Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

hoàn thiện hoạt động thanh tra, giám sát đối với hệ thống quỹ tín dụng nhân dân cơ sở tại ngân hàng nhà nước việt nam chi nhánh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.1 KB, 101 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản
thân. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình luận văn nào
trước đây.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hường
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ 15
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
Quỹ tín dụng là tổ chức tài chính trung gian ra đời vào giữa thế kỷ 19, xuất phát từ phong trào
bình dân nhằm giúp đỡ công nhân vay vốn (người thường gặp khó khăn khi vay vốn ngân hàng
và thường phải chịu lãi suất đắt). Từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, các quỹ tín dụng bất ngờ
phát triển nhanh nhất, trở thành định chế tài chính hàng đầu đảm bảo được các khoản vay nhỏ
cho cá nhân và hộ gia đình 1
Ở Việt Nam, các quỹ tín dụng với tên gọi khác là các Hợp tác xã tín dụng xuất hiện từ năm
1956, sau hơn 50 năm phát triển hệ thống quỹ tín dụng của Việt Nam ngày nay gồm có 01 Quỹ
tín dụng Trung ương và 1.057 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở cùng liên kết hoạt động, trong đó các
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở là nền tảng, Quỹ tín dụng Trung ương chỉ là đầu mối đóng vai trò
điều hòa vốn và giám sát, hỗ trợ các Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. 1
Mang những đặc trưng riêng có, các Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ở Việt Nam đã phát huy được
vai trò, thế mạnh của mình trở thành tổ chức tài chính quy mô nhỏ uy tín với năng lực cạnh tranh
ngày một nâng cao, đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế – xã hội các địa phương. Mặc dù
vậy, hoạt động của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân cơ sở vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế như:
quản trị rủi ro yếu, chất lượng tài sản chưa đảm bảo, khả năng tài chính mỏng, còn nhiều sai
phạm trong quá trình thanh tra tuân thủ, hoạt động chưa đảm bảo an toàn. Mặt khác thị trường tài
chính tiền tệ nước ta ngày càng phát triển, hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới nên môi
trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì hệ thống quỹ tín dụng nhân dân cơ sở lại là tổ chức tín
dụng dễ đổ vỡ nhất trong hệ thống tài chính. Những vấn đề đó đòi hỏi NHNNVN phải có một cơ
chế phù hợp để thanh tra, giám sát hiệu quả loại hình TCTD này 1


Trong những năm qua, cùng với tiến trình xây dựng Ngân hàng trung ương hiện đại, hoạt động
thanh tra, giám sát ngân hàng đã có nhiều đổi mới, đạt được nhiều thành tựu, góp phần giúp hệ
thống quỹ hoạt động an toàn và hiệu quả hơn, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Nhưng
bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN đối với hệ thống
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở cũng còn những tồn tại, hạn chế như: công tác giám sát từ xa chưa
được coi trọng, chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu cảnh báo sớm, hướng dẫn chỉ điểm cho
hoạt động thanh tra tại chỗ; phương pháp và nội dung hoạt động thanh tra, giám sát đã có đổi
mới nhưng chưa đáp ứng kịp yêu cầu thực tế quản lý theo các thông lệ chuẩn mực quốc tế 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Đối tượng nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Kết cấu của luận văn 3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
THANH TRA, GIÁM SÁT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 4
1.1. Tổng quan về hoạt động thanh tra, giám sát của ngân hàng trung ương đối với các tổ chức
tín dụng 4
1.1.1. Ngân hàng trung ương và những chức năng của ngân hàng trung ương 4
NHTW là một định chế công cộng, có thể độc lập hoặc trực thuộc Chính phủ, thực hiện chức
năng độc quyền phát hành tiền, là ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng của Chính phủ và
chịu trách nhiệm trong việc quản lý Nhà nước về các hoạt động về tiền tệ, tín dụng cho mục tiêu
phát triển và ổn định của cộng đồng 4
NHTW ra đời xuất phát từ sự phát triển của hệ thống các NHTM nói riêng, của các tổ chức tài
chính trung gian nói chung và để đáp ứng nhu cầu can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vực tiền tệ và
hoạt động ngân hàng. 4
Sự phát triển của các tổ chức tài chính, đặc biệt là các NHTM cả về số lượng lẫn quy mô hoạt
động cùng sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa những năm cuối thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX
đã dẫn đến tình trạng tồn tại quá nhiều giấy bạc ngân hàng gây khó khăn cho hoạt động lưu
thông hàng hóa. Và một giải pháp được thực hiện là: chỉ những ngân hàng có vốn lớn, phạm vị
hoạt động rộng, có uy tín trong lưu thông và được Nhà nước cho phép mới được phát hành giấy

bạc (gọi là các ngân hàng phát hành). Từ khi đó hệ thống ngân hàng phân định thành các ngân
hàng phát hành và các ngân hàng trung gian 4
Hoạt động ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì chạy theo mục tiêu lợi nhuận, các ngân hàng bất
chấp rủi ro dẫn đến phá sản, và phá sản hệ thống gây thiệt hại đến người gửi tiền, đến nền kinh
tế. Trước tình thế ấy, cần phải có tổ chức đứng ra kiểm soát, khống chế các ngân hàng, đó chính
là ngân hàng thực hiện chức năng quản lý, giám sát và cho vay cuối cùng. 4
Hiện nay mỗi quốc gia trên thế giới đều có một ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước thực hiện
chức năng độc quyền phát hành, là công cụ của nhà nước để quản lý kiểm soát về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng, đó là NHTW 5
NHTW là một cơ quan quan trọng trong bộ máy quản lý vĩ mô của nhà nước có trách nhiệm
xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia và thực hiện quản lý, kiểm soát các TCTD. Để
thực hiện vai trò quản lý nhà nước của mình đối với các TCTD, NHTW ban hành các văn bản
hướng dẫn thi hành luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, ban hành các quy chế về tổ chức,
hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối đồng thời theo dõi, thanh tra, kiểm
soát các hoạt động đó, đảm bảo cho hệ thống hoạt động theo pháp luật, tôn trọng các quy định về
đảm bảo an toàn trong hoạt động, từ đó giúp ổn định giá trị đồng tiền và đảm bảo các TCTD hoạt
động an toàn, hiệu quả nhằm đạt các mục tiêu ổn định, tăng trưởng kinh tế và bảo vệ quyền lợi
của người gửi tiền 5
NHTW là ngân hàng phát hành: đây là tổ chức được độc quyền phát hành tiền đưa vào lưu
thông để nó trở thành phương tiện thanh toán hợp pháp trong mỗi quốc gia.Tiền phát hành bao
gồm tiền kim loại, tiền giấy, tiền điện tử; NHTW có nhiệm vụ đảm bảo thống nhất an toàn cho
hệ thống lưu thông tiền tệ; Nhà nước thống nhất quy định các chuẩn mực cho việc phát hành
tiền, quản lý và quy định thống nhất việc in, đúc, đổi tiền. Chính sách phát hành tiền được
nghiên cứu cẩn trọng. 5
Quá trình cung ứng tiền có sự tham gia của các tác nhân với quy trình sau: 5
Ban đầu NHTW phát hành giấy bạc, tiền kim loại vào lưu thông thông qua việc thực hiện các
chức năng tổ chức thanh toán giữa các ngân hàng, cho các NHTM vay từ đó hình thành lượng
tiền trung ương, hay tiền cơ sở (MB). Từ 1 lượng tiền dự trữ tăng lên do NHTW cung cấp, các
NHTM tạo ra một lượng tiền gửi gấp bội lần số tiền ban đầu thông qua hệ số mở rộng tiền gửi.
NHTW kiểm soát số tiền dự trữ đưa ra thông qua việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Quá trình

phát hành tiền gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế và phải có các nguyên tắc, quy chế, quy
trình kỹ thuật để đảm bảo thúc đẩy kinh tế phát triển. 5
Các kênh phát hành tiền của NHTW là: thông qua nghiệp vụ tín dụng giữa NHTW với các
NHTM; thông qua NSNN; kênh thị trường mở và kênh thị trường hối đoái 6
NHTW là ngân hàng của các ngân hàng: NHTW mở tài khoản và nhận tiền gửi của các ngân
hàng trung gian. Các ngân hàng trung gian phải mở tài khoản ở NHTW để chấp hành dự trữ bắt
buộc, thực hiện dịch vụ ngân quỹ và các quan hệ thanh toán với các TCTD khác qua NHTW.
Ngoài việc mở tài khoản, cung ứng các dịch vụ thanh toán, các phương tiện thanh toán và tổ
chức thanh toán, NHTW còn ban hành các thể lệ, chế độ thanh toán thống nhất trong nền kinh tế
nói chung và đối với các TCTD nói riêng đồng thời giám sát quá trình thanh toán để hạn chế rủi
ro cho các thành viên tham gia thanh toán 6
NHTW cấp tín dụng cho các ngân hàng nhằm mục đích phát hành tiền trung ương, bổ sung vốn
khả dụng và thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng thông qua việc chiết khấu, tái chiết khấu
giấy tờ có giá đủ điều kiện để bù đắp nhu cầu chi trả cho các ngân hàng trung gian khi họ thiếu
hụt khả năng thanh khoản. 6
Thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng, NHTW là đơn vị quản lý Nhà nước đối với
các TCTD thông qua việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, đây là một chính
sách kinh tế vĩ mô quan trọng của Nhà nước do NHTW khởi thảo xây dựng và thực thi thông qua
các công cụ trực tiếp (hạn mức tín dụng, lãi suất ấn định) và công cụ gián tiếp (dự trữ bắt buộc,
chính sách chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở) để kiểm soát và điều tiết lượng tiền cung ứng
nhằm đạt các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, tạo việc làm, thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển,
trong đó mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền là mục tiêu hàng đầu, dài hạn. NHTW là người cấp,
thu hồi giấy phép thành lập; ban hành các chính sách, chế độ, quy chế, thể lệ, và nghiệp vụ
hướng dẫn, yêu cầu các TCTD thực hiện; thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành
pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, chấp hành các quy định trong giấy phép hoạt động
của các TCTD nhằm đảm bảo an toàn cho cả hệ thống và bảo vệ lợi ích của người gửi tiền, phục
vụ chính sách tiền tệ quốc gia 6
Ngân hàng trung ương là ngân hàng của Nhà nước: làm dịch vụ ngân hàng cho Chính phủ như
là: thủ quỹ cho Kho bạc; bảo quản dự trữ quốc gia về ngoại tệ, vàng bạc, chứng khoán của các tổ
chức trong nước và nước ngoài ; làm đại lý cho Chính phủ trong việc đấu thầu, phát hành và

thanh toán trái phiếu, công trái Chính phủ; cho NSNN vay trong những trường hợp cần thiết; làm
tư vấn cho Chính phủ về những vấn đề kinh tế, tiền tệ và đại diện Nhà nước tại các tổ chức tài
chính quốc tế; thực hiện quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng và hoạt động ngân hàng. 7
Tóm lại: NHTW là cơ quan quyền lực công của Nhà nước thực hiện chức năng độc quyền phát
hành tiền và quản lý nhà nước về lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế nói chung, của hệ thống TCTD trung gian nói riêng thì mô hình tổ chức cũng
như vị thế của NHTW có khác nhau giữa các thời kỳ, giữa các quốc gia nhưng NHTW vẫn là cơ
quan quan trọng trong bộ máy quản lý vĩ mô của Nhà nước, thực hiện các cơ hoạt động cơ bản
trong đó có hoạt động thanh tra, giám sát các TCTD nhằm đảm bảo cho hệ thống này hoạt động
kinh doanh lành mạnh, an toàn, ít rủi ro và tránh được đổ vỡ 7
1.1.2. Sự cần thiết, mục tiêu của hoạt động thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng của ngân
hàng trung ương 7
1.1.3. Phương pháp và chuẩn mực thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng của ngân hàng trung
ương 10
Sơ đồ 1.1 : Quy trình giám sát TCTD 14
1.2. Hoạt động thanh tra, giám sát của ngân hàng trung ương đối với quỹ tín dụng 16
1.2.1. Khái quát về quỹ tín dụng 16
Quỹ tín dụng là một định chế tài chính mới xuất hiện cách đây hơn 100 năm, nhằm mục đích
duy nhất là đáp ứng yêu cầu riêng cho những người chỉ tiết kiệm và cũng chỉ vay mượn một số
tiền nhỏ, những cá nhân và gia đình. Mục tiêu cơ bản của quỹ là cổ vũ hội viên tiết kiệm và thực
hiện cho vay với giá cả hợp lý dành cho các hội viên. 16
Hội viên quỹ tín dụng góp vốn nhằm tài trợ cho yêu cầu của những hội viên khác, việc không
phải là thành viên thì không được gửi hay vay tiền của quỹ tín dụng cũng là một đặc điểm khác
biệt của loại hình tài chính này. Muốn được trở thành thành viên, ngoài việc có đủ điều kiện
(cùng ngành nghề hoặc cùng nhà máy xí nghiệp hoặc cùng địa bàn sinh sống ), mỗi người phải
làm đơn xin gia nhập và đóng một lệ phí nhỏ 16
Quỹ tín dụng ra đời đầu tiên ở Đức vào giữa thế kỷ 19 với quan điểm thành lập là tự lực và tự
chủ. Nền kinh tế phát triển cùng với quá trình công nghiệp hóa, sự gia tăng của tầng lớp trung
lưu trong xã hội, từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, loại hình tài chính này phát triển nhanh nhất,
bất ngờ nhất, trở thành tổ chức tài chính hàng đầu đã đảm bảo được các khoản cho vay nhỏ nhằm

tài trợ việc mua sắm phương tiện, đồ đạc cũng như các chi phí sinh hoạt gia đình. Với tính chất
hoạt động phi lợi nhuận, vì lợi ích của các hội viên là chính, các QTD ngày nay đã trở thành tổ
chức tài chính gần gũi với dân chúng thuộc nhiều mức thu nhập khác nhau với rất nhiều dịch vụ
về tín dụng và tiết kiệm 16
* Tổ chức và các hoạt động cơ bản 17
Cũng như bất cứ một tổ chi chức tài chính trung gian nào, quỹ tín dụng được tổ chức như những
công ty với nhiều cổ phần (người sở hữu cổ phần là cổ đông), có Hội đồng quản trị, Ban quản lý
điều hành (Ban tín dụng, Ban giáo dục, Ban kiểm toán ) và một số vị trí giúp ban quản trị thực
hiện điều hành, tác nghiệp (Tổng giám đốc, Giám đốc, Phó giám đốc, thư ký, thủ quỹ ). Trong
đó thủ quỹ là người quan trọng nhất, phụ trách việc theo dõi sát các nhân viên trong việc cho
mượn tiền đồng thời là người giữ gìn sổ sách kế toán cho quỹ 17
Cả hội đồng quản trị lẫn các thành viên trong các ban, các vị trí điều hành và tác nghiệp trên của
quỹ đều làm tự nguyện không hưởng lương (trừ thủ quỹ, người độc nhất hưởng lương); họ đều
là những thành viên, tự nguyện đóng góp công sức cốt làm cho QTD thoả mãn được các yêu cầu
về tài chính của các hội viên càng thoả đáng càng tốt 17
Hoạt động căn bản nhất của QTD là nhận tiền gửi và cho vay giống như dịch vụ tài chính của
NHTM, tuy nhiên chỉ là những món nhỏ của chính các thành viên trong quỹ. Các khoản vay của
quỹ hầu hết chỉ cấp cho những thành viên có uy tín nhất, rất trung thực, và chính đặc điểm này
khiến cho các khoản cho vay của QTD có ưu thế hơn các khoản cho vay của các định chế tài
chính khác. Tỷ lệ vỡ nợ và trễ hạn trả của các khách hàng vay nợ ít hơn hẳn các NHTM dù các
QTD không lưu trữ nhiều hồ sơ thông tín tín dụng về khách hàng. Một ưu thế nữa là cước phí
cho vay trung bình của các QTD thường thấp hơn so với các tổ chức cấp tín dụng khác do chi
phí quản trị điều hành thấp (quản trị với tính chất tự nguyện tích cực), mô hình gọn nhẹ, hiểu rõ
các thành viên nên tiết kiệm cả về thời gian, nhân lực trong quá trình duyệt vay. Khoản mục cho
hội viên vay thường chiếm trên 50% tài sản có của quỹ, các khoản đầu tư chứng khoán (có tính
lỏng cao, được sự cho phép của NHTW), các khoản tiền gửi ngân hàng, các khoản cho các QTD
khác vay chỉ chiếm khoảng 40% tài sản có. Nhờ sự bình đẳng của luật pháp, cùng với sự phát
triển của hệ thống QTD mà các QTD thâm nhập vào thị trường cho vay thế chấp và nhanh chóng
trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp với NHTM và các tổ chức cho vay khác trong việc tài trợ
cho vay mua, sửa chữa nhà cho các hộ gia đình. Xu hướng hiện nay là quy mô và cơ cấu khoản

mục cho vay và đầu tư chứng khoán của các QTD ngày càng bất ổn hơn do sự biến động của nền
kinh tế. Trong khoản mục cho vay hội viên lại chủ yếu là cho vay mua và sửa chữa nhà, cho vay
thế chấp nhà, sau đó là đến khoản mục cho vay mua xe. Hiện nay các quỹ được thực hiện các
nghiệp vụ cho thuê và cho vay đối với việc kinh doanh của hội viên 17
Nguồn vốn của QTD gồm có cổ phần thường xuyên, chứng chỉ cổ phần, hối phiếu cổ phần và
tài khoản tiết kiệm của hội viên và vốn dự trữ, trong đó tài khoản tiết kiệm của hội viên chiếm
90%. Xu thế hiện nay, trong cơ cấu nguồn của các quỹ, tỷ trọng tài khoản tiết kiệm hưu trí dài
hạn và tài khoản séc có hưởng lãi (nhất là các khoản vay mượn bằng các chứng chỉ nợ và vay
mượn từ các tổ chức tài chính khác) gia tăng đột biến, trong khi tỷ trọng vốn cổ phần thường
xuyên lãi suất thấp giảm nhanh chóng. Vốn dự trữ của QTD gồm lợi nhuận không chia, vốn pháp
định và quỹ dự trữ tự nguyện. Vốn này dùng để bảo vệ, dự phòng khi người gửi tiền rút tiền. Ban
đầu các quỹ chỉ phải trích và duy trì một lượng vốn dự trữ tối thiểu nhưng dần dần luật pháp ấn
định các yêu cầu về dự trữ áp đặt cho mọi định chế tài chính trong đó có QTD. Mục đích của
những yêu cầu dự trữ là nhằm đảm bảo sự kiểm soát trực tiếp của NHTW về sự tăng trưởng của
các khoản tiền gửi giao dịch (một bộ phận của lượng tiền cung ứng) 18
Bên cạnh nghiệp vụ cho vay, QTD không ngừng đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp như: trang bị
các máy ATM để các hội viên có thể sử dụng tài khoản của mình cả ngày lẫn đêm, trong và
ngoài địa bàn; nhận tiền gửi lương, séc, thanh toán theo uỷ quyền, chuyển tiền, thanh toán qua
điện thoại, dịch vụ ngân hàng tại nhà Từ thập niên 1970, các QTD bắt đầu cung ứng thẻ tín
dụng, cho vay thấu chi qua tài khoản. Khi tham gia vào hệ thống chi trả bằng hối phiếu cộng với
việc kỹ thuật chi trả bằng điện tử lan rộng đã xoá bỏ sự khác biệt giữa tiền gửi thanh toán và tiền
gửi tiết kiệm, hệ thống QTD đã tham gia tích cực trong việc nhận tiền gửi các quỹ chi trả an sinh
xã hội, quỹ lương quân đội, nhận ký gửi quỹ lương trực tiếp bằng vi tính của các hãng tư
nhân và tham gia vào hệ thống thanh toán bù trừ tự động toàn quốc, trở thành ngân hàng điện tử
bán lẻ, được phép cung ứng tài khoản tiền gửi thị trường tiền tệ. Các dịch vụ khác như cung ứng
lệnh chuyển tiền và séc lữ hành, cung ứng các dịch vụ lập kế hoạch tài chính, cung ứng các dịch
vụ mới khác như bảo hiểm, dịch vụ bất động sản và môi giới chứng khoán, tư vấn tài chính
thông qua các tổ chức dịch vụ 18
* Đặc điểm của quỹ tín dụng ngày nay 19
Quy mô nhỏ: Quỹ tín dụng là tổ chức tài chính có quy mô nhỏ, chỉ đáp ứng nhu cầu tài chính

cho thành viên là cá nhân, hộ gia đình. So sánh với các định chế tài chính khác thì quỹ tín dụng
đều có quy mô rất nhỏ bé, đặc điểm này xuất phát từ lý do hình thành của quỹ là nhằm đáp ứng
những người tiết kiệm nhỏ chứ không phải để thỏa mãn các Công ty. Tất cả các khoản tiền gửi
của các quỹ hầu như tương tự tài khoản sổ tiết kiệm, và có thể chuyển dịch rất nhanh bởi vì nó
có thể rút ra hoàn toàn do ý khách hàng 19
Công cụ tiết kiệm mới: xuất phát từ năm 1934, quốc hội Mỹ ban hành đạo luật mới cho phép
các định chế có đủ khả năng được hưởng quy chế cấp Liên bang (trước đó các quỹ chỉ được Tiểu
bang cấp giấy phép hoạt động). Đến năm 1972, ở Mỹ đã có 7.916 quỹ tín dụng hưởng quy chế
liên bang (chiếm 59% số quỹ). Từ đó bản chất và quy mô trung bình của tiền gửi thuộc nhiều
quỹ tín dụng thay đổi nhanh chóng. Nhiều quỹ có quyền cung ứng chứng chỉ cổ phần với lãi suất
khả biến và mệnh giá lớn hơn các loại tiền gửi tiết kiệm thông thường và họ cũng được quyền
thực hiện các khoản tiền gửi tiết kiệm dài hạn với lãi suất cao.Từ năm 1978, quỹ tín dụng được
phép cung ứng các chứng chỉ thị trường tiền tệ nhằm cạnh tranh với các định chế tài chính khác.
19
Dưới áp lực cạnh tranh, cơ cấu tiền gửi của quỹ tín dụng chuyển dịch theo hướng tăng dần các
tài khoản có chi phí đắt hơn và nhạy cảm lãi suất hơn, thất thường hơn theo sự thay đổi về lãi
suất và tình hình kinh tế, trong khi các cổ phần theo sổ với lãi suất thấp đã giảm nhanh chóng, và
từ đó làm tăng chí phí điều hành của quỹ, gây áp lực đáng kể đối với khả năng thanh khoản 19
Số lượng giảm và quy mô tăng: chỉ tính riêng ở Mỹ, năm 1992 đã có 13.385 quỹ tín dụng,
tương đương với số lượng các NHTM. Tuy nhiên, hiện nay do xu thế sáp nhập các quỹ thành các
liên hiệp lớn hơn nhằm đạt hiệu quả cao hơn trong hoạt động nên số lượng các quỹ tín dụng đang
giảm dần (chỉ còn hơn 7.000) nhưng quy mô lại lớn hơn với các dịch vụ phát triển mở rộng để
cạnh tranh với các ngân hàng, các định chế tài chính khác 20
Như vậy có thể nói, quỹ tín dụng là một định chế tài chính còn non trẻ, với lịch sử hình thành
chỉ hơn 100 năm nhưng đã có sự phát triển nhanh chóng, rộng khắp và phổ biến. Mang những
đặc điểm như: quy mô nhỏ, hoạt động chủ yếu phục vụ nhu cầu tài chính cho các thành viên
(không vì mục tiêu lợi nhuận), với mô hình tổ chức và hoạt động đơn giản, gọn nhẹ hơn nhiều so
với các NHTM nhưng trong điều kiện công nghệ tài chính ngân hàng ngày càng phát triển, mức
độ cạnh tranh ngày càng gia tăng thì hoạt động của quỹ tín dụng ngày càng đa dạng, phong phú
và có xu hướng phát triển chung là trở thành những NHTM kinh doanh tổng hợp và đa năng 20

1.2.2. Sự cần thiết của hoạt động thanh tra, giám sát đối với quỹ tín dụng 20
Thứ nhất: xuất phát từ những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của QTD, hoạt động của các
QTD có nhiều ưu thế hơn các định chế tài chính khác nhờ việc chủ yếu là để phục vụ hội viên,
những người mà các nhà quản trị, điều hành hiểu biết rõ về thông tin tín dụng, về uy tín cũng
như mức độ trung thực nên hoạt động cấp tín dụng ít rủi ro hơn. Tuy nhiên, do kinh doanh trong
lĩnh vực tiền tệ ngân hàng, bản thân tổ chức và hoạt động vẫn có những hạn chế, nhất là trong
điều kiện môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, nền kinh tế có nhiều bất ổn thì hoạt động của
QTD cũng gặp phải rất nhiều rủi ro như bất kỳ TCTD nào khác: Rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng,
rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường 20
1.2.3. Nội dung hoạt động thanh tra, giám sát của ngân hàng trung ương đối với các quỹ tín
dụng 21
Cũng như bất kỳ một tổ chức tín dụng nào khác, nội dung hoạt động thanh tra, giám sát của
NHTW đối với QTD được thống nhất gồm có: 21
Nội dung thứ nhất: đánh giá mức độ đầy đủ vốn. Hoạt động giám sát phải đánh giá được QTD
đã đáp ứng được các yêu cầu về tỷ lệ vốn tối thiểu mà NHTW ấn định chưa? Mức vốn này phải
thích hợp để phản ánh được mức độ rủi ro mà QTD đối mặt; thành phần vốn của QTD cũng phải
được tính toán ấn định trên cơ sở khả năng chịu đựng tổn thất của chính QTD đó. Với QTD có
hoạt động quốc tế thì phải đáp ứng yêu cầu về vốn theo đúng thỏa thuận Basle hiện hành. Trong
những trường hợp cần thiết, khi QTD cụ thể có mức độ rủi ro lớn thì NHTW yêu cầu mức vốn
cao hơn mức tối thiểu. Nếu QTD không đảm bảo yêu cầu vốn tối thiểu thì QTD đó phải có kế
hoạch khả thi với lộ trình phù hợp để đạt được mức vốn tối thiểu đúng quy định, đồng thời có thể
áp dụng những hạn chế trong cấp phép và hoạt động 22
Vốn tối thiểu phải đáp ứng chính là vốn cơ sở, vốn cấp 1, gồm có: vốn góp cổ phần và các loại
quỹ được hình thành từ thu nhập để lại sau thuế hoặc thu nhập trước thuế được điều chỉnh cho
các nghĩa vụ thuế trong tương lai, các khoản quỹ này được thu chi công khai trong các tài khoản
riêng biệt của TCTD và luôn sẵn sàng được sử dụng để trang trải tổn thất. 22
Bản thỏa thuận của Basle có áp dụng 5 quyền số rủi ro cho tài sản nội ngoại bảng theo mức độ
rủi ro của từng loại: 0, 10, 20, 50 và 100%; đồng thời đưa ra yêu cầu vốn tối thiểu của TCTD có
hoạt động quốc tế là 4% vốn tự có cấp 1 và 8% tổng vốn tự có. Tùy từng quốc gia và để phù hợp
với từng TCTD cụ thể, NHTW yêu cầu tỷ lệ cao hơn hoặc tăng các quyền số rủi ro lớn hơn so

với bản thỏa thuận quy định 22
Nội dung thứ hai: đánh giá khả năng quản lý rủi ro tín dụng, khả năng này được xem xét qua
việc đánh giá các tiêu chuẩn và quy trình cấp tính dụng, đánh giá chất lượng tài sản có và mức
độ đầy đủ của các khoản dự trữ, dự phòng rủi ro. Khả năng quản lý rủi ro tín dụng còn được
đánh giá thông qua việc tuân thủ hay không các giới hạn đảm bảo an toàn để hạn chế rủi ro, việc
cấp tín dụng có bình đẳng không? Các giới hạn đảm bảo an toàn phổ biến nhất là: tỷ lệ cấp tín
dụng cho một khách hàng và một nhóm khách hàng liên quan so với vốn của ngân hàng; các tỷ
lệ giới hạn về cơ cấu tín dụng theo ngành nghề hay đối tượng khách hàng cũng có thể được quy
định 22
Nội dung thứ ba: đánh giá khả năng quản lý rủi ro thị trường, xem xét các TCTD đã đo lường
chính xác và kiểm soát các rủi ro thị trường một cách thỏa đáng chưa thông qua việc đưa ra một
giới hạn vốn công khai đối với những rủi ro giá cả mà QTD phải đối mặt, các QTD phải đưa ra
các tiêu chuẩn định tính và định lượng rõ ràng phù hợp và quy định, thực hiện kiểm soát nội bộ
đối với các hoạt động kinh doanh hối đoái ra sao 22
Nội dung thứ tư: đánh giá khả năng quản lý rủi ro lãi suất thông qua việc ban hành cách chính
sách và quy trình quản lý rủi ro lãi suất, hệ thống đo lường và theo dõi, các biện pháp kiểm soát
toàn diện. Bên cạnh đó NHTW thu thập các thông tin về kỳ hạn, về loại tiền của khoản nợ và tài
sản của QTD một cách đầy đủ, kịp thời để đánh giá được mức độ rủi ro lãi suất 23
Nội dung thứ năm: Đánh giá khả năng quản lý rủi ro hoạt động và các rủi ro khác: TCTD phải
có các quy trình kiểm toán và kiểm soát rủi ro hoạt động, rủi ro quốc gia, rủi ro chuyển tiền một
cách toàn diện với những tiêu chí xác định, đo lường để theo dõi và kiểm soát các loại rủi ro
đồng thời có đủ vốn để đối phó với các rủi ro này nếu xảy ra 23
Nội dung thứ sáu: đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu quả không, có tính độc lập thỏa
đáng không, địa vị và quy trình báo cáo của kiểm soát nội bộ có phù hợp không, có khả năng
kiểm soát những rủi ro tuân thủ, rủi ro tín dụng và các loại rủi ro khác không. NHTW thường
đưa ra những yêu cầu tối thiểu về kiểm tra kiểm soát nội bộ cũng như khả năng quản trị rủi ro
của QTD 23
Bên cạnh các nội dung trên, hoạt động giám sát của NHTW còn quan tâm thu thập các thông tin
liên quan đến phòng chống rửa tiền liên quan đến các giao dịch gian lận, đáng ngờ nhằm đảm
bảo tính đúng đắn và lành mạnh của hệ thống tài chính 23

Các nội dung trên được giám sát thông qua việc thu thập và phân tích thông tin tại hiện trường
hoặc từ xa. Một hệ thống thanh tra, giám sát hiệu quả sẽ sử dụng phối hợp cả hai hình thức này.
Thông thường NHTW tiến hành giám sát đối với QTD thông qua hai bộ phận giám sát từ xa và
thanh tra tại chỗ, hai bộ phận này có sự phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau. Trong khi hoạt
động giám sát từ xa được thực hiện thường xuyên, liên tục thông qua việc tổng hợp, phân tích số
liệu thông tin thu thập được qua các báo cáo và các nguồn thông tin khác còn hoạt động thanh tra
tại chỗ chỉ được tiến hành định kỳ hoặc đột xuất trên cơ sở các thông tin cung cấp của hoạt động
giám sát từ xa 23
Hoạt động thanh tra tại chỗ để kiểm chứng và đánh giá các vấn đề: tính chính xác của các báo
cáo do QTD cung cấp; các điều kiện và hoạt động chung của QTD; mức độ thỏa đáng của hệ
thống đo lường rủi ro và các quy trình kiểm soát nội bộ; chất lượng khoản vay và mức độ thỏa
đáng của các khoản dự trữ, dự phòng rủi ro; khả năng quản lý của đội ngũ lãnh đạo; mức độ thỏa
đáng của các hệ thống thông tin quản lý và kế toán; các vấn đề đã được phát hiện qua giám sát từ
xa hoặc từ lần thanh tra trước; sự tuân thủ luật pháp và quy định nội bộ 24
Như vậy, hoạt động thanh tra, giám sát của NHTW đối với các QTD gồm có hoạt động giám sát
từ xa và hoạt động thanh tra tại chỗ với các nội dung cụ thể nhằm đánh giá được một cách toàn
diện, chính xác nhất tất cả các mặt hoạt động của QTD. Hoạt động thanh tra, giám sát QTD có
thể do NHTW trực tiếp tiến hành hoặc phối hợp sử dụng cán bộ kiểm toán từ bên ngoài nếu có
cơ quan kiểm toán độc lập với khả năng chuyên môn cao và kỹ thuật cần thiết. NHTW hoàn toàn
có quyền phủ quyết một cơ quan kiểm toán nhất định 24
1.2.4. Đặc trưng hoạt động thanh tra, giám sát của ngân hàng trung ương đối với hệ thống quỹ
tín dụng 24
1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng của ngân hàng
trung ương 26
1.3.1. Phương pháp thanh tra, giám sát 26
1.3.2. Nhân sự và các điều kiện môi trường 27
1.3.3. Đối tượng thanh tra, giám sát 29
Tựu trung lại, có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động thanh tra, giám sát các
TCTD của NHTW, trong đó có cả nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Đối tượng thanh tra,
giám sát với đặc điểm và trình độ phát triển của nó là nhân tố đầu tiên quy định việc áp dụng

những phương pháp những công nghệ thanh tra, giám sát đảm bảo tính phù hợp và hiệu quả. Sự
phát triển của các TCTD cũng đòi hỏi Cơ quan Thanh tra, giám sát phải có sự đổi mới tương ứng
về nhân sự, mô hình tổ chức, về trang bị phương tiện, công cụ làm việc, về môi trường pháp lý
30
Trong 25 nguyên tắc cơ bản giúp giám sát hiệu quả các TCTD mà Ủy ban Basel đã đưa ra
những yên cầu cụ thể, những điều kiện quan trọng, không thể thiếu trong quá trình hoàn thiện
hoạt động căn bản này của các NHTW đáp ứng yêu cầu quản lý hiệu quả, đảm bảo các TCTD
hoạt động an toàn, phát triển bền vững trong môi trường cạnh tranh quốc tế 30
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA GIÁM SÁT ĐỐI VỚI HỆ THỐNG
QŨY TÍN DỤNG NHÂN DÂN CƠ SỞ TẠI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM-
CHI NHÁNH HẢI DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2008 – 2010 32
2.1. Khái quát về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Chi nhánh Hải Dương và hệ thống quỹ tín
dụng nhân dân cơ sở trên địa bàn 32
2.1.1. Một số nét về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Chi nhánh Hải Dương 32
2.1.2. Khái quát về hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương 35
Ở Việt Nam, các Hợp tác xã tín dụng xuất hiện vào năm 1956, đến năm 1985, hầu hết các xã
trong cả nước đều có Hợp tác xã tín dụng. Sau khi có pháp lệnh Ngân hàng, các Hợp tác xã tín
dụng cũ đi vào thời kỳ chấn chỉnh, tập trung xử lý những tồn đọng (6.000 Hợp tác xã tín dụng
không đủ điều kiện phải ngừng hoạt độnsg, tập trung thu hồi vốn trả cho dân, trong đó có 2.000
HTX phải thanh lý giải thể), một số ít tổ chức mới được cấp phép hoạt động gặp nhiều khó khăn,
lúng túng, chưa đáp ứng được yêu cầu cũng như niềm tin của công chúng. 35
Ngày 27/7/1993, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị quyết 390/TTg về việc thành lập thí điểm hệ
thống quỹ tín dụng (hình thức hợp tác xã) có 3 cấp liên kết kinh tế với nhau (gồm hệ thống quỹ
tín dụng nhân dân cơ sở, Quỹ tín dụng nhân dân khu vực và Quỹ tín dụng nhân dân trung ương)
hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng tồn tại. Trong đó QCS là nền tảng, hoạt động tại bản làng, gắn liền
với hoạt động kinh tế – xã hội ở nông thôn. QCS được tổ chức theo hình thức hợp tác xã hoạt
động tự chủ, tự chịu trách nhiệm, theo cơ chế thị trường; chỉ phục vụ các thành viên (chỉ các
thành viên góp vốn mới được vay vốn), cơ chế quản lý và hoạt động do chính các thành viên của
quỹ đưa ra theo sự hướng dẫn của NHNN và QTW 35
Sau thời gian thí điểm, hệ thống QCS Hải Dương bước vào giai đoạn củng cố và chấn chỉnh

(2000-2005) nhằm khắc phục những tồn tại, yếu kém tránh đổ vỡ như hệ thống Hợp tác xã tín
dụng cũ. Bằng hàng loạt các chỉ đạo đúng đắn thể hiện qua các văn bản: Chỉ thị 28/CT-TU ngày
05/6/2000; kế hoạch 03/KH-TU ngày 22/3/2001 của Tỉnh uỷ Hải Dương, 66 QCS còn lại đã cơ
bản thực hiện tốt Đề án củng cố chấn chỉnh mà UBND tỉnh đã phê duyệt, đi vào hoạt động ổn
định với tốc độ tăng trưởng tổng tài sản bình quân 22,6% năm 36
* Tổ chức và hoạt động cơ bản 36
Về mặt tổ chức: Hệ thống QCS Việt Nam nói chung, trên địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng
được tổ chức theo mô hình hợp tác xã, thành lập tại địa bàn xã, phường, liên xã, liên phường
hoặc các cụm kinh tế. Thành viên là các cá nhân và hộ gia đình, hoạt động nhằm mục đích chủ
yếu là tương trợ các thành viên thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ
và cải thiện đời sống. Cơ cấu tổ chức của QCS gồm có: Đại hội thành viên: Hội đồng quản trị
(HĐQT có ít nhất 3 người, do Chủ tịch đứng đầu), Giám đốc, Ban kiểm soát và các ban, bộ
phận: ban tín dụng, các các vị trí tác nghiệp về kế toán, tín dụng, thủ quỹ 36
Những người tham gia quản lý, điều hành, tác nghiệp của quỹ đều là những thành viên của quỹ,
có hưởng lương, trong đó Chủ tịch HĐQT và Giám đốc là những người có vai trò quan trọng
nhất 36
QCS hoạt động tuân thủ theo Điều lệ, theo các quy định của Luật các tổ chức tín dụng, Luật hợp
tác xã và các quy định pháp luật khác, chịu sự quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước 37
Hoạt động chủ yếu của các QCS là cho vay và nhận tiền gửi tiết kiệm của các thành viên. Bên
cạnh đó còn được phép gửi tiền và cho vay các TCTD khác, làm đại lý chi trả và kinh doanh
ngoại hối, góp vốn 37
QCS được huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội
để cho vay các thành viên và thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác để cho vay. Nguồn vốn của
QCS gồm có: Vốn tự có cấp 1 và cấp 2; vốn huy động: vốn huy động từ việc nhận tiền gửi
không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm của thành viên và các tổ chức, cá nhân khác theo quy
định của NHNN, vốn đi vay QTW và các TCTD khác. Đây là nguồn vốn hoạt động chủ yếu của
QCS (chiếm 90%); vốn khác: vốn dịch vụ ủy thác, vốn hình thành trong thanh toán, lãi chưa
chia, quỹ chưa sử dụng, các khoản phải trả khác 37
QCS được dùng vốn hoạt động để phục vụ hoạt động kinh doanh theo quy định với nguyên tắc
đảm bảo an toàn và phát triển vốn, cụ thể gồm có: đầu tư vào tài sản cố định (không vượt quá

50% vốn tự có cấp 1), cho vay thành viên, cho vay người nghèo (không vượt quá 10% tổng dư
nợ cho vay), cho vay khách hàng có tiền gửi tại quỹ theo quy định. Được góp vốn theo quy định,
được gửi vốn tại TCTD khác (trừ QCS khác), và sử dụng cho các mục tiêu khác theo quy định
của pháp luật 37
Tài sản có: chủ yếu là các khoản cho vay thành viên (chiếm 90%), đầu tư chứng khoán (trái
phiếu Chính phủ, tín phiếu kho bạc, Công trái) chỉ chiếm tỷ trọng không đáng kể 38
Mức độ phong phú của các sản phẩm dịch vụ: không có nhiều sản phẩm dịch vụ, chủ yếu là
nhận tiền gửi và cho vay thành viên, làm đại lý ủy thác, đại lý chi trả ngoại tệ, đại lý chuyển tiền.
38
Công nghệ: mới chỉ ứng dụng bước đầu công nghệ thông tin vào quản lý, điều hành, đa số vẫn
dùng phương pháp thủ công 38
Quản lý, điều hành chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và mang tính tự nguyện bởi vì những người
quản lý điều hành là thành viên, không phải là chuyên gia về tài chính ngân hàng, không được
đào tạo bài bản, chuyên nghiệp. Quản lý, điều hành có sự hướng dẫn, hỗ trợ rất lớn của Ngân
hàng Nhà nước và Quỹ Trung ương 38
2.2. Thực trạng hoạt động thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Chi nhánh
Hải Dương đối với hệ thống quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 44
2.2.1. Cơ cấu tổ chức và nhân sự của Thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Chi
nhánh Hải Dương 44
2.2.2. Thực trạng hoạt động giám sát từ xa 47
2.2.3. Thực trạng hoạt động thanh tra tại chỗ 54
2.3. Đánh giá thực trạng hoạt động thanh tra, giám sát đối với hệ thống QCS tại NHNNVN –
Chi nhánh Hải Dương 58
2.3.1. Những kết quả đạt được 58
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 59
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 66
HOẠT ĐỘNG THANH TRA, GIÁM SÁT ĐỐI VỚI 66
HỆ THỐNG QUỸ TÍN DỤNG NHÂN DÂN CƠ SỞ 66
TẠI NHNNVN – CHI NHÁNH HẢI DƯƠNG 66
3.1. Kinh nghiệm của một số nước trong hoạt động thanh tra, giám sát quỹ tín dụng 66

3.1.1. Kinh nghiệm của Mỹ 66
3.1.2. Kinh nghiệm của Đức 68
3.2. Xu hướng phát triển của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và định hướng đổi mới hoạt
động thanh tra, giám sát ngân hàng 71
3.2.1. Kế hoạch phát triển và lộ trình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới 71
3.2.2. Xu hướng phát triển của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 72
3.2.2. Định hướng đổi mới hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng 75
3.3. Giải pháp hoàn thiện hoạt động thanh tra, giám sát đối với hệ thống quỹ tín dụng nhân dân
cơ sở tại NHNNVN – Chi nhánh Hải Dương 77
3.3.1. Nâng cao chất lượng công tác quản lý điều hành 77
3.3.2. Tiếp tục đổi mới phương pháp thanh tra, giám sát 83
3.3.3. Tăng cường chất lượng nhân sự thanh tra, giám sát 84
3.3.4. Tăng cường hoạt động định hướng, hỗ trợ hệ thống quỹ cơ sở 86
3.3.5. Phối hợp chặt chẽ với QTW Chi nhánh Hải Dương và Bảo hiểm tiền gửi khu vực Đông
Bắc bộ 88
3.3.6. Nâng cao chất lượng công tác phối hợp với Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng và
NHNN Việt Nam 88
3.4. Một số kiến nghị 89
3.4.1. Đối với Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng 89
3.4.2. Những kiến nghị đối với NHNN Việt Nam 91
PHẦN KẾT LUẬN 93
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BKS Ban kiểm soát
CB Cán bộ
GSTX Giám sát từ xa
HĐQT Hội đồng quản trị
NHNNVN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng trung ương
QCS Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở

QLNN Quản lý nhà nước
QTW Quỹ trung ương
TCTD Tổ chức tín dụng
TCVM Tài chính vi mô
TTGS Thanh tra giám sát
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
BẢNG
Bảng 2.1. Tình hình phát triển mạng lưới và thành viên Error: Reference
source not found
Bảng 2.2. Nguồn vốn huy động tại chỗ của hệ thống QCS Hải Dương Error:
Reference source not found
Bảng 2.3. Bảng phân công nhiệm vụ Thanh tra, giám sát NHNNVN - Chi
nhánh Hải Dương Error: Reference source not found
Bảng 2.4. Bảng tổng hợp số liệu kết quả giám sát hệ thống QCS trên địa bàn
tỉnh Hải Dương 2008 - 2010 Error: Reference source not found
Bảng 2.5. Tổng hợp kết quả thanh tra tại chỗ hệ thống QCS Hải Dương giai
đoạn 2008 -2010 Error: Reference source not found
Bảng 3.1. Phương án phân công nhiệm vụ Thanh tra, giám sát NHNNVN -
Chi nhánh Hải Dương Error: Reference source not found
BIỂU
Biểu đồ 2.1. Biểu đồ tốc độ tăng trưởng số lượng thành viên của QCS Error:
Reference source not found
Biểu đồ 2.2. Tốc độ tăng trưởng vốn tự có của QCS Hải Dương Error:
Reference source not found
Biểu đồ 2.3. Dư nợ của QCS so với toàn địa bàn Error: Reference source not
found
Biểu đồ 2.4. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống QCS Hải Dương so với toàn địa bàn
Error: Reference source not found
SƠ ĐỒ
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ 15

DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ 15
PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
Quỹ tín dụng là tổ chức tài chính trung gian ra đời vào giữa thế kỷ 19, xuất phát từ phong trào
bình dân nhằm giúp đỡ công nhân vay vốn (người thường gặp khó khăn khi vay vốn ngân hàng
và thường phải chịu lãi suất đắt). Từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, các quỹ tín dụng bất ngờ
phát triển nhanh nhất, trở thành định chế tài chính hàng đầu đảm bảo được các khoản vay nhỏ
cho cá nhân và hộ gia đình 1
Ở Việt Nam, các quỹ tín dụng với tên gọi khác là các Hợp tác xã tín dụng xuất hiện từ năm
1956, sau hơn 50 năm phát triển hệ thống quỹ tín dụng của Việt Nam ngày nay gồm có 01 Quỹ
tín dụng Trung ương và 1.057 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở cùng liên kết hoạt động, trong đó các
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở là nền tảng, Quỹ tín dụng Trung ương chỉ là đầu mối đóng vai trò
điều hòa vốn và giám sát, hỗ trợ các Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. 1
Mang những đặc trưng riêng có, các Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ở Việt Nam đã phát huy được
vai trò, thế mạnh của mình trở thành tổ chức tài chính quy mô nhỏ uy tín với năng lực cạnh tranh
ngày một nâng cao, đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế – xã hội các địa phương. Mặc dù
vậy, hoạt động của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân cơ sở vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế như:
quản trị rủi ro yếu, chất lượng tài sản chưa đảm bảo, khả năng tài chính mỏng, còn nhiều sai
phạm trong quá trình thanh tra tuân thủ, hoạt động chưa đảm bảo an toàn. Mặt khác thị trường tài
chính tiền tệ nước ta ngày càng phát triển, hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới nên môi
trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì hệ thống quỹ tín dụng nhân dân cơ sở lại là tổ chức tín
dụng dễ đổ vỡ nhất trong hệ thống tài chính. Những vấn đề đó đòi hỏi NHNNVN phải có một cơ
chế phù hợp để thanh tra, giám sát hiệu quả loại hình TCTD này 1
Trong những năm qua, cùng với tiến trình xây dựng Ngân hàng trung ương hiện đại, hoạt động
thanh tra, giám sát ngân hàng đã có nhiều đổi mới, đạt được nhiều thành tựu, góp phần giúp hệ
thống quỹ hoạt động an toàn và hiệu quả hơn, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Nhưng
bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN đối với hệ thống
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở cũng còn những tồn tại, hạn chế như: công tác giám sát từ xa chưa

được coi trọng, chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu cảnh báo sớm, hướng dẫn chỉ điểm cho
hoạt động thanh tra tại chỗ; phương pháp và nội dung hoạt động thanh tra, giám sát đã có đổi
mới nhưng chưa đáp ứng kịp yêu cầu thực tế quản lý theo các thông lệ chuẩn mực quốc tế 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Đối tượng nghiên cứu 2
3. Đối tượng nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Kết cấu của luận văn 3
5. Kết cấu của luận văn 3
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
THANH TRA, GIÁM SÁT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 4
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
THANH TRA, GIÁM SÁT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 4
1.1. Tổng quan về hoạt động thanh tra, giám sát của ngân hàng trung ương đối với các tổ chức
tín dụng 4
1.1. Tổng quan về hoạt động thanh tra, giám sát của ngân hàng trung ương đối với các tổ chức
tín dụng 4
1.1.1. Ngân hàng trung ương và những chức năng của ngân hàng trung ương 4
NHTW là một định chế công cộng, có thể độc lập hoặc trực thuộc Chính phủ, thực hiện chức
năng độc quyền phát hành tiền, là ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng của Chính phủ và
chịu trách nhiệm trong việc quản lý Nhà nước về các hoạt động về tiền tệ, tín dụng cho mục tiêu
phát triển và ổn định của cộng đồng 4
NHTW ra đời xuất phát từ sự phát triển của hệ thống các NHTM nói riêng, của các tổ chức tài
chính trung gian nói chung và để đáp ứng nhu cầu can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vực tiền tệ và
hoạt động ngân hàng. 4
Sự phát triển của các tổ chức tài chính, đặc biệt là các NHTM cả về số lượng lẫn quy mô hoạt

động cùng sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa những năm cuối thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX
đã dẫn đến tình trạng tồn tại quá nhiều giấy bạc ngân hàng gây khó khăn cho hoạt động lưu
thông hàng hóa. Và một giải pháp được thực hiện là: chỉ những ngân hàng có vốn lớn, phạm vị
hoạt động rộng, có uy tín trong lưu thông và được Nhà nước cho phép mới được phát hành giấy
bạc (gọi là các ngân hàng phát hành). Từ khi đó hệ thống ngân hàng phân định thành các ngân
hàng phát hành và các ngân hàng trung gian 4
Hoạt động ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì chạy theo mục tiêu lợi nhuận, các ngân hàng bất
chấp rủi ro dẫn đến phá sản, và phá sản hệ thống gây thiệt hại đến người gửi tiền, đến nền kinh
tế. Trước tình thế ấy, cần phải có tổ chức đứng ra kiểm soát, khống chế các ngân hàng, đó chính
là ngân hàng thực hiện chức năng quản lý, giám sát và cho vay cuối cùng. 4
Hiện nay mỗi quốc gia trên thế giới đều có một ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước thực hiện
chức năng độc quyền phát hành, là công cụ của nhà nước để quản lý kiểm soát về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng, đó là NHTW 5
NHTW là một cơ quan quan trọng trong bộ máy quản lý vĩ mô của nhà nước có trách nhiệm
xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia và thực hiện quản lý, kiểm soát các TCTD. Để
thực hiện vai trò quản lý nhà nước của mình đối với các TCTD, NHTW ban hành các văn bản
hướng dẫn thi hành luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, ban hành các quy chế về tổ chức,
hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối đồng thời theo dõi, thanh tra, kiểm
soát các hoạt động đó, đảm bảo cho hệ thống hoạt động theo pháp luật, tôn trọng các quy định về
đảm bảo an toàn trong hoạt động, từ đó giúp ổn định giá trị đồng tiền và đảm bảo các TCTD hoạt
động an toàn, hiệu quả nhằm đạt các mục tiêu ổn định, tăng trưởng kinh tế và bảo vệ quyền lợi
của người gửi tiền 5
NHTW là ngân hàng phát hành: đây là tổ chức được độc quyền phát hành tiền đưa vào lưu
thông để nó trở thành phương tiện thanh toán hợp pháp trong mỗi quốc gia.Tiền phát hành bao
gồm tiền kim loại, tiền giấy, tiền điện tử; NHTW có nhiệm vụ đảm bảo thống nhất an toàn cho
hệ thống lưu thông tiền tệ; Nhà nước thống nhất quy định các chuẩn mực cho việc phát hành
tiền, quản lý và quy định thống nhất việc in, đúc, đổi tiền. Chính sách phát hành tiền được
nghiên cứu cẩn trọng. 5
Quá trình cung ứng tiền có sự tham gia của các tác nhân với quy trình sau: 5
Ban đầu NHTW phát hành giấy bạc, tiền kim loại vào lưu thông thông qua việc thực hiện các

chức năng tổ chức thanh toán giữa các ngân hàng, cho các NHTM vay từ đó hình thành lượng
tiền trung ương, hay tiền cơ sở (MB). Từ 1 lượng tiền dự trữ tăng lên do NHTW cung cấp, các
NHTM tạo ra một lượng tiền gửi gấp bội lần số tiền ban đầu thông qua hệ số mở rộng tiền gửi.
NHTW kiểm soát số tiền dự trữ đưa ra thông qua việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Quá trình
phát hành tiền gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế và phải có các nguyên tắc, quy chế, quy
trình kỹ thuật để đảm bảo thúc đẩy kinh tế phát triển. 5
Các kênh phát hành tiền của NHTW là: thông qua nghiệp vụ tín dụng giữa NHTW với các
NHTM; thông qua NSNN; kênh thị trường mở và kênh thị trường hối đoái 6
NHTW là ngân hàng của các ngân hàng: NHTW mở tài khoản và nhận tiền gửi của các ngân
hàng trung gian. Các ngân hàng trung gian phải mở tài khoản ở NHTW để chấp hành dự trữ bắt
buộc, thực hiện dịch vụ ngân quỹ và các quan hệ thanh toán với các TCTD khác qua NHTW.
Ngoài việc mở tài khoản, cung ứng các dịch vụ thanh toán, các phương tiện thanh toán và tổ
chức thanh toán, NHTW còn ban hành các thể lệ, chế độ thanh toán thống nhất trong nền kinh tế
nói chung và đối với các TCTD nói riêng đồng thời giám sát quá trình thanh toán để hạn chế rủi
ro cho các thành viên tham gia thanh toán 6
NHTW cấp tín dụng cho các ngân hàng nhằm mục đích phát hành tiền trung ương, bổ sung vốn
khả dụng và thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng thông qua việc chiết khấu, tái chiết khấu
giấy tờ có giá đủ điều kiện để bù đắp nhu cầu chi trả cho các ngân hàng trung gian khi họ thiếu
hụt khả năng thanh khoản. 6
Thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng, NHTW là đơn vị quản lý Nhà nước đối với
các TCTD thông qua việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, đây là một chính
sách kinh tế vĩ mô quan trọng của Nhà nước do NHTW khởi thảo xây dựng và thực thi thông qua
các công cụ trực tiếp (hạn mức tín dụng, lãi suất ấn định) và công cụ gián tiếp (dự trữ bắt buộc,
chính sách chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở) để kiểm soát và điều tiết lượng tiền cung ứng
nhằm đạt các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, tạo việc làm, thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển,
trong đó mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền là mục tiêu hàng đầu, dài hạn. NHTW là người cấp,
thu hồi giấy phép thành lập; ban hành các chính sách, chế độ, quy chế, thể lệ, và nghiệp vụ
hướng dẫn, yêu cầu các TCTD thực hiện; thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành
pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, chấp hành các quy định trong giấy phép hoạt động
của các TCTD nhằm đảm bảo an toàn cho cả hệ thống và bảo vệ lợi ích của người gửi tiền, phục

vụ chính sách tiền tệ quốc gia 6
Ngân hàng trung ương là ngân hàng của Nhà nước: làm dịch vụ ngân hàng cho Chính phủ như
là: thủ quỹ cho Kho bạc; bảo quản dự trữ quốc gia về ngoại tệ, vàng bạc, chứng khoán của các tổ
chức trong nước và nước ngoài ; làm đại lý cho Chính phủ trong việc đấu thầu, phát hành và
thanh toán trái phiếu, công trái Chính phủ; cho NSNN vay trong những trường hợp cần thiết; làm
tư vấn cho Chính phủ về những vấn đề kinh tế, tiền tệ và đại diện Nhà nước tại các tổ chức tài
chính quốc tế; thực hiện quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng và hoạt động ngân hàng. 7
Tóm lại: NHTW là cơ quan quyền lực công của Nhà nước thực hiện chức năng độc quyền phát
hành tiền và quản lý nhà nước về lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Cùng với sự phát triển
của nền kinh tế nói chung, của hệ thống TCTD trung gian nói riêng thì mô hình tổ chức cũng
như vị thế của NHTW có khác nhau giữa các thời kỳ, giữa các quốc gia nhưng NHTW vẫn là cơ
quan quan trọng trong bộ máy quản lý vĩ mô của Nhà nước, thực hiện các cơ hoạt động cơ bản
trong đó có hoạt động thanh tra, giám sát các TCTD nhằm đảm bảo cho hệ thống này hoạt động
kinh doanh lành mạnh, an toàn, ít rủi ro và tránh được đổ vỡ 7
1.1.2. Sự cần thiết, mục tiêu của hoạt động thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng của ngân
hàng trung ương 7
1.1.3. Phương pháp và chuẩn mực thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng của ngân hàng trung
ương 10
Sơ đồ 1.1 : Quy trình giám sát TCTD 14
1.2. Hoạt động thanh tra, giám sát của ngân hàng trung ương đối với quỹ tín dụng 16
1.2. Hoạt động thanh tra, giám sát của ngân hàng trung ương đối với quỹ tín dụng 16
1.2.1. Khái quát về quỹ tín dụng 16
Quỹ tín dụng là một định chế tài chính mới xuất hiện cách đây hơn 100 năm, nhằm mục đích
duy nhất là đáp ứng yêu cầu riêng cho những người chỉ tiết kiệm và cũng chỉ vay mượn một số
tiền nhỏ, những cá nhân và gia đình. Mục tiêu cơ bản của quỹ là cổ vũ hội viên tiết kiệm và thực
hiện cho vay với giá cả hợp lý dành cho các hội viên. 16
Hội viên quỹ tín dụng góp vốn nhằm tài trợ cho yêu cầu của những hội viên khác, việc không
phải là thành viên thì không được gửi hay vay tiền của quỹ tín dụng cũng là một đặc điểm khác
biệt của loại hình tài chính này. Muốn được trở thành thành viên, ngoài việc có đủ điều kiện
(cùng ngành nghề hoặc cùng nhà máy xí nghiệp hoặc cùng địa bàn sinh sống ), mỗi người phải

làm đơn xin gia nhập và đóng một lệ phí nhỏ 16
Quỹ tín dụng ra đời đầu tiên ở Đức vào giữa thế kỷ 19 với quan điểm thành lập là tự lực và tự
chủ. Nền kinh tế phát triển cùng với quá trình công nghiệp hóa, sự gia tăng của tầng lớp trung
lưu trong xã hội, từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, loại hình tài chính này phát triển nhanh nhất,
bất ngờ nhất, trở thành tổ chức tài chính hàng đầu đã đảm bảo được các khoản cho vay nhỏ nhằm
tài trợ việc mua sắm phương tiện, đồ đạc cũng như các chi phí sinh hoạt gia đình. Với tính chất
hoạt động phi lợi nhuận, vì lợi ích của các hội viên là chính, các QTD ngày nay đã trở thành tổ
chức tài chính gần gũi với dân chúng thuộc nhiều mức thu nhập khác nhau với rất nhiều dịch vụ
về tín dụng và tiết kiệm 16
* Tổ chức và các hoạt động cơ bản 17
Cũng như bất cứ một tổ chi chức tài chính trung gian nào, quỹ tín dụng được tổ chức như những
công ty với nhiều cổ phần (người sở hữu cổ phần là cổ đông), có Hội đồng quản trị, Ban quản lý
điều hành (Ban tín dụng, Ban giáo dục, Ban kiểm toán ) và một số vị trí giúp ban quản trị thực
hiện điều hành, tác nghiệp (Tổng giám đốc, Giám đốc, Phó giám đốc, thư ký, thủ quỹ ). Trong
đó thủ quỹ là người quan trọng nhất, phụ trách việc theo dõi sát các nhân viên trong việc cho
mượn tiền đồng thời là người giữ gìn sổ sách kế toán cho quỹ 17
Cả hội đồng quản trị lẫn các thành viên trong các ban, các vị trí điều hành và tác nghiệp trên của
quỹ đều làm tự nguyện không hưởng lương (trừ thủ quỹ, người độc nhất hưởng lương); họ đều
là những thành viên, tự nguyện đóng góp công sức cốt làm cho QTD thoả mãn được các yêu cầu
về tài chính của các hội viên càng thoả đáng càng tốt 17
Hoạt động căn bản nhất của QTD là nhận tiền gửi và cho vay giống như dịch vụ tài chính của
NHTM, tuy nhiên chỉ là những món nhỏ của chính các thành viên trong quỹ. Các khoản vay của
quỹ hầu hết chỉ cấp cho những thành viên có uy tín nhất, rất trung thực, và chính đặc điểm này
khiến cho các khoản cho vay của QTD có ưu thế hơn các khoản cho vay của các định chế tài
chính khác. Tỷ lệ vỡ nợ và trễ hạn trả của các khách hàng vay nợ ít hơn hẳn các NHTM dù các
QTD không lưu trữ nhiều hồ sơ thông tín tín dụng về khách hàng. Một ưu thế nữa là cước phí
cho vay trung bình của các QTD thường thấp hơn so với các tổ chức cấp tín dụng khác do chi
phí quản trị điều hành thấp (quản trị với tính chất tự nguyện tích cực), mô hình gọn nhẹ, hiểu rõ
các thành viên nên tiết kiệm cả về thời gian, nhân lực trong quá trình duyệt vay. Khoản mục cho
hội viên vay thường chiếm trên 50% tài sản có của quỹ, các khoản đầu tư chứng khoán (có tính

lỏng cao, được sự cho phép của NHTW), các khoản tiền gửi ngân hàng, các khoản cho các QTD
khác vay chỉ chiếm khoảng 40% tài sản có. Nhờ sự bình đẳng của luật pháp, cùng với sự phát
triển của hệ thống QTD mà các QTD thâm nhập vào thị trường cho vay thế chấp và nhanh chóng
trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp với NHTM và các tổ chức cho vay khác trong việc tài trợ
cho vay mua, sửa chữa nhà cho các hộ gia đình. Xu hướng hiện nay là quy mô và cơ cấu khoản
mục cho vay và đầu tư chứng khoán của các QTD ngày càng bất ổn hơn do sự biến động của nền
kinh tế. Trong khoản mục cho vay hội viên lại chủ yếu là cho vay mua và sửa chữa nhà, cho vay
thế chấp nhà, sau đó là đến khoản mục cho vay mua xe. Hiện nay các quỹ được thực hiện các
nghiệp vụ cho thuê và cho vay đối với việc kinh doanh của hội viên 17
Nguồn vốn của QTD gồm có cổ phần thường xuyên, chứng chỉ cổ phần, hối phiếu cổ phần và
tài khoản tiết kiệm của hội viên và vốn dự trữ, trong đó tài khoản tiết kiệm của hội viên chiếm
90%. Xu thế hiện nay, trong cơ cấu nguồn của các quỹ, tỷ trọng tài khoản tiết kiệm hưu trí dài
hạn và tài khoản séc có hưởng lãi (nhất là các khoản vay mượn bằng các chứng chỉ nợ và vay
mượn từ các tổ chức tài chính khác) gia tăng đột biến, trong khi tỷ trọng vốn cổ phần thường
xuyên lãi suất thấp giảm nhanh chóng. Vốn dự trữ của QTD gồm lợi nhuận không chia, vốn pháp
định và quỹ dự trữ tự nguyện. Vốn này dùng để bảo vệ, dự phòng khi người gửi tiền rút tiền. Ban
đầu các quỹ chỉ phải trích và duy trì một lượng vốn dự trữ tối thiểu nhưng dần dần luật pháp ấn
định các yêu cầu về dự trữ áp đặt cho mọi định chế tài chính trong đó có QTD. Mục đích của
những yêu cầu dự trữ là nhằm đảm bảo sự kiểm soát trực tiếp của NHTW về sự tăng trưởng của
các khoản tiền gửi giao dịch (một bộ phận của lượng tiền cung ứng) 18
Bên cạnh nghiệp vụ cho vay, QTD không ngừng đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp như: trang bị
các máy ATM để các hội viên có thể sử dụng tài khoản của mình cả ngày lẫn đêm, trong và
ngoài địa bàn; nhận tiền gửi lương, séc, thanh toán theo uỷ quyền, chuyển tiền, thanh toán qua
điện thoại, dịch vụ ngân hàng tại nhà Từ thập niên 1970, các QTD bắt đầu cung ứng thẻ tín
dụng, cho vay thấu chi qua tài khoản. Khi tham gia vào hệ thống chi trả bằng hối phiếu cộng với
việc kỹ thuật chi trả bằng điện tử lan rộng đã xoá bỏ sự khác biệt giữa tiền gửi thanh toán và tiền
gửi tiết kiệm, hệ thống QTD đã tham gia tích cực trong việc nhận tiền gửi các quỹ chi trả an sinh
xã hội, quỹ lương quân đội, nhận ký gửi quỹ lương trực tiếp bằng vi tính của các hãng tư
nhân và tham gia vào hệ thống thanh toán bù trừ tự động toàn quốc, trở thành ngân hàng điện tử
bán lẻ, được phép cung ứng tài khoản tiền gửi thị trường tiền tệ. Các dịch vụ khác như cung ứng

lệnh chuyển tiền và séc lữ hành, cung ứng các dịch vụ lập kế hoạch tài chính, cung ứng các dịch
vụ mới khác như bảo hiểm, dịch vụ bất động sản và môi giới chứng khoán, tư vấn tài chính
thông qua các tổ chức dịch vụ 18
* Đặc điểm của quỹ tín dụng ngày nay 19
Quy mô nhỏ: Quỹ tín dụng là tổ chức tài chính có quy mô nhỏ, chỉ đáp ứng nhu cầu tài chính
cho thành viên là cá nhân, hộ gia đình. So sánh với các định chế tài chính khác thì quỹ tín dụng
đều có quy mô rất nhỏ bé, đặc điểm này xuất phát từ lý do hình thành của quỹ là nhằm đáp ứng
những người tiết kiệm nhỏ chứ không phải để thỏa mãn các Công ty. Tất cả các khoản tiền gửi
của các quỹ hầu như tương tự tài khoản sổ tiết kiệm, và có thể chuyển dịch rất nhanh bởi vì nó
có thể rút ra hoàn toàn do ý khách hàng 19
Công cụ tiết kiệm mới: xuất phát từ năm 1934, quốc hội Mỹ ban hành đạo luật mới cho phép
các định chế có đủ khả năng được hưởng quy chế cấp Liên bang (trước đó các quỹ chỉ được Tiểu
bang cấp giấy phép hoạt động). Đến năm 1972, ở Mỹ đã có 7.916 quỹ tín dụng hưởng quy chế
liên bang (chiếm 59% số quỹ). Từ đó bản chất và quy mô trung bình của tiền gửi thuộc nhiều
quỹ tín dụng thay đổi nhanh chóng. Nhiều quỹ có quyền cung ứng chứng chỉ cổ phần với lãi suất
khả biến và mệnh giá lớn hơn các loại tiền gửi tiết kiệm thông thường và họ cũng được quyền
thực hiện các khoản tiền gửi tiết kiệm dài hạn với lãi suất cao.Từ năm 1978, quỹ tín dụng được
phép cung ứng các chứng chỉ thị trường tiền tệ nhằm cạnh tranh với các định chế tài chính khác.
19
Dưới áp lực cạnh tranh, cơ cấu tiền gửi của quỹ tín dụng chuyển dịch theo hướng tăng dần các
tài khoản có chi phí đắt hơn và nhạy cảm lãi suất hơn, thất thường hơn theo sự thay đổi về lãi
suất và tình hình kinh tế, trong khi các cổ phần theo sổ với lãi suất thấp đã giảm nhanh chóng, và
từ đó làm tăng chí phí điều hành của quỹ, gây áp lực đáng kể đối với khả năng thanh khoản 19
Số lượng giảm và quy mô tăng: chỉ tính riêng ở Mỹ, năm 1992 đã có 13.385 quỹ tín dụng,
tương đương với số lượng các NHTM. Tuy nhiên, hiện nay do xu thế sáp nhập các quỹ thành các
liên hiệp lớn hơn nhằm đạt hiệu quả cao hơn trong hoạt động nên số lượng các quỹ tín dụng đang
giảm dần (chỉ còn hơn 7.000) nhưng quy mô lại lớn hơn với các dịch vụ phát triển mở rộng để
cạnh tranh với các ngân hàng, các định chế tài chính khác 20
Như vậy có thể nói, quỹ tín dụng là một định chế tài chính còn non trẻ, với lịch sử hình thành
chỉ hơn 100 năm nhưng đã có sự phát triển nhanh chóng, rộng khắp và phổ biến. Mang những

đặc điểm như: quy mô nhỏ, hoạt động chủ yếu phục vụ nhu cầu tài chính cho các thành viên
(không vì mục tiêu lợi nhuận), với mô hình tổ chức và hoạt động đơn giản, gọn nhẹ hơn nhiều so
với các NHTM nhưng trong điều kiện công nghệ tài chính ngân hàng ngày càng phát triển, mức
độ cạnh tranh ngày càng gia tăng thì hoạt động của quỹ tín dụng ngày càng đa dạng, phong phú
và có xu hướng phát triển chung là trở thành những NHTM kinh doanh tổng hợp và đa năng 20
1.2.2. Sự cần thiết của hoạt động thanh tra, giám sát đối với quỹ tín dụng 20
Thứ nhất: xuất phát từ những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của QTD, hoạt động của các
QTD có nhiều ưu thế hơn các định chế tài chính khác nhờ việc chủ yếu là để phục vụ hội viên,
những người mà các nhà quản trị, điều hành hiểu biết rõ về thông tin tín dụng, về uy tín cũng
như mức độ trung thực nên hoạt động cấp tín dụng ít rủi ro hơn. Tuy nhiên, do kinh doanh trong
lĩnh vực tiền tệ ngân hàng, bản thân tổ chức và hoạt động vẫn có những hạn chế, nhất là trong
điều kiện môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, nền kinh tế có nhiều bất ổn thì hoạt động của
QTD cũng gặp phải rất nhiều rủi ro như bất kỳ TCTD nào khác: Rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng,
rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường 20
1.2.3. Nội dung hoạt động thanh tra, giám sát của ngân hàng trung ương đối với các quỹ tín
dụng 21
Cũng như bất kỳ một tổ chức tín dụng nào khác, nội dung hoạt động thanh tra, giám sát của
NHTW đối với QTD được thống nhất gồm có: 21
Nội dung thứ nhất: đánh giá mức độ đầy đủ vốn. Hoạt động giám sát phải đánh giá được QTD
đã đáp ứng được các yêu cầu về tỷ lệ vốn tối thiểu mà NHTW ấn định chưa? Mức vốn này phải
thích hợp để phản ánh được mức độ rủi ro mà QTD đối mặt; thành phần vốn của QTD cũng phải
được tính toán ấn định trên cơ sở khả năng chịu đựng tổn thất của chính QTD đó. Với QTD có
hoạt động quốc tế thì phải đáp ứng yêu cầu về vốn theo đúng thỏa thuận Basle hiện hành. Trong
những trường hợp cần thiết, khi QTD cụ thể có mức độ rủi ro lớn thì NHTW yêu cầu mức vốn
cao hơn mức tối thiểu. Nếu QTD không đảm bảo yêu cầu vốn tối thiểu thì QTD đó phải có kế
hoạch khả thi với lộ trình phù hợp để đạt được mức vốn tối thiểu đúng quy định, đồng thời có thể
áp dụng những hạn chế trong cấp phép và hoạt động 22
Vốn tối thiểu phải đáp ứng chính là vốn cơ sở, vốn cấp 1, gồm có: vốn góp cổ phần và các loại
quỹ được hình thành từ thu nhập để lại sau thuế hoặc thu nhập trước thuế được điều chỉnh cho
các nghĩa vụ thuế trong tương lai, các khoản quỹ này được thu chi công khai trong các tài khoản

riêng biệt của TCTD và luôn sẵn sàng được sử dụng để trang trải tổn thất. 22
Bản thỏa thuận của Basle có áp dụng 5 quyền số rủi ro cho tài sản nội ngoại bảng theo mức độ
rủi ro của từng loại: 0, 10, 20, 50 và 100%; đồng thời đưa ra yêu cầu vốn tối thiểu của TCTD có
hoạt động quốc tế là 4% vốn tự có cấp 1 và 8% tổng vốn tự có. Tùy từng quốc gia và để phù hợp
với từng TCTD cụ thể, NHTW yêu cầu tỷ lệ cao hơn hoặc tăng các quyền số rủi ro lớn hơn so
với bản thỏa thuận quy định 22
Nội dung thứ hai: đánh giá khả năng quản lý rủi ro tín dụng, khả năng này được xem xét qua
việc đánh giá các tiêu chuẩn và quy trình cấp tính dụng, đánh giá chất lượng tài sản có và mức
độ đầy đủ của các khoản dự trữ, dự phòng rủi ro. Khả năng quản lý rủi ro tín dụng còn được
đánh giá thông qua việc tuân thủ hay không các giới hạn đảm bảo an toàn để hạn chế rủi ro, việc
cấp tín dụng có bình đẳng không? Các giới hạn đảm bảo an toàn phổ biến nhất là: tỷ lệ cấp tín
dụng cho một khách hàng và một nhóm khách hàng liên quan so với vốn của ngân hàng; các tỷ
lệ giới hạn về cơ cấu tín dụng theo ngành nghề hay đối tượng khách hàng cũng có thể được quy
định 22
Nội dung thứ ba: đánh giá khả năng quản lý rủi ro thị trường, xem xét các TCTD đã đo lường
chính xác và kiểm soát các rủi ro thị trường một cách thỏa đáng chưa thông qua việc đưa ra một
giới hạn vốn công khai đối với những rủi ro giá cả mà QTD phải đối mặt, các QTD phải đưa ra
các tiêu chuẩn định tính và định lượng rõ ràng phù hợp và quy định, thực hiện kiểm soát nội bộ
đối với các hoạt động kinh doanh hối đoái ra sao 22
Nội dung thứ tư: đánh giá khả năng quản lý rủi ro lãi suất thông qua việc ban hành cách chính
sách và quy trình quản lý rủi ro lãi suất, hệ thống đo lường và theo dõi, các biện pháp kiểm soát
toàn diện. Bên cạnh đó NHTW thu thập các thông tin về kỳ hạn, về loại tiền của khoản nợ và tài
sản của QTD một cách đầy đủ, kịp thời để đánh giá được mức độ rủi ro lãi suất 23
Nội dung thứ năm: Đánh giá khả năng quản lý rủi ro hoạt động và các rủi ro khác: TCTD phải
có các quy trình kiểm toán và kiểm soát rủi ro hoạt động, rủi ro quốc gia, rủi ro chuyển tiền một
cách toàn diện với những tiêu chí xác định, đo lường để theo dõi và kiểm soát các loại rủi ro
đồng thời có đủ vốn để đối phó với các rủi ro này nếu xảy ra 23
Nội dung thứ sáu: đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu quả không, có tính độc lập thỏa
đáng không, địa vị và quy trình báo cáo của kiểm soát nội bộ có phù hợp không, có khả năng
kiểm soát những rủi ro tuân thủ, rủi ro tín dụng và các loại rủi ro khác không. NHTW thường

đưa ra những yêu cầu tối thiểu về kiểm tra kiểm soát nội bộ cũng như khả năng quản trị rủi ro
của QTD 23
Bên cạnh các nội dung trên, hoạt động giám sát của NHTW còn quan tâm thu thập các thông tin
liên quan đến phòng chống rửa tiền liên quan đến các giao dịch gian lận, đáng ngờ nhằm đảm
bảo tính đúng đắn và lành mạnh của hệ thống tài chính 23
Các nội dung trên được giám sát thông qua việc thu thập và phân tích thông tin tại hiện trường
hoặc từ xa. Một hệ thống thanh tra, giám sát hiệu quả sẽ sử dụng phối hợp cả hai hình thức này.
Thông thường NHTW tiến hành giám sát đối với QTD thông qua hai bộ phận giám sát từ xa và
thanh tra tại chỗ, hai bộ phận này có sự phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau. Trong khi hoạt
động giám sát từ xa được thực hiện thường xuyên, liên tục thông qua việc tổng hợp, phân tích số
liệu thông tin thu thập được qua các báo cáo và các nguồn thông tin khác còn hoạt động thanh tra
tại chỗ chỉ được tiến hành định kỳ hoặc đột xuất trên cơ sở các thông tin cung cấp của hoạt động
giám sát từ xa 23
Hoạt động thanh tra tại chỗ để kiểm chứng và đánh giá các vấn đề: tính chính xác của các báo
cáo do QTD cung cấp; các điều kiện và hoạt động chung của QTD; mức độ thỏa đáng của hệ
thống đo lường rủi ro và các quy trình kiểm soát nội bộ; chất lượng khoản vay và mức độ thỏa
đáng của các khoản dự trữ, dự phòng rủi ro; khả năng quản lý của đội ngũ lãnh đạo; mức độ thỏa
đáng của các hệ thống thông tin quản lý và kế toán; các vấn đề đã được phát hiện qua giám sát từ
xa hoặc từ lần thanh tra trước; sự tuân thủ luật pháp và quy định nội bộ 24
Như vậy, hoạt động thanh tra, giám sát của NHTW đối với các QTD gồm có hoạt động giám sát
từ xa và hoạt động thanh tra tại chỗ với các nội dung cụ thể nhằm đánh giá được một cách toàn
diện, chính xác nhất tất cả các mặt hoạt động của QTD. Hoạt động thanh tra, giám sát QTD có
thể do NHTW trực tiếp tiến hành hoặc phối hợp sử dụng cán bộ kiểm toán từ bên ngoài nếu có
cơ quan kiểm toán độc lập với khả năng chuyên môn cao và kỹ thuật cần thiết. NHTW hoàn toàn
có quyền phủ quyết một cơ quan kiểm toán nhất định 24
1.2.4. Đặc trưng hoạt động thanh tra, giám sát của ngân hàng trung ương đối với hệ thống quỹ
tín dụng 24
1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng của ngân hàng
trung ương 26
1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng của ngân hàng

trung ương 26
1.3.1. Phương pháp thanh tra, giám sát 26
1.3.2. Nhân sự và các điều kiện môi trường 27
1.3.3. Đối tượng thanh tra, giám sát 29
Tựu trung lại, có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động thanh tra, giám sát các
TCTD của NHTW, trong đó có cả nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Đối tượng thanh tra,
giám sát với đặc điểm và trình độ phát triển của nó là nhân tố đầu tiên quy định việc áp dụng
những phương pháp những công nghệ thanh tra, giám sát đảm bảo tính phù hợp và hiệu quả. Sự
phát triển của các TCTD cũng đòi hỏi Cơ quan Thanh tra, giám sát phải có sự đổi mới tương ứng
về nhân sự, mô hình tổ chức, về trang bị phương tiện, công cụ làm việc, về môi trường pháp lý
30
Trong 25 nguyên tắc cơ bản giúp giám sát hiệu quả các TCTD mà Ủy ban Basel đã đưa ra
những yên cầu cụ thể, những điều kiện quan trọng, không thể thiếu trong quá trình hoàn thiện
hoạt động căn bản này của các NHTW đáp ứng yêu cầu quản lý hiệu quả, đảm bảo các TCTD
hoạt động an toàn, phát triển bền vững trong môi trường cạnh tranh quốc tế 30
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA GIÁM SÁT ĐỐI VỚI HỆ THỐNG
QŨY TÍN DỤNG NHÂN DÂN CƠ SỞ TẠI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM-
CHI NHÁNH HẢI DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2008 – 2010 32
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA GIÁM SÁT ĐỐI VỚI HỆ THỐNG
QŨY TÍN DỤNG NHÂN DÂN CƠ SỞ TẠI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM-
CHI NHÁNH HẢI DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2008 – 2010 32
2.1. Khái quát về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Chi nhánh Hải Dương và hệ thống quỹ tín
dụng nhân dân cơ sở trên địa bàn 32
2.1. Khái quát về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Chi nhánh Hải Dương và hệ thống quỹ tín
dụng nhân dân cơ sở trên địa bàn 32
2.1.1. Một số nét về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Chi nhánh Hải Dương 32
2.1.2. Khái quát về hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở trên địa bàn tỉnh Hải Dương 35
Ở Việt Nam, các Hợp tác xã tín dụng xuất hiện vào năm 1956, đến năm 1985, hầu hết các xã
trong cả nước đều có Hợp tác xã tín dụng. Sau khi có pháp lệnh Ngân hàng, các Hợp tác xã tín
dụng cũ đi vào thời kỳ chấn chỉnh, tập trung xử lý những tồn đọng (6.000 Hợp tác xã tín dụng

không đủ điều kiện phải ngừng hoạt độnsg, tập trung thu hồi vốn trả cho dân, trong đó có 2.000
HTX phải thanh lý giải thể), một số ít tổ chức mới được cấp phép hoạt động gặp nhiều khó khăn,
lúng túng, chưa đáp ứng được yêu cầu cũng như niềm tin của công chúng. 35
Ngày 27/7/1993, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị quyết 390/TTg về việc thành lập thí điểm hệ
thống quỹ tín dụng (hình thức hợp tác xã) có 3 cấp liên kết kinh tế với nhau (gồm hệ thống quỹ
tín dụng nhân dân cơ sở, Quỹ tín dụng nhân dân khu vực và Quỹ tín dụng nhân dân trung ương)
hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng tồn tại. Trong đó QCS là nền tảng, hoạt động tại bản làng, gắn liền
với hoạt động kinh tế – xã hội ở nông thôn. QCS được tổ chức theo hình thức hợp tác xã hoạt
động tự chủ, tự chịu trách nhiệm, theo cơ chế thị trường; chỉ phục vụ các thành viên (chỉ các
thành viên góp vốn mới được vay vốn), cơ chế quản lý và hoạt động do chính các thành viên của
quỹ đưa ra theo sự hướng dẫn của NHNN và QTW 35
Sau thời gian thí điểm, hệ thống QCS Hải Dương bước vào giai đoạn củng cố và chấn chỉnh
(2000-2005) nhằm khắc phục những tồn tại, yếu kém tránh đổ vỡ như hệ thống Hợp tác xã tín
dụng cũ. Bằng hàng loạt các chỉ đạo đúng đắn thể hiện qua các văn bản: Chỉ thị 28/CT-TU ngày
05/6/2000; kế hoạch 03/KH-TU ngày 22/3/2001 của Tỉnh uỷ Hải Dương, 66 QCS còn lại đã cơ
bản thực hiện tốt Đề án củng cố chấn chỉnh mà UBND tỉnh đã phê duyệt, đi vào hoạt động ổn
định với tốc độ tăng trưởng tổng tài sản bình quân 22,6% năm 36
* Tổ chức và hoạt động cơ bản 36
Về mặt tổ chức: Hệ thống QCS Việt Nam nói chung, trên địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng
được tổ chức theo mô hình hợp tác xã, thành lập tại địa bàn xã, phường, liên xã, liên phường
hoặc các cụm kinh tế. Thành viên là các cá nhân và hộ gia đình, hoạt động nhằm mục đích chủ
yếu là tương trợ các thành viên thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ
và cải thiện đời sống. Cơ cấu tổ chức của QCS gồm có: Đại hội thành viên: Hội đồng quản trị
(HĐQT có ít nhất 3 người, do Chủ tịch đứng đầu), Giám đốc, Ban kiểm soát và các ban, bộ
phận: ban tín dụng, các các vị trí tác nghiệp về kế toán, tín dụng, thủ quỹ 36

×