Tải bản đầy đủ (.doc) (192 trang)

phòng ngừa, điều tra tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (618.61 KB, 192 trang )

Mở ĐầU
1. TíNH CấP THIếT CủA Đề TàI luận văn
Phòng ngừa, điều tra tội phạm do người chưa thành niên gây ra là một
vấn đề vừa mang tính pháp lý, vừa mang tính nhân văn. Điều 36 Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 15- 6- 2004 quy định: “Việc xử lý trẻ em có hành
vi vi phạm pháp luật chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ trẻ em nhận thấy sai
lầm, sửa chữa sai lầm và tiến bộ”.
Ngày 23 tháng 12 năm 1999, Chính phủ đã phê duyệt Chương trình
quốc gia phòng chống tội phạm gồm 4 đề án, trong đó Đề án 4 “Đấu tranh
phòng chống tội phạm xâm hại trẻ em và tội phạm trong lứa tuổi vị thành
niên” được các ngành, các cấp và các địa phương trong cả nước tổ chức thực
hiện và đã đạt được những kết quả khả quan nhất định. Tuy nhiên, ở một số
địa phương, tình trạng người chưa thành niên vi phạm pháp luật hình sự vẫn
còn diễn ra phức tạp.
Một trong những địa phương có tình trạng phức tạp đó là tỉnh Bình
Dương. Từ năm 2002 đến hết quý II năm 2007, toàn tỉnh Bình Dương xảy ra
512 vụ người chưa thành niên phạm tội với tổng số 688 đối tượng. Đáng chú
ý là số vụ người chưa thành niên phạm tội xảy ra hàng năm chiếm gần 10%
tổng số án xảy ra trong toàn tỉnh và tỉ lệ người chưa thành niên phạm tội ở
tỉnh Bình Dương chiếm khoảng 3,6% của cả nước. Số vụ, số đối tượng là
người chưa thành niên phạm tội có xu hướng tăng bình quân gần 200% trong
5,5 năm qua; tính chất hành vi phạm tội, phương thức thủ đoạn và hậu quả
gây ra ngày càng nghiêm trọng, mang đậm tính chất bạo lực. Điển hình trong
đó, tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên gây ra trên địa
bàn tỉnh Bình Dương tính từ năm 2002 đến hết quí II năm 2007 là 48 vụ
(chiếm 9,4% tổng số vụ phạm tội do người chưa thành niên gây ra) với 80 đối
1
tượng. Hầu hết các vụ cố ý gây thương tích do người chưa thành niên gây ra
đều gắn với những hành vi phạm tội khác (gây rối trật tự công cộng, trộm cắp
tài sản, sử dụng trái phép chất ma tuý ). Các đối tượng có xu hướng đồng


phạm khi thực hiện hành vi phạm tội; việc tụ tập băng nhóm những đối tượng
hư hỏng, càn quấy để thực hiện hành vi phạm pháp, trong đó có hành vi phạm
tội cố ý gây thương tích đang trở nên phổ biến và đáng báo động.
Công an tỉnh Bình Dương đã lập Kế hoạch số 186/2000-KH ngày 13
tháng 6 năm 2000 và UBND tỉnh Bình Dương đã có Đề án số 02/BCĐ-UB
ngày 14 tháng 5 năm 2001 triển khai thực hiện Đề án 4 Chương trình quốc gia
phòng chống tội phạm. Ban chỉ đạo đề án đã huy động sức mạnh của các
ngành, các cấp của tỉnh thực hiện mục tiêu kéo giảm tỉ lệ tội phạm xâm hại trẻ
em và tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên đến năm 2005 xuống 5% -10%
so với năm 2000. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhưng thực tế đang cho thấy tỉ lệ
người chưa thành niên phạm tội nói chung, phạm tội cố ý gây thương tích nói
riêng không những không được kéo giảm mà còn tăng lên vì nhiều nguyên
nhân khách quan, chủ quan.
Nghiên cứu tình trạng và những đặc điểm của tội phạm cố ý gây
thương tích do người chưa thành niên gây ra và thực trạng công tác phòng
ngừa, điều tra của lực lượng Công an cũng như các chủ thể khác có trách
nhiệm trên địa bàn tỉnh Bình Dương, tìm ra những nguyên nhân của nó từ đó
đề xuất những giải pháp phòng ngừa, điều tra tốt hơn đang thực sự cấp thiết.
Vì vậy, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Phòng ngừa, điều tra tội phạm cố
ý gây thương tích do người chưa thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Bình
Dương” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. TìNH HìNH NGHIÊN CứU về đề tài luận văn
Nghiên cứu tình trạng người chưa thành niên phạm pháp, phạm tội ở
nước ta trong thời gian qua đã có một số công trình của các nhà khoa học
2
trong và ngoài nước thực hiện như: Giáo trình “Cảnh sát nhân dân làm việc
với trẻ em làm trái pháp luật” của Trường Đại học CSND (nay là Học viện
CSND) hợp tác với tổ chức Radda Barnen (tổ chức cứu trợ trẻ em của Thuỵ
Điển) xuất bản năm 2000; tác phẩm “Phòng ngừa thanh, thiếu niên phạm tội
- Trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội” do GS.TS Nguyễn Xuân

Yêm chủ biên (NXB Công an nhân dân xuất bản năm 2004); Luận án Tiến sĩ
luật học: “Hoạt động của lực lượng CSND trong phòng ngừa người chưa
thành niên phạm tội trong tình hình hiện nay” của nghiên cứu sinh Đỗ Bá Cở,
Học viện CSND, năm 2000 Các công trình khoa học đó đã đề cập đến
những vấn đề chung về lý luận hoặc thống kê trên phạm vi quốc gia về tình
trạng trẻ em (người dưới 16 tuổi) hoặc thanh, thiếu niên (rộng hơn đối tượng
là người chưa thành niên) phạm pháp, phạm tội, hoặc chỉ đề cập đến công tác
phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội. Ngoài ra, có một số luận văn
thạc sĩ, công trình nghiên cứu khác về người chưa thành niên nhưng cũng
chưa phải dưới góc độ của ngành Công an và ở tỉnh Bình Dương.
Đối với tỉnh Bình Dương, ngoài các báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên
đề về người chưa thành niên phạm tội của Ban chủ nhiệm Đề án 4 Chương
trình quốc gia phòng chống tội phạm và một số báo cáo của các Sở, Ban,
Ngành về những vấn đề liên quan thì chưa có công trình khoa học nào nghiên
cứu một cách toàn diện về vấn đề tội phạm cố ý gây thương tích do người
chưa thành niên gây ra, đánh giá nguyên nhân của vấn đề đó từ nhiều khía
cạnh làm cơ sở đề xuất các giải pháp phòng ngừa, điều tra một cách hiệu quả
trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới.
3. MụC TIÊU Và NHIệM Vụ NGHIÊN CứU
- Mục tiêu nghiên cứu: Làm rõ những tồn tại, thiếu sót và nguyên
nhân trong hoạt động phòng ngừa, điều tra tội phạm cố ý gây thương tích do
người chưa thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Trên cơ sở đó
3
đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa, điều tra loại tội phạm
này trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu trên, đề tài đi sâu giải
quyết các nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến hoạt động phòng
ngừa, điều tra tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên gây ra
làm cơ sở lý luận để giải quyết những nội dung khác của đề tài.

+ Nghiên cứu đặc điểm địa lý, dân cư, kinh tế xã hội, tình hình phạm
pháp hình sự và tệ nạn xã hội trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ năm 2002 đến
2006.
+ Làm rõ tình hình, đặc điểm tội phạm cố ý gây thương tích do
người chưa thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
+ Làm rõ nguyên nhân, điều kiện của tình hình, đặc điểm đó.
+ Nghiên cứu thực trạng hoạt động phòng ngừa, điều tra tội
phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên gây ra của lực lượng
Công an và các chủ thể có liên quan của tỉnh Bình Dương từ năm 2002 đến
2006.
+ Dự báo tình hình tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa
thành niên gây ra và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa, điều tra
loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong những năm tới.
4. ĐốI TƯợNG Và PHạM VI NGHIÊN CứU
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động phòng ngừa, điều tra
tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên gây ra.
+ Thực tiễn hoạt động phòng ngừa, điều tra tội phạm cố ý gây thương
tích do người chưa thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
4
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu phòng ngừa, điều tra tội
phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh
Bình Dương từ năm 2002 đến tháng 6/2007.
5. PHƯƠNG PHáP NGHIÊN CứU
- Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phép
biện chứng duy vật của triết học Mác - Lênin; của lý luận khoa học luật, khoa
học điều tra hình sự, tâm lý học và tội phạm học; các quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu.

+ Phương pháp thống kê, tổng kết.
+ Phương pháp điều tra xã hội học.
+ Phương pháp điều tra điển hình.
+ Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp.
+ Phương pháp tọa đàm, lấy ý kiến chuyên gia.
6. ý NGHĩA THựC TIễN Và Lý LUậN CủA VIệC NGHIÊN CứU
+ Việc nghiên cứu đề tài nhằm đề xuất những giải pháp, kiến nghị nâng
cao hiệu quả phòng ngừa, điều tra tội phạm cố ý gây thương tích do người
chưa thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Những đề xuất, kiến
nghị của đề tài có thể được tham khảo, chọn lọc vận dụng vào thực tiễn chỉ
đạo và tổ chức hoạt động của lực lượng Công an và các chủ thể khác có liên
quan của tỉnh Bình Dương.
+ Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn được dùng làm tài liệu phục
vụ cho quá trình nghiên cứu, tham khảo trong giảng dạy và học tập các môn
tội phạm học và nghiệp vụ trinh sát, điều tra tại các trường CSND.
7. ĐIểM MớI CủA LUậN VĂN
5
Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tác giả, không trùng lắp
với bất cứ công trình nào. Tác giả nghiên cứu tình hình, đặc điểm người chưa
thành niên phạm tội cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Bình Dương gắn
liền với những đặc điểm cụ thể về địa lý, kinh tế - xã hội. Những nguyên
nhân, điều kiện được rút ra cũng mang tính cụ thể và giải pháp đưa ra có luận
cứ, luận chứng khoa học.
Ngoài những đặc điểm chung, tác giả đi sâu nghiên cứu tìm ra những
đặc điểm riêng của tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên
gây ra trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Đặc biệt tác giả sẽ nghiên cứu, khảo sát
tìm ra những nguyên nhân sâu xa từ những đặc điểm kinh tế xã hội của tỉnh
Bình Dương có mối quan hệ đến tình hình người chưa thành niên phạm tội
nói chung, phạm tội cố ý gây thương tích nói riêng. Những kiến nghị, giải
pháp được đưa ra dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn đã khảo sát, nghiên

cứu.
8. Bố CụC CủA LUậN VĂN
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các
bảng phục lục, luận văn được cấu trúc thành 03 Chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phòng ngừa, điều tra tội phạm cố ý
gây thương tích do người chưa thành niên gây ra.
Chương 2: Tình hình, đặc điểm tội phạm cố ý gây thương tích do người
chưa thành niên gây ra trên địa bàn tỉnh Bình Dương và thực trạng công tác
phòng ngừa, điều tra từ năm 2002 đến tháng 6 năm 2007.
Chương 3: Một số dự báo và giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa,
điều tra tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên gây ra trên
địa bàn tỉnh Bình Dương.
6
Chương 1
MộT Số VấN Đề Lý LUậN Về PHòNG NGừA, ĐIềU TRA
TộI PHạM Cố ý GÂY THƯƠNG TíCH
DO NGƯờI CHƯA THàNH NIÊN GÂY RA
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Khái niệm người chưa thành niên
Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy
đủ về nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân.
Pháp luật ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ
em có nghĩa là người dưới mười tám tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng
đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Người chưa thành niên cũng được quy định trong các văn bản pháp luật
Việt Nam:
Điều 119 Bộ luật Lao động quy định: “Người lao động chưa thành niên
là người lao động dưới mười tám tuổi”.

7
Điều 20 Bộ luật Dân sự quy định: “Người chưa thành niên là người
chưa đủ mười tám tuổi, người thành niên là người đủ mười tám tuổi trở lên”.
Khái niệm người chưa thành niên khác khái niệm trẻ em. Theo Điều 1
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em: “Trẻ em quy định trong Luật này
là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi”.
Khái niệm người chưa thành niên còn được đề cập trong Hiến Pháp
năm 1992, BLHS năm 1999, Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật Phổ
cập giáo dục tiểu học năm 1991, Pháp lệnh thi hành án phạt tù năm 1993,
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và một số văn bản quy phạm
pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người
chưa thành niên là dưới mười tám tuổi và quy định riêng những chế định pháp
luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể.
Khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển
về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn
độ tuổi. Theo đó, pháp luật quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của
người chưa thành niên.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm: Người chưa thành niên là người
dưới mười tám tuổi, chưa phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần như
người đã thành niên.
1.1.2 Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
Điều 12 BLHS năm 1999 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng”.
8
BLHS nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 dành

chương X quy định đối với người chưa thành niên phạm tội. Điều 68, Chương
X BLHS ghi rõ: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm
tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Chương này, đồng thời
theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy
định của Chương này”.
Như vậy, người chưa thành niên phạm tội và phải chịu trách nhiệm
hình sự trong các trường hợp:
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố
ý, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
+ Nguời từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm một tội được quy định
trong BLHS.
Dưới góc độ khoa học điều tra hình sự có thể khái niệm: Người chưa
thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội, có lỗi và theo quy định của BLHS họ phải chịu trách
nhiệm hình sự tương ứng với hành vi và lỗi của mình.
1.1.3 Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra
Tội phạm do người chưa thành niên gây ra có những đặc điểm riêng so
với tội phạm do người đã thành niên gây ra. Tội phạm do người chưa thành
niên gây ra trước hết là những hành vi nguy hiểm cho xã hội có dấu hiệu tội
phạm. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp người chưa thành niên thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội có dấu hiệu tội phạm đều làm phát sinh trách
nhiệm hình sự đối với họ. Tội phạm chỉ xuất hiện khi vấn đề trách nhiệm hình
sự được đặt ra.
Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra không đồng nhất
với khái niệm người chưa thành niên phạm tội nhưng hai khái niệm đó có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội là khái
9
niệm dùng để chỉ một dạng chủ thể đặc biệt (người chưa thành niên) thực hiện
hành vi phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự còn khái niệm tội phạm do
người chưa thành niên gây ra là khái niệm dùng để chỉ những tội phạm được

thực hiện bởi một dạng chủ thể đặc biệt (người chưa thành niên).
Như vậy, tội phạm do người chưa thành niên gây ra là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được thực hiện bởi người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi và
theo quy định của BLHS người đó phải chịu trách nhiệm hình sự.
1.2 Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam đối với người chưa thành
niên phạm tội cố ý gây thương tích
1.2.1 Đặc điểm pháp lý của tội phạm cố ý gây thương tích
Tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác được quy định tại Điều 104 BLHS Nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1999:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc
một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba
năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho
nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc
người khác không có khả năng tự vệ;
đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của
mình;
e) Có tổ chức;
10
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn
nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc
một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1
Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe cho người khác mà
tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến
60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a
đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù
chung thân.”
Như vậy, Điều 104 BLHS quy định hai tội danh: Tội cố ý gây thương
tích và Tội cố ý gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác.
Tội phạm cố ý gây thương tích còn được quy định tại:
Điều 105: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Điều 106: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Điều 107: Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong khi thi hành công vụ.
11
Dưới góc độ pháp lý hình sự, tội phạm cố ý gây thương tích được cấu
thành bởi những yếu tố sau đây:
* Khách thể của tội phạm:
Tội phạm cố ý gây thương tích xâm phạm đến quyền được bảo vệ về
sức khoẻ của con người.
* Mặt khách quan của tội phạm:
Người phạm tội thực hiện các hành vi tác động vào cơ thể người khác
bằng sức mạnh vật chất như: đánh, đấm, đá, đâm, chém, đốt cháy làm người
đó bị thương tích.

Tội cố ý gây thương tích là tội phạm có cấu thành vật chất nên hậu quả
xảy ra (thương tích) được xác định bằng tỉ lệ nhất định. Chỉ khi thiệt hại về
thương tích của nạn nhân từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc mười
trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k Điều 104 BLHS thì mới phải chịu
trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp phạm tội do trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh, do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi
hành công vụ thì chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi thương tích gây ra cho
nạn nhân từ 31% trở lên hoặc gây hậu quả chết người.
* Mặt chủ quan của tội phạm:
Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý. Động cơ, mục đích không phải là
dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm.
* Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm cố ý gây thương tích là bất kỳ người nào có đủ
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định.
1.2.2 Vấn đề trách nhiệm hình sự khi người chưa thành niên phạm tội
cố ý gây thương tích
Đối chiếu quy định của BLHS về phân loại tội phạm (Điều 8 BLHS),
về tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 BLHS) và tội phạm cố ý gây
12
thương tích được quy định tại các Điều 104, 105, 106, 107 BLHS thì vấn đề
trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra khi người chưa thành niên thực hiện hành vi cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sứ khoẻ của người khác trong những
trường hợp sau đây:
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự
phạm tội gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe cho người khác mà tỷ lệ
thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người, hoặc từ 31% đến 60%
nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến
điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS. Đây là những trường hợp thuộc loại tội
phạm rất nghiêm trọng.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự

phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm
trọng khác. Đây là những trường hợp thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng.
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện bất cứ hành vi phạm tội nào quy định tại các Điều 104, 105, 106,
107 BLHS.
Như vậy, không phải mọi trường hợp người chưa thành niên thực hiện
hành vi cố ý gây thương tích thì đều trở thành tội phạm và đều phải chịu trách
nhiệm hình sự mà phải căn cứ vào tính chất hành vi, độ tuổi của người thực
hiện hành vi để xem xét. Thậm chí, khi người chưa thành niên thực hiện hành
vi cố ý gây thương tích đã đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự nhưng không thực sự cần thiết truy cứu trách nhiệm hình
sự và áp dụng hình phạt đối với họ thì cũng vẫn có thể áp dụng một hình thức
xử lý khác hợp lý hơn.
1.3 Lý luận về phòng ngừa, điều tra tội phạm cố ý gây thương tích do
người chưa thành niên gây ra
13
1.3.1 Quan điểm của Nhà nước Việt Nam trong phòng ngừa, điều tra
tội phạm do người chưa thành niên gây ra
Đối với người chưa thành niên nói chung, trẻ em nói riêng, quan điểm
của Nhà nước ta là bảo vệ, chăm sóc và giáo dục nhằm giúp họ phát triển thể
chất và tinh thần một cách tốt nhất. Điều 65 Hiến pháp 1992 xác định: “Trẻ
em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc, giáo dục”. Điều 5
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng quy định rõ: “Việc bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, Nhà
nước, xã hội và công dân”. Mục II.A Đề án 4 Chương trình quốc gia phòng
chống tội phạm xác định: “Phòng chống các tội phạm xâm hại trẻ em, tội
phạm trong lứa tuổi chưa thành niên là một bộ phận quan trọng trong toàn
bộ công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, giữ gìn trật tự an toàn xã
hội”; “Kết hợp công tác phòng ngừa với đấu tranh xử lý các tội phạm trong

lứa tuổi chưa thành niên, trong đó lấy phòng ngừa làm chính”.
Người chưa thành niên phạm tội được điều tra, xử lý theo những chế
định riêng và chủ yếu là nhằm đến mục đích phòng ngừa tội phạm. BLHS
nước ta dành Chương X quy định riêng đối với người chưa thành niên phạm
tội, trong đó nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên được quy định
tại Điều 69: “Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo
dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công
dân có ích cho xã hội ”; “Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa
thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong
trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào
những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm”.
Chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội khi hội đủ 3 điều kiện sau đây
(1)
:

1)
Đỗ Bá Cở - Luận án Tiến sĩ Luật học: “Hoạt động của lực lượng CSND trong phòng ngừa người chưa
thành niên phạm tội trong tình hình hiện nay”, Hà Nội, năm 2003, trang 15.
14
+ Người chưa thành niên phạm tội có nhân thân xấu.
+ Tội phạm đã được thực hiện có tính chất nghiêm trọng.
+ Những biện pháp giáo dục, phòng ngừa như giáo dục tại xã, phường,
đưa vào trường giáo dưỡng không có hiệu quả để cải tạo người chưa thành
niên phạm tội mà cần áp dụng hình phạt đối với họ.
Khi điều tra vụ án do người chưa thành niên gây ra thì phải tiến hành
theo quy định tại Chương XXXII Bộ luật Tố tụng hình sự (Thủ tục tố tụng đối
với người chưa thành niên). Đặc biệt chú ý quy định tại Điều 302, 303, 304,
305, 306 Bộ luật TTHS trong hoạt động điều tra về những vấn đề phải làm rõ
khi tiến hành điều tra; việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam; việc

giám sát đối với người chưa thành niên phạm tội; bào chữa; tham gia tố tụng
của gia đình, nhà trường, tổ chức. Điều tra viên tiến hành điều tra phải là
người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như
hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của người chưa thành niên.
Khi xét xử người chưa thành niên phạm tội thì:
+ Nếu không thực sự cần thiết thì không áp dụng hình phạt mà áp dụng
một trong các biện pháp tư pháp.
+ Không áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình đối với người chưa
thành niên phạm tội. Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành
niên phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Không áp dụng hình phạt bổ
sung đối với người chưa thành niên phạm tội.
+ án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội mà chưa đủ 16
tuổi thì không tính để xác định tái phạm.
+ Thời hạn để xoá án tích đối với người chưa thành niên phạm tội là
một nửa so với quy định cho người đã thành niên phạm tội.
Đề án 4 Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm “Đấu tranh
phòng chống các loại tội phạm xâm hại trẻ em, tội phạm trong lứa tuổi chưa
15
thành niên” đã cụ thể hoá cơ sở pháp lý để tiến hành phòng ngừa tội phạm
trong lứa tuổi chưa thành niên. Đề án 4 xác định: “Trẻ em và người chưa
thành niên là đối tượng được Nhà nước ta và cộng đồng quốc tế đặc biệt
quan tâm, việc thực hiện Đề án vừa có ý nghĩa cấp thiết trong phòng chống
tội phạm, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, đồng thời vừa có ý nghĩa chiến lược
góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em - thế hệ
tương lai của dân tộc, thể hiện rõ bản chất ưu việt của chế độ XHCN”.
Như vậy, quan điểm của Nhà nước Việt Nam trong phòng ngừa, điều
tra tội phạm do người chưa thành niên gây ra là phải lấy phòng ngừa làm
chính. Khi truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên thì phải điều
tra một cách tỉ mỉ, chính xác để thu thập đầy đủ chứng cứ phạm tội và tính
đến sự cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với họ.

1.3.2 Phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành
niên gây ra
1.3.2.1 Chủ thể tiến hành và mối quan hệ phối hợp trong phòng ngừa
tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên gây ra
Trong tình hình hiện nay, Đề án 4 Chương trình quốc gia phòng chống
tội phạm “Đấu tranh phòng chống các loại tội phạm xâm hại trẻ em, tội phạm
trong lứa tuổi chưa thành niên” đã xác định chủ thể thực hiện Đề án là:
+ Cơ quan chủ trì thực hiện: Bộ Công an.
+ Cơ quan phối hợp thực hiện:
* Uỷ ban bảo vệ chăm sóc trẻ em Việt Nam.
* Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
* Trung ương Hội LHPN Việt Nam.
* Bộ Giáo dục và đào tạo.
ở cấp tỉnh cũng thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Đề án và giao cho các
chủ thể thực hiện Đề án là: Công an tỉnh (cơ quan chủ trì), các cơ quan phối
16
hợp (ủy ban dân số, gia đình và trẻ em; Đoàn Thanh niên; Hội Liên hiệp phụ
nữ và Sở Giáo dục đào tạo). Riêng ngành Công an đã phân công lực lượng
CSND là lực lượng thường trực tiến hành các hoạt động phòng ngừa và đấu
tranh chống tội phạm do người chưa thành niên gây ra.
Lực lượng CSND (thường trực là CSĐT TP về TTXH) còn có chức
năng tham mưu cho Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức xã
hội thông qua công tác của mình chủ động phòng ngừa tội phạm do người
chưa thành niên gây ra bằng việc ban hành và thực thi các chủ trương, chính
sách, kế hoạch và công việc cụ thể. Ngược lại, các ban, ngành, đoàn thể, tổ
chức xã hội và mọi công dân có trách nhiệm cùng với lực lượng CSND tổ
chức phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích do người chưa thành niên gây
ra trước hết ở việc trực tiếp giáo dục, quản lý, chăm sóc người chưa thành
niên và sau đó là góp phần giảm thiểu, đi đến loại bỏ nguyên nhân và điều
kiện của tội phạm.

Sự phối hợp giữa các chủ thể trong phòng ngừa tội phạm cố ý gây
thương tích do người chưa thành niên gây ra do lực lượng CSND đứng ở vị trí
trung tâm, nòng cốt. Các chủ thể khác sẽ tuỳ vào chức năng, nhiệm vụ của
mình để thiết lập mối quan hệ phối hợp với lực lượng CSND. Như vậy, nhìn
cụ thể thì đó là mối quan hệ song song nhưng nhìn tổng thể thì mối quan hệ
phối hợp giữa các chủ thể trong phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích do
người chưa thành niên gây ra sẽ trở thành mối quan hệ đa dạng, đa chiều.
NHẬN THỨC CHUNG VỀ TỘI PHẠM HỌC
1. Khái niệm, đối tượng nghiên cứu, nhiệm vụ, mối quan hệ giữa
tội phạm học và các môn khoa học khác.
1.1 Khái niệm.
Để đáp ứng nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới phục vụ lợi ích xã
hội, loài người đã không ngừng tìm tòi nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và
17
xã hội. Điều đó là cơ sở nảy sinh và phát triển nhiều ngành khoa học khác
nhau.
Đã từ lâu, vấn đề đấu tranh ngăn chặn tiến tới làm giảm và loại trừ tội
phạm đã trở thành một trong những mối quan tâm chú ý của các Nhà nước
dưới mọi chế độ chế độ xã hội khác nhau. Để đấu tranh có hiệu quả đối với
các loại tội phạm – hiện tượng xã hội tiêu cực và phức tạp, đòi hỏi con người
cần phải không ngừng nghiên cứu để nhận thức đầy đủ về hiện tượng này. Tội
phạm là gì? Nó được hình thành phát triểnvà tồn tại theo những quy luật nào?
Để đấu tranh với nó cần phải tiến hành bằng những phương pháp tác động ra
sao? Công việc đó được tiến hành gắn liền với thực tế đấu tranh chống tội
phạm ở mỗi quốc gia, qua mỗi giai đoạn phát triển của xã hội. Kết quả của
quá trình đó đem laị cho loài người những tri thức phong phú cần thiết về hiện
tượng tội phạm và những kinh nghiệm quý báu trong đấu tranh chống tội
phạm.
Những tri thức và kinh nghiệm về tội phạm và phương pháp phòng
chống tội phạm ngày càng được tích luỹ đầy đủ. Bước đầu được phản ánh tản

mạn riêng lẻ, sau đó được đúc rút hệ thống lại và được nghiên cứu tỉ mỉ sâu
sắc hơn trong các tài liệu chuyên khảo của các ngành khoa học pháp lý, khoa
học xã hội. Trong điều kiện các lĩnh vực khoa học phát triển, mạnh mẽ theo
hướng chuyên sâu, vấn đề nghiên cứu về tội phạm và biện pháp đấu tranh
chống tội phạm được nâng lên và tách riêng thành bộ môn khoa học độc lập
chuyên nghiên cứu về những quy luật hình thành, phát sinh phát triển của tội
phạm cùng với các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn nhằm loại bỏ và hạn chế
sự tác động của hiện tượng này. Như vậy, ngành khoa học nghiên cứu về tội
phạm đã ra đời và phát triển.
Xem xét về thuật ngữ, các nhà nghiên cứu thấy rằng: “Tội phạm học”
là một cụm từ ghép bao gồm: Crimin: tội phạm (theo ngôn ngữ la tinh) và
18
Logos có nghĩa là: Học thuyết hoặc khoa học (theo tiếng Hy Lạp). Vậy tội
phạm học có nghĩa là “học thuyết về tội phạm” hay “khoa học nghiên cứu về
tội phạm”. Tuy nhiên, nếu nói là “nghiên cứu về tội phạm” thì nhiều ngành
khoa học nghiên cứu về vấn đề này, như: khoa học luật hình sự, khoa học luật
tố tụng hình sự, Điều tra hình sự, tâm lý học, xã hội học…Vì vậy, cá nhà
nghiên cứu tội phạm học xác định phạm vi nghiên cứu của tội phạm học được
giới hạn bởi đối tượng nghiên cứu chủ yếu của nó là:
- Tình trạng tội phạm.
- Nguyên nhân, điều kiện của tội phạm.
- Nhân thân người phạm tội
- Biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Trên cơ sở đó, có thể nêu khái niệm về Tội phạm hộc như sau:
Tội phạm học là ngành khoa học, nghiên cứu về tội Tình trạng tội
phạm, nguyên nhân và điều kiện phát sinh phát triển của tình trạng tội phạm
và các loại tội phạm cụ thể, nghiên cứu nhân thân người phạm tội và các biện
pháp phòng ngừa ngăn chặn nhằm hạn chế, tiến tới loại trừ tội phạm ra khỏi
đời sống xã hội.
Trong điều kiện phát triển của sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta,

Đảng và Nhà nước đã xác định vị trí quan trọng đặc biệt của công cuộc bảo vệ
vững chắc nền an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, đấu tranh kiên quyết
và triệt để chống các loại tội phạm hình sự. Điều đó đang đặt ra những nhiệm
vụ nặng nề cho các nhà nghiên cứu và cán bộ thực tế trong nghiên cứu tội
phạm, xây dựng phương pháp đấu tranh ngăn chặn một cách có hiệu quả với
chúng. Nghiên cứu và phát triển hoàn thiện khoa học tội phạm là vấn đề có ý
nghĩa to lớn trong sự nghiệp đấu tranh chống các loại tội phạm hình sự, giữ
vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
1.2 Đối tượng nghiên cứu của Tội phạm học.
19
Mỗi ngành khoa học có đối tượng nghiên cứu riêng của mình. Đó là
những quy luật tác động trong lĩnh vực mà ngành khoa học đó cần nghiên
cứu. Tội phạm học với tư cách là môn khoa học độc lập, vì vậy cũng có đối
tượng nghiên cứu riêng. Đó là những sự vật hiện tượng liên quan đến hoạt
động tội phạm và phòng ngừa tội phạm.
Trong các tài liệu Tội phạm học của nhiều nước trên thế giới đã được
xác định và phân loại thành những nhóm đối tương nghiên cứu như: nghiên
cứu tội phạm là hiện tượng của xã hội; nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nhân
thân người phạm tội và phòng ngừa tội phạm. Có thể xác nhận rằng việc định
ra đối tượng nghiên cứu của tội phạm như vậy là đúng đắn, bởi vì điều đó
phản ánh được khái quát nội dung nghiên cứu của vấn đề về tội phạm theo
một trình tự hệ thống bao hàm được đầy đủ những vấn đề phản ánh quy luật
hoạt động nhận thức về hiện tượng tội phạm, từ việc xác định khái niệm tội
phạm, phạm vi tình trạng, cấu trúc tội phạm và diễn biến của nó, đến việc đi
sâu nghiên cứu nguyên nhân, điều kiên của tình trạng này, cúng như về nhân
thân người phạm tội, tất cả điều đó nhằm đến mục đích là nghiên cứu tìm tòi
biện pháp, phương tiện phòng ngừa tội phạm. Cách xác định như trên còn cho
thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa nội dung của các nhóm đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu vấn đề này có tác dụng ảnh hưởng với vấn đề khác trong hệ
thống các đối tượng đã nêu, vì vậy để thấy rằng các nhóm đối tượng nghiên

cứu trên có mối quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng tác động lẫn nhau và không cho
phép người nghiên cứu coi nhẹ đối tượng nghiên cứu nào trong việc nghiên
cứu soạn thảo các vấn đề về Tội phạm học. Trong lý luận Tội phạm học người
ta gọi bốn nhóm đối tượng nghiên cứu đó là bốn bộ phận cấu thành cơ bản
hoặc bốn nhóm hiện tượng xã hội cần phải nghiên nghiên cứu trong khoa học
tội phạm.
20
Các đối tượng nghiên cứu và nội dung cơ bản của Tội phạm học bao
gồm:
2.1.1 Tình trạng tội phạm.
Tình trạng tội phạm là hệ thống các sự kiện phạm tội cụ thể được diễn
ra trong hệ thống quốc gia hoặc khu vực trong một thời gian nhất định. Như
vậy có nghĩa là xem xét mhư một hiện tượng xã hội nhằm nắm vững bản chất
của nó cũng như các yếu tố cấu thành có tính đặc trưng của hiện tượng xã hội
này.
Đối với nhóm đối tượng này cần phải xoay quanh các nội dung cơ bản
sau:
- Nghiên cứu tình trạng hoạt động của tội phạm, cấu trúc và động thái
của Tình trạng tội phạm nói chung cũng như từng loại tội phạm cụ thể trong
phạm vi cả nước và ở mỗi vùng dân cư. Những nội dung này phản ánh số
lượng và tính chất hoạt động của tội phạm nói chung và các loại tội phạm cụ
thể trong mỗi thời kỳ, mỗi địa phương khác nhau.
- Nghiên cứu các mối quan hệ tác động qua lại giữa Tình trạng tội
phạm với các hiện tượng và các quá trình xã hội khác (CT,KT, VH, GD…)
hoặc với những hình thức khác nhau của hành vi tiêu cực (lười biếng, suy
thoái về đạo đức, tệ nạn xã hội ).
Nghiên cứu làm rõ những nội dung đã chỉ ra trong nhóm đối tượng
nghiên cứu trên cho phép chúng ta đánh giá một cách khái quát về Tình trạng
tội phạm nói chung trong phạm vi cả nước và ở mỗi địa phương cụ thể, đồng
thời có thể đề ra phương hướng chung, biện pháp tổng hợp trong việc phòng

ngừa ngăn chặn tội phạm.
1.2.2. Nguyên nhân nảy sinh tình trạng tội phạm và điều kiện tạo thuận
lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội là một trong những nội dung tất yếu
của sự phát triển và tồn tại trong mỗi thời kỳ phát triển của xã hội.
21
- Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm là tổng hợp các sự vật hiện
tượng tiêu cực xã hội tác động đến con người và là hành vi phạm tội. Vì vậy
cần phải xem xét phân loại một cách khoa học các loại nguyên nhân, điều
kiện khách quan, chủ quan, trực tiếp, dán tiếp, chủ yếu thứ yếu, bên trong, bên
ngoài…điều đó có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức tội phạm và sử
dụng biện pháp phòng ngừa chúng.
- Cần thiết phải có quan điểm rõ ràng trong phân biệt giữa nguyên nhân
và điều kiện, mối quan hệ tác động giữa nguyên nhân và điều kiện trong quá
trình tác động đến hành vi phạm tội.
- Nghiên cứu tìm ra cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện tội
phạm đối với hành vi của con người phạm tội (các yếu tố tiêu cực về kinh tế,
tư tưởng, tâm lý, giáo dục…tác động đến con người như thế nào trong quá
trình đãn đến việc phạm tội).
Trong điều kiện trình độ lý luận về tội phạm ở nước ta hiện nay chưa
được phát triển hoàn hảo, trong việc nghiên cứu và xác định nguyên nhân,
điều kiện của Tình trạng tội phạm nói chung và tội phạm cụ thể còn nhiều vấn
đề cần phải xem xét để đi đến thống nhất quan điểm. Chẳng hạn còn có sự
nhầm lẫn giữa nguyên nhân và điều kiện phạm tội, giữa nguồn gốc tội phạm
và nguyên nhân, điều kiện tội phạm…điều đó dẫn đến việc xem xét đánh giá
vấn đề nguyên nhân và điều kiện tội phạm còn có sự khác nhau. Từ đó cho
thấy, tính cấp bách của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tội phạm
trong khoa học Tội phạm học ở nước ta.
1.2.3. Nhân thân người phạm tội.
Nhân thân người phạm tội là đối tượng nghiên cứu quan trọng của Tội
phạm học. Có thể hiểu khái niệm nhân thân người phạm tội là “những đặc

điểm dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của con người phạm tội”. Con người
có thể có nhiều loại phẩm chất tính cách khác nhau như tính cách sinh vật
22
(giới tính, lứa tuổi, chiều cao , cân nặng, màu tóc, màu da…) bản năng động
vất và những phẩm chất tính cách xã hội (quan điểm, trình độ học vấn, tình
trạng gia đình, quan hệ xã hội …)
Tội phạm học nghiên cứu nhân thân người phạm tội theo các nội dung
sau:
- Nghiên cứu các đặc điểm về xã hội – nhân khẩu học bao gồm giới
tính, lứa tuổi, trình độ học vấn, hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp….
- Nghiên cứu về phẩm chất đạo đức và tâm lý cá nhân kể phạm tội. Ơ
đây cần đề cập đến các đặc điểm về thái độ đối xử của kể phạm tội và các tổ
chức chính quyền, tổ chức xã hội và những con người xung quanh, đối với
các giá trị tinh thần, đạo đức xã hội …cũng như các yếu tố về trí tuệ, tình
cảm…đặc biệt, nghiên cứu các biểu hiện của nhân cách kẻ phạm tội trong
quá trình sống; hoạt động lao động, công tác xã hội , vai trò cá nhân trong xã
hội , trong đơn vị công tác,trong các nhóm người và với những con người cụ
thể khác, các cơ quan, đơn vị khác.
Nghiên cứu các đặc điẻm cá nhân kẻ phạm tội mang tính pháp luật hình
sự. Tính chất hành vi tội phạm, mục đích, động cơ phạm tội, hoạt động cá
nhân hay tổ chức, vai trò trong các tổ chức phạm tội, các tiền án, tiền sự…
- Phân loại nhân thân người phạm tội phục vụ cho công tác phòng ngừa
ngăn chặn hoặc giáo dục người phạm tội.
Tất cả những nội dung trên tạo thành hệ thống các đặc tính thể hiện bản
chất xã hội của con người phạm tội. Nghiên cứu những vấn đề trên có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định nguyên nhân và điều kiện tội phạm nói chung
và các loại tội phạm cụh thể, con người cụ thể. Mặt khác nghiên cứu nhân
thân người phạm tội giúp ta đề ra biện pháp phòng ngừa, giáo dục và nâng
cao hiệu quả biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung và các tội phạm cụ
thể.

23
1.2.4. Phòng ngừa tội phạm.
Phòng ngừa tội phạm là hệ thống các biện pháp của Nhà nước và xã hội
hướng đến việc xoá br, hạn chế nguyên nhân, diều kiện tội phạm, ngăn ngừa
kịp thời những hành vi sai lệch của những người có ý định phạm tội. Ơ nhiều
nước trên thế giới cũng như ở nước ta hiện nay phòng ngừa tội phạm đã và
đang trở thành một hoạt động thức tế, có sự tham gia đông đảo của cơ quamn
nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Hoạt động này cần thiết phải được
xem xét nghiên cứu một cách khoa học nhằm mục đích ngày càng hoàn thiện
hơn về mật lý luận và các biện pháp tiến hành cụ thể, nâng cao chất lượng của
công tác phòng ngừa tội phạm.
Về mặt lý luận, theo quan điểm hệ thống, phòng ngừa tội phạm được
phân tích, xem xét trên các khía cạnh sau:
- Khái niệm, phạm vi phòng ngừa tội phạm.
- Mục đích, nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm cụ thể.
- Nôi dung phòng ngừa tội phạm.
- Chủ thể tham gia phòng ngừa tội phạm.
- Phương pháp, biện pháp, phương tiện tiến hành hoạt động phòng
ngừa tội phạm.
- Những hoạt động khác nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng
ngừa tội phạm: Dự báo tội phạm, thông tin tội phạm, kế hoạch hoá, yếu tố nạn
nhn .
Những bộ phận cấu thành nêu trên tạo nên đối tượng nghiên cứu của
khoa học tội phạm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động ảnh hưởng lẫn
nhau. Những loại đối tượng nghiên cứu này phản ánh nội dung nghiên cứu tội
phạm nói chung, cúng như khi nghiên cứu từng nhóm, từng loại tội phạm cụ
thể ở mỗi địa phương và trong mỗi thời gian nhất định.
24
Nếu xem xét các loại đối tượng nghiên cứu của tội phạm học trong một
tổng thể thì có thể nhận thấy rằng: các loại dối tượng nghiên cứu như Tình

trạng tội phạm, nguyên nhân và điều kiện tội phạm và nhân thân người phạm
tội cho phép xác định tính chất, mức độ tội phạm, nguyên nhân điều kiện của
nó, các quy luật phát sinh, phát triển và tồn tại của tội phạm. Còn đối tượng
nghiên cứu cuói cùng, phòng ngừa tội phạm, là cách thức tác động với tội
phạm, nguyên nhân, điều kiện của nó nhằm hạn chế, tiến tới loại bỏ hiện
tượng này kỏi đời sống xã hội, đó cũng là mục đích nghiên cứu của khoa học
Tội phạm học.
1.3. Hệ thống Tội phạm học.
Quan điểm hệ thống là một trong những quan điểm phổ biến được sử
dụng trong khoa học. Ý nghĩa tác dụng của nó đối với nghiên cứu là giúp cho
chúng ta nghiên cứu và nhận thức vấn đề nghiên cứu một cách có hệ thống,
lôgíc về nội dung và hình thức của vấn đề, qua đó phát hiện, bổ sung và làm
sáng tỏ những vấn đề trong nội dung nghiên cứu Tội phạm học, giúp chúng ta
nhận thức có hệ thống về môn học này.
Hệ thống khoa học tội phạm được xây dựng trên hai cơ sở chính: Theo
đối tượng nghiên cứu và heo mức độ tổng quát các thông tin tư liệu khoa học
và thực tiễn.
a. Xuất phát từ đối tượng nghiên cứu có thể sắp xếp hệ thống Tội phạm
học theo 4 vấn đề chính:
+ Tình trạng tội phạm.
+ Nguyên nhân và điều kiện tội phạm nói chung và các loại tội phạm cụ
thể
+ Nhân thân người phạm tội.
+ Phòng ngừa tội phạm nói chung và các loại tội phạm cụ thể.
25

×