Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Chuyên đề đánh giá tác động bồi lắng, sạt lở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.99 KB, 16 trang )

Đánh giá tác động do bồi lắng, sạt lở, biến động lớn đường bờ và bãi bồi
MỤC LỤC
Trang
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1
MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG I 4
THỰC TRẠNG BỒI LẮNG, SẠT LỞ GÂY BIẾN ĐỘNG ĐƯỜNG BỜ VÀ BÃI
BỒI 4
I.1. THỰC TRẠNG BỒI LẮNG, SẠT LỞ GÂY BIẾN ĐỘNG ĐƯỜNG BỜ VÀ BÃI
BỒI 4
I.1.1. Hiện trạng bãi bồi 4
I.1.2. Thực trạng biến động đường bờ biển 5
I.2. NGUYÊN NHÂN GÂY BỒI LẮNG, SẠT LỞ 7
I.2.1. Nguyên nhân ngoại sinh 7
I.2.2. Tác động của con người 9
CHƯƠNG II 11
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG DO BỒI LẮNG SẠT LỞ GÂY BIẾN ĐỘNG LỚN
ĐƯỜNG BỜ VÀ BÃI BỒI TỈNH SÓC TRĂNG 11
II.1. ĐÁNH GIÁ NHỮNG TÁC ĐỘNG ẢNH HƯỞNG DO BỒI LẮNG, SẠT LỞ
GÂY RA TẠI TỈNH SÓC TRĂNG TRONG THỜI GIAN QUA 11
II.1.1. Ảnh hưởng xói lở bờ tới môi trường sinh thái 11
II.1.2. Ảnh hưởng bồi lắng tới môi trường sinh thái 12
II.2. NHẬN ĐỊNH XU THẾ DIỄN BIẾN SẠT LỞ BỒI LẮNG LÒNG DẪN, DẢI
VEN BIỂN TRONG THỜI GIAN TỚI 12
II.2.1. Gia tăng quá trình xói lở do ảnh hưởng của việc xây dựng các công trình trữ
nước phía thượng nguồn sông MêKông 12
II.2.2. Ảnh hưởng do quá trình biến đổi khí hậu (BĐKH) trên toàn cầu 13
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
Đánh giá tác động do bồi lắng, sạt lở, biến động lớn đường bờ và bãi bồi


MỞ ĐẦU
Sóc Trăng có địa giới hành chính tiếp giáp 3 tỉnh trong vùng ĐBSCL: Phía Tây –
Bắc giáp tỉnh Hậu Giang. Phía Đông – Bắc giáp tỉnh Trà Vinh và Vĩnh Long qua sông
Hậu. Phía Tây – Nam giáp tỉnh Bạc Liêu. Phía Đông và Đông Nam giáp biển Đông với
chiều dài bờ biển 72 km. Hiện tại, Sóc Trăng có 3 tuyến quốc lộ đi qua gồm: QL 1A nối
với Bạc Liêu - Hậu Giang, QL 60 nối với Trà Vinh - Bến Tre - TP Mỹ Tho và tuyến
Quản Lộ - Phụng Hiệp. Đường bờ biển Sóc Trăng được giới hạn bởi 3 cửa sông lớn là
Định An, Trần Đề và Mỹ Thanh và hình thành một lưu vực sông lớn. Cùng với cấu tạo
địa chất trẻ hình thành trong quá trình lấn biển của châu thổ sông Cửu Long, tính chất địa
hình nơi đây thể hiện rõ nét bằng những giồng cát hình cánh cung đồng phương với bờ
biển từ Sóc Trăng đến Vĩnh Châu, Sóc Trăng có đủ điều kiện thuận lợi để phát triển kinh
tế biển tổng hợp. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, quá trình sạt lở và bồi tụ ven
sông, ven biển tỉnh Sóc Trăng xảy ra rất rõ rệt, đặc biệt là biến động đường bờ biển.
Những vùng bị sạt lở do ảnh hưởng của các quá trình tự nhiên như các dòng hải lưu, thủy
triều, gió chướng, hoạt động của sóng… đã làm cho vùng cửa sông và biển ven bờ bị
biến dạng.
Như vậy, hiện trạng sạt lở, bồi lắng lòng dẫn kênh rạch, biến động đường bờ trên
địa bàn tỉnh Sóc Trăng sẽ là lực cản rất lớn kìm hãm phát triển kinh tế xã hội, cản trở tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh, đặc biệt trong quá trình phát triển kinh tế biển.
Do vậy, việc “Đánh giá tác động do bồi lắng, sạt lở, biến động lớn đường bờ và bãi bồi
tỉnh Sóc Trăng” góp phần giúp các cơ quan chức năng tỉnh nhận định rõ ràng hơn về các
tác động tiêu cực, từ đó kịp thời đề ra các giải pháp ngăn ngừa và hạn chế đến mức thiệt
hại thấp nhất.
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
2
Đánh giá tác động do bồi lắng, sạt lở, biến động lớn đường bờ và bãi bồi
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
3
Đánh giá tác động do bồi lắng, sạt lở, biến động lớn đường bờ và bãi bồi
CHƯƠNG I

THỰC TRẠNG BỒI LẮNG, SẠT LỞ GÂY BIẾN ĐỘNG ĐƯỜNG
BỜ VÀ BÃI BỒI
I.1. THỰC TRẠNG BỒI LẮNG, SẠT LỞ GÂY BIẾN ĐỘNG ĐƯỜNG BỜ VÀ BÃI
BỒI
I.1.1. Hiện trạng bãi bồi
I.1.1.1. Sự hình thành bãi bồi
Với lưu lượng nước lớn, hàng năm hệ thống sông Cửu Long chuyển tải ra biển
một lượng bùn cát rất đáng kể qua 7 cửa, riêng đổ ra biển Sóc Trăng qua 2 cửa Trần Đề
và cửa Định An chiếm tới 30%. Những nghiên cứu chỉ ra rằng, hàng năm lắng đọng mùn
bã hữu cơ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long mang xuống là 40.000 tấn/ha. Song nếu như
các chất kịp phân hủy và giữ lại ở phía trên 50% thì phần còn lại sẽ được chuyển xuống
hạ lưu và vùng cửu sông (Largle – 1976). Bên cạnh đó chất dinh dưỡng trong vùng còn
được cung cấp tại chỗ do các bãi cỏ ngầm và vùng ngập mặn.
Theo các báo cáo quốc gia ô nhiễm biển từ đất liền, hàng năm sông Cửu Long tải
ra biển khoảng 160 triệu tấn bùn cát. Thực tế có thể còn lớn hơn, vì ngoài lượng bùn cát
di chuyển dưới dạng lơ lửng còn có thêm một lượng bùn cát đáng kể di chuyển dưới dạng
lăn trượt theo đáy. Theo số liệu đo đạc tại trạm quan trắc Pakse (Lào) trong vòng 30 năm
(1960 – 1989), hàng năm lượng bùn cát vận chuyển qua đây khoảng 170 – 180 triệu tấn
vật liệu trầm tích. Đây chính là nguồn vật liệu bồi tụ tạo thành bãi bồi ven biển tỉnh Sóc
Trăng. Nhìn chung, địa hình bãi bồi khá thoải và nằm bằng phẳng. Khu vực cửa sông có
địa hình khá phức tạp, thay đổi theo mùa do tương tác động lực sông biển, có nhiều cồn
và doi cát ngầm đan xen với luồng lạch.
I.1.1.2. Diện tích bãi bồi
Diện tích đất bãi bồi được xác định từ ranh giới đê biển đến ranh giới chân triều
(chân triều kiệt trung bình nhiều năm), xác định bởi cốt 0 hải đồ và nằm ngoài diện tích
tự nhiên của tỉnh.
Theo khái niệm trên, áp dụng phương pháp điều tra thực địa và các phương pháp
khác, diện tích đất bãi bồi của khu vực được xác định cụ thể như sau:
- Diện tích đang quản lý không nằm trong diện tích tự nhiên của tỉnh: 3.750 ha.
- Diện tích bãi bồi (tính từ đê biển đến – 3,0 m): 63.031 ha.

- Diện tích bãi bồi từ mép nước đến – 3,0 m: 58.547 ha.
Trong số 3 huyện ven biển của tỉnh Sóc Trăng, huyện Cù Lao Dung có bãi bồi
phát triển mạnh nhất, chiều rộng bãi có nơi đạt 10km (tính từ độ sâu: 2m nước). Chính vì
vậy, mặc dù chiều dài đường bờ ngắn nhưng Cù Lao Dung vẫn là huyện có diện tích bãi
bồi lớn nhất, chiếm 50% tổng diện tích bãi bồi ven biển toàn tỉnh.
I.1.1.3. Hiện trạng bồi lắng
Cửa Định An là cửa sông có diễn biến khá phức tạp, thường xuyên bị sa bồi. Theo
số liệu khảo sát từ năm 1991 đến nay, luồng tàu qua cửa Định An luôn dịch chuyển và bị
bồi lấp tạo thành các bãi cạn ở phía Bắc và Nam cửa Định An. Độ sâu tự nhiên bãi ngang
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
4
Đánh giá tác động do bồi lắng, sạt lở, biến động lớn đường bờ và bãi bồi
cửa sông chỗ cạn nhất từ đến -2,6m (CD). Riêng năm 2000 do lũ lụt ở Đồng bằng sông
Cửu Long, cao độ đáy luồng chỉ còn -1,6m (CD). Trong mùa mưa lượng nước trong sông
vận chuyển nhiều bùn cát đổ ra bờ biển với tỷ lệ bồi lắng lấn át tiến trình ngược lại sinh
ra do động lực (năng lượng thủy triều - dòng hải lưu) cục bộ. Vào mùa khô, do lưu lượng
sông nhỏ nên các hoạt động của thủy triều lại thắng thế. Sự thay đổi theo mùa và sự đảo
ngược dòng chảy ven bờ kết hợp gió mùa đã tạo ra tiến trình hình thành địa mạo cửa
sông Hậu. Tiến trình này sẽ không bao giờ thay đổi, kết quả này dẫn đến việc độ sâu
luồng lạch cũng không ổn định.
Theo bản đồ biến động bờ biển hiện có, đã khẳng định rằng toàn bộ đồng bằng
đang ở trong giai đoạn phát triển năng động. Cù Lao Dung ở cửa sông Hậu đang mở rộng
với tỷ lệ trung bình từ 20 tới 50 m mỗi năm. Vùng đồng bằng gần phía Bắc cửa Định An
cũng cho thấy mức độ phát triển với tốc độ 10 - 15m mỗi năm. Bồi lắng cửa sông Hậu là
nghiêm trọng do dòng chảy sông vận chuyển khối lượng lớn bùn cát ra cửa và bị đọng lại
dưới các ảnh hưởng của thủy triều và một tiến trình hình thành bờ biển phức hợp. Khi
vận tốc dòng chảy trong sông lớn ở thượng lưu cửa và giảm rất nhiều khi dòng sông mở
rộng ra cửa sông. Cùng với việc giảm vận tốc rất nhiều sẽ kéo việc giảm năng lực vận
chuyển chất bồi lắng. Bùn cát sẽ lắng đọng theo hình dạng tròn (giải hình vành khăn -
bán nguyệt), trình tự lắng đọng sẽ bắt đầu là vật liệu thô sẽ ở dưới đáy chỉ ngay sau vị trí

mở rộng (cửa sông). Theo tài liệu về nạo vét năm 1981, thì tốc độ bồi lắng vào khoảng
350.000 m
3
/tháng tại tuyến luồng 81 - 83, năm 1983 tỷ lệ bồi lắng là 250.000 m
3
/tháng .
Tháng 5 năm 1997, đã tiến hành một đợt nạo vét mới dọc theo luồng số 94 - 96. Sự bồi
lắng diễn ra rất nhanh với tốc độ 0,40 m
3
/m
2
/tháng, đến tháng 8 năm 1997 luồng đã bị lấp
đầy hoàn toàn. Tháng 5/1998 đã tiến hành đào luồng số 98. Quan trắc cho thấy chỉ sau 2
tháng, tỷ lệ bồi lắng là 0,20 m
3
/m
2
/tháng .
I.1.2. Thực trạng biến động đường bờ biển
Đường bờ biển tỉnh Sóc Trăng dài khoảng 72 km tiếp giáp với đường bờ biển của
tỉnh Trà Vinh ở phía Bắc và đường bờ biển của tỉnh Bạc Liêu ở phía Nam. Có 3 cửa sông
lớn là cửa Định An, của Trần Đề của sông Hậu và cửa Mỹ Thanh của sông Mỹ Thanh đổ
ra biển. Đường bờ biển thuộc các huyện sau:
- Huyện Cù Lao Dung với 2 xã giáp biển là An Thạnh Nam và An Thạnh 3, cùng
với 3 xã khác gần biển là Đại Ân 1, Ân Thạnh 2, An Thạnh Đông.
- Huyện Long Phú với 2 xã giáp biển là Lịch Hội Thượng, Trung Bình cùng với xã
gần biển là Đại Ân 2.
- Huyện Vĩnh Châu với 6 xã là xã Lai Hòa, Vĩnh Tân, Vĩnh Phước, Vĩnh Châu,
Lạc Hòa, Vĩnh Hải và thị trấn Vĩnh Châu.
Theo kết quả phân tích ảnh viễn thám, bản đồ của các giai đoạn 1965, 1990, 2000,

2008 cho thấy đường bờ biển của tỉnh Sóc Trăng có nhiều biến động với 3 quá trình: bồi
tụ, xói lở và bồi tụ/xói lở xen kẽ nhau.
I.1.2.1. Đường bờ biển diễn ra quá trình xói lở
a. Đường bờ biển bị xói lờ liên tục giai đoạn 1965 – 2008
Có 2 đoạn bờ thuộc huyện Vĩnh Châu
- Đoạn bờ biển các xã Lai Hòa, Vĩnh Tân, Vĩnh Phước, thị trấn Vĩnh Châu và
khoảng 0,5 km về phía dưới xã Vĩnh Châu. Tổng chiều dài đo đạc được khoảng gần 20
km, với tốc độ xói lở trung bình khoảng 10 m/năm. Quá trình này diễn ra mạnh nhất
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
5
Đánh giá tác động do bồi lắng, sạt lở, biến động lớn đường bờ và bãi bồi
trong giai đoạn 1965 – 1990 – 2000. Còn trong giai đoạn 2000 – 2008 vẫn diễn ra quá
trình xói lở, xong không liên tục ở cả tuyến bờ, mà xảy ra chủ yếu ở một số đoạn bờ ấp
Khu Sáu thuộc thị trấn Vĩnh Châu, ấp Biển Trên, Biển Trên A, Biển Dưới xã Vĩnh
Phước, ấp No Pol xã Vĩnh Tân và ấp Xung Thum xã Lai Hòa.
Đoạn bờ biển xã Vĩnh Hải, từ ấp Huỳnh Kỳ (các cửa kênh Hồ Bé về phía Bắc
khoảng 1 km) lên đến gần ấp Mỹ Thạnh. Tổng chiều dài đo được khoảng 7 km, tốc độ
xói lở trung bình khoảng 12 – 15 m/năm. Quá trình này diễn ra mạnh nhất trong giai đoạn
1965 – 1990 – 2000. Còn trong giai đoạn 2000 – 2008, tốc độ và quy mô xói lở có giảm
hơn.
b. Đường bờ diễn ra quá trình xói lở giai đoạn năm 2000 – 2008
Có ở đoạn bờ sông Hậu, phía Nam cửa Trần Đề, từ ấp Ngan Rô 1 qua ấp Kinh Ba
đến gần ấp Đầu Giồng thuộc xã Trung Bình, huyện Long Phú. Chiều dài đo được khoảng
2,5 km.
I.1.2.2. Đường bờ biển diễn ra quá trình bồi tụ
a. Đường bờ biển được bồi tụ thuộc huyện Cù Lao Dung
Đường bờ biển ở khu vực này diễn ra quá trình bồi tụ mạnh, điển hình không
những chỉ ở Sóc Trăng mà cả đối với ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tại đây ghi
nhận được quá trình bồi tụ ở phía ngoài của Cù Lao Dung, từ cửa Vàm Hồ Lớn chạy xuôi
theo bờ sông Hậu vòng qua mũi cửa Trần Đề thuộc xã An Thạnh Nam đi lên phía Bắc,

đến mũi cửa Định An thuộc xã An Thạnh 3, chiều dài khoảng gần 18 km, với tốc độ bồi
tụ lớn nhất khoảng 70 – 80 km/năm ở phía mũi cửa Trần Đề. Quá trình này diễn ra mạnh
nhất trong giai đoạn 1965 – 1990 – 2000. Còn trong giai đoạn 2000 – 2008 vẫn diễn ra
quá trình bồi tụ, nhưng không mạnh bằng giai đoạn trước và quy mô cũng không lớn
bằng, chủ yếu chỉ có ở phía 2 đầu cù lao, mỗi phía dài khoảng 4 km. So với tuyến đê
biển, vùng đất bồi đã cách xa có chỗ đến hơn 1 km.
Đoạn bờ phía Bắc sông Cồn Tròn tại ấp Nguyên Tăng thuộc xã Đại Ân 1, cũng ghi
nhận được quá trình bồi tụ với chiều dài khoảng 4,5 km. Quá trình này chỉ diễn ra trong
giai đoạn 1965 – 1990 - 2000. Riêng ngã ba chỗ giao nhau của 2 cửa sông Cồn Tròn và
Vàm Hồ lớn có bãi nổi được hình thành trong giai đoạn 1990 – 2000 - 2008.
b. Đường bờ biển và bờ sông được bồi tụ thuộc huyện Long phú có 2 đoạn
- Đoạn bờ được bồi tụ từ ấp Nhà Thờ thuộc xã Trung Bình xuống đến mũi cửa Mỹ
Thanh thuộc xã Lịch Hội Thượng, dài khoảng 8 km. Trong đó, được bồi tụ trong giai
đoạn 1965 – 1990 chỉ khoảng 0,8 km ở 2 phía cửa kênh Ông Khánh thuộc ấp Nhà Thờ.
Đoạn bờ được bồi dài nhất trong giai đoạn 1990 – 2000 - 2008, với tốc độ bồi lớn nhất
khoảng 60 - 70 m/năm.
- Đoạn bờ sông Hậu thuộc ấp Đầu Giồng, xã Trung Bình dài khoảng 1,5 km được
bồi trong giai đoạn 1990 – 2000 với tốc độ bồi lớn nhất chỉ khoảng 10 – 15 m/năm. Đoạn
mới bồi trong giai đoạn 2000 – 2008 dài khoảng 0,5 km.
c. Đường bờ biển được bồi tụ thuộc huyện Vĩnh Châu có 2 đoạn
- Đoạn dài nhất từ trên cửa kênh Hồ Bể gần ấp Huỳnh Kỳ xã Vĩnh Hải xuôi xuống
phía dưới, đến ấp Cà Lăng A Biển thuộc xã Vĩnh Châu, dài khoảng gần 20 km. Trong đó
bồi giai đoạn 1965 – 1990 có đoạn từ ấp Huỳnh Kỳ đến ấp Âu Thọ B xã Vĩnh Hải, dài
khoảng 9 km, với tốc độ bồi tụ lớn nhất gần 60 m/năm. Còn lại là bồi trong giai đoạn
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
6
Đánh giá tác động do bồi lắng, sạt lở, biến động lớn đường bờ và bãi bồi
1990 – 2000, trong đó đoạn 2 bên cửa kênh Hồ Bề kéo dài từ ấp Huỳnh Kỳ ra cửa kênh
dài khoảng 2,5 km, với tốc độ bồi tụ lớn nhất ra phía biển khoảng 70 m/năm. Đoạn bồi
tiếp theo trong giai đoạn này thuộc ấp Trà Sết xã Vĩnh Hải đến ấp Cà Lăng A Biển thuộc

xã Vĩnh Châu dài khoảng 16 km, với tốc độ bồi lớn nhất cũng khoảng 50 – 70 m/năm.
Riêng trong giai đoạn 2000 – 2008 chỉ diễn ra quá trình bồi tụ ở đoạn cuối của ấp Cù
Lăng A Biển, khoảng gần 3,5 km và xen kẽ là các đoạn bị xói lở cục bộ tại một số đoạn
ngắn ở phía ngoài, không đáng kể.
- Đoạn bờ được bồi tụ thuộc vùng bờ phía Nam cửa Mỹ Thanh thuộc xã Vĩnh Hải
dài khoảng hơn 3 km suốt từ năm 1965 – 1990 – 2000, với tốc độ bồi lớn nhất khoảng 30
m/năm. Từ năm 2000 đến 2008 quá trình này chỉ diễn ra một đoạn phía trên đoạn bờ này
tại vùng cửa sông Mỹ Thanh với tốc độ bồi có chậm hơn, chỉ khoảng 10 – 15 m/năm.
I.1.2.3. Đường bờ biển diễn ra cả 2 quá trình bồi tụ/xói lở xen kẽ nhau
Cả đoạn bờ này thường nằm giữa các đoạn bờ được bồi tụ liên tục với đoạn bờ bị
xói lở liên tục, cụ thể như sau:
- Đoạn bờ khu vực Ấp Chợ đến ấp Nhà Thờ thuộc xã Trung Bình huyện Long
Phú, diễn ra quá trình bồi năm 1965 – 1990 và xói lở năm 1990 – 2000 hoặc xói lở năm
1990 – 2000 và bồi tụ năm 2000 – 2008.
- Đoạn bờ nằm giữa đoạn bờ bồi tụ phía Nam của Mỹ Thanh với đoạn bờ bị xói lở
ở ấp Huỳnh Kỳ thuộc huyện Vĩnh Châu, diễn ra quá trình bồi năm 1965 – 1990 và xói lở
năm 1990 – 2000.
- Các đoạn bờ ngắn nằm rải rác ở khu vực đường bờ bồi tụ thuộc xã Vĩnh Hải và
Vĩnh Châu thuộc huyện Vĩnh Châu, diễn ra quá trình bồi năm 1990 – 2000 và xói lở năm
2000 – 2008.
I.2. NGUYÊN NHÂN GÂY BỒI LẮNG, SẠT LỞ
I.2.1. Nguyên nhân ngoại sinh
Các yếu tố ảnh hưởng đến các quá trình bồi tụ, xói lở do các yếu tố tự nhiên ở đây
chủ yếu là: cấu tạo vùng bờ, hướng đường bờ, tác động của gió, thủy triều, dòng chảy
dọc bờ, sóng (trong bão).
I.2.1.1. Nguyên nhân sạt lở
a. Do cấu tạo vùng bờ, hướng bờ
Đặc điểm địa hình bờ biển đồng bằng Nam Bộ nói chung và khu vực bờ biển tỉnh
Sóc Trăng nói riêng đều thuộc kiểu bờ tam giác châu có sú vẹt nằm trong nhóm bờ biển
thành tạo chủ yếu do các yếu tố không phải là sóng. Về cấu trúc hình thái, bờ biển ở đây

thấp, bằng phẳng bị chia cắt bởi các cửa sông, kênh rạch và có nhiều thực vật ngập mặn.
Bề mặt địa hình vùng bờ thường chỉ cao hơn mực nước biển trung bình 1,2 – 1,6m. Hầu
như toàn bộ vùng bờ được cấu tạo bởi lớp phù sa cổ với thành phần chủ yếu là bùn sét
màu nâu, bùn sét màu nâu chứa cát có lẫn vụn vỏ xác thực vật (dạng lớp kép). Nhiều nơi
vùng bờ được cấu tạo bởi lớp phù sa mới.
Các thành tạo trầm tích phù sa cổ khi được lớp thảm thực vật phủ dày, trong điều
kiện môi trường ẩm ướt cao thì độ dẻo và độ kết dính tốt, còn những nơi thảm thực vật
thưa thớt hoặc không cò thảm thực vật che phủ, khi bị phơi nắng thiếu nước thường
xuyên, chúng mất nước dần, co rút lại, hậu quả là bị nứt nẻ, trở nên khô xốp và khi thấm
nước trở lại chúng bị bở rời, tơi vụn ra. Khi đó chỉ cần động lực rất nhỏ (sóng gió), chúng
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
7
Đánh giá tác động do bồi lắng, sạt lở, biến động lớn đường bờ và bãi bồi
đã bị nước làm dịch chuyển và mang đi. Đây là một điều kiện thuận lợi để quá trình xói
lở bờ trong vùng diễn ra mạnh mẽ.
Cùng với cấu tạo vùng bờ, hướng đường bờ cũng là yếu tố quan trọng để quá trình
bồi tụ hoặc xói lở bờ diễn ra. Kết quả khảo sát, phân tích cho thấy, tại các khu vực có
đường bờ mở thuần túy (phía Nam cửa Trần Đề) quá trình xói lở xảy ra với cường độ
mạnh, những nơi có đường bờ được che kín phần nào đó thì hoặc diễn ra quá trình bồi tụ
- xói lở xen kẽ hoặc chỉ diễn ra quá trình bồi tụ.
b. Sóng
Sóng có thể do gió hay do tàu thuyền đi lại trên sông gây ra. Sóng do gió gây ra
sạt lở bờ thường xảy ra ở các vùng cửa sông, nới có đà gió dài. Chế độ sóng tại khu vực
nghiên cứu hình thành 2 mùa rõ rệt:
- Mùa đông sóng có hướng định hành là Đông Bắc chiếm khoảng 75 – 85%, độ
cao sóng trung bình khoảng 2 – 3,5m. Sóng lớn có tần suất xuất hiện nhiều nhất vào
tháng 11, với độ cao sóng cực đại có thể lên đến 5 – 6m.
- Mùa hè sóng chủ yếu có hướng Tây Nam hoặc Tây. Độ cao sóng trung bình
khoảng 2 – 3m. Sóng hướng Tây Nam có tần suất xuất hiện cực đại vào tháng 8 – 9, với
độ cao cực đại 4 – 5m. Thời gian lặng sóng hoặc sóng yếu trong năm chỉ xấp xỉ 2%.

Sóng vỗ vào bờ tạo áp lực, tạo dòng chảy ven bờ gây sạt lở có thể nhận thấy ở hầu
hết các vùng cửa sông và ven biển như cửa Trần Đề, cửa Định An. Tác động của sóng sẽ
tạo nên áp lực lên mái bờ, dòng chảy ven bờ đoạn cửa sông, ven biển gây nên sự mất ổn
định của bờ dẫn tới bờ bị sạt lở.
c. Gió
Chế độ gió trong khu vực nghiên cứu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa,
hàng năm có các hướng gió chính: Tây, Tây Nam, Đông Bắc và chia làm 2 mùa rõ rệt:
mùa đông huớng gió thịnh hành là Đông Bắc, Đông; mùa hè hướng gió thịnh hành là
Tây, Tây Nam. Kết quả phân tích số liệu đo đạc tại vùng đồng bằng Nam Bộ (tháng 6
năm 1999) cho thấy rằng, trong điều kiện động lực của thời kỳ gió mùa Tây Nam, tại hầu
hết các vùng bờ đều quan sát thấy hiện tượng bồi tụ, hiện tượng xói lở hầu như không
diễn ra. Hiện tượng xói lở tại các vùng bờ biển mở thuần túy chỉ diễn ra vào thời kỳ gió
mùa Đông Bắc và thời kỳ gió hướng Đông thống trị.
d. Tác động của dòng chảy
Khi dòng chảy có vận tốc lớn hơn vận tốc khởi động bùn cát của lòng dẫn sẽ làm
cho lòng dẫn bị đào xói, khối đất phản áp của mái bờ bị suy giảm dần. Đến một thời gian
nhất định mái bờ sẽ bị mất ổn định và sạt lở sẽ xảy ra. Xói lở dạng này thường xảy ra vào
thời gian đầu mùa mưa, thời điểm mực nước kiệt. Các đợt sạt lở xảy ra ngắt quãng và có
chu kỳ dài hơn so với dạng sạt lở do sóng thuyền bè gây ra. Tuy nhiên khối đất mỗi một
đợt sạt lở thường lớn hơn và nguy hiểm hơn.
I.2.1.2. Nguyên nhân bồi lắng
a. Nguyên nhân gây bồi lắng lòng dẫn do vận tốc dòng chảy giảm nhỏ
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, sức tải cát phụ thuộc rất nhiều vào vận tốc
dòng chảy, vận tốc càng lớn, sức tải càng lớn. Trên dòng sông tại một thời điểm, tại một
vị trí và vì một lí do nào đó vận tốc dòng chảy giảm nhỏ, sẽ kéo theo sự suy giảm khả
năng mang cát bùn của dòng chảy. Trong trường hợp vận tốc dòng chảy giảm đi nhiều,
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
8
Đánh giá tác động do bồi lắng, sạt lở, biến động lớn đường bờ và bãi bồi
dòng chảy tại đó không còn đủ khả năng vận chuyển bùn cát trong nội bộ dòng chảy đoạn

sông trên đó đưa lại, khi đó bồi lắng lòng dẫn xảy ra.
b. Sự liên kết giữa hạt bùn cát với các Ion trong nước biển nguyên nhân gây bồi lắng
lòng dẫn đoạn sông bị nhiễm mặn
Quá trình trung hòa, dính kết các hạt bùn cát từ thượng nguồn đưa về với các Ion
dương, âm trong nước biển (Na
+

CL
-
) sẽ tạo thành các hạt có kích thước lớn hơn, có tốc
độ lắng chìm cao hơn và vì thế khả năng lắng đọng có cơ hội diễn ra. Bùn, cát giống như
một loại keo, quanh hạt keo trong tầng hấp phụ được bao bởi hai lớp điện tử âm và
dương, khi hạt bùn cát đi vào môi trường nước mặn, trong nước mặn có các thành phần
Na
+
Cl
-
, hạt bùn cát sẽ trở thành hạt nhân hút các Ion trong nước mặn, kết quả bùn cát
được dính cục, gia tăng đường kính và vì thế mà lắng đọng xuống đáy.
c. Bồi lắng ở đoạn sông cong
Trên các đoạn sông cong vận tốc dòng chảy phía bờ lõm rất lớn gây ra xói lở bờ
nhưng ngược lại phía bờ lồi vận tốc dòng chảy rất nhỏ , vì thế bờ lồi thượng bị lắng đọng.
Bên cạnh đó tại các đoạn sông cong thường xảy ra hiện tượng dòng chảy vòng, dòng
chảy này có tác dụng đào xói đất bờ phía bờ lõm rồi vận chuyển ra phía bờ lồi.
d. Bồi lắng vùng cửa sông ra biển
Ở bất kỳ cửa sông ra biển nào, sự giao thoa giữa các yếu tố sông biển thường để
lại sản phẩm của các cuộc tranh chấp đó là các bãi cát, ngưỡng cát dưới dạng các bar
chắn cửa. Các bar chắn cửa ảnh hưởng lớn đến thoát lũ và giao thông thủy.
Ở khu vực Sóc Trăng hầu hết các cửa sông đều xảy ra hiện tượng bồi lắng nhất là
cửa Trần Đề, cửa Định An, cửa Mỹ Thanh. Hoạt động bồi tụ thường diễn ra trong đợt có

gió mùa Đông Bắc, ngược lại trong mùa gió Tây Nam khu vực cửa sông lại xảy ra hiện
tượng xói lở.
Ta có thể tạm hiểu cơ chế bồi tụ tại các cửa sông ra biển như sau: Bùn cát có
nguồn gốc biển được dòng chảy ven bờ do sóng và thủy triều đưa vào cửa sông, khi dòng
chảy ven gặp dòng chảy thượng nguồn, vận tốc dòng chảy tại đó giảm đi, năng lượng
dòng chảy không còn đủ sức vận chuyển bùn cát từ biển đưa vào và từ nguồn đưa xuống,
vì thế phải lắng đọng lại.
I.2.2. Tác động của con người
Trong những năm gần đây, nghề nuôi trồng thủy sản (đặc biệt là nuôi tôm sú, tôm
càng xanh, cua biển, các loài nhuyễn thể,…) phát triển mạnh tại hầu hết các huyện ven
biển tỉnh Sóc Trăng. Chính nghề này đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều tỉnh.
Nhưng sự phát triển tự phát, tràn lan, thiếu quy hoạch đã tàn phá nhiều hecta rừng ngập
mặn ven bờ biển, đã có dấu hiệu gây suy thoái môi trường, làm mất căng bằng sinh thái
tăng nguy cơ phá vỡ quá trình phát triển kinh tế - xã hội bền vững trong khu vực. Hậu
quả trước mắt là làm mất cân bằng địa động lực vùng bờ gây nên xói lở bờ nghiêm trọng
tại nhiều nơi như đoạn bờ ấp Khu Sáu thuộc thị trấn Vĩnh Châu, đoạn ấp No Pol xã Vĩnh
Tân, phía Nam cửa Trần Đề.
Ngoài ra, tình trạng xây dựng các công trình trái phép lấn chiếm mặt sông làm cản
trở việc thoát lũ, dẫn đến hiện tượng xói lở cục bộ phía sau công trình; tình trạng xây
dựng các tuyến đường giao thông có cao trình vượt lũ năm 2000 và đê bao trong thời
gian qua cũng đã làm giảm lượng nước lũ chảy vào nội đồng, đồng thời làm tăng tốc độ
dòng chảy và lưu lượng lũ vào hai dòng chính gây xói lở bờ sông; xói lở do sóng tạo ra từ
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
9
Đánh giá tác động do bồi lắng, sạt lở, biến động lớn đường bờ và bãi bồi
hoạt động vận tải thủy gây ra, ngoài ra còn nhiều diện tích nuôi thủy sản ở các khu vực
bãi bồi và neo đậu bè cá không đúng qui hoạch, làm co hẹp và chuyển dịch dòng chảy
gây xói lở bờ sông.
Bên cạnh đó, hoạt động khai thác cát sông tại khu vực Cù Lao Dung là một trong
những nguyên nhân tác động trực tiếp đến thay đổi dòng dẫn. Tình trạng khai thác cát ồ

ạt, bừa bãi làm thay đổi dòng chảy và gây ra sạt lở đường bờ, ảnh hưởng đến đời sống
của người dân nơi đây.
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
10
Đánh giá tác động do bồi lắng, sạt lở, biến động lớn đường bờ và bãi bồi
CHƯƠNG II
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG DO BỒI LẮNG SẠT LỞ GÂY BIẾN
ĐỘNG LỚN ĐƯỜNG BỜ VÀ BÃI BỒI TỈNH SÓC TRĂNG
II.1. ĐÁNH GIÁ NHỮNG TÁC ĐỘNG ẢNH HƯỞNG DO BỒI LẮNG, SẠT LỞ
GÂY RA TẠI TỈNH SÓC TRĂNG TRONG THỜI GIAN QUA
II.1.1. Ảnh hưởng xói lở bờ tới môi trường sinh thái
II.1.1.1. Xói lở bờ ảnh hưởng đến da dạng sinh học
Như các nhà khoa học đã kết luận hệ sinh thái ven biển Sóc Trăng khá đa dạng, có
tiềm năng thiên nhiên phong phú với 3 hệ sinh thái khác nhau, đặc biệt là vùng hạ lưu
sông Hậu. Với diện tích rừng hơn 10.000 ha; trong đó bao gồm nhiều quần thể động, thực
vật và thủy hải sản phong phú như: Quần thể khỉ đuôi dài (Macaca fasclularis) hơn 300
cá thể; Rái cá Lông Mượt (Lutra perspicillata) 500 cá thể; Dơi ngựa lớn (Pteropus
-vampyrus) khoảng 15.000 cá thể và các loài chim nước, hệ động vật lưỡng cư, bò
sát.v.v Riêng thảm thực vật rừng được khảo sát trong năm 1996 cho thấy cũng đa dạng
và phong phú không kém với khoảng 20 loài thực vật thuộc 16 họ được ghi nhận. Các
loài phổ biến nhất là Bần Chua (Sonneratia caseolaris), Dừa nước (Nipa frutican), Mắm
trắng (Avicennia alba), Mắm đen (Avicennia offieinalis), Mắm biển (Avicennia maina),
Đước (Rhizophora apiculata)
Tuy nhiên, diện tích rừng ngập mặn tỉnh Sóc Trăng ngày một suy giảm dẫn đến sự
suy giảm về đa dạng sinh học. Tại khu vực đuôi cồn Cù Lao Dung, quần thể dơi ngựa lớn
theo thống kê mới nhất giờ còn không tới 1.000 con do môi trường sinh sống của chúng
đã bị thay đổi nhiều cùng với sự săn bắt của con người. Loài rái cá lông mượt trước đây
sống rất nhiều tại vùng này giờ cũng gần như biến mất. Các cây như dừa nước, cây mắm,
cây đước hiện đang được khôi phục dần.
Công tác phục hồi rừng ở Sóc Trăng đã diễn ra từ năm 1991, vốn khôi phục rừng

do các chương trình tái trồng rừng của nhà nước như chương trình 327, 661; các nguồn
vốn tài trợ của nước ngoài như Hà Lan, Nhật Bản, Ngân hàng thế giới… đã khôi phục
diện tích rừng ngập mặn lên đến 2.357,66 ha, với loài cây chủ yếu là Bần 1.394,4 ha,
Đước 521,12 ha và Mắm trồng hỗn giao 440,14 ha. Kết quả trồng rừng thời gian qua đã
làm cho diện tích rừng vùng ven biển các huyện Vĩnh Châu, Long Phú và Cù Lao Dung
từng bước ổn định và phát huy được tác dụng phòng hộ chắn sóng, gió, bảo vệ đê biển là
nơi sinh sống của nhiều thủy sản có giá trị kinh tế cao như các loài tôm, cá, nhuyễn thể…
Kết quả khôi phục diện tích rừng, nổi bật nhất là trồng được dải rừng Bần chua, chạy dài
từ một phần của xã Vĩnh Hải (Rạch Hồ Lạn), Vĩnh Châu qua huyện Long Phú đến xã An
Thạnh 3, Cù Lao Dung, kéo dài hơn 20 km tạo thành bức tường bảo vệ đê biển khá vững
chắc.
II.1.1.2. Xói lở mất đất canh tác
Hiện tượng xói lở đường bờ đặc biệt là ven biển tỉnh Sóc Trăng xảy ra tương đối
mạnh trong những năm gần đây. Kết quả nghiên cứu của Dự án bảo vệ phát triển các
vùng đất ngập nước ven biển phía Nam đồng bằng sông Cửu Long từ năm 1996 đến nay
tại khu vực ven biển huyện Vĩnh Châu cho thấy: Các xã Vĩnh Tân, xã Lai Hòa, xã Vĩnh
Hải đoạn bờ biển Cống xóm đáy ấp Mỹ Thanh dài 3,5 km, bờ biển bị xói lở với mức độ
bình quân từ 15 đến 40 mét/năm. Cụ thể như tại một đoạn của xã Vĩnh Hải (huyện Vĩnh
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
11
Đánh giá tác động do bồi lắng, sạt lở, biến động lớn đường bờ và bãi bồi
Châu) mỗi năm bị lấn sâu vào bờ từ 8 - 15 mét, một phần ở xã Vĩnh Tân (40 m/năm), xã
Lai Hòa (20 m/năm) Hiện tượng sạt lở này đã gây ra những thiệt hại không nhỏ, tạo ra
những khó khăn trong khâu quy hoạch phát triển công trình ven biển
II.1.2. Ảnh hưởng bồi lắng tới môi trường sinh thái
Hiện tượng bồi lắng và xói lở là hai hiện tượng tất yếu của một dòng chảy. Vì
vậy,có thể nói không có dòng sông hay biển nào là không bồi lắng hoặc bồi xói, không có
một dòng sông nào là ổn định, ổn định chỉ là tương đối… biến hình và xói bồi mới là
tuyệt đối… Có điều hậu quả của bồi lắng và xói lở tác động đến môi trường tự nhiên và
môi trường xã hội như thế nào thì mỗi nơi mỗi lúc một khác. Có thể nói bồi lắng lòng dẫn

sẽ làm:
- Gia tăng diện tích đất sản xuất;
- Cản trở giao thông thủy;
- Giảm năng lực, hiệu quả của các công trình thủy lợi;
- Gây ô nhiễm môi trường, góp phần gây nên dịch bệnh, gây nên thảm họa rất lớn
nếu như bồi lắng xảy ra tại các cửa sông, làm giảm khả năng tiêu thoát nước cho khu vực.
II.1.2.1. Bồi lắng lòng dẫn gia tăng diện tích đất đai ruộng vườn
Bồi lắng xảy ra ở Sóc Trăng chủ yếu tại các khu vực như thuộc huyện Cù Lao
Dung đoạn bờ biển từ cửa Vàm Hồ Lớn chạy xuôi dọc sông Hậu đến cửa Trần Đề, đoạn
bờ biển thuộc huyện Long Phú, đoạn sông Hậu thuộc ấp Đầu Giồng và đoạn bờ biện
thuộc huyện Vĩnh Châu với tốc độ bồi tụ khá lớn từ 10 – 70m/năm. Hiện tượng bồi tụ tại
khu vực đã làm tăng thêm diện tích đất đáng kể phục vụ phát triển trồng trọt và nuôi
trồng thủy sản trong nông nghiệp.
II.1.2.2. Bồi lắng lòng dẫn làm giảm khả năng cấp và tiêu thoát nước, gây ô nhiễm
môi trường
Bồi lắng lòng dẫn, cửa sông, kênh sẽ làm giảm mặt cắt lòng dẫn, giảm khả năng
cấp và tiêu thoát nước, nhất là các cửa sông Mỹ Thanh bồi lắng sẽ khiến cho lòng dẫn bị
hẹp cản trở đến dòng chảy, dẫn đến gia tăng mức độ ô nhiễm nước trong sông rạch nội
đồng và ven biển. Phần lớn diện tích nuôi trồng thủy sản (chủ yếu là nuôi tôm) ở Sóc
Trăng tập trung ở các huyện Long Phú, Vĩnh Châu và Cù Lao Dung khi môi trường bị ô
nhiễm sẽ ảnh hưởng nặng nề đến năng suất sản xuất, do con tôm rất nhạy cảm với môi
trường.
II.2. NHẬN ĐỊNH XU THẾ DIỄN BIẾN SẠT LỞ BỒI LẮNG LÒNG DẪN, DẢI
VEN BIỂN TRONG THỜI GIAN TỚI
II.2.1. Gia tăng quá trình xói lở do ảnh hưởng của việc xây dựng các công trình trữ
nước phía thượng nguồn sông MêKông
Trong thời gian vừa qua, phía thượng nguồn sông MêKông là các nước
Campuchia, Lào và Trung Quốc, đặc biệt là Trung Quốc vừa hoàn thành xong việc xây
dựng đập lưu trữ nước tưới trong địa phận của mình đã làm suy giảm khối lượng nước
sông Mê Kông phía hạ lưu trong đó có Việt Nam.

Như chúng ta đã biết, hệ thống sông rạch của tỉnh Sóc Trăng đều có cửa thông với
sông Hậu, mà sông Hậu là một nhánh của sông MêKông. Do đó, trong thời gian sắp tới
khi mà các đập thủy điện ở Trung Quốc và các hồ chứa ở Thái Lan, Lào, Campuchia đều
đồng loạt được xây dựng thì sẽ làm chậm tốc độ dòng chảy tự nhiên của sông, làm bồi
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
12
Đánh giá tác động do bồi lắng, sạt lở, biến động lớn đường bờ và bãi bồi
lắng một lượng phù sa lớn tại hồ, thay đổi động lực dòng chảy gây xói lở các đoạn sông ở
hạ lưu. Hay nói cách khác, việc xây dựng này sẽ làm xáo trộn chế độ thủy văn ở hạ
nguồn rất lớn. Về số lượng, nguồn nước sẽ ít đi; về chất lượng, nguồn nước sẽ giảm (hay
đói) phù sa; về thời gian, lũ về trễ hơn và suy kiệt nguồn lợi thuỷ sản. Chỉ riêng việc
nước càng về hạ lưu càng đói phù sa sẽ phải lấy phù sa dọc đường đi bằng cách làm xói
lở bờ sông ngày càng nghiêm trọng. Vì thế, sẽ ngày càng có nhiều công trình đô thị xây
dựng dọc sông Tiền, sông Hậu có thể bị sụt lún bất cứ lúc nào.
Ngoài ra, các đập này cũng chắn đường di cư, làm thay đổi chế độ sinh trưởng và
chu trình sinh sản của các loài thủy sản, hủy diệt nhiều loài thủy sinh, tác động mạnh đến
việc sinh kế của nhiều cư dân ven sông Mêkông, đăc biệt là ở vùng ĐBSCL. Việc giảm
đáng kể nguồn nước lũ cùng với sản lượng cá, lượng phù sa trong mùa lũ, sạt lở đất ven
sông Hậu ngày càng nghiêm trọng là minh chứng rõ nét nhất cho những nhận định về tác
hại từ việc xây dựng các đập thủy điện ở thượng nguồn.
Sự mất đi đột ngột một lượng rất lớn nước ngọt, trầm tích và dinh dưỡng đưa ra
dải ven bờ gây ra những hậu quả nghiêm trọng như xói lở bờ biển, xâm nhập mặn, thay
đổi chế độ thủy văn, mất nơi cư trú và bãi giống, bãi đẻ của sinh vật, suy kiệt dinh dưỡng
và giảm sức sản xuất của vùng biển ven bờ, dẫn đến thiệt hại lớn về đa dạng sinh học và
nguồn lợi thủy sản đánh bắt, nuôi trồng đặc biệt là phía hạ lưu trong đó có tỉnh Sóc
Trăng.
II.2.2. Ảnh hưởng do quá trình biến đổi khí hậu (BĐKH) trên toàn cầu
Việt Nam được xem là một trong những nước sẽ bị ảnh hưởng nặng do biến đổi
khí hậu toàn cầu. Theo dự báo thì biến đổi khí hậu sẽ làm cho các trận bão ở Việt Nam
thường xuyên xảy ra hơn với mức độ tàn phá nghiêm trọng hơn. Ðường đi của bão dịch

chuyển về phía nam và mùa bão dịch chuyển vào các tháng cuối năm. Lượng mưa giảm
trong mùa khô (VII - VIII) và tăng trong mùa mưa (IV - XI); mưa lớn thường xuyên hơn
gây lũ đặc biệt lớn và xảy ra thường xuyên hơn ở miền Trung và Nam. Hạn hán xảy ra
hàng năm ở hầu hết các khu vực của cả nước. Nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng
0,10
0
C/thập kỷ; trong một số tháng mùa hè, nhiệt độ tăng khoảng 0,1 - 0,30
0
C/ thập kỷ.
Nhiệt độ tăng và lượng mưa thay đổi sẽ ảnh hưởng đến nền nông nghiệp và nguồn nước.
Mực nước biển có khả năng dâng cao 1m vào cuối thế kỷ, lúc đó Việt Nam sẽ mất hơn
12% diện tích đất đai, nơi cư trú của 23% số dân.
Theo dự báo phân bố dòng chảy, vào các tháng mùa mưa của sông Mekong, sẽ
tăng 41% ở đầu nguồn và 19% ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL); vào các
tháng mùa khô, dòng chảy giảm 24% ở thượng nguồn và 29% ở vùng ĐBSCL, mực nước
lũ có thể đạt cao trình +13,24 xấp xỉ cao trình đỉnh đê hiện nay +13,40. Điều đó nghĩa là,
khả năng lũ trong mùa mưa và cạn kiệt trong mùa khô đều trở nên khắc nghiệt hơn; sẽ có
khoảng 8,4 triệu người Việt Nam thiếu nước ngọt vào năm 2050 (theo dự báo của ADB).
Trong các vùng lãnh thổ của Việt Nam, đồng bằng sông Cửu Long có địa hình
thấp, nhiều nơi cao trình chỉ đạt từ 20 – 30 cm, đường bờ biển dài nên được đánh giá là
khu vực chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và nghiêm trọng nhất. Theo kịch bản nước biển dâng 1
m thì Sóc Trăng sẽ là 1 trong 10 tỉnh đứng đầu về thiệt hại với diện tích bị ngập khoảng
1.425 km
2
, chiếm đến 43,7% diện tích cả tỉnh. Việc này sẽ tác động đến hơn 450.000
người, tương đương 35% tổng dân số của tỉnh.
Mực nước biển dâng lên cùng với cường độ của bão tố sẽ làm thay đổi thành phần
của trầm tích, độ mặn và mức độ ô nhiễm của nước, làm suy thoái và đe dọa sự sống còn
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
13

Đánh giá tác động do bồi lắng, sạt lở, biến động lớn đường bờ và bãi bồi
của rừng ngập mặn ven biển và các loài sinh vật đa dạng trong đó. Tại những vùng mà
BÐKH làm tăng cường độ mưa, chế độ dòng chảy ven bờ thay đổi gây xói lở bờ, giảm
khả năng tiêu tự chảy, diện tích và thời gian ngập úng tăng lên tại nhiều khu vực. Tất cả
những hiện tượng đó đều ảnh hưởng đến các loài sinh vật và tài nguyên sinh vật, làm cho
nhiều hệ sinh thái bị suy thoái, gây khó khăn cho sự phát triển kinh tế và xã hội.
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
14
Đánh giá tác động do bồi lắng, sạt lở, biến động lớn đường bờ và bãi bồi
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Vai trò của môi trường vùng đường bờ, bãi bồi trong sự phát triển của tỉnh Sóc
Trăng rất quan trọng, địa hình bãi bồi khá thoải và nằm bằng phẳng, khu vực cửa sông có
địa hình khá phức tạp, thay đổi theo mùa do tương tác động lực sông biển, có nhiều cồn
và doi cát ngầm đang xen với luồng lạch.
Tuy là một tỉnh nằm ngoài vùng chịu ảnh hưởng chính của bão nhưng vùng biển
thường bị ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới, bão. Tác động bởi các yếu tố tự nhiên như
cấu tạo vùng bờ, hướng đường bờ, tác động của gió, thủy triều, dòng chảy dọc bờ, sóng
(trong bão) ảnh hưởng đến các quá trình bồi tụ, xói lở, biến động lớn đường bờ và bãi
bồi. Những năm qua tại tỉnh Sóc Trăng đã xảy ra nhiều điểm sạt lở, bồi lắng lòng dẫn tại
hệ thống sông Sóc Trăng. Những tác động do các quá trình trên đến đời sống người dân
là rất lớn, tình trạng sạt lở ngày càng đe dọa tới tính mạng người dân sống tại các khu vực
có nguy cơ sạt lở cao. Do đó, cần có những giải pháp nhằm hạn chế được phần nào tác
động của các yếu tố tự nhiên, giảm đến mức thấp nhất tình trạng bồi lắng và sạt lở, biến
động đường bờ. Song song với việc động viên sự tham gia của cộng đồng trong công tác
phòng chống khi có thiên tai và sự cố sảy ra.
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
15
Đánh giá tác động do bồi lắng, sạt lở, biến động lớn đường bờ và bãi bồi
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo Đánh giá điều kiện tự nhiên - Kinh tế xã hội tác động đến sử dụng đất

bãi bồi ven biển tỉnh Sóc Trăng - Tổng cục biển và hải đảo – năm 2009.
2. Báo cáo tổng hợp Quy hoạch sử dụng đất bãi bồi ven biển tỉnh Sóc Trăng giai
đoạn 2010 - 2020 và định hướng đến 2030 - Tổng cục biển và hải đảo – năm
2009.
3. Báo cáo thuyết minh tổng hợp “Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch
sử dụng đất 5 năm ký đầu (2011-2015) – UBND tỉnh Sóc Trăng – năm 2010.
4. Báo cáo Quy hoạch bố trí dân cư nông thôn tỉnh Sóc Trăng, giai đoạn 2006 -
2010 và định hướng đến năm 2015 - Sở NN&PTNT - Năm 2007.
5. Báo cáo tình hình thực hiện công tác quản lý và bảo vệ môi trường năm 2009 -
Sở TNMT - Năm 2009.
6. Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2009 và kế hoạch nhiệm vụ
công tác năm 2010 ngành Tài nguyên và Môi trường Sóc Trăng - Sở TNMT -
Năm 2009.
7. Dự án rà soát bổ sung điều chỉnh quy hoạch cấp nước sạch và VSMT nông thôn
tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 2008 - 2010 và định hướng đến năm 2020 - Sở
NN&PTNT - Năm 2009.
8. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 tỉnh Sóc Trăng - UBND
tỉnh - Năm 2009
TRUNG TÂM KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG (CEE)
16

×