Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

BÀI SỐ 1 tìm hiểu về vấn đề thực hiện pháp luật,vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.46 KB, 14 trang )

Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 1
1.Lý do và mục đích viết ểu luận 1
2.Mục đích nghiên cứu 1
3.Phương pháp nghiên cứu 2
NỘI DUNG 3
I.TÌM HIỂU VỀ PHÁP LUẬT 3
1.Khái niệm 3
2.Nguồn gốc và bản chất của pháp luật 3
2.Vai trò của pháp luật 4
II.TÌM HIỂU VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT 5
1.Khái niệm về thực hiện pháp luật 5
2.Các hình thức thực hiện pháp luật: 5
III. TÌM HIỂU VỀ CÁC HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT 6
1.Khái niệm về các hành vi vi phạm pháp luật 6
2.Các dấu hiệu của vi phạm pháp luật 6
3. Cấu thành của vi phạm pháp luật 7
IV. TÌM HIỂU VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ 10
1.Khái niệm trách nhiệm pháp lý 10
2.Đặc điểm trách nhiệm pháp lý 10
3.Trách nhiệm pháp lý của chủ thể vi phạm pháp luật 10
4.Phân loại trách nhiệm pháp lý 10
KẾT LUẬN 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 13
GVHD: LỚP:
SVTH:
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
MỞ ĐẦU
1.Lý do và mục đích viết tiểu luận


Nhà nước và pháp luật là những bộ phận của thượng tầng kiến trúc có quan
hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau, tồn tại không thể thiếu nhau. Vấn đề
nhà nước và pháp luật được rất nhiều nghành khoa học xã hội nghiên cứu như
triết học, kinh tế chính trị chủ nghĩa xã hội học sử học, hành chính học … ngoài
ra còn là các đối tượng nguyên cứu cơ bản của các nghành khoa học pháp lý như
lịch sử nhà nước và pháp luật, các khoa học pháp lý chuyên nghành, các khoa
học pháp lý ứng dụng.
Chúng ta đã biết vai trò quan trọng đặc biệt của pháp luật đối với sự duy trì
kỉ cương của nhà nước và trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng
cường vai trò của pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó
không chỉ nhằm mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh,
mà còn hướng đến bảo vệ và phát triển các giá trị chân chính, trong đó có ý thức
đạo đức. Để nâng cao vai trò và phát triển ý thức đạo đức, ngoài các biện pháp
tích cực khác, thì không thể thiếu vai trò của pháp luật và ý thức pháp quyển.
Pháp luật càng chặt chẽ, càng đầy đủ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức
càng được đề cao, khả năng điều chỉnh và giáo dục của đạo đức càng được mở
rộng và ảnh hưởng một cách toàn diện, tích cực đến mọi hành vi, mọi mối quan
hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội.
Để có thêm kiến thức về pháp luật , pháp lý nói riêng và môn học “ Pháp
luật đại cương” em chọn đề tài : “tìm hiểu về vấn đề thực hiện pháp luật, vi
phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý”. Làm nhiệm vụ cho bài tiểu luận của
mình.
2.Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu về pháp luật của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
- Vấn đề vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý hiện nay
GVHD: LỚP:
SVTH: Trang
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
3.Phương pháp nghiên cứu

- Phân tích tổng hợp
- Quy nạp diễn dịch
- Lô gic lịch sử
GVHD: LỚP:
SVTH: Trang
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
NỘI DUNG
I.TÌM HIỂU VỀ PHÁP LUẬT
1.Khái niệm
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, là công cụ điều chỉnh các quan hệ
xã hội do Nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền và được
thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.
Pháp luật còn là một bộ phận quan trọng của cấu trúc thượng tầng xã hội. Nó
do cơ sở hạ tầng quyết định, nhưng có tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng.
Nếu pháp luật phản ánh đúng đắn các quy luật vận động và phát triển của xã hội,
nhất là các quy luật kinh tế thì pháp luật sẽ có tác động tích cực đối với phát
triển kinh tế - xã hội. Ngược lại, pháp luật sẽ kìm hãm sự phát triển đó.
Theo Lênin, “một đạo luật là một biện pháp chính trị”. Trong lịch sử, bất cứ
giai cấp cầm quyền nào cũng dựa vào pháp luật để thể hiện và thực hiện chính
trị của giai cấp mình. Pháp luật trở thành hình thức thể hiện tập trung, trực tiếp
chính trị của giai cấp cầm quyền, là một công cụ sắc bén thể hiện quyền lực của
Nhà nước thực hiện những yêu cầu, mục đích, nội dung chính trị của nó. Do đó,
Nhà nước nào, pháp luật ấy. Những thuộc tính cơ bản của pháp luật là tính quy
phạm, tính cưỡng chế, tính khách quan, tính Nhà nước, tính hệ thống và tương
đối ổn định.
2.Nguồn gốc và bản chất của pháp luật
a. Nguồn gốc
Theo học thuyết Mác-Lênin, nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng lịch
sử cơ bản nhất của đời sống chính trị xã hội, là hai người bạn đồng hành có số
phận lịch sử như nhau cùng xuất hiện, cùng tồn tại và phát triển và cùng tiêu

vong khi nhân loại đã tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
Những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước cũng chính là những
nguyên nhân làm xuất hiện pháp luật: một là sự phát triển của nền kinh tế trong
xã hội nguyênthủy từ chỗ vô cùng thấp kém, lạc hậu và chế độ sở hữu chung đến
chỗ dần dần có của cải dư thừa và xuất hiện chế độ chiếm hữu tư nhân (tư hữu)
GVHD: LỚP:
SVTH: Trang
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
về tư liệu sản xuất và của cải làm ra; hai là, sự phân hóa xã hội thành những tầng
lớp, giai cấp có lợi ích đối kháng nhau và mâu thuẫn giai cấp, đấu tranh giai cấp
phát triển đến mức không thể điều hòa được.
b. Bản chất
Cũng giống như bản chất của nhà nước, bản chất của pháp luật thể hiện trước
hết ở tính giai cấp. Tính giai cấp của pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai
cấp thống trị trong xã hội, nội dung ý chí đó được quy định bởi điều kiện sinh
hoạt vật chất của giai cấp thống trị. Ý chí của giai cấp thống trị được cụ thể hóa
trong các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Tính
giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội,
pháp luật là yếu tố điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội nhằm định
hướng cho các quan hệ xã hội phát triển theo một mục tiêu, một trật tự phù hợp
với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ và củng cố địa vị của giai cấp thống trị.
Với ý nghĩa đó pháp luật chính là công cụ thể hiện sự thống trị của giai cấp.
Bên cạnh tính giai cấp, không thể coi nhẹ giá trị xã hội to lớn của pháp
luật vì trong cuộc sống hàng ngày các cá nhân và tổ chức có mối quan hệ với
nhau rất đa dạng được thể hiện qua những hành vi xử sự khác nhau. Xã hội
thông qua nhà nước ghi nhận những cách xử sự hợp lý, khách quan được số
đông chấp nhận phù hợp với lợi ích của số đông trong xã hội, cách xử sự này
được nhà nước thể chế hóa thành những quy phạm pháp luật. Giá trị xã hội của
pháp luật còn được thể hiện ở chỗ một quy phạm pháp luật vừa là thước đo của
hành vi con người vừa là công cụ kiểm nghiệm các quá trình, các hiện tượng xã

hội, là công cụ để nhận thức xã hội và điều chỉnh các quá trình xã hội.Ngoài ra
pháp luật còn có tính dân tộc, tính mở.
2.Vai trò của pháp luật
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là
phương tiện không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của
xã hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công
cụ quản lý Nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát
GVHD: LỚP:
SVTH: Trang
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hoá đời sống xã hội và góp phần bồi
đắp nên những giá trị mới.
- Là công cụ quản lý của nhà nước
- Là phương tiện bảo vệ quyền lợi của công dân
- Là cơ sở hoàn thiện bộ máy nhà nước
- Là cơ sở hoàn thiện quan hệ đối ngoại
II.TÌM HIỂU VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
1.Khái niệm về thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những
quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi hợp pháp của
các cá nhân, tổ chức.
Thực hiện pháp luật đối tượng là tất cả tổ chức và công dân có nghĩa vụ
phải thực hiện pháp luật. Cơ quan công quyền là người thực thi pháp luật ( Pháp
chế), Thực thi pháp luật là thực hiện và thi hành pháp luật nó có mối liên hệ hữu
cơ với nhau. Có thi hành pháp luật nghiêm minh là mọi đối tượng điều chỉnh của
pháp luật nếu vi phạm đều phải chịu sự chế tài của cơ quan có thẩm quyền. Thực
hiện pháp luật là đưa pháp luật đến với mọi công dân, công dân có nghĩa vụ
chấp hành luật pháp của nhà nước ban hành, các cơ quan tư pháp , hành pháp kể
cả lập pháp có trách nhiệm tuyên truyền và thực thi pháp luật, xét xử người vi
phạm đúng đối tượng, đúng luật định.

2.Các hình thức thực hiện pháp luật:
Các hình thức thực hiện pháp luật là: tuân thủ pháp luật,thi hành pháp
luật,sử dụng pháp luật,áp dụng pháp luật.
- Tuân thủ pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật,trong đó chủ thể
pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn
cấm.Vd:không buôn bán chất ma túy.
-Thi hành pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật,trong đó chủ thể pháp
luật phải thực hiện những hành vi nhất định nhằm thi hành các nghĩa vụ pháp lý
của mình bằng hành động tích cực.vd:người kinh doanh phải có nghĩa vụ đóng
thuế cho nhà nước.
GVHD: LỚP:
SVTH: Trang
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
-Sử dụng pháp luật ,là hình thức thực hiện pháp luật trong đó chủ thể pháp
luật phải thực hiện quyền chủ thể của mình.Vd:cán bộ có thẩm quyền cấp đất sai
đối tượng khi phát hiện cần phải thực hiện quyền khiếu nại tố cáo để người có
thẩm quyền cấp đất sai ấy phải thực hiện đúng nghĩa vụ của họ.
-Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật,trong đó nhà nước
thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ
thể pháp luật thực hiện những qui định của pháp luật.Vd: cơ quan có thẩm quyền
ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với chủ thể đã có hành vi vi phạm
hành chính.
III. TÌM HIỂU VỀ CÁC HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT
1.Khái niệm về các hành vi vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luạt là hành vi trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng
lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ.
2.Các dấu hiệu của vi phạm pháp luật
-Vi phạm pháp luật phải là hành vi xác định của con người, tức là xử sự
thực tế, cụ thể của cá nhân hoặc tổ chức nhất định, bởi vì pháp luật được ban

hành để điều chỉnh hành vi của các chủ thể mà không điều chỉnh suy nghĩ của
họ. Mác đã từng nói: ngoài hành vi của tôi ra, tôi khòng tồn tại đối với pháp luật,
không phải là đối tượng của nó. Vì vậy, phải căn cứ vào hành vi thực tế của các
chủ thể mới có thể xác định được là họ thực hiện pháp luật hay vi phạm pháp
luật. Hành vi xác định này có thể được thực hiện bằng hành động (ví dụ: đi xe
máy vượt đèn đỏ khi tham gia giao thông) hoặc bằng không hành động (ví dụ:
trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế).
- Vi phạm pháp luật phải là hành vi trái pháp luật, tức là xử sự trái với các
yêu cầu của pháp luật. Hành vi này được thể hiện dưới các hình thức sau:
+ Chủ thể thực hiện những hành vi bị pháp luật cấm. Ví dụ: đi xe máy
vào đường ngược chiều…
GVHD: LỚP:
SVTH: Trang
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
+ Chủ thể không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật bắt buộc phải
thực hiện. Ví dụ: trốn tránh nghĩa vụ phụng dưỡng ông bà, cha mẹ…
+ Chủ thể sử dụng quyền hạn vượt quá giới hạn cho phép. Ví dụ: trưởng
thôn bán đất công cho một số cá nhân nhất định…
- Vi phạm pháp luật phải là hành vi của chủ thể có năng lực trách nhiệm
pháp lý, vì hành vi có tính chất trái pháp luật nhưng của chủ thể không có năng
lực trách nhiệm pháp lý thì không bị coi là vi phạm pháp luật. Năng lực trách
nhiệm pháp lý của chủ thể là khả năng mà pháp luật quy định cho chủ thể phải
chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Theo quy định của pháp luật, chủ thể là
cá nhân sẽ có năng lực này khi đạt đến một độ tuổi nhất định và trí tuệ phát triển
bình thường. Đó là độ tuổi mà sự phát triển về trí lực và thể lực đã cho phép chủ
thể nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó gây ra cho xã
hội nên phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Chủ thể là tổ chức sẽ có khả
năng này khi được thành lập hoặc được công nhận.
- Vi phạm pháp luật phải là hành vi có lỗi của chủ thể, tức là khi thực hiện
hành vi trái pháp luật, chủ thể có thể nhận thức được hành vi của mình và hậu

quả của hành vi đó, đồng thời điều khiển được hành vi của mình. Như vậy, chỉ
những hành vi trái pháp luật mà có lỗi của chủ thể thì mới bị coi là vi phạm pháp
luật. Còn trong trường hợp chủ thể thực hiện một xử sự có tính chất trái pháp
luật nhưng chủ thể không nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành
vi đó gây ra cho xã hội hoặc nhận thức được hành vi và hậu quả của hành vi của
mình nhưng không điều khiển được hành vi của mình thì không bị coi là có lỗi
và không phải là vi phạm pháp luật.
3. Cấu thành của vi phạm pháp luật
Cấu thành vi phạm pháp luật là những dấu hiệu đặc trưng của một vi
phạm pháp luật cụ thể. Vi phạm pháp luật bao gồm 4 yếu tố cấu thành là mặt
khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể.
a. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật:
GVHD: LỚP:
SVTH: Trang
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
Là những dấu hiệu biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan của vi phạm
pháp luật. Nó bao gồm các yếu tố: hành vi trái pháp luật, hậu quả nguy hiểm cho
xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội,
thời gian, địa điểm, phương tiện vi phạm.
- Hành vi trái pháp luật hay còn gọi là hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành
vi trái với các yêu cầu của pháp luật, nó gây ra hoặc đe doạ gây ra những hậu
quả nguy hiểm cho xã hội.
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: là những thiệt hại về người và của hoặc
những thiệt hại phi vật chất khác do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã hội.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội tức là
giữa chúng phải có mối quan hệ nội tại và tất yếu với nhau. Hành vi đã chứa
đựng mầm mống gây ra hậu quả hoặc là nguyên nhân trực tiếp của hậu quả nên
nó phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian; còn hậu quả phải là kết quả tất
yếu của chính hành vi đó mà không phải là của một nguyên nhân khác.
- Thời gian vi phạm pháp luật là giờ, ngày, tháng, năm xảy ra vi phạm pháp

luật.
- Địa điểm vi phạm pháp luật là nơi xảy ra vi phạm pháp luật.
- Phương tiện vi phạm pháp luật là công cụ mà chủ thể sử dụng để thực hiện
hành vi trái pháp luật của mình.
Khi xem xét mặt khách quan của vi phạm pháp luật thì hành vi trái pháp luật
luôn luôn là yếu tố bắt buộc phải xác định trong cấu thành của mọi vi phạm
pháp luật, còn các yếu tố khác có bắt buộc phải xác định hay không là tuỳ từng
trường hợp vi phạm. Có trường hợp hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng là yếu tố bắt
buộc phải xác định, có trường hợp địa điểm vi phạm cũng là yếu tố bắt buộc
phải xác định.
b. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là:
Trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp
luật. Nó bao gồm các yếu tố: lỗi, động cơ, mục đích vi phạm pháp luật.
GVHD: LỚP:
SVTH: Trang
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
- Lỗi là trạng thái tâm lý hay thái độ của chủ thể đối với hành vi của mình
và đối với hậu quả của hành vi đó gây ra cho xã hội được thể hiện dưới hai hình
thức: cố ý hoặc vô ý.
Lỗi gồm 2 loại: cố ý và vô ý.
Lỗi cố ý lại gồm 2 loại: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp.
+ Cố ý trực tiếp là lỗi của một chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật
nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của
hành vi đó và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
+ Cố ý gián tiếp là lỗi của một chủ thể khi thực hiện một hành vi trái pháp
luật nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của
hành vi đó, tuy không mong muốn song có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Lỗi vô ý cũng gồm 2 loại: vô ý vì cẩu thả và vô ý vì quá tự tin.
+ Vô ý vì cẩu thả là lỗi của một chủ thể đã gây ra hậu quả nguy hại cho xã

hội nhưng do cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu
quả đó, mặc dù có thể thấy trước và phải thấy trước hậu quả này.
+ Vô ý vì quá tự tin là lỗi của một chủ thể tuy thấy trước hành vi của mình có
thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội song tin chắc rằng hậu quả đó sẽ không
xảy ra hoặc cỏ thể ngăn ngừa được nên mới thực hiện và có thể gây ra hậu quả
nguy hiểm cho xã hội.
1. Động cơ vi phạm pháp luật là động lực tâm lý bên trong thúc đẩy chủ thể
thực hiện hành vi trái pháp luật.
2. Mục đích vi phạm pháp luật là cái đích trong tâm lý hay kết quả cuối cùng
mà chủ thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi trái pháp luật.
Chủ thể của vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm
pháp lý và đã thực hiện hành vi trái pháp luật.
Khách thể của vi phạm pháp luật là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ
nhưng bị hành vi trái pháp luật xâm hại tới.
GVHD: LỚP:
SVTH: Trang
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
IV. TÌM HIỂU VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
1.Khái niệm trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý là hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ thể phải gánh chịu
thể hiện qua việc họ phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế nhà nước được
quy định trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật khi họ vi phạm pháp
luật hoặc khi có thiệt hại xảy ra do những nguyên nhân khác được pháp luật quy
định.
2.Đặc điểm trách nhiệm pháp lý
Trách nhiệm pháp lý là loại trách nhiệm do pháp luật quy định. Đây là
điểm khác biệt cơ bản giữa trách nhiệm pháp lý với các loại trách nhiệm xã
hội khác như trách nhiệm đạo đức, trách nhiệm tôn giáo, trách nhiệm chính
trị…
Trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với các biện pháp cưỡng chế nhà nước

được quy định trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật. Đây là điểm khác
biệt giữa trách nhiệm pháp lý với các biện pháp cưỡng chế khác của nhà nước
như bắt buộc chữa bệnh, giải phóng mặt bằng…
Trách nhiệm pháp lý luôn là hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ thể phải
gánh chịu thể hiện qua việc chủ thể phải chịu những sự thiệt hại nhất định về tài
sản, về nhân thân, về tự do… mà phần chế tài của các quy phạm pháp luật đã
quy định.
Trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có vi phạm pháp luật hoặc có thiệt hại
xảy ra do những nguyên nhân khác được pháp luật quy định.
3.Trách nhiệm pháp lý của chủ thể vi phạm pháp luật
Trách nhiệm pháp lý của chủ thể vi phạm pháp luật là hậu quả pháp lý bất lợi
đối với chủ thể vi phạm pháp luật thể hiện qua việc họ phải gánh chịu những
biện pháp cưỡng chế nhà nước đã được quy định trong phần chế tài của các quy
phạm pháp luật vì sự vi phạm pháp luật của họ.
4.Phân loại trách nhiệm pháp lý
Dựa vào tính chất của trách nhiệm pháp lý có thể chia chúng thành các loại
GVHD: LỚP:
SVTH: Trang
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
sau:
-Trách nhiệm hình sự: là trách nhiệm của một người đã thực hiện một tội
phạm, phải chịu một biện pháp cưỡng chế nhà nước là hình phạt vì việc phạm
tội của họ. Hình phạt này do toà án quyết định trên cơ sở của luật hình, nó thể
hiện sự lên án, sự trừng phạt của nhà nước đối với người phạm tội và là một
trong những biện pháp để bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh.
Đây là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất.
- Trách nhiệm hành chính: là trách nhiệm của một cơ quan, tổ chức hoặc cá
nhân đã thực hiện một vi phạm hành chính, phải gánh chịu một biện pháp cưỡng
chế hành chính tuỳ theo mức độ vi phạm của họ. Biện pháp cưỡng chế này do
một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền quyết định trên cơ sở pháp

luật về xử lý vi phạm hành chính.
- Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm của một chủ thể phải gánh chịu những
biện pháp cưỡng chế nhà nước nhất định khi xâm phạm đến tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp
của chủ thể khác hoặc khi vi phạm nghĩa vụ dân sự đối với bên có quyền. Biện
pháp cưỡng chế phổ biến đi kèm trách nhiệm này là bồi thường thiệt hại.
- Trách nhiệm kỷ luật là trách nhiệm của một chủ thể (cá nhân hoặc tập thể)
đã vi phạm kỷ luật lao động, học tập, công tác hoặc phục vụ được đề ra trong nội
bộ cơ quan, tổ chức và phải chịu một hình thức kỷ kuật nhất định theo quy định
của pháp luật.
- Trách nhiệm vật chất là trách nhiệm mà người lao động phải gánh chịu khi
gây ra thiệt hại cho tài sản của doanh nghiệp (như làm hư hỏng hoặc làm mất
dụng cụ, thiết bị, các tài sản khác do doanh nghiệp, giao cho hoặc tiêu hao vật tư
quá định mức cho phép) hoặc công chức phải gánh chịu vì trong khi thi hành
công vụ gây ra thiệt hại cho tài sản của nhà nước hoặc của chủ thể khác. Người
lao động hoặc công chức phải bồi thường một phần hoặc toàn bộ thiệt hại theo
thời giá thị trường và có thể được bồi thường bằng cách trừ dần vào lương hàng
tháng.
GVHD: LỚP:
SVTH: Trang
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
KẾT LUẬN
Trong xã hội cộng sản không còn đối kháng giai cấp, Nhà nước là người đại
điện cho nhân dân lao động. Cho nên, hoạt động của Nhà nước và hệ thống pháp
luật tự thân đã bao hàm trong đó ý nghĩa đạo đức. Trên phương diện lý luận
cũng như thực tiễn, pháp luật luôn có vai trò bảo vệ các giá trị chân chính, bảo
vệ các quyền lợi chính đáng của con người, đồng thời, tạo điều kiện cho con
người phát huy những năng lực thực tiễn của mình. Việc thực thi pháp luật cũng
đồng nghĩa với việc đảm bảo trên thực tế các quyền thiêng liêng của con người,
sự tôn trọng các giá trị xã hội. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thể hiện đúng

đắn ý chí và nguyện vọng của số đông, phù hợp với xu thế vận động của lịch sử
sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Do đó, pháp luật cũng đóng
vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ nền đạo đức của xã hội. Có thể nói,
pháp luật là phương tiện không thể thiếu được cho sự tồn tái bình thường của xã
hội nói chung và nền đạo đức nói riêng. Bởi lẽ, "pháp luật bao giờ cũng là một
trong những biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức và biến nó thành
thói quen. Chuẩn mực càng khó khẳng định bao nhiêu thì vai trò của pháp luật
càng quan trọng bấy nhiêu.
Qua bài tiểu luận, với những kiến thức học tập ở nhà trường do cô
………………… dạy và những thông tin kiến thức mà em tìm hiểu thêm qua
các tài liệu tham khảo đã giúp em hiểu thêm được nhiều vấn đê về pháp, hiểu
thêm về các hành vi vi phạm pháp luật, từ đó có được cai nhìn nhận ở cuộc sống
và tạo cho mình một cách sống lành mạnh, thực hiện đúng quy phạm pháp luật.
Em xin chân thành cảm ơn cô …………………… đã nhiệt tình dạy em cho
em những kiến thức.
Em Xin chân thành cảm ơn !
GVHD: LỚP:
SVTH: Trang
Trường đại học công nghiệp TP. Hồ Chí Minh
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình pháp luật đại cương
2. Bài giảng pháp luật đại cương trường đại học luật Hà Nội
3. Treng web tailieu.vn
4. Diễn đàn sinh viên trường luật
GVHD: LỚP:
SVTH: Trang

×