hành nghiên
cứu: “Bước đầu nghiên cứu đặc điểm khối tế bào gốc máu ngoại vi dùng
điều trị một số bệnh máu tại Viện HH- TM Trung ương” với hai mục tiêu:
1. Khảo sát kết quả thu nhận khối tế bào gốc máu ngoại vi.
2. Mô tả một số đặc điểm của khối tế bào gốc máu ngoại vi đông lạnh.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 TẾ BÀO GỐC TRONG QUÁ TRÌNH TẠO MÁU
1.1.1 Đặc điểm tế bào gốc tạo máu
Các tế bào gốc được định nghĩa dựa trên ba đặc trưng cơ bản, đó là khả
năng tự tái tạo, khả năng biệt hóa đa dòng và khả năng phục hồi mô tạo máu.
Ngoài ra còn một số đặc điểm khác như khả năng di chuyển từ tủy ra máu,
tính mềm dẻo trong biệt hóa và chết theo chương trình
 Khả năng tự tái tạo
Bằng chứng rõ ràng về khả năng tự tái tạo của các tế bào gốc là việc
cung cấp liên tục các tế bào máu trong suốt cuộc đời của một cá thể.Khả năng
này liên quan chặt chẽ với hoạt tính của enzyme tổng hợp chuỗi có khả năng
tổng hợp chuỗi DNA mới. Ở người, thời gian tổng hợp chuỗi DNA rất ngắn
trong quá trình phân bào của tế bào gốc, đặc biệt khi tác động mạnh (stress)

như trong quá trình ghép.
 Khả năng biệt hóa đa dòng
Tế bào gốc tạo máu có khả năng biệt hóa thành tất cả các tế bào máu,
ban đầu tạo các tế bào định hướng dòng tủy và dòng lympho. Các tế bào định
hướng dòng lympho sẽ phân chia và biệt hóa thành các dòng lympho T, B và
NK. Các tế bào gốc định hướng dòng tủy sẽ phân chia và biệt hóa thành các tế
bào đầu dòng bạch cầu hạt, dòng mono, dòng mẫu tiểu cầu, dòng hồng cầu.
 Khả năng hồi phục mô tạo máu
Các y văn sớm nhất đã công bố về khả năng phục hồi mô tạo máu của
tế bào gốc dựa trên thực nghiệm ghép trên chuột sau khi chiếu xạ liều chí
tử.Tương tự như vậy, các tế bào gốc ở người cũng đặc trưng bởi đặc tính quay
4
trở lại tủy xương và tái tạo mô tạo máu. Sau khi trở lại, cư trú tại tủy xương,
các tế bào gốc tạo máu tăng sinh và biệt hóa, đáp ứng với những tín hiệu kích
thích từ môi trường đệm gian bào.
Hình 1.1. Sơ đồ biệt hóa tạo máu
1.1.2 Vị trí sinh máu
Sinh máu ở người là đỉnh cao của sự tiến hóa, quá trình sinh sản các tế
bào máu đạt tới mức hoàn thiện nhất với một cơ chế điều hòa tinh tế nhất. Có
thể chia sinh máu ở người thành 3 thời kỳ chính là (1) sinh máu trong thời kỳ
phôi thai, (2) sinh máu thời kỳ sơ sinh và trẻ em, cuối cùng là (3) sinh máu
người trưởng thành.
Ngay từ tuần thứ 8 của phôi, sinh máu đã bắt đầu được hình thành bởi
các tiểu đảo Woll – Pander, gọi là sinh máu trung bì phôi.Từ tuần thứ 4 trở đi,
sinh máu được thực hiện tại trung mô trong phôi mà rõ nhất ở gan và lách.
Đến tháng thứ 3 thì tủy xương, hạch và tuyến ức cũng bắt đầu quá trình sinh
máu. Sinh máu thời kỳ phôi thai là quá trình biệt hóa không ngừng và rất
mạnh mẽ. Lúc đầu ở đâu có một mảnh trung mô thì ở đó có sinh máu nhưng
5
dần khu trú hẳn về tủy xương, lách và hạch lympho; Các dòng tế bào máu

cũng dần được hoàn thiện về số lượng, hình thái, chức năng và cả tính kháng
nguyên bề mặt. Sau khi trẻ ra đời, sinh máu khu trú dần ở 3 cơ quan chính,
trong đó tủy xương giữ vai trò chủ yếu .
Hình 1.2. Vị trí sinh máu
1.1.3 Các phương pháp xác định tế bào gốc tạo máu
Các nghiên cứu về tế bào gốc tạo máu gặp nhiều khó khăn vì chúng
phân bố rải rác trong các mô tạo máu và không có các dấu ấn đặc trưng hay
các kỹ thuật đặc hiệu hoàn toàn để xác định chính xác tế bào gốc tạo máu.
Hầu hết các nghiên cứu đều sử dụng một tập hợp nhiều phương pháp để xác
định và phân lập tế bào gốc: Xác định dấu ấn màng tế bào, nuôi cấy in vitro,
đếm tế bào gốc trong ghép.
 Phương pháp xác định dấu ấn màng tế bào
Dấu ấn màng tế bào là nhóm các phân tử tế bào đặc hiệu đơn dòng tế
bào máu và tế bào miễn dịch, hay còn gọi là cụm kháng nguyên biệt hóa (CD-
Cluster of differentiation antigen ). Quá trình hình thành các dấu ấn gắn liền
với quá trình phát triển tế bào máu. Sự phát triển và biệt hóa thành các dòng
Thời kỳ phôi thai Thời kỳ sơ sinh và trẻ em Thời kỳ trưởng thành
Trước sinh Sau sinh
Túi noãn hoàng
Tủy xương
Tủy xương
Gan
X. chày
Xương ức
Xương sườn
X. đùi
Xương sống
lách
6
tế bào có chức năng riêng. Các tế bào đều có kháng nguyên đặc hiệu riêng. Sử

dụng các kháng nguyên này có thể xác định chính xác dòng tế bào. Việc xác
định các kháng nguyên này nhờ các kháng thể đặc hiệu đơn dòng tương ứng
và được thực hiện trên máy đếm tế bào dòng chảy – Flowcytometry.
Tế bào gốc tạo máu có mang kháng nguyên biệt hóa CD34. Hiện nay,
CD34 được chấp nhận là dấu ấn đại diện cho các tế bào gốc tạo máu. Số
lượng tế bào gốc trong các đơn vị khối tế bào gốc được coi như là số lượng
các tế bào CD34+, .
 Phương pháp nuôi cấy in vitro
Một số hệ thống nuôi cấy đã được phát triển và áp dụng để đếm các tế
bào gốc ở chuột và người, bao gồm kỹ thuật tạo cụm tế bào (CFC), kỹ thuật
tạo cụm tế bào có khả năng tăng sinh cao (HPPCFC), kỹ thuật nuôi cấy tế bào
dài hạn (LTC- ICs) và cải tiến (E- LTC- ICs).
Ứng dụng kỹ thuật nuôi cấy có thể giúp đếm các tế bào gốc tạo máu đa
tiềm năng ở người. Nguyên lý của kỹ thuật này là lựa chọn quần thể tế bào
gốc nguyên phát, nuôi cấy trong điều kiện có đầy đủ các yếu tố kích thích
tăng sinh dòng, tạo điều kiện cho quá trình biệt hóa theo hướng dòng tủy và
dòng lympho. Tuy nhiên kỹ thuật này không đánh giá được khả năng tái cư
trú của các tế bào gốc trở lại tủy xương mà khả năng này chỉ đánh giá được
trong quá trình ghép .
 Phương pháp xác định tế bào gốc trong quá trình ghép
Trên thực nghiệm: Các tế bào gốc của người được xác định gián tiếp qua
ghép dị loài vào chuột được chiếu xạ liều chí tử. Sự có mặt tế bào gốc người
trong tủy xương của động vật nhận ghép được đánh giá bằng các dấu ấn đặc
trưng của người như: CD45+, DNA đặc trưng của người. Đây là điểm quan
trọng để đánh giá ghép thành công, xác định sự có mặt của tế bào gốc được
tiêm vào và khả năng hồi phục mô tạo máu cho động vật thực nghiệm .
7
Trên lâm sàng: Khi tiến hành ghép tế bào gốc tạo máu đồng loại, việc xác
định các tế bào gốc của người hiến ở cơ thể người nhận có thể được thực hiện
nhờ các phương pháp sau :

 Kết quả hồi phục bạch cầu đoạn trung tính và tiểu cầu của BN được
ghép sau khi điều kiện hóa diệt tủy. Sự mọc ghép này được đánh giá
qua xét nghiệm tổng phân tích tế bào máu (TPTTBM ).
 Dựa vào các dấu ấn đặc trưng, khác biệt giữa người hiến và người
nhận, từ đó xác định các tế bào máu trong cơ thể người được ghép là
của người hiến hay của chính BN. Các phương pháp được sử dụng
như: FISH (Fluorescent In Situ Hybridization - Kỹ thuật lai tại chỗ
phát huỳnh quang), PCR (polymerase chain reaction - Phản ứng tổng
hợp chuỗi),….
1.1.4 Ứng dụng lâm sàng tế bào gốc tạo máu
Các nghiên cứu về đặc điểm sinh học của tế bào gốc đã góp phần làm
sáng tỏ về quá trình tự tái tạo, biệt hóa và chết theo chương trình. Những kiến
thức về chu trình tế bào giúp hoàn thiện ứng dụng ghép tế bào gốc tạo máu
trên lâm sàng - một phương pháp điều trị hiệu quả cho nhiều bệnh lý ác tính
và không ác tính cơ quan tạo máu cũng như các bệnh lý cơ quan khác. Có 2
hình thức ghép :
a. Ghép tế bào gốc tạo máu đồng loại (Allogeneic HSCT): Là hình thức
ghép trong đó khối tế bào gốc tạo máu được lấy từ anh, chị, em ruột hay
người cho không cùng huyết thống phù hợp HLA truyền cho BN sau khi đã
kết thúc điều kiện hóa. Mục đích của phương pháp này là sửa chữa thay thế
các tế bào tạo máu bị tổn thương, tạo hiệu quả mảnh ghép chống khối u và hỗ
trợ hóa trị liều cao. Phương pháp này áp dụng trong điều trị một số bệnh như:
STX, Bệnh Thallasemia, LXMc,…
8
b. Ghép tế bào gốc tạo máu tự thân (Autologous HSCT): Là hình thức
ghép trong đó khối tế bào gốc tạo máu được lấy từ chính người được ghép
và truyền trả lại cho BN sau khi đã kết thúc điều kiện hóa. Phương pháp
này dùng phối hợp với hóa trị liệu liều cao áp dụng trong điều trị một số
bệnh như: U lympho non Hodgkin, U lympho Hodgkin, Đa u tủy xương,
Lơ xê mi cấp,…

1.2 THU NHẬN TẾ BÀO GỐC MÁU NGOẠI VI
1.2.1 Các nguồn cung cấp tế bào gốc
Đến nay, nguồn tế bào gốc tạo máu sử dụng cho ghép trên lâm sàng có
thể được lấy từ tủy xương, từ máu ngoại vi sau quá trình huy động bằng
Cytokin và/ hoặc kết hợp với hóa trị liệu, từ máu dây rốn .
Tế bào gốc tủy xương
Tế bào gốc tạo máu tủy xương là nguồn tế bào gốc đầu tiên được sử
dụng trong ghép tế bào gốc tạo máu.Trong tủy xương, có lượng khá cao tế
bào CD34+(khoảng 1/100 đến 1/10000 tế bào có nhân trong tủy).Tuy nhiên
hạn chế lớn của tế bào gốc tủy xương là chọc hút tủy phải gây mê, bệnh
nhân / người cho phải nằm viện 1 tuần. Thêm vào đó, sau khi kết thúc thu
nhận, BN/NH có thể bị mất nhiều máu do đó phải truyền máu, khi đó sẽ có
nguy cơ lây nhiễm bệnh truyền máu cho bệnh nhân và người hiến.
Tế bào gốc máu dây rốn
Trong những năm gần đây, nguồn tế bào gốc từ máu dây rốn ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp tế bào gốc cho ghép tế bào gốc
đồng loại, với các ưu điểm vượt trội như: Giàu tế bào định hướng tạo máu ở
giai đoạn sớm, khả năng sinh sản cao gấp 2 lần tế bào gốc tủy xương, việc thu
gom lại khá đơn giản lấy từ nguồn đáng lẽ bỏ đi. Ngoài ra khi ghép tế bào gốc
máu dây rốn yêu cầu phù hợp HLA là ≥4/6, trong khi đó nếu ghép tế bào gốc
9
đồng loại lấy từ tủy xương và máu ngoại vi huy động thì lại yêu cầu phù hợp
HLA ≥5/6. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của tế bào gốc máu dây rốn là số
lượng tế bào gốc thấp hơn, thời gian mọc mảnh ghép chậm hơn so với tế bào
gốc tủy xương và tế bào gốc máu ngoại vi.
Tế bào gốc huy động ra máu ngoại vi:
Đây là nguồn tế bào định hướng tạo máu từ tủy xương, được huy động
ra máu ngoại vi bằng cách sử dụng những yếu tố kích thích tăng trưởng,
thường sử dụng G-CSF đơn độc hay phối hợp với hóa trị liệu. Các tế bào gốc
ra máu ngoại vi sẽ được thu thập bằng hệ thống máy tách. Phương pháp này

không cần gây mê, ít xâm nhập, trong chế phẩm để ghép có lượng khá cao tế
bào gốc tạo máu mà lại chứa ít tế bào ung thư hơn so với tế bào gốc từ tủy
xương trong ghép tự thân.
Hiện nay, tế bào gốc máu ngoại vi là nguồn cung cấp chủ yếu cho ghép
tế bào gốc tạo máu đồng loại và ghép tế bào gốc tạo máu tự thân. Các nghiên
cứu lâm sàng so sánh khi sử dụng tế bào gốc máu ngoại vi với sử dụng tế bào
gốc từ tủy xương cho thấy: Kết quả mọc ghép sớm hơn, khả năng hồi phục miễn
dịch nhanh hơn, tỷ lệ tử vong liên quan đến các biến chứng ghép thấp hơn, nguy
cơ xuất hiện bệnh ghép chống chủ cấp như nhau ở 2 nhóm, nhưng bệnh ghép
chống chủ mạn gặp nhiều hơn nhóm ghép tế bào gốc máu ngoại vi , .
1.2.2 Huy động tế bào gốc máu ngoại vi
1.2.2.1 Các chất huy động tế bào gốc máu ngoại vi
a. Cytokin
G-CSF là chất huy động được sử dụng phổ biến từ những năm 1990. Nó
đã cho thấy tính hiệu quả trong huy động tế bào gốc tạo máu cũng như tính an
toàn đối với người cho và bệnh nhân, , ,, , .
10
 Cơ chế tác dụng:
Hình 1.3. Cơ chế huy động của G- CSF
G-CSF là yếu tố kích thích tăng trưởng dòng bạch cầu hạt. Dưới tác
dụng của G-CSF dòng bạch cầu hạt tăng sinh trong đó có bạch cầu hạt trung
tính. Sự tăng sinh này, giải phóng men Elastase của bạch cầu đoạn trung tính.
Dưới tác dụng của men Elastase sẽ làm đứt gẫy liên kết giữa VCAM-1
(Vascularcell adhesion molecular- phân tử dính tế bào ) với VLA-4 (Very late
antigen- 4), kết quả làm huy động tế bào gốc ra máu ngoại vi.
 Dược động học tác dụng của G-CSF
Hình 1.4. Dược dộng học tác dụng huy động tế bào CD34+ của G-CSF
Số lượng tế bào CD34+ máu ngoại vi huy động tăng nhanh từ ngày thứ
tư đến ngày thứ năm, sau đó số lượng tế bào CD34+ máu giảm dần mặc dù
vẫn dùng G-CSF.

VLA-4
VCAM -
1
Số ngày dùng G-CSF
Elastase
e
VLA-4
TB CD34+
11
b. Cyclophosphamide
Làm giảm mức đáng kể các tế bào đệm, cũng như sự biểu hiện của các phân tử
dính, từ đó dẫn tới huy động tế bào gốc ra máu ngoại vi. Cyclophosphamide thường
được phối hợp với G-CSF trong huy động cho ghép tự thân ở bệnh nhân đang
ở giai đoạn bệnh tiến triển.
Hình 1.5. Dược động học kết quả huy động TB CD34+ của G-CSF
phối hợp với CY (Cyclophosphamide)
c. Chất đối vận CXCR4 (Plexirafor): CXCR4 là receptor của chemokin
CXCL12, đóng vai trò quan trọng trong quá trình neo giữ tế bào gốc. Chất
đối vận này gắn trực tiếp với CXCR4, ảnh hưởng đến quá trình dính của
CXCR 4 và SDF-1 (stroma derived factor – yếu tố tổ chức ), và làm huy
động tế bào gốc ra máu ngoại vi. Trên lâm sàng, Plexirafor được dùng như
phác đồ cứu chữa khi thất bại huy động với phác đồ G-CSF đơn độc hay
phối hợp với hóa trị liệu.
1.2.2.2 Phác đồ huy động tế bào gốc máu ngoại vi:
Phác đồ được dùng tại Mayo Clinic Rochester
- Đối với nhóm người hiến khỏe mạnh: Dùng phác đồ G-CSF với liều 10
µg/kg/ngày, thu nhận tế bào gốc vào ngày thứ năm, xét nghiệm đếm TB
CD34 trước thu nhận không cần kiểm tra.
- Ở nhóm BN bị U lympho:
 Giai đoạn bệnh ổn định: G-CSF 10µg/kg/ngày. Kiểm tra số lượng TB

CD34+ vào ngày thứ tư, nếu < 10TB/µl thêm plerixafor 240mg/kg
(160mlg/kg nếu mức lọc cầu thận <50ml/min), thu nhận vào ngày thứ năm.
 Nếu bệnh ở giai đoạn tiến triển: Điều trị với R-ICE, R-DHAP, điều trị
hỗ trợ vớiG-CSF. Khi BC>1G/L, kiểm tra số lượng TB CD34+. Nếu
Ngày huy động
TB
CD34+
12
CD34+ <10TB/µl, tiếp tục theo dõi hàng ngày. Nếu sau ba ngày
CD34+<10TB/µl, cho thêm plerixafor như trên.
- Ở nhóm BN Đa u tủy xương:
 BN đạt lui bệnh hoàn toàn: G-CSF 10 µg/kg/ngày trong 4 ngày, đếm
CD34 vào ngày thứ tư. Nếu thu nhận TBG cho 1 lần ghép,
CD34+<10TB/µl, cho thêm plerixafor; Nếu thu nhận TBG cho>1 lần
ghép, CD34+< 20TB/ µl, cho thêm Plerixafor.
 Nếu bệnh tái phát, không đáp ứng với điều trị ban đầu: Cyclophosphamide
1-5g/m2 trong hai ngày, bắt đầu G-CSF liều 5µg/kg ngày thứ ba, XN đếm
TB CD34+ khi BC>1G/L, kiểm tra ba ngày sau đó. Nếu TB
CD34+<10TB/µl, bổ sung thêm Plerixafor.
- Nhóm kết quả thu nhận không đạt yêu cầu:
 Nếu số lượng thu nhận được ngày đầu tiên số lượng CD34+<
1,5×10
6
TB/kg, thêm Plerixafor.
 Nếu ngày thu nhận thứ hai số lượng CD34+<0,5×10
6
TB/kg, thêm
Plerixafor.
 Nếu thêm Plerixafor mà số lượng CD34+< 0,5×10
6

TB/kg trong hai
ngày liên tiếp được coi là thất bại thu nhận tế bào gốc khi đó ghép
không còn được chỉ định như một phương pháp điều trị.
1.2.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả huy động tế bào gốc
Thời gian mọc mảnh ghép bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như: Sự phù
hợp HLA, vi môi trường tủy xương, tuổi, …. Trong đó số lượng tế bào CD34
có trong đơn vị khối tế bào gốc máu ngoại vi là một trong những yếu tố quan
trọng. Nếu đạt đủ số lượng tế bào CD34+ sẽ giảm thời gian nằm viện, giảm
nhu cầu máu và chế phẩm máu, giảm nhiễm trùng sau ghép , , .
Bảng 1.1. Số lượng tế bào CD34+ yêu cầu cho ghép tế bào gốc tạo máu
Số lượng TB CD34+ Phương pháp ghép Giá trị
Số lượng tối ưu
TB CD34+
Ghép đồng loại 3-4×10^6TB/kg
Ghép tự thân 2-5×10^6TB/kg
13
Số lượng tối thiểu Ghép đồng loại 1,5×10^6TB/kg
Ghép tự thân 0,5×10^6TB/kg
Như vậy số lượng tế bào CD34+ trong đơn vị TBG máu ngoại vi đóng
vai trò quan trọng đảm bảo thành công ghép tế bào gốc tạo máu. Trên thực tế,
việc đảm bảo số lượng tế bào CD34+ này không phải luôn dễ dàng, đặc biệt ở
đối tượng là BN. Có khoảng 5 – 30 % số các BN bị thất bại trong việc thu
nhận đủ số lượng tế bào CD34+ , ,. Khi đó BN sẽ mất lựa chọn ghép như một
phương pháp điều trị.Có nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến
kết quả huy động tế bào gốc như: Điều trị trước huy động với xạ trị diện rộng,
hóa chất ảnh hưởng đến các tế bào gốc như Melphalan, Fludarabin,…; Tuổi
cao >60 tuổi; Số lượng tế bào tủy xương thấp; Giai đoạn bệnh; Tình trạng
xâm lấn tủy xương;… ,,,,.
Để có các chiến lược hợp lý trong dự phòng và cứu chữa tình trạng trên,
Hội nghị nhóm Ghép tế bào gốc Italy (GITMO- WG: Italian group for stem cell

transplantation- Woking group ) đã đưa ra các tiêu chuẩn cho huy động nghèo tế
bào gốc cũng như các yếu tố dự đoán huy động nghèo , cụ thể:
 Huy động nghèo:
- Nếu huy động với G-CSF liều ≥10µg/kg mà số lượng TB CD34+ máu
ngoại vi ngày thứ 4 đến ngày thứ 5 ≤ 20 TB/µl.
- Huy động G-CSF liều ≥5µg/kg sau hóa trị liệu số lượng cao nhất TB
CD34+ máu ngoại vi đến ngày thứ 20≤ 20TB/µl.
- Nếu liều CD34+ thu được < 2×10
6
TB/ kg cân nặng ở 3 lần thu nhận.
 Yếu tố dự đoán huy động nghèo tế bào gốc:
i. Tiêu chuẩn chính:
1. Thất bại ở lần huy động trước.
2. Xạ trị diện rộng, hay điều trị đủ đợt hóa trị liệu với các thuốc có
ảnh hưởng tới huy động tế bào gốc như: Melphalan, Fludazabin.
ii. Tiêu chuẩn phụ:
1) Bệnh tiến triển, không đáp ứng điều trị.
2) Bệnh xâm lấn tủy xương.
3) Số lượng tế bào tủy còn < 30% tại thời điểm huy động.
4) Tuổi > 65.
14
Các chiến lược tối ưu hóa quá trình huy động tế bào gốc :
- Lựa chọn những người nam giới, tuổi trẻ< 60 tuổi, phù hợp HLA A,
B, C, DR, DQ.
- Thu nhận, bảo quản TBG có kế hoạch: Tiến hành thu nhận tế bào gốc
cho các bệnh nhân mà có khả năng lựa chọn ghép như một điều trị trong
tương lai trước khi điều trị hóa trị liệu tích cực.
- Xác định các trường hợp huy động nghèo TBG để có các biện pháp
cứu chữa kịp thời như: Dùng phối hợp với hóa trị liệu, Plexirafor, gạn tách
với thể tích lớn.

1.2.3 Thu nhận tế bào gốc máu ngoại vi
a. Thời điểm thu nhận tế bào gốc
Thời điểm thu nhận tế bào gốc được xác định dựa trên số lượng tế bào
CD34+ máu ngoại vi trước thu nhận. Các nghiên cứu đã chỉ ra với số lượng
TB CD34+ máu ngoại vi > 8- 10TB/µl thì có khả năng cao thu được đủ liều
cho ghép khi sử dụng kỹ thuật tách với thể tích chuẩn hay với thể tích lớn ,.
Tuy nhiên xét nghiệm đếm tế bào CD34+ là xét nghiệm khá đắt tiền, đòi hỏi
trang thiết bị hiện đại không phải labo nào cũng có khả năng thực hiện. Một
số tác giả tìm các chỉ số thay thế như: Số lượng tế bào bạch cầu trung gian, số
lượng tế bào có nhân máu ngoại vi ,.
b. Nguyên lý
Các tế bào gốc tạo máu có tỷ trọng xấp xỉ lymphocyte, do đó chúng
được thu nhận ở lớp buffy coat theo chương trình thu nhận tế bào đơn nhân
của hệ thống máy tách tế bào.
15
Hình 1.6. Nguyên lý tách tế bào máu
c. Thiết bị tách tế bào
Hiện nay có nhiều loại thiết bị tách tế bào gốc từ máu ngoại vi, được
chia làm 2 loại: Tách theo dòng liên tục (Cobe Spectra, Comtec Fresenius,…),
tách theo dòng không liên tục (Haemonetics,…). Các kỹ thuật khác nhau ở
các điểm: Phần mềm xử lý, kỹ thuật ly tách, bộ kit thu nhận, mức độ tự động
hay bán tự động. Máy COMTEC và phần mềm ứng dụng của nó được dùng
chủ yếu các nước Châu Âu. Đó là hệ thống tự động, khép kín, tách theo dòng
liên tục. Hiệu quả thu nhận TBĐN, và tế bào CD34+ là cao. Ngoài ra nó có
phần mềm ứng dụng cho phép dự đoán số lượng tế bào CD34+ trong sản
phẩm từ đó xác định lượng thể máu xử lý tùy trường hợp từng bệnh nhân/
người hiến , . Hệ thống máy Spectra cũng cho kết quả gạn tách khá cao , . Với
hệ thống máy Haemonetics MCS tách theo dòng không liên tục và kỹ thuật
thu nhận TBĐN ngắt quãng, do đó đòi hỏi nhiều thời gian hơn, lượng máu xử
lý ít hơn nhiều so với hệ thống máy tách theo dòng liên tục, hiệu suất thu

nhận TBĐN và TB CD34+ thấp hơn .
d. Tình trạng tĩnh mạch đường vào
Tĩnh mạch đường vào phù hợp là yếu tố quan trọng để có thể tiến hành
kỹ thuật hiệu quả nhất. Các thiết bị tách theo nguyên lý liên tục đòi hỏi áp lực
Tiểu cầu
Lympho
Mono
Bạch cầu đoạn
Hồng cầu
16
đường vào với dòng chảy ổn định và thường ít nhất với tốc độ 20ml/ph. Đa số
người hiến tình nguyện có thể sử dụng trực tiếp tĩnh mạch cánh tay, nhưng ở
những bệnh nhân ghép tự thân nên được đặt catheter tĩnh mạch trung tâm để
sử dụng cho quá trình tách và ghép tế bào sau đó , .
e. Dung dịch chống đông
Dung dịch chống đông được thêm vào quá trình tách tế bào để ngăn
ngừa hiện tượng ngưng kết khi máu tuần hoàn ngoài cơ thể và ngăn hiện
tượng kết dính tế bào trong sản phẩm. Chất chống đông chứa Citrat có tác
dụng và an toàn khi sử dụng cho quá trình tách tế bào. Trở ngại chủ yếu là hạ
calci máu do ngộ độc citrate, đặc biệt trong quá trình xử lý thể tích máu lớn.
Hiện tượng ngộ độc citrate có thể dự phòng bằng cách giảm tốc độ dòng máu
đi qua thiết bị, thay đổi tỷ lệ trộn citrate, hay tiêm dự phòng canxiclorua.
f. Kỹ thuật tách thể tích lớn (LVL- large volume leukapheresis)
Dự đoán số lượng tế bào CD34+ thu nhận được dựa vào số lượng tế
bào CD34+ máu ngoại vi trước thu nhận, khả năng thu nhận của máy, thể tích
máu xử lý. Với các BN có số lượng tế bào CD34+ máu ngoại vi trước thu
nhận thấp thường phải tiến hành thu nhận nhiều lần, gây tốn kém, phiền toái
cho BN. Một phương pháp khác có thể được áp dụng trong trường hợp này là
kỹ thuật tách thể tích lớn (LVL ). LVL được định nghĩa khi thể máu xử lý
nhiều hơn 2 – 3 lần thể tích máu của BN, điển hình thể tích máu xử lý gấp 6

lần hoạc hơn. LVL làm giảm số ngày sử dụng cytokine, giảm số lần tách,
giảm chi phí điều trị , , . Kỹ thuật LVL cũng tương tự kỹ thuật tách với thể
tích tiêu chuẩn nhưng tốc độ dòng máu có thể tăng lên, kéo dài thời gian thu
nhận để đạt được thể tích dự kiến. Nguy cơ của LVL: ngộ độc citrate dẫn tới
hạ canxi máu, giảm tiểu cầu và giảm đến mức thấp.
g. Kỹ thuật tách ở trẻ em và bệnh nhi
17
TBG có thể được thu nhận từ bệnh nhi, bao gồm cả trẻ nhỏ. Khó khăn
cơ bản là việc duy trì lượng máu ngoài cơ thể (trong thiết bị tách), chọn tĩnh
mạch đường vào để đảm bảo tốc độ dòng máu , ,.
h. Các biến chứng
Một số biến chứng có thể gặp trong quá trình huy động và thu nhận tế
bào gốc: Nguy cơ chảy máu và nhiễm trùng tại chỗ đặt catheter, giảm tiểu cầu,
đau người, cảm giác mệt mỏi, nôn buồn nôn, tê bì do hạ cansi máu. Về ảnh
hưởng lâu dài đối với bệnh nhân và người hiến chưa thực sự rõ ràng, tuy nhiên
đã có nhiều nghiên cứu cho thấy độ an toàn của việc sử dụng G-CSF , .
1.3 XỬ LÝ KHỐI TẾ BÀO GỐC SAU THU NHẬN
1.3.1 Kỹ thuật chọn lọc tế bào CD34
Việc chọn lọc các tế bào gốc tạo máu có tác dụng loại bỏ tế bào không
mong muốn (lympho T, các tế bào ung thư) có lẫn trong khối tế bào gốc, giảm
thể tích của đơn vị khối tế bào gốc, giảm thể tích dung dịch bảo quản. Các tế
bào gốc tạo máu có CD34, do đó có thể dùng kháng thể đơn dòng với CD34
để lựa chọn các tế bào này , . Trong ghép tự thân, với các trường hợp như U
lympho Hodgkin, U lympho non Hodgkin và Đa u tủy xương, các tế bào ung
thư âm tính với marker CD34 do đó có thể dùng kỹ thuật này để loại bỏ tế bào
ung thư đồng thời chọn lọc tế bào CD34+. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp như Lơ xê mi cấp các tế bào ung thư cũng có CD34, khi đó phương pháp
lựa chọn tế bào gốc này không còn phù hợp.
Hiện tại một số kỹ thuật được áp dụng rộng rãi như: Tách tế bào sử
dụng huỳnh quang (FASC – fluorensence activated cells sorting), kỹ thuật sử

dụng hạt từ miễn dịch (immunomagnetic beads).
1.3.2 Xử lý loại bỏ tế bào ung thư trong ghép tự thân
Là quá trình làm sạch hay loại bỏ những tế bào ung thư bị lẫn khi tiến
hành ghép tự thân. Với những BN bệnh máu hoạc bệnh ác tính thường có xâm
18
lấn tủy xương (như u lympho ), tồn lưu bệnh tối thiểu là nguyên nhân gây tái
phát. Mặc dù tỷ lệ nhiễm tế bào ung thư trong chế phẩm tế bào gốc tách từ
máu ngoại vi là rất thấp, thấp hơn nhiều so với khối tế bào gốc tủy xương, tuy
vậy vẫn có thể lẫn tế bào ung thư.
Có thể sử dụng các phương pháp như: Miễn dịch, dược lý, vật lý… để
loại các tế bào ung thư. Nhược điểm của biện pháp này có thể loại trừ tế bào
ung thư nhưng cũng có thể gây tổn thương tế bào gốc. Khi tiến hành loại tế
bào u tỷ lệ bệnh tồn lưu và tái phát giảm cũng kèm theo việc gia tăng nguy cơ
không mọc mảnh ghép, nguy cơ tử vong do suy tủy kéo dài .
1.3.3 Loại tế bào lympho T trong dịch tế bào gốc
Loại tế bào Lympho T trong dịch tế bào gốc nhằm làm giảm biến
chứng bệnh ghép chống chủ (GVHD), đây là biến chứng chủ yếu khi tiến
hành ghép đồng loại do các lympho từ người hiến phản ứng chống lại cơ thể
người bệnh. Khi tiến hành nghiên cứu vai trò của lympho trong quá trình
ghép người ta thấy ở những BN được ghép khối TBG loại bỏ Lympho T, tỷ
lệ bệnh GVHD thấp nhưng lại liên quan đến tỷ lệ cao thất bại mọc mảnh
ghép và tái phát.Với mục đích làm giảm bệnh GVHD và phát huy tác dụng
mảnh ghép chống lơ xê mi, các nghiên cứu đã tập trung xác định mức tế
bào lympho T phù hợp. Đồng thời một số nghiên cứu khác đã đi sâu vào
từng quần thể tế bào lympho, vai trò của các cytokine trong mảnh ghép
chống lơ xê mi (GVL) .
1.3.4 Không hòa hợp hệ nhóm máu
Kết quả mọc mảnh ghép không bị ảnh hưởng bởi sự bất đồng nhóm
máu do các tế bào gốc định hướng đa tiềm năng và giai đoạn sớm chưa biểu
hiện kháng nguyên. Tuy nhiên hiện tượng chậm mọc mảnh ghép dòng hồng

cầu có thể xảy ra ở những trường hợp ghép bất đồng chính yếu và có thể có
tan máu muộn sau ghép không hòa hợp nhóm máu thứ yếu.
19
Không hòa hợp chính yếu: Sự bất đồng xảy ra khi người nhận có kháng
thể hệ ABO hay hệ khác chống lại hồng cầu người hiến. Trong trường hợp
này cần xử lý chế phẩm TBG để loại hồng cầu. Các nghiên cứu chỉ ra mức
20- 30 ml tổng thể tích hồng cầu đưa vào cơ thể người nhận hay 0.2- 0.3
ml/kg cân nặng bệnh nhân thì cơ thể người nhận có thể dung nạp được và
không gây tai biến gì nguy hiểm. Việc loại bỏ hồng cầu sẽ làm mất đáng kể
các tế bào gốc. Vì vậy trong nhiều trường hợp nên cân nhắc lợi hại của loại
hay không loại hồng cầu. Với lượng hồng cầu lên tới 0.5 ml/kg có thể chấp
nhận được ở bệnh nhân có chức năng thận bình thường .
Không hòa hợp thứ yếu: Sự bất đồng xảy ra khi người cho có kháng thể
hệ ABO hay hệ khác chống lại hồng cầu người nhận. Các kháng thể này sẽ bị
pha loãng trong huyết tương của người nhận và rất ít khi gây tai biến nặng.
Trên lâm sàng, có thể có tan máu nhẹ, nghiệm pháp Coomb trực tiếp dương
tính yếu. Một số trường hợp có nguy cơ gây tai biến nặng (người nhận là trẻ
em, hiệu giá kháng thể người hiến cao ), khi đó cần thiết phải giảm thể tích
huyết tương .
1.3.5 Giảm thể tích khối tế bào gốc trước truyền
Khối tế bào gốc trước truyền sẽ được giảm thể tích chống đông và tổng
thể tích khối tế bào gốc bằng việc giảm thể tích huyết tương. Điều này có ý
nghĩa trên lâm sàng đặc biệt đối với ghép ở bệnh nhi và bệnh nhân có cân
nặng thấp, do làm giảm các tác dụng không mong muốn liên quan đến truyền
khối tế bào gốc bảo quản, làm giảm thể tích dung dịch bảo quản (DMSO)
truyền cho bệnh nhân .
1.4 BẢO QUẢN KHỐI TẾ BÀO GỐC VÀ TRUYỀN CHO BỆNH NHÂN
1.4.1 Các hình thức bảo quản
 Khối tế bào gốc tươi (Fresh stem cell grafts): Khối tế bào gốc sau thu
nhận được bảo bảo quản 4

0
C tối đa trong thời gian là 72h sau đó truyền
20
cho bệnh nhân. Phương pháp này thường áp dụng cho những cơ sở
chưa có đầy đủ điều kiện để có thể dự trữ tế bào gốc lâu dài.
Bảng 1.2. Ưu nhược điểm của việc sử dụng khối tế bào gốc tươi
Ưu điểm Nhược điểm
- Đơn giản dễ áp dụng, kinh tế;
- Tránh được các tác dụng phụ của
việc dùng khối TBG đông lạnh
như: Độc tính DMSO, nhiễm
khuẩn,…;
- Giảm không đáng kể tỷ lệ tế bào
sống, nếu bảo quản <72h.
- Thời gian bảo quản ngắn làm giới
hạn các phác đồ điều kiện hóa, tạo áp
lực cho cán bộ y tế;
- Không đảm bảo chắc chắn sự sẵn có
của khối TBG trong các tình huống
bất thường như: Huy động thất bại,
sức khỏe người hiến không đảm bảo
cho việc hiến TBG,…;
- Chỉ có thể dùng cho một lần ghép,
không có khả năng lưu trữ khối tế bào
gốc cho lần ghép sau.
 Tế bào gốc đông lạnh (Cryopreserved stem cell grafts ): Các khối tế
bào gốc được bảo quản dài ngày ở nhiệt độ âm sâu (-196
o
C ), trong
bình nitơ lỏng .

21
Bảng 1.3. Ưu nhược điểm của việc sử dụng khối tế bào gốc đông lạnh
Ưu điểm Nhược điểm
- Xác định các trường hợp huy
động nghèo có biện pháp can thiệp
kịp thời;
- Chắc chắn sự sẵn có khối TBG
đề phòng các vấn đề bất chắc của
người cho như tai nạn, ốm,… do
đó giảm áp lực cho cán bộ y tế và
người hiến;
- Giảm tỷ lệ bệnh ghép chống chủ;
- Có nguy cơ cao hơn ảnh hưởng đến
chức năng, tỷ lệ sống của các tế bào gốc;
- Tỷ lệ nhiễm khuẩn khối tế bào gốc
cao hơn;
- Tăng tỷ lệ các tác dụng không mong
muốn liên quan đến DMSO;
- Khối TBG có thể không sử dụng
đến, dẫn tới lãng phí;
- Tốn kém, đòi hỏi các trang thiết bị
hiện đại;
1.4.2 Dung dịch bảo quản
DMSO (Dimethyl sulfoxid ): DMSO là chất bảo quản có tác dụng thấm
nhanh vào trong tế bào, tăng áp lực thẩm thấu, làm cân bằng môi trường trong
và ngoài tế bào, giảm tối thiểu sự hình thành các tinh thể đá, do đó giảm các
tổn thương đối với các tế bào trong quá trình hạ lạnh.Tuy nhiên DMSO là
chất độc với cơ thể. Một số Trung tâm ghép tế bào gốc giới hạn thể tích
DMSO 10%< 10ml/kg/ng , ở trẻ em< 1g/24h. Khi bệnh nhân được truyền
lượng thể tích lớn khối tế bào gốc như trường hợp ở bệnh nhân ghép tự

thân có huy động nghèo tế bào gốc phải tiến hành thu nhận nhiều lần, thể
tích dịch khối TBG truyền cho BN là lớn, khi đó bệnh nhân có nguy cơ bị
ngộ độc DMSO. Để khắc phục vấn đề này, có thể tiến hành hòa loãng khối
TBG hay rửa khối tế bào gốc trước truyền cho bệnh nhân. Các biến chứng
của DMSO: Tăng huyết áp, tụt huyết áp, suy tim, suy hô hấp, thường gặp là
nôn và buồn nôn.
22
Các dung dịch khác: HES 6 %, albumin, huyết tương tự thân làm tăng
độ nhớt của dịch bảo quản giúp màng tế bào không bị tổn thương ở nhiệt độ
lạnh sâu hoạc khi tan đông.
1.4.3 Nồng độ tế bào có nhân
Nồng độ cao tế bào có nhân có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của tế bào
sau bảo quản. Nếu nồng độ tế bào thấp sẽ tăng thể tích bảo quản, tăng thể tích
DMSO, tăng tác dụng phụ liên quan tới truyền khối tế bào gốc. Theo Rowley
và cộng sự nồng độ tế bào có thể lên tới 500 TB/µl mà không làm tổn thương
các tế bào . Nghiên cứu sau đó cũng đưa ra kết luận tương tự , .
1.4.4 Quá trình hạ nhiệt độ và bảo quản tế bào gốc
Tế bào gốc sau khi được thu nhận nếu thời gian lưu trữ dài trên ba
ngày, sẽ được bảo quản đông lạnh. Chất bảo quản được dùng phổ biến là
DMSO 10%, tốc độ làm lạnh từ 1 – 3
0
C/phút, bảo quản ở nhiệt độ -80
0
C hoạc
thấp hơn. Giai đoạn này các tế bào rất nhạy cảm với sự thay đổi của nhiệt độ.
Nếu hạ lạnh nhanh, sẽ tạo các tinh thể đá nội bào, kéo theo tăng áp lực thẩm
thấu ngoại bào, làm nước ra ngoài tế bào làm chết tế bào. Ngược lại nếu hạ
lạnh chậm quá, tạo các tinh thể đá ngoại bào làm nước đi vào trong tế bào gây
tan tế bào. Để hạn chế những tác hại này cần có quy trình hạ lạnh tốt với sự
hỗ trợ của các chất bảo quản như DMSO.

1.4.5 Phá đông và truyền tế bào gốc cho bệnh nhân
Với mọi chế phẩm, công đoạn cuối cùng là việc truyền lại khối TBG
cho BN. Đường truyền qua catheter tĩnh mạch trung tâm thường được sử
dụng để có thể đảm bảo tốc độ truyền nhanh nhất có thể. DMSO rất ít độc với tế
bào gốc ở nồng độ thấp và thời gian tiếp xúc ngắn (có thể đến 1 giờ).Tuy nhiên
nếu tiếp xúc ở nhiệt độ 22 đến 37
0
C trong thời dài có thể tác động xấu đến tế bào
gốc. Để giảm thời gian tiếp xúc của tế bào gốc với DMSO sau khi phá đông,
nhiều trung tâm tiến hành phá đông rất nhanh và ngay tại giường bệnh.
23
Tác dụng không mong muốn khi truyền gồm buồn nôn, đi ngoài,
choáng váng, tăng nhịp tim, tăng huyết áp, đau bụng. Nói chung, các biểu
hiện trên xuất hiện chậm, không đáng kể.
1.5 ĐÁNH GIÁ VÀ KIỂM TRA CHẤT LƯỢNG KHỐI TẾ BÀO GỐC
SAU BẢO QUẢN
1.5.1 Đếm số lượng tế bào có nhân
Mọi chế phẩm tế bào gốc cần được xác định số lượng tế bào, số lượng
tế bào đơn nhân. Số lượng này kết hợp với các xét nghiệm khác, xác định số
lần thu hoạch cần thiết để có đủ lượng tế bào đảm bảo cho mọc mảnh ghép.
Ngoài ra các thông số này cũng giúp tính toán tỷ lệ tế bào còn lại và cung cấp
các dữ kiện cho quá trình kiểm soát chất lượng của các bước xử lý và bảo
quản sản phẩm.
1.5.2 Đếm tỷ lệ tế bào sống chết bằng phương pháp nhuộm XanhTrypan
Nguyên lý: Do sự tổn thương màng tế bào của các tế bào bị chết dẫn
đến chất nhuộm đi qua màng và nhuộm màu tế bào. Ngược lại, các tế bào
sống với sự toàn vẹn màng tế bào không cho chất nhuộm đi qua, do đó các tế
bào sống sẽ không bắt màu .
Ưu điểm: Đơn giản, không tốn kém, có kết quả nhanh trong vòng vài phút.
Nhược điểm: Xác định tỷ lệ sống chết chung của tất cả tế bào, không

phải tỷ lệ sống chết của tế bào gốc.
Hiện nay xác định tỷ lệ tế bào sống bằng phương pháp XanhTrypan
được sử dụng khá phổ biến ở các labo ghép, nhằm cung cấp kết quả nhanh về
tỷ lệ sống của tế bào.
1.5.3 Nuôi cấy cụm
Nguyên lý: Các tế bào gốc được nuôi cấy trong điều kiện có đủ các
chất dinh dưỡng và các chất kích thích, chúng sẽ tăng sinh và biệt hóa thành
các đơn vị tế bào trưởng thành. Dựa trên đặc điểm hình thái, các loại tế bào có
24
trong cụm được quan sát dưới kính hiển vi quang học, có thể xác định được
các loại cụm: CFU- GMEM, CFU- GM, CFU- G, CFU- E, CFU- M .
Ưu điểm: Phương pháp này không chỉ xác định tế bào sống mà còn
đánh giá được hiệu lực tế bào gốc, đánh giá được khả năng tăng sinh và biệt
hóa của tế bào gốc.
Nhược điểm: Tốn kém, mất nhiều thời gian để đánh giá (14 ngày) do đó
không cung cấp kịp thời cho các nhà lâm sàng, phụ thuộc nhiều vào chủ quan
của người đọc, không đánh giá được khả năng tái định cư của tế bào gốc.
Bởi vậy phương pháp này chủ yếu được sử dụng trong nghiên cứu tế
bào gốc. Là tiêu chuẩn quan trọng để đánh quy trình xử lý và bảo quản tế bào
gốc tại các trung tâm, các ngân hàng tế bào gốc.
1.5.4 Kỹ thuật xác định tế bào CD34+ sống bằng kỹ thuật Đếm tế bào
dòng chảy (Flowcytometry)
Nguyên lý: Xác định số lượng tế bào CD34+ sống nhờ 7AAD(7 amino
actinnomycin) và các kháng thể đơn dòng gắn huỳnh quang CD45-
FITC/CD34- PE. 7 AAD là chất nhuộm màu nhân, nó xen giữa Cytosine và
guanine của chuỗi ADN. Nó chỉ nhuộm được nhân trong trường hợp màng tế
bào không còn nguyên vẹn hay là những các tế bào chết .
Ưu điểm: Đánh giá được tỷ lệ tế sống chết của tế bào gốc, đã có quy
trình chuẩn, độ nhạy độ chính xác cao.
Nhược điểm: Tốn kém, đòi hỏi các trang thiết bị hiện đại, trong một số

loại mẫu như khối tế bào gốc tủy xương, khối tế bào gốc sau chọn lọc tế bào
CD34+, khối tế bào gốc sau phá đông có thể cho kết quả không chính xác.
Quá trình xử lý và bảo quản có nguy cơ làm mất TBG, làm tổn thương
tế bào gốc do đó không đảm bảo chắc chắn liều tế bào gốc yêu cầu. Vì vậy
việc đánh giá số lượng TB CD34+ ngay trước truyền cho bệnh nhân là yếu tố
đảm bảo chất lượng của khối TBG, nhằm hạn chế việc thất bại mọc mảnh
ghép bằng sự điều chỉnh các phác đồ điều trị thích hợp , . Ngược lại, một số
nghiên cứu lại cho rằng việc làm này không thực sự cần thiết, nó không dự
25
đoán tốt hơn số lượng tế bào gốc sau thu nhận nếu số lượng tế bào
CD34+>2,10^6TB/kg .
1.5.5 Xác định tình trạng nhiễm tế bào u và nhiễm khuẩn
Tình trạng nhiễm tế bào u: Kỹ thuật sử dụng chủ yếu hiện tại là các
kháng thể đơn dòng gắn đặc hiệu các kháng nguyên ung thư. Có thể đếm bằng
kỹ thuật tế bào dòng chảy, miễn dịch huỳnh quang, hoạc nhuộm hóa mô miễn
dịch. Kết quả các nghiên cứu cho thấy tồn lưu tế bào ác tính trong sản phẩm
ghép có ảnh hưởng đến thời gian sống thêm của bệnh nhân.
Tình trạng nhiễm khuẩn, thường do quá trình thu nhận và xử lý mẫu tế
bào gốc. Việc quyết định sử dụng chế phẩm bị nhiễm khuẩn này phải được
căn cứ rất thận trọng dựa trên tình trạng cụ thể của bệnh nhân. Bên cạnh đó
tình trạng nhiễm các virut cũng ảnh hưởng đến kết quả trên lâm sàng và cần
cân nhắc trước khi áp dụng.
1.5.6 Sự phục hồi và hoạt động tế bào gốc sau ghép
Để đánh giá chất lượng khối tế bào gốc, một chỉ số quan trọng là sự hồi
phục mô tạo máu của mảnh ghép ở cơ thể người nhận sau khi đã điều kiện hóa.
Trên lâm sàng, xét nghiệm đơn giản để đánh giá mọc mảnh ghép là xét nghiệm
TPTTBM theo dõi sự hồi phục bạch cầu hạt, tiểu cầu, hồng cầu. Ngoài ra có
một số xét nghiệm khác đánh giá quá trình mọc ghép: FISH, Chimerism,…
1.6 TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TẾ BÀO GỐC TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH
MÁU TẠI VIỆT NAM

Tại Việt Nam, cho đến nay có nhiều nghiên cứu ứng dụng tế bào gốc
trong điều trị bệnh máu đã và đang được tiến hành. Ca ghép tế bào gốc đầu
tiên được PGS. Trần Văn Bé và cộng sự tiến hành năm 1995 tại Trung tâm
TM- HH Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó cho đến nay đã có nhiều cở sở trong
cả nước triển khai hoạt động ghép tế bào gốc tạo máu, số ca ghép không

×