Tải bản đầy đủ (.doc) (157 trang)

nghiên cứu các yếu tố nguy cơ tim mạch ở nữ giới trong cộng đồng, quận đống đa - hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.07 MB, 157 trang )

Lời cảm ơn
* Nhân dịp hoàn thành bản luận án này, tôi xin chân thành cảm ơn sự
giúp đỡ của:
- Ban Giám hiệu Trường Đại học Y Hà Nội.
- Các thầy, các cô của Bộ môn Nội - Tim mạch Trường Đại học Y Hà
Nội.
- Cán bộ và nhân viên Viện Tim mạch Việt Nam.
- Phòng Đào tạo sau đại học và Phòng Nghiên cứu khoa học Trường
Đại học Y Hà Nội.
- Ban Giám đốc cùng toàn thể cán bộ nhân viên Bệnh viện Xanh Pôn Hà
Nội.
* Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cô:
- PGS.TS. Nguyễn Thị Bạch Yến, Phó viện trưởng Viện Tim mạch Việt
Nam, người thầy đã trực tiếp hướng dẫn luận án của tôi.
* Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình và những ý kiến đóng
góp quý báu của thầy:
- GS. TS. Nguyễn Lân Việt, nguyên Viện trưởng Viện Tim mạch Việt
Nam, chủ nhiệm Bộ môn Tim mạch Trường Đại học Y Hà Nội.
* Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với bố mẹ, chồng và con trai yêu quý,
những người luôn dành cho tôi tình yêu thương và sự động viên trong cuộc
sống cũng như trong công tác.
Hà nội, Ngày 20 tháng 11 năm 2013.

Trần Mỹ Linh
2
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan rằng các số liệu, kết quả nghiên cứu của tôi là
hoàn toàn trung thực và đề tài này không trùng với bất cứ đề tài nào đã
công bố.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Ký tên



Trần Mỹ Linh
3

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ABI : Vận tốc lan truyền sóng mạch
BMI : Chỉ số khối cơ thể
CRP : C-Reactive Protein
DODALAB : Đơn vị Nghiên cứu Hệ thống Y tế trường Đại học Y Hà
Nội
ĐTĐ : Đái tháo đường
HCCH : Hội chứng chuyển hóa
HCMV : Hội chứng mạch vành
HDL : Lipoprotein trọng lượng phân tử cao
LDL : Lipoprotein trọng lượng phân tử thấp
NĐTN : Nhiễm độc thai nghén
NMCT : Nhồi máu cơ tim
RLLP : Rối loạn lipid
THA : Tăng huyết áp
THA_TT : Tăng huyết áp tâm thu
THA_Tr : Tăng huyết áp tâm trương
YTNC : Yếu tố nguy cơ
VB : Vòng bụng
VE : Vòng eo
WHO : Tổ chức Y tế thế giới



4
5

ĐẶT VẤN ĐỀ
Các thống kê dịch tễ học ngày nay cho thấy bệnh tim mạch, đặc biệt là
xơ vữa động mạch, bao gồm mạch não, mạch vành, mạch máu ngoại vi đang
là một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn tới tàn tật và tử vong ở phụ nữ.
Ước tính cứ 100.000 người thì có 298 phụ nữ tử vong vì bệnh tim mạch và
tiểu đường [1]. Năm 2008, bệnh tim mạch là nguyên nhân tử vong của 6,5
triệu phụ nữ trên 60 tuổi trên toàn thế giới [2]. Theo báo cáo của Bộ Y Tế,
năm 2012, bệnh tim mạch đứng thứ hai về gánh nặng bệnh tật ở phụ nữ Việt
Nam (18%) [3].
Theo Wilkins JT và cộng sự, nguy cơ trải qua một biến cố tim mạch
trong phần đời còn lại ở phụ nữ trên 45 tuổi là 55%. Trên 50 tuổi, ước tính
nguy cơ xơ vữa động mạch ở phụ nữ là 39% [4]. Trên 40 tuổi, nguy cơ suy
tim ở phụ nữ là 20,3% [5].
Yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch là yếu tố liên quan với sự gia tăng
khả nặng mắc bệnh tim mạch. Ở phụ nữ, các yếu tố nguy cơ tim mạch hay
gặp nhất là: rối loạn lipid máu (RLLP máu), mãn kinh, tăng huyết áp (THA),
sử dụng thuốc tránh thai, đái tháo đường (ĐTĐ) và hút thuốc lá [6]. Tác giả
Salehi R nghiên cứu trên 250 phụ nữ được chẩn đoán ban đầu là nhồi máu cơ
tim hoặc đau thắt ngực không ổn định, kết quả cho thấy tất cả đối tượng
nghiên cứu đều có yếu tố nguy cơ. Trong đó, RLLP máu gặp ở 98% bệnh
nhân, THA chiếm 78%, 38,5% số phụ nữ nghiên cứu bị ĐTĐ, 66,7% đã mãn
kinh, tỷ lệ phụ nữ sử dụng thuốc tránh thai là 57% và hút thuốc lá là 27% [6].
Ở những phụ nữ có từ 3 yếu tố nguy cơ trở lên, nguy cơ tử vong do bệnh tim
mạch cao gấp 5 lần, và số năm sống trung bình ngắn hơn 7 năm so với những
phụ nữ không có yếu tố nguy cơ [7].
Trong số các yếu tố nguy cơ tim mạch, rất nhiều yếu tố có thể thay đổi
và kiểm soát nhờ những biện pháp dự phòng đặc biệt. Nghiên cứu yếu tố nguy
6
cơ tim mạch giúp kiểm soát được các yếu tố nguy cơ, làm giảm nguy cơ mắc
bệnh tim mạch, đồng thời nâng cao nhận thức của người dân tại cộng đồng về

cách phòng ngừa các yếu tố nguy cơ và bệnh tim mạch [4], [7]. Điều này đặc
biệt quan trọng ở nữ giới, vì đến nay tại cộng đồng vẫn tồn tại quan niệm
bệnh tim mạch là bệnh của nam giới, trong khi trên thực tế, phụ nữ thường có
nhiều áp lực trong gia đình và công việc hơn so với đàn ông, làm tăng gánh
nặng của các yếu tố nguy cơ tim mạch. Bên cạnh đó, phụ nữ khi nhận thức tốt
về các yếu nguy cơ tim mạch sẽ là người bảo vệ phòng ngừa bệnh tim mạch
tốt nhất không chỉ cho bản thân mà cho mọi người trong gia đình.
Trên thế giới, đã có rất nhiều nghiên cứu về yếu tố nguy cơ của bệnh
tim mạch, tuy nhiên ở Việt Nam, những nghiên cứu này chưa nhiều. Đặc biệt
các yếu tố nguy cơ và bệnh tim mạch ở nữ giới mới chỉ được quan tâm gần đây.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Nghiên
cứu các yếu tố nguy cơ tim mạch ở nữ giới trong cộng đồng, Quận Đống
Đa - Hà Nội” với mục tiêu:
Tìm hiểu các yếu tố nguy cơ tim mạch ở nữ giới trong cộng đồng tại
quận Đống Đa – Hà Nội.
Chương 1
7
TỔNG QUAN
1.1. Yếu tố nguy cơ tim mạch ở nữ giới:
1.1.1. Khái niệm chung:
Trong những thập niên gần đây, mô hình bệnh tật có nhiều thay
đổi, trong khi các bệnh nhiễm trùng có xu hướng ngày một giảm thì
ngược lại các bệnh không lây nhiễm như: tim mạch, tâm thần, ung
thư… đặc biệt là các bệnh tim mạch ngày càng tăng [3]. Theo thống
kê của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), năm 2008 có 57 triệu người tử
vong vì nguyên nhân do các bệnh không lây mà hàng đầu là nhóm
bệnh tim mạch (48%) [1].
Yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch là yếu tố liên quan với sự gia
tăng khả nặng mắc bệnh tim mạch. Sự liên quan này dường như luôn
mang tính chất thống kê. Tuy nhiên, một người mang một yếu tố nguy

cơ nào đó chỉ có nghĩa là có sự gia tăng khả năng mắc bệnh chứ
không phải chắc chắn sẽ mắc bệnh. Ngược lại, một người không
mang bất kì yếu tố nguy cơ nào cũng không thể chắc chắn sẽ không
mắc bệnh.
Các yếu tố nguy cơ tim mạch bao gồm:
- Yếu tố nguy cơ không thể thay đổi được: Tuổi, giới, di truyền,
mãn kinh ở nữ giới.
- Yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được: THA, tăng cholesterol máu,
lipoprotien (a), hút thuốc lá, béo phì, béo bụng, giảm dung nạp đường, ĐTĐ,
yếu tố tâm lý xã hội, mức tiêu thụ rau, hoa quả hàng ngày, mức tiêu thụ rượu
hàng ngày, mức độ vận động thể lực hàng ngày, sử dụng thuốc tránh thai, C-
Reactive Protein (CRP), dầy thất trái.
8
- Yu t bo v: HDL Cholesterol, tp th dc, Estrogen n gii
v ung ru va phi.
Cỏc yu t nguy c cú khuynh hng xut hin cựng nhau v cú
tỏc ng cng hng. Nhng ngi cú nhiu yu t nguy c thỡ kh
nng mc cỏc bnh tim mch s cao hn nhng ngi yu t nguy c
thp hoc khụng cú yu t nguy c. Khi ỏnh giỏ nguy c, khụng th
ch n thun da vo mt yu t nguy c m cn tớnh n nguy c
tim mch chung cho tng cỏ th. Hn th na, biu hin bnh liờn
quan n mng x va mt mch mỏu ng ngha vi nguy c b
bnh nhiu mch mỏu khỏc. Ngi cú cỏc bnh liờn quan n mng
x va khụng phi mch vnh cng cú cựng nguy c xy ra cỏc bin
c tim mch nh ngi b mch vnh. Trong nghiên cứu NHANTES III
nhóm ngời có nguy cơ mạch vành trong 10 năm trên 10% chiếm khoảng 38% ở
nam và 5% ở nữ, chủ yếu ở nam giới trên 45 tuổi có t 2 yếu tố nguy cơ hoặc ở
nữ trên 55 tuổi có t 3 yếu tố nguy cơ [8]. Nguy cơ tăng khi có mặt nhiều yếu tố
nguy cơ đã đợc ghi nhận ở nhiều nghiên cứu khác trên quần thể, cho thấy ngời có
trờn 2 yếu tố nguy cơ chính (bao gồm Cholesterol 5,2 mmol/L (200mg/dL),

huyết áp 100/80 mmHg, hút thuốc lá) thì nguy cơ đã tăng lên đáng kể ở cả hai
giới: nguy cơ tơng đối mắc bệnh mạch vành tăng 5,5 và 5,7 lần, nguy cơ mắc
bệnh tim mạch gấp 4,1 và 4,5 lần còn nguy cơ tử vong chung cũng tăng gấp 3,2
và 2,3 lần tơng ứng ở nam và nữ [4].
Nghiên cứu Framingham Heart Study đánh giá nguy cơ tim mạch ở
những ngời trên 50 tuổi không có bệnh tim mạch ban đầu trên cơ sở các yếu tố
nguy cơ tim mạch chính bao gồm cholesterol 6,20 mmol/L (240 mg/dL),
huyết áp tâm thu 160 mmHg, huyết áp tâm trơng 100mmHg, hút thuốc lá,
đái tháo đờng. Kết quả cho thấy nguy cơ mắc bệnh tim mạch trong đời tăng
lên nhanh chóng tùy theo số lợng và mức độ trầm trọng của các yếu tố nguy
cơ. So với những ngời có trên 2 yếu tố nguy cơ chính, những ngời không có
yếu tố nguy cơ nào (khi cholesterol <4,65 mmol/L (180mg/dL), huyết áp
9
<120/80 mmHg, không hút thuốc và không đái tháo đờng) thì có nguy cơ mắc
bệnh tim mạch trong đời thấp hơn hẳn (5% so với 69% ở nam và 8% so với
50% ở nữ), cũng nh có thời gian sống trung bình dài hơn rõ rệt (trờn 39 năm
so với 28 năm ở nam và trờn 39 năm ở nữ) [5].
Nghiờn cu trờn 257.384 ngi, Berry JD v cng s nhn thy
trong s nhng nghi tham gia t 55 tui, nhng ngi cú yu t
nguy c tim mch ti u (Cholesterol <180 mg/dL (4,7 mmol/l), HA
tõm thu < 120 mmHg v HA tõm trng < 80 mmHg, khụng hỳt thuc v
khụng b T) cú nguy c mc bnh tim mch trong phn i cũn li
thp hn ỏng k so vi ngi cú t 2 yu t nguy c tr lờn (4,7% so
vi 29,6% nam v 6,4% so vi 20,5% n). Nguy c b nhi mỏu c
tim cú cú t vong hoc khụng t vong ngi khụng cú yu t nguy c
cng thp hn so vi ngi cú yu t nguy c cao (3,6% so vi 37,5%
nam v < 1% so vi 18,3% n). Nguy c t qu cú t vong hoc
khụng t vong cng cú kt qu tng t (2,3% nam gii khụng cú yu
t nguy c so vi 8,3% nam gii cú yu t nguy c cao v 5,3% n
gii khụng cú yu nguy c so vi 10,7% n gii cú yu t nguy c cao)

[9].
Bản thân mi yếu tố nguy cơ cũng có những tác động độc lập. Huyết áp
tâm thu và cholesterol toàn phần có ảnh hởng riêng rẽ đến các biến cố đích
trong mt nghiên cứu đa quốc gia ở châu , Australia và New Zealand. Huyết
áp tâm thu cứ tăng thêm 10mmHg thì nguy cơ tim mạch tăng thêm 21-34% ở
mọi mức cholesterol khác nhau, trong khi cholesterol toàn phần làm tăng nguy
cơ tim mạch ở mọi giai đoạn tăng huyết áp. Những tác động này là độc lập sau
khi đã loại trừ ảnh hởng tơng tác của các yếu tố nguy cơ khác. Ngời có cả hai
yếu tố cholesterol 6,25 mmmol/l (240 mg/dL) và huyết áp tâm thu 160
mmHg sẽ tăng nguy cơ mắc bệnh mạch vành thêm 7 lần và nguy cơ đột quỵ
thêm 8 lần so với những ngời có cholesterol <4,75mmol/L (183 mg/dL) và
huyết áp tâm thu < 130mmHg [10].
10
1.1.2. Một số yếu tố nguy cơ tim mạch thường gặp ở nữ giới:
1.1.2.1. Tuổi:
Tuổi già là một trong những yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch. Càng
lớn tuổi, hoạt động của tim càng kém hiệu quà. Thành tim dày lên, các động
mạch cứng lại khiến cho quá trình bơm máu cũng trở nên khó khăn, đó là lý
do vì sao nguy cơ mắc bệnh tim mạch gia tăng theo tuổi [11].
Nghiên cứu nguy cơ mắc bệnh tim mạch theo nhóm tuổi, kết quả của
Wilkins JT và cộng sự cho thấy tỷ lệ phụ nữ tử vong vì bệnh tim mạch từ 45
đến 55 tuổi là 35,1%, tăng lên ở lứa tuổi từ 55 – 65 tuổi (36,3%) và 65 -75
tuổi (37,7%). Sau 75 tuổi, tỷ lệ tử vong ở phụ nữ vì nguyên nhân tim mạch
cao nhất (45,4%). Tương tự, tỷ lệ mắc bệnh tim mạch ở phụ nữ cũng tăng lên
theo tuổi, ở nhóm từ 45 đến 55 tuổi là 26,3%, từ 55 đến 65 tuổi là 27,3%, từ
65 đến 75 tuổi là 28,3% và cao nhất sau 75 tuổi (33,2%) [4].
Tuy nhiên, ngày nay, bệnh tim không chỉ gặp ở phụ nữ lớn tuổi với
nhiều bệnh phối hợp mà còn gặp nhiều ở phụ nữ dưới 50 tuổi và tử vong do
nhồi máu cơ tim ở nhóm tuổi này thường gấp đôi so với nam giới.
1.1.2.2. Giới:

Nhìn chung, nam giới có nguy cơ mắc bệnh tim mạch cao hơn phụ nữ.
Nghiên cứu trên 905.115 người, Wilkins và cộng sự cho kết quả nguy cơ mắc
bệnh tim mạch của đàn ông cao hơn phụ nữ ở tất cả các lứa tuổi [4]. Trong một
nghiên cứu khác của Lloyd-Jones DM và cộng sự cũng cho kết quả tương tự [7].
1.1.2.3. Di truyền:
Nếu trong gia đình có người cùng huyết thống bị bệnh tim mạch, ví dụ
như cha mẹ hoặc anh chị em đã từng gặp phải các vấn đề về tim mạch trước
tuổi 55, nguy cơ mắc bệnh tim mạch sẽ cao hơn bình thường. Ngoài ra, những
11
yếu tố nguy cơ tim mạch như cao huyết áp, tiểu đường và béo phì cũng có thể
mang tính di truyền.
Năm 1996, Sichieri R, Siqueira KS, Pereira RA tiến hành một nghiên
cứu về yếu tố gia đình ở các đối tượng là người lớn tại thủ đô Rio de Janero
city (Brazil). Đối tượng nghiên cứu là 2.802 người trưởng thành được đo
huyết áp (HA), vóc người. Kết quả cho thấy có sự tương quan giữa vóc người
và THA. Điều này củng cố lý thuyết quan trọng về sự phát triển cơ thể phụ
thuộc vào gen ở người lớn THA, nhất là ở phụ nữ [12].
Andersen UB, Dige Petersen H, Ibsen H nghiên cứu kháng insulin ở
những đối tượng có nguy cơ THA do di truyền, so với những đối tượng không
có nguy cơ THA di truyền. Kết quả cho thấy đối tượng nghiên cứu có họ hàng
THA dễ bị THA tự phát, có biểu hiện THA tâm trương hơn so với những
người có họ hàng không bị THA [13].
Năm 1989 - 1992, Trần Đỗ Trinh điều tra dịch tễ học bệnh THA ở Việt
Nam. Khi so sánh giữa 909 cặp của 2 nhóm THA và người bình thường, tác
giả nhận thấy tỷ lệ ở người THA có người trong gia đình bị THA cao hơn ở
nhóm đối chứng, đặc biệt là đối với cha và anh chị em (p < 0,01) [14].
Năm 1999, Phạm Gia Khải nghiên cứu 1221 trường hợp THA có 188
trường hợp có người trong gia đình bị THA gồm: bố bị THA 80/188
(42,55%), mẹ bị THA 71/188 (37,76%), anh chị em ruột, cô dì chú bác bị
THA 37/188 (19,68%) [15].

1.1.2.4. Mãn kinh ở phụ nữ:
Thời kỳ mãn kinh được định nghĩa là hơn 12 tháng mà không hành
kinh [16].
Vai trò của Estrogen (hormon sinh dục ở nữ) không phải lý do chắc
chắn giải thích tại sao phụ nữ thường có xu hướng mắc bệnh tim mạch nhiều
hơn và ở tuổi muộn hơn nam giới. Nhưng có thể nội tiết tố Estrogen có tác
dụng bảo vệ hệ thống tim mạch. Estrogen được cho là có tác động tích cực
trên các lớp bên trong của thành động mạch, giúp giữ cho các mạch máu linh
12
hoạt. Sau mãn kinh, nồng độ Estrogen giảm dần cùng với độ tuổi ngày càng
tăng, dường như đã làm giảm đi vai trò bảo vệ chống lại bệnh tim mạch [17].
Một nghiên cứu khác của Salehi R cùng cộng sự trên 250 phụ nữ được
chẩn đoán ban đầu là nhồi máu cơ tim hoặc đau thắt ngực không ổn định, tỷ lệ
phụ nữ mãn kinh chiếm đến 66,7% [6]. Còn Deo R, Vittinghoff E, Lin F, Tseng
ZH, Hulley SB và Shlipak MG nghiên cứu trên 2763 phụ nữ mãn kinh được chẩn
đoán nhồi máu cơ tim, tỷ lệ đột tử của những phụ nữ này là 0,79% [18].
Cũng liên quan đến mãn kinh, nghiên cứu của tác giả Fukuda K và
cộng sự trên 306 phụ nữ cho thấy, thời kỳ mãn kinh, đặc biệt là trong giai
đoạn đầu, là một yếu tố quan trọng liên quan đến nhồi máu não (OR 4,35, IC
95% 1,05-18,08) [19].
Sau mãn kinh, việc thay đổi nồng độ Estrogen cũng gây ảnh hưởng đến
những yếu tố nguy cơ tim mạch theo chiều hướng bất lợi. Trong một nghiên
cứu của Reddy Kilim S và cộng sự, tác giả tìm hiểu mối quan hệ giữa tình
trạng mãn kinh và sự thay đổi nội tiết tố có liên quan giữa Estrogen với nồng
độ lipid huyết tương. Kết quả cho thấy có sự gia tăng đáng kể lượng
Cholesterol (TC), Triglycerides (TG), LDL – Cholesterol (LDL–C) và VLDL
– Cholesterol (VLDL–C), còn HDL - Cholesterol (HDL–C) lại giảm đáng kể
ở những phụ nữ sau mãn kinh. Chỉ số xơ vữa (Tổng số Cholesterol / HDL-C)
tăng ở phụ nữ sau mãn kinh so với ở phụ nữ tiền mãn kinh [17].
Ở phụ nữ sau mãn kinh, rối loạn giấc ngủ cũng có ảnh hưởng đến nguy

cơ tim mạch. Nghiên cứu trên 322 phụ nữ mãn kinh tác giả Seib C và cộng sự
nhận thấy tình trạng rối loạn giấc ngủ chiếm đến 23% [20].
Thời kỳ mãn kinh có liên quan với xu hướng tăng cân [21],[22]. Tác
giả Janssen I và cộng sự theo dõi quá trình mãn kinh trên 949 người nhận thấy
vòng bụng và vòng eo của phụ nữ tăng nhanh sau mãn kinh [23]. Một vài
nghiên cứu khác chỉ ra rằng giảm nội tiết tố buồng trứng ở thời kỳ mãn kinh
13
dẫn đến việc rối loạn nhiều chức năng cơ thể, trong đó có sự tăng trọng lượng
cơ thể và giảm trao đổi chất cơ bản. Một yếu tố khác liên quan đến việc kiểm
soát trọng lượng cơ thể là tác dụng kích hoạt các thụ thể estrogen. Estrogen
receptor-α, kích hoạt bởi estradiol, có một vai trò quan trọng trong việc ức chế
sự phát triển của các mô mỡ, do đó, có sự gia tăng các mô mỡ trong thời kỳ
mãn kinh như một kết quả của sự thiếu hụt Estrogen [24],[25],[26].
Một nghiên cứu khác của tác giả Fang SH và cộng sự còn cho thấy mối
liên quan giữa tình trạng mãn kinh và THA hoặc THA tâm thu đơn độc ở phụ
nữ. Trong 965 phụ nữ nghiên cứu, tỷ lệ THA ở nhóm tiền mãn kinh là 21,9%
và tăng hơn nhiều ở nhóm sau mãn kinh (49,3%) (p < 0,05) [27].
Phụ nữ sử dụng liệu pháp hormon có thể có nguy cơ thấp đối với bệnh
mạch vành và nhồi máu cơ tim, họ vẫn có nguy cơ bị đột quỵ, huyết khối tĩnh
mạch và bệnh động mạch ngoại vi. Mặc dù liệu pháp hormon làm giảm LDL
– Cho và lipoprotein (a), làm tăng HDL – Cho, nhưng nó lại ảnh hưởng xấu
đến chất béo trung tính và quá trình cầm máu [28]. Vì vậy, tuy Estrogen được
biết là một yếu tố tích cực bảo vệ tim mạch, tuy nhiên, việc sử dụng liệu pháp
hormon thay thế sau mãn kinh vẫn còn cần được nghiên cứu kỹ.
1.1.2.5. Tăng huyết áp:
Theo định nghĩa, một người lớn được gọi là THA khi HA tối đa ≥140
mmHg và /hoặc HA tối thiểu ≥ 90 mmHg [11].
THA là một trong những vấn đề quan trọng của sức khỏe cộng đồng.
THA thường dẫn đến những biến chứng nặng nề gây tàn phế và thậm chí có
thể gây tử vong như: tai biến mạch máu não, bệnh mạch vành, nhồi máu cơ

tim. Điều trị tốt THA làm giảm 40% nguy cơ đột qụy và 15% nguy cơ nhồi
máu cơ tim [29],[30],[31]. Một nghiên cứu lớn ở khu vực Châu Á Thái Bình
Dương cho thấy HA tâm thu cứ tăng thêm 10mmHg thì nguy cơ tim mạch
tăng thêm 21-34% [10].
14
Theo tác giả Salehi R, Motemavele M và Goldust M, xem xét các yếu
tố nguy cơ tim mạch ở phụ nữ thì HA là một trong những yếu tố nguy cơ hay
gặp nhất. Nghiên cứu trên 250 phụ nữ có chẩn đoán ban đầu là nhồi máu cơ
tim hoặc đau thắt ngực không ổn định, số phụ nữ bị THA chiếm 78% [6].
Trong nghiên cứu của tác giả Lloyd-Jones MD và cộng sự, nguy cơ suy
tim trong những năm còn lại của cuộc đời sau 40 tuổi ở phụ nữ là 20,3%.
Nguy cơ này tăng gấp 2 lần trên những bệnh nhân có HA ≥ 160/100 mmHg
so với HA < 140/90 mmHg [5].
Ở phụ nữ, sự liên quan giữa THA với tử vong do bệnh mạch vành
mạnh hơn ở nam giới [32].
Trong một nghiên cứu của mình, các tác giả Simon Capewell, Earl S
Ford, Janet B Croft, Julia A Critchley, Kurt J Greenlund và Darwin R
Labarthe cho thấy số phụ nữ THA tử vong vì bệnh tim mạch có thể giảm
khoảng 48.000 người khi HA tâm thu giảm xuống dưới 118,9 mmHg [33].
1.1.2.6. Rối loạn lipid máu:
Rối loạn lipid máu được định nghĩa khi một hoặc nhiều thành phần sau
bị rối loạn: Tăng cholesterol toàn phần, tăng Triglycerid, tăng LDL-C, giảm
HDL-C, giảm apoprotein AI, tăng apoprotein B [34].
- LDL – Cholesterol: Phân tử LDL–C rất quan trọng đối với nguy cơ bệnh
tim mạch cũng như mảng xơ vữa động mạch. Trong nghiên cứu của tác giả
Shoji T và cộng sự, nồng độ LDL–C nhỏ đậm đặc có mối liên quan chặt chẽ
với độ dày lớp trung nội mạc động mạch cảnh ngay cả khi đã hiệu chỉnh về
tuổi, giới, THA, ĐTĐ, CRP, hút thuốc lá và mức lọc cầu thận [35]. Theo
NCEP – ATP III, nếu giảm 1% LDL–C sẽ giảm 1% nguy cơ bệnh mạch vành
[36]. Trong nghiên cứu The Strong Heart Study, các tác giả kết luận cứ giảm

1mg/dL LDL–C sẽ giảm 12% nguy cơ bệnh tim mạch [37]. Một nghiên cứu
khác của Stephen N Davis cũng cho thấy cứ giảm 1 mmol/l LDL-C
(18mg/dL) sẽ giảm 36% nguy cơ mạch vành [38].
15
- HLD – Cholesterol: Tầm quan trọng của HDL–C trong bảo vệ tim đã được
chứng minh bởi các nghiên cứu dịch tễ học về mối quan hệ thuận nghịch giữa
nồng độ HDL–C và nguy cơ bệnh mạch vành. Mặc dù vai trò trực tiếp lên cơ
chế xơ vữa mạch chưa được hiểu biết đầy đủ nhưng người ta thấy rằng HDL–
C thấp thường kết hợp với tăng LDL–C nhỏ đậm đặc, và liên quan đến sự
xuất hiện các yếu tố gây xơ vữa khác. Trong nghiên cứu PROCAM, HDL-C
thấp là yếu tố tiên đoán độc lập nguy cơ bệnh mạch vành với tất cả các mức
LDL-C. Tăng 1% HDL-C sẽ giảm 2-3% nguy cơ bệnh mạch vành [39]. Trong
nghiên cứu Framingham, nguy cơ mắc bệnh tim mạch tăng 6 lần ở phụ nữ có
HDL-C < 1,2 mmol/l so với phụ nữ có HDL-C > 1,7 mmol/l [40]. Trong
nghiên cứu UKPDS, nguy cơ tương đối mắc bệnh tim mạch giảm 0,15 lần với
mỗi 0,1 mmol/l HDL-C ở bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 [41]. Các bằng chứng về vai
trò bảo vệ của HDL cũng được củng cố bởi các nghiên cứu khác.
- Triglycerid: Ngày nay người ta đã công nhận vai trò của TG đối với nguy cơ
bệnh mạch vành. Cùng với HDL-C, TG là yếu tố quan trọng góp phần vào
nguy cơ tồn dư bệnh mạch máu lớn. Theo nghiên cứu PROVE-IT TIMI 22,
ngay cả khi điều trị đạt mức LDL-C < 70 mg/dL thì những bệnh nhân có TG
≥ 200mg/dL vẫn có nguy cơ tử vong, nhồi máu cơ tim hay hội chứng mạch
vành cấp tăng 56% so với nhóm có TG < 200 mg/dL [42].
RLLP máu còn có mối quan hệ tương tác với những yếu tố nguy cơ tim
mạch khác. Tác giả Phạm Nguyễn Sơn và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu
144 bệnh nhân THA tại Khoa A2 Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 cho
thấy 37,2% có tăng TC máu, 25% tăng TG máu, 33,6% có giảm HDL-C [43].
Tác giả Huỳnh Văn Minh nghiên cứu 65 bệnh nhân trên 40 tuổi bị THA
nguyên phát không mắc các bệnh kèm theo ảnh hưởng đến chuyển hoá lipid,
kết quả cho thấy: Số bệnh nhân có TC > 5,2 mmol/l chiếm 27,7%, TG > 2,3

mmol/l chiếm 18,5%, HDL-C < 0,9 mmol/l chiếm 4,6% và LDL-C> 3,12
mmol/l chiếm 24,6% [44].
16
- Cholesterol: Cholesterol toàn phần cũng đóng vai trò quan trọng đối với
nguy cơ tim mạch. Một nghiên cứu trên 333.533 người ở khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương cho kết quả cứ mỗi mmol/l TC tăng trên mức bình thường ở
người không bị tiểu đường sẽ liên quan đến 41% ( CI 95% 23 - 63%) nguy cơ
mắc bệnh mạch vành và 42%(CI 95% 35 - 50%) nguy cơ mắc bệnh mạch
vành ở người bị tiểu đường. Giá trị tương ứng đối với đột quỵ do thiếu máu
cục bộ cơ tim là 23% (CI 95% 0 - 52%) và 31% (CI 95% 20 - 44%) [45].
1.1.2.7. Đái tháo đường:
Đái tháo đường là bệnh rối loạn chuyển hoá do nhiều nguyên nhân
khác nhau gây nên, đặc trưng của bệnh là tăng đường máu mạn tính cùng với
rối loạn chuyển hoá carbonhydrate (chất đường), lipide (chất béo), protein
(chất đạm) do thiếu insuline có kèm hoặc không kèm kháng insulin với các
mức độ khác nhau. Hệ quả của tăng đường máu mạn tính là tổn thương nhiều
cơ quan như: mắt, thận, thần kinh…
Nhiều nghiên cứu nhận thấy bệnh ĐTĐ hay xảy ra cùng với bệnh
THA. Khoảng 30 -50% bệnh nhân ĐTĐ bị THA, những bệnh nhân này
thường béo. Ngược lại, xét nghiệm đường trong máu thấy tăng cao ở 1/3 số
bệnh nhân THA [46],[47].
Nghiên cứu nhằm đánh giá yếu tố nguy cơ mạch vành ở phụ nữ, tác giả
Salehi R nhận thấy có đến 38,5% bệnh nhân nghiên cứu bị ĐTĐ. Tác giả cũng
đã chỉ ra có mối liên quan tuyến tính giữa ĐTĐ và bệnh mạch vành ở nhóm
phụ nữ nghiên cứu [6].
Nghiên cứu xác định sự phổ biến của các yếu tố nguy cơ tim mạch ở
bệnh nhân có RLLP máu, Machado-Alba JE và cộng sự nhận thấy tỷ lệ bệnh
nhân nữ bị ĐTĐ là 28,5% [48].
Trong một nghiên cứu khác của Sclavo M, tác giả nhận thấy ở những
phụ nữ mắc bệnh tiểu đường, tỷ lệ tử vong tăng gấp 3-7 lần so với mức tăng

gấp 2-3 lần ở đàn ông [32].
17
Simon Capewell và cộng sự nghiên cứu mối liên quan giữa yếu tố nguy
cơ tim mạch với nguy cơ tử vong do bệnh mạch vành. Kết quả thu được ở
nhóm phụ nữ 65 tuổi bị ĐTĐ OR = 3,53 (IC 95% 2,49 - 5,01) và ở nhóm phụ
nữ bị ĐTĐ trên 65 tuổi OR = 2,59 (IC 95% 1,78 - 3,78) [33].
Theo NCEP – ATP III, nguy cơ mắc bệnh tim mạch tăng lên đáng kể ở
cả ĐTĐ tuýp 1 và 2. Hơn nữa, tỷ lệ tử vong ở những bệnh nhân ĐTĐ khi trải
qua một biến cố tim mạch cao hơn nhiều so với những người không bị ĐTĐ,
đặc biệt là ở những bệnh nhân ĐTĐ bị bệnh mạch vành. Sự gia tăng nguy cơ
THA, thừa cân, béo phì và RLLP máu cũng thường thấy ở những người bị
ĐTĐ. Kiểm soát đường huyết chặt chẽ giúp giảm nguy cơ biến chứng mạch
máu ở bệnh nhân tiểu đường, đặc biệt ở phụ nữ [36].
1.1.2.8. Hút thuốc lá:
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc hút thuốc lá làm tăng nguy cơ ung
thư phổi, và cũng làm tăng đáng kể nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Hút thuốc
làm tăng nhịp tim, thắt chặt các động mạch lớn và làm cho nhịp tim bất
thường, có thể dẫn đến loạn nhịp tim khiến hoạt động của tim kém hiệu quả
và trở nên khó khăn. Việc hút thuốc cũng làm THA và tăng nguy cơ đột quỵ.
Ngoài nicotine, các hóa chất khác có trong khói thuốc như carbon monoxide
cũng có hại cho tim. Những chất này dẫn đến tích tụ mảng bám trong động
mạch, ảnh hưởng đến TC và mức fibrinogen – một yếu tố làm đông máu, điều
này khiến cho nguy cơ đông máu tăng và có thể dẫn đến bệnh mạch vành.
Trong nghiên cứu INTERHEART cho thấy hút 1 - 5 điếu thuốc một
ngày làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim cấp tính 40%. Nó còn giảm tác dụng
phòng ngừa tái phát của Aspirin 20% và của Statin 75%. Nguy cơ tăng lên với
số lượng thuốc lá hút mỗi ngày (OR = 9,2 ở những người hút thuốc trên 40
điếu thuốc mỗi ngày). Tất cả các dạng thuốc lá đều có hại [49].
18
Hút thuốc lá, mặc dù không phải là nguyên nhân THA, nhưng là một yếu

tố đe dọa quan trọng của bệnh, vì nguy cơ mắc bệnh mạch vành ở người THA có
hút thuốc lá cao hơn 50 - 60% so với những người THA không hút thuốc lá [50].
Nghiên cứu của Gordon H. Williams cho thấy những yếu tố nguy cơ
của vữa xơ động mạch như tăng cholesterol trong máu, giảm dung nạp
glucose, và/hoặc hút thuốc lá đã làm tăng đáng kể tỷ lệ tử vong ở người có
THA bất kể ở giới, tuổi, hay chủng tộc nào [51].
So sánh nguy cơ nhồi máu cơ tim liên quan đến hút thuốc lá giữa nam
và nữ, E. Prescott Hippe M, Schnohr P và cộng sự nhận thấy so với người
không hút thuốc, phụ nữ có nguy cơ tương đối với nhồi máu cơ tim là 2,24
(1,85 - 2,71), còn ở nam giới là 1,43 (1,26 – 1,62). Nguy cơ tương đối của
nhồi máu cơ tim tăng lên với mức tiêu thụ thuốc lá ở cả nam giới và phụ nữ.
Những rủi ro liên quan đến hút thuốc ở phụ nữ cao hơn ở nam giới [52].
Nghiên cứu Finnmark cho thấy tỷ lệ bệnh mạch vành ở những người
hút thuốc lá trên 20 điếu/ngày tăng lên 3 lần ở nam và 6 lần ở nữ. Phân tích
đa biến xác định ở phụ nữ, hút thuốc lá là một yếu tố nguy cơ liên quan với
bệnh mạch vành mạnh hơn so với ở nam giới [OR ở nữ là 3,3 (CI 95% 2,1 –
5,1), OR ở nam là 1,9 (CI 95% 1,6 – 2,3)] [53].
1.1.2.9. Béo phì, béo bụng
Năm 1986, nhóm chuyên viên về nhu cầu năng lượng của Liên Hợp
Quốc đã đề nghị sử dụng BMI (chỉ số khối cơ thể) để đánh giá tình trạng dinh
dưỡng ở người trưởng thành. BMI là một chỉ số đơn giản của cân nặng theo
chiều cao. Nó được định nghĩa là trọng lượng của một người bằng kg chia cho
bình phương chiều cao của mình theo mét ( kg/m2) [54]. Các tác giả đặc biệt
nhấn mạnh đến vai trò của béo trung tâm, thể hiện ở chu vi vòng bụng (WC).
Người ta cho rằng béo trung tâm là 1 yếu tố dự báo bệnh tim mạch liên quan
đến béo phì ngay cả khi có cân nặng bình thường [32],[54].
19
Béo phì là một trong các yếu tố nguy cơ của hội chứng chuyển hóa và
là một yếu tố nguy cơ tim mạch. Người lớn béo phì có tỷ lệ tử vong cao hơn
những người có BMI thấp [55], đồng thời nguy cơ mắc các bệnh trầm trọng

khác như bệnh mạch vành, nhồi máu cơ tim và ĐTĐ tuýp 2 cũng cao hơn.
Cứ mỗi 5kg/m2 cao hơn chỉ số BMI bình thường thì mối liên quan giữa
béo phì, thừa cân với nguy cơ tim mạch tăng lên là 1,27 và với đột quỵ là
1,18. Tỷ lệ đột quỵ đối với thừa cân là 98% và 69% cho béo phì [56].
Thừa cân và béo phì có thể gây ra nhồi máu cơ tim và thiếu máu cục
bộ cơ tim [57]. Đối với những người không có hội chứng chuyển hóa BMI
bình thường, nguy cơ nhồi máu cơ tim là 1,26 (IC 95% 1,00 – 1,61), tỷ lệ này
tăng ở người béo phì (1,88 với IC 95% 1,34 – 2,63) và thừa cân (1,39 với IC
95% 0,96 – 2,02). Ở những người có hội chứng chuyển hóa, nguy cơ thiếu
máu cục bộ cơ tim nếu béo phì hoặc thừa cân còn tăng hơn nữa. Tuy nhiên,
nghiên cứu cũng khẳng định béo phì và thừa cần là một yếu tố nguy cơ của
bệnh mạch vành dù có hay không có hội chứng chuyển hóa [57].
Béo phì thấy ở phụ nữ (56,4%) nhiều hơn nam giới (40%) [58].
Trong một nghiên cứu của Wang C và cộng sự, chỉ số BMI ≥ 30 là một
yếu tố nguy cơ độc lập với đột quỵ ở cả nam và nữ. Đối với phụ nữ thừa cân,
liên quan với nguy cơ đột quỵ OR = 1,42 (CI 95% 1,16 – 1,73), đối với phụ
nữ béo phì, liên quan với nguy cơ đột quỵ OR = 1,57 (CI 95% 1,06 – 2,31).
Cũng trong nghiên cứu này, liên quan giữa thiếu máu cục bộ cơ tim với phụ
nữ béo phì và thừa cân tương ứng là 1,9 (CI 95% 1,44 – 2,50) và 2,42 (CI
95% 1,50 – 3,93) [59].
Ảnh hưởng của béo phì và thừa cân lên nguy cơ tim mạch ở phụ nữ thể
hiện rõ hơn sau mãn kinh. Thời kỳ mãn kinh có liên quan với xu hướng tăng
cân [21], [22]. Tác giả Janssen I và cộng sự theo dõi quá trình mãn kinh trên
949 người nhận thấy vòng bụng và vòng eo của phụ nữ tăng nhanh sau mãn
kinh. Điều này đồng nghĩa với việc làm tăng nguy cơ tim mạch ở nữ giới [23].
20
1.1.2.10. Yếu tố tâm lý xã hội và căng thẳng:
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra căng thẳng và yếu tố tâm lý xã hội có liên
quan đến nguy cơ mắc bệnh tim mạch, đặc biệt là bệnh mạch vành [60], [61],
[62], [63], [64], [65], [66], [67], [68].

Phụ nữ thường có nhiều áp lực trong gia đình và công việc hơn so với
đàn ông. Điều này góp phần làm tăng gánh nặng nguy cơ tim mạch ở phụ nữ.
Sultan-Taieb và cộng sự đã nghiên cứu mối liên quan giữa căng thẳng
trong công việc và nguy cơ bệnh mạch vành ở phụ nữ. Tác giả nhận thấy so
với những người không có căng thẳng, tỷ lệ phụ nữ bị căng thẳng trong công
việc nguy cơ mắc bệnh mạch vành tăng hơn rõ rệt (27,1% so với 14,3%) [69].
Orth-Gô-Me K và cộng sự nghiên cứu mối liên quan giữa tình trạng
căng thẳng trong hôn nhân với tỷ lệ mắc bệnh mạch vành, kết quả nghiên cứu
chỉ ra phụ nữ có căng thẳng trong hôn nhân nguy cơ mắc bệnh mạch vành
tăng 2,9 lần so với bình thường [67].
1.1.2.11. Chế độ ăn:
Đến nay đã có nhiều nghiên cứu tìm hiểu mối liên quan giữa chế độ ăn
uống và bệnh tim mạch. Nghiên cứu trên 71.141 phụ nữ, Bhupathiraju
SN, Wedick NM và cộng sự nhận thấy ở những phụ nữ ăn nhiều trái cây họ cam
quýt, các loại rau lá màu xanh lá cây, β-carotene, trái cây giàu vitamin C và rau
quả có liên quan với nguy cơ bệnh mạch vành thấp hơn những phụ nữ khác [70].
Chế độ ăn thấp carbonhydrat giúp giảm đáng kể trọng lượng cơ thể (-
7,04kg), giảm BMI (-2,09 kg/m
2
), giảm HA tâm trương (-3,1 mmHg), giảm
TG (-29,71 mg/dL), tăng HDL-C (1,73 mg/dL), từ đó giúp kiểm soát tốt các
yếu tố nguy cơ tim mạch [71].
Các bằng chứng cho thấy rau quả có liên quan với giảm nguy cơ bệnh
mạch vành [71]. Ăn rau quả từ 3-5 phần ăn/ngày có liên quan đến việc giảm
17% nguy cơ mắc bệnh mạch vành [72].
21
Ngược với tác dụng bảo vệ của chế độ ăn rau quả và ít carbonhydrat,
chế độ ăn nhiều muối lại làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch nói chung và
mạch vành nói riêng. Các thử nghiệm cho thấy rằng ăn muối nhiều (trên 14
g/ngày) sẽ gây THA, trong khi ăn ít muối (dưới 1g/ngày) gây giảm HA. Ảnh

hưởng của việc giảm ở mức độ trung bình lượng muối trong chế độ ăn, từ 2,5
đến 5g/ngày vẫn còn đang được bàn luận. Hạn chế chế độ ăn muối là một
trong những biện pháp dễ nhất để phòng ngừa THA và có lẽ là cách điều trị
không dùng thuốc tốt nhất [50].
Phần lớn ở Việt Nam, người lo cho bữa ăn trong gia đình là phụ nữ. Vì
vậy, hiểu được tầm quan trọng của chế độ ăn đối với nguy cơ mắc bệnh tim
mạch là rất cần thiết, từ đó, người phụ nữ không những bảo vệ được cho
chính bản thân mình khỏi nguy cơ cao mắc bệnh tim mạch mà còn bảo vệ
được cho cả những người thân trong gia đình.
1.1.2.12. Mức độ vận động thể lực và nghỉ ngơi:
Trong những năm gần đây, một số nghiên cứu đã khẳng định mối liên
quan giữa hoạt động thể chất và bệnh mạch vành [73].
Nghiên cứu MRFIT chỉ ra ở những người ít vận động, nguy cơ tử vong
vượt quá 27% và 22% đối với bệnh tim mạch nói chung và bệnh mạch vành
nói riêng [74].
Nghiên cứu của Berlin JA và Colditz GA cũng cho thấy một nguy cơ
tương đối giữa bệnh tim mạch với những người làm trong nhóm ngành nghề ít
hoạt động và những người làm việc trong những nhóm ngành nghề hoạt động
thể lực nhiều hơn là 1,92 (CI 95% 1,6-2,2) [73].
Hoạt động thể chất thường xuyên (ví dụ, 5 lần một tuần trong ít nhất 30
phút) cải thiện chuyển hóa lipid, làm giảm HA và làm giảm khả năng phát
triển bệnh tiểu đường [75], [76]. Hơn nữa, hoạt động thể chất thường xuyên
làm giảm nhịp tim khi nghỉ ngơi. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối quan hệ tích
22
cực giữa giảm nhịp tim khi nghỉ ngơi và nguy cơ tử vong do bệnh mạch vành
[77], [78]. Nauman và cộng sự phát hiện thấy, đặc biệt là ở phụ nữ, nhịp tim
khi nghỉ ngơi cao có liên quan với tăng nguy cơ tử vong do bệnh tim thiếu
máu cục bộ. Nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch tăng 18% cho mỗi 10 nhịp
tim/phút tăng khi nghỉ ngơi [78].
Ở phụ nữ, bên cạnh một chế độ vận động thể lực hợp lý, thời gian nghỉ

ngơi, đặc biệt là thời gian dành cho giấc ngủ cũng hết sức quan trọng. Một
nghiên cứu của Sands-Lincoln M và cộng sự cho thấy phụ nữ mất ngủ nguy
cơ mắc bệnh tim mạch là 38%, nguy cơ này giảm xuống còn 27% khi giấc
ngủ được điều chỉnh hợp lý. Cũng trong nghiên cứu của mình, tác giả nhận
thấy ở những phụ nữ có thời gian ngủ ít hơn 5 giờ hoặc dài hơn 10 giờ mỗi
ngày làm biến cố mạch vành tăng đáng kể (25%) so với những phụ nữ có giấc
ngủ từ 5 – 10 giờ mỗi ngày (19%) [79].
1.1.2.13. Thai nghén:
Ngoài những yếu tố nguy cơ thường được biết đến như đã nói ở trên, ở
phụ nữ, THA khi mang thai, ĐTĐ thai kỳ, sản giật, tiền sản giật… cũng làm
tăng nguy cơ tim mạch sau này [80].
Charlton F và cộng sự nhận thấy các bất thường cơ bản ở phụ nữ bị tiền
sản giật vẫn còn lại sau khi tình trạng này được kiểm soát, và nó là một nguy
cơ làm tăng khả năng mắc bệnh tim mạch của những bệnh nhân này về sau.
Ngoài ra, ở những phụ nữ có thai thường có tình trạng tăng TC, TG và LDL-
C. Những RLLP máu này nếu không được kiểm soát chặt chẽ sẽ góp phần
làm tăng khả năng mắc bệnh tim mạch về sau ở phụ nữ [81].
Nghiên cứu trên 3400 phụ nữ đầu thập niên 90 và theo dõi sức khỏe
của họ trong 20 năm, nghiên cứu Avon nhận thấy ở tuổi 50, nguy cơ mắc
bệnh tim mạch 10 năm của những phụ nữ có tiền sử tiền sản giật cao hơn 31%
so với những phụ nữ có quá trình mang thai bình thường. Ở những phụ nữ
tiền sử ĐTĐ thai kỳ, nguy cơ mắc bệnh tim mạch 10 năm tăng 19% [82].
23
Như vậy, những yếu tố nguy cơ tim mạch thường gặp ở phụ nữ là: tuổi,
đặc điểm giới, di truyền, mãn kinh, THA, ĐTĐ, RLLP máu, hút thuốc lá, béo
phì, yếu tố tâm lý xã hội và căng thẳng, chế độ ăn, mức độ vận động thể lực
và nghỉ ngơi, thai nghén. Trong số đó, có rất nhiều yếu tố có thể thay đổi
được nhờ hiểu biết và can thiệp hợp lý. Vì vậy, nghiên cứu yếu tố nguy cơ tim
mạch là cần thiết. Đây cũng chính là lý do thôi thúc chúng tôi tiến hành
nghiên cứu.

1.2. Một số thang điểm lượng giá nguy cơ bệnh tim mạch ở nữ giới:
1.2.1. Thang điểm Framingham lượng giá nguy cơ bệnh mạch vành ở nữ
giới trong 10 năm:
1.2.1.1. Thang điểm Framingham lượng giá nguy cơ bệnh mạch vành ở nữ
giới trong 10 năm:
Là thang điểm được sử dụng nhiều nhất trong các nghiên cứu, bắt
nguồn từ nghiên cứu Framingham, được đưa ra vào năm 1998.
Framingham Heart Study là nghiên cứu đầu tiên của hàng loạt các
nghiên cứu về điều tra các yếu tố nguy cơ tim mạch. Bắt đầu từ năm 1948 với
5209 đối tượng từ 28 đến 62 tuổi ở Framingham, Massachusset, chưa có bệnh
tim mạch trước đó. Trải qua thời gian dài nghiên cứu với những thay đổi nhận
thức về vai trò của các yếu tố nguy cơ đối với bệnh mạch vành, đột quỵ, bệnh
tim có hay không tử vong, các tác giả đã xây dựng thang điểm Framingham
dựa vào các yếu tố như: tuổi, HA tâm thu, HA tâm trương, TC toàn phần,
HDL-C, ĐTĐ. Dựa theo thang điểm, tính nguy cơ 10 năm mạch vành và phân
tầng: nguy cơ thấp, nguy cơ trung bình và nguy cơ cao [40], [83].
Năm 2001, NCEP – ATP III đưa ra khuyến cáo điều trị cho các thầy
thuốc lâm sàng dựa trên bằng chứng về chẩn đoán, phân loại và điều trị RLLP
máu đồng thời đưa ra cách tính điểm Framingham cải tiến dựa trên dữ liệu
của nghiên cứu Framingham Heart Study, đánh giá nguy cơ bệnh mạch vành
24
có hoặc không có tử vong sau 10 năm, phân tầng nguy cơ và mục tiêu điều trị
đối với từng mức độ. Thang điểm này tính toán dựa vào 5 yếu tố nguy cơ
mạch vành chính: tuổi, giới, THA, TC toàn phần, HDL-C, hút thuốc lá chia
theo tuổi và theo giới [36].
Bảng 1.1. Điểm Framingham theo tuổi cho nữ giới
Tuổi 20-34 35-39 40-44 45-49 50-54 55-59 60-64 65-69 70-74 75-79
Điể
m
-7 -3 0 3 6 8 10 12 14 16

Bảng 1.2. Điểm Framingham theo Cholesterol toàn phần và tuổi
cho nữ giới
TC toàn
phần
(mmol/l)
Điểm ở tuổi
20-39
Điểm ở tuổi
40-49
Điểm ở tuổi
50 -59
Điểm ở tuổi
60-69
Điểm ở tuổi
70-79
< 4,1 0 0 0 0 0
4,1 - 5,1 4 3 2 1 1
5,1 – 6,2 8 6 4 2 1
6,2 – 7,2 11 8 5 3 2
> 7,2 13 10 7 4 2
Bảng 1.3. Điểm Framingham theo tình trạng hút thuốc và tuổi cho nữ giới
Điểm ở
tuổi 20-39
Điểm ở
tuổi 40-49
Điểm ở
tuổi 50-59
Điểm ở
tuổi 60-69
Điểm ở

tuổi 70-79
Không hút thuốc 0 0 0 0 0
Hút thuốc 9 7 4 2 1
Bảng 1.4. Điểm Framingham theo HDL-C cho nữ giới
HDL-C (mmol/l) > 1,6 1,3 - 1,6 1,1 – 1,3 < 1,1
Điểm -1 0 1 2
Bảng 1.5. Điểm Framingham theo HA tâm thu cho nữ giới
HA tâm thu Không điều trị Có điều trị
< 120 0 0
120 - 129 1 3
130 - 139 2 4
25
140 - 159 3 5
≥ 160 4 6
Bảng 1.6. Lượng giá nguy cơ bệnh mạch vành trong 10 năm theo thang
điểm Framingham cho nữ giới
Tổng điểm Nguy cơ
10 năm
Tổng điểm Nguy cơ
10 năm
Tổng điểm Nguy cơ
10 năm
< 9 < 1% 15 3% 22 17%
9 1% 16 4% 23 22%
10 1% 17 5% 24 27%
11 1% 18 6% ≥25 ≥30%
12 1% 19 8%
13 2% 20 15%
14 2% 21 14%
Bảng 1.7. Phân loại nguy cơ bệnh mạch vành trong 10 năm theo thang

điểm Framingham cho nữ giới
Nguy cơ Lượng giá nguy cơ theo Framingham
Thấp < 10%
Trung bình 10% - 19%
Cao ≥ 20%
1.2.1.2. Một số nghiên cứu về thang điểm Framingham trong lượng giá nguy
cơ bệnh mạch vành ở nữ giới:
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu ứng dụng thang điểm
Framingham vào lượng giá yếu tố nguy cơ bệnh mạch vành cho cả nam và
nữ. Năm 1967, Truett và cộng sự đã công bố một phân tích đa biến dựa theo
nghiên cứu Framingham. Trong phân tích này, 7 yếu tố nguy cơ được sử dụng
để lượng giá nguy cơ tim mạch ở nam giới và nữ giới tuổi từ 30-62: tuổi,
cholesterol, huyết áp tâm thu, trọng lượng tương đối, hemoglobin, hút thuốc
lá, và phì đại thất trái biểu hiện trên điện tâm đồ [84]. Năm 1976, Kannel và
cộng sự khẳng định tầm quan trọng của HA tâm thu trong nghiên cứu
Framingham, các tác giả nhận thấy những người có huyết áp tâm thu dưới 140

×