HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
TIỂU LUẬN HỌC PHẦN:
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
GVGD: TS. HOÀNG MAI
ĐỀ TÀI:
ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUAN
HỆ ĐỐI TÁC CÔNG – TƯ TRONG CUNG ỨNG
DỊCH VỤ CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Học viên: NGUYỄN XUÂN SƠN
Chuyên ngành: HÀNH CHÍNH CÔNG
Khóa: 16 M
Huế, tháng 03 năm 2013
Trang 2
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU: 4
II. TỔNG QUAN VỀ MÔ HÌNH HỢP TÁC CÔNG – TƯ (Public Private Partnership – PPP)5
1. Mối quan hệ hợp tác công tư là gì ? 5
2. Các hình thức hợp tác công tư: 5
3. Mối quan hệ đối tác này bao gồm các đặc điểm sau: 6
4. Những thuận lợi và hạn chế trong mô hình hợp tác công tư 7
III. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUAN HỆ ĐỐI TÁC CÔNG – TƯ TRONG
CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAM 8
IV. KẾT LUẬN 10
Trang 3
I. MỞ ĐẦU:
Với vai trò cung ứng các dịch vụ công Nhà nước luôn là người chịu trách
nhiệm chủ yếu trong việc đảm bảo tài chính để cung ứng các dịch vụ nói trên.
Tuy nhiên, với cách huy động nguồn vốn đầu tư chủ yếu từ nguồn ngân sách và
viện trợ nước ngoài (ODA) như hiện nay, nhu cầu nguồn vốn rất lớn cho hiện tại
và trong tương lai vẫn chưa đủ đáp ứng. Từ nay đến năm 2020, nước ta cần huy
động một lượng vốn đầu tư để thực hiện thành công kế hoạch và chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội đặt ra, tạo sự đột phá trong phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế.
Tuy nhiên, các nguồn vốn đầu tư Nhà nước truyền thống từ trước tới nay chỉ
có thể đáp ứng 50% nhu cầu, do ngân sách Nhà nước chỉ có mức tăng nhất định,
vốn ODA ưu đãi sẽ giảm dần vì nước ta đã là nước có thu nhập trung bình và
đặc biệt công nợ của Chính phủ như ODA, trái phiếu Chính phủ và các khoản
vay khác có bảo lãnh của Chính phủ bị hạn chế ở mức nhất định so với tổng
GDP, không được vượt quá mức hạn an toàn nhằm đảm bảo duy trì ổn định kinh
tế vĩ mô (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2010).
Lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn chỉ ra rằng không nhất thiết Nhà nước
phải cung cấp trực tiếp các dịch vụ công đến tận tay người tiêu dùng. Đồng
quan điểm đó, Ngân hàng thế giới cũng khẳng định, ngoài việc cung cấp trực
tiếp các dịch vụ công, nhà nước còn có thể phối hợp với tư nhân, với cộng đồng
hoặc các đối tác khác để thực hiện nhiệm vụ này (World Bank, 2004). Nhận
thức được điều đó, Đảng và Nhà nước đã có nhiều định hướng, chính sách đẩy
mạnh xã hội hóa dịch vụ công.
Nếu độc lập thực hiện một dự án, đặc biệt là dự án về dịch vụ công có nguồn
vốn đầu tư khá lớn, thời gian thu hồi vốn khá lâu, phụ thuộc nhiều vào mức độ
ủng hộ của cơ quan quản lý nhà nước, với cách huy động bằng hình thức BOT,
BT như hiện nay sẽ không thực sự hiệu quả, thường dẫn đến chậm trễ về tiến độ,
có khi dự án phải bỏ dở, do khó khăn tiếp cận nguồn vốn từ thị trường tài chính
của các doanh nghiệp tư nhân. Còn nếu là doanh nghiệp nhà nước đảm nhận các
Trang 4
dự án đó, thường dẫn đến tăng chi phí phụ trội, và không hiệu quả do quản lý
yếu kém, công nghệ lạc hậu.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nếu Nhà nước cùng đóng góp vốn tham gia
thực hiện một dự án với đối tác tư nhân, dự án đó có tính khả thi cao hơn, dễ
dàng tiếp cận nguồn vốn từ thị trường tài chính hơn và thậm chí các nhà tài
chính đó còn góp vốn cùng thực hiện kinh doanh. Với cách thức cùng hợp tác
này, trên thế giới người ta gọi là mô hình hợp tác công tư - PPP (Public – Private
Partnership).
II. TỔNG QUAN VỀ MÔ HÌNH HỢP TÁC CÔNG – TƯ (Public
Private Partnership – PPP)
1. Mối quan hệ hợp tác công tư là gì ?
Theo ADB, thuật ngữ “mối quan hệ hợp tác công - tư” miêu tả một loạt
các mối quan hệ có thể có giữa các tổ chức Nhà nước và tổ chức tư nhân liên
quan đến lĩnh vực cơ sở hạ tầng và các dịch vụ khác. Một số thuật ngữ có thể sử
dụng để miêu tả dạng hoạt động này là sự tham gia của khu vực tư nhân (PSP)
và Tư nhân hóa.
2. Các hình thức hợp tác công tư:
Có năm hình thức phổ biến trên thế giới hiện nay.
- Thứ nhất, nhượng quyền khai thác (Franchise) là hình thức mà theo đó
cơ sở hạ tầng được nhà nước xây dựng và sở hữu nhưng giao (thường là thông
qua đấu giá) cho tư nhân vận hành và khai thác.
- Thứ hai, mô hình thiết kế - xây dựng - tài trợ - vận hành DBFO
(Design- Build - Finance - Operate), khu vực tư nhân sẽ đứng ra xây dựng, tài
trợ và vận hành công trình nhưng nó vẫn thuộc sở hữu nhà nước.
- Thứ ba, xây dựng - vận hành - chuyển giao BOT(Build - Operate -
Transfer) là mô hình mà ở đó công ty thực hiện dự án sẽ đứng ra xây dựng và
vận hành công trình trong một thời gian nhất định sau đó chuyển giao toàn bộ
cho nhà nước. Mô hình này khá phổ biến ở Việt Nam.
Trang 5
- Thứ tư, khác biệt một chút với mô hình BOT, trong mô hình BTO(xây
dựng - chuyển giao - vận hành), quyền sở hữu cơ sở hạ tầng được chuyển giao
ngay cho nhà nước sau khi xây dựng xong, nhưng công ty thực hiện dự án vẫn
giữ quyền khai thác công trình.
- Thứ năm, là phương thức xây dựng - sở hữu - vận hành BOO (Build -
Own - Operate). Ở mô hình này, công ty thực hiện dự án sẽ đứng ra xây dựng
công trình, sở hữu và vận hành nó. Mô hình BOO rất phổ biến đối với các nhà
máy điện cả ở Việt Nam và trên thế giới.
3. Mối quan hệ đối tác này bao gồm các đặc điểm sau:
- Mối quan hệ hợp tác công - tư (PPP) thể hiện khuôn khổ có sự tham gia
của khu vực tư nhân nhưng vẫn ghi nhận và thiết lập vai trò của Chính phủ đảm
bảo đáp ứng các nghĩa vụ xã hội và đạt được thành công trong cải cách của khu
vực Nhà nước và Đầu tư công.
- Một số quan hệ hợp tác công – tư chặt chẽ phân định một cách hợp lý
các nhiệm vụ, nghĩa vụ và rủi ro mà mỗi đối tác Nhà nước và đối tác tư nhân
phải gánh vác. Đối tác nhà nước trong mối quan hệ đối tác công – tư là các tổ
chức Chính phủ, bao gồm các bộ, ngành, các chính quyền địa phương hoặc các
doanh nghiệp Nhà nước. Đối tác công – tư có thể là đối tác trong nước hoặc đối
tác của nước ngoài, và có thể là các doanh nghiệp hoặc các nhà đầu tư có chuyên
môn về tài chính hoặc kỹ thuật liên quan đến dự án. Mối quan hệ hợp tác Nhà
nước – Tư nhân cũng có thể bao gồm các tổ chức phi Chính phủ (NGO) hoặc
các tổ chức cộng đồng (CBO) đại diện cho những tổ chức và cá nhân mà dự án
có tác động trực tiếp.
- Mối quan hệ hợp tác công – tư hiệu quả ghi nhận rằng khu vực Nhà
nước và khu vực Tư nhân có những lợi thế tương đối nhất định so với các khu
vực còn lại khi thực hiện những nhiệm vụ cụ thể. Đóng góp của Chính phủ có
mối quan hệ hợp tác công – tư có thể dưới dạng vốn đầu tư, chuyển giao tài sản
hoặc đóng góp bằng hiện vật khác hỗ trợ cho mối quan hệ hợp tác này. Chính
phủ cũng góp phần trong các yếu tố về trách nhiệm xã hội, ý thức môi trường,
Trang 6
kiến thức bàn địa và khả năng huy động sự ủng hộ chính trị. Vai trò của khu vực
tư nhân trong mối quan hệ đối tác này là sử dụng chuyên môn về thương mại,
quản lý, điều hành và sáng tạo của mình để vận hành hoạt động kinh doanh một
cách hiệu quả. Tùy theo hình thức hợp đồng, đối tác tư nhân có thể góp vốn
hoặc đầu tư.
- Cơ cấu mối quan hệ hợp tác cần được thiết lập để phân bổ các rủi ro
cho đối tác nào có khả năng giải quyết các rủi ro một cách tốt nhất và vì thế
giảm thiểu được chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động.
4. Những thuận lợi và hạn chế trong mô hình hợp tác công tư.
Với cơ cấu hợp tác linh hoạt có sự tham gia của khu vực tư nhân, ưu điểm
lớn nhất của mô hình hợp tác công – tư nếu nhìn từ góc độ Nhà nước là giảm
gánh nặng cũng như rủi ro đối với ngân sách. Ví dụ, đối với một dự án BOT, các
nhà đầu tư tư nhân phải chịu hoàn toàn gánh nặng tài chính cũng như rủi ro về
vận hành. Nhưng liệu hợp tác công - tư có phải tối ưu hoàn toàn, phù hợp với
mọi trường hợp ? Chúng ta cần điểm lại những thuận lợi và hạn chế của mô hình
này.
a. Thuận lợi:
- Sử dụng được kỹ năng, công nghệ hiện đại và tính hiệu quả của khu
vực tư nhân.
- Buộc khu vực công ngay từ đầu phải chú trọng vào đầu ra và lợi ích
(thay vì các yếu tố đầu vào)
- Đưa vốn của khu vực tư nhân vào giúp giảm nhẹ gánh năng tài chính
của ngân sách nhà nước cho dự án.
- Rui ro khi phát sinh thì được chia sẽ giữa các đối tác khác nhau trong
mối quan hệ.
- Những nhà cung cấp tư nhân có trách nhiệm hơn trong việc cung cấp
dịch vụ trong môi trường khuyến khích thích hợp.
- Cải thiện tính minh bạch, trách nhiệm giải trình.
Trang 7
b. Hạn chế:
- PPP ngụ ý việc khu vực công mất kiểm soát quản lý và vì vậy khó chấp
nhận trên giác độ chính trị.
- Liệu khu vực công có đủ năng lực, kỹ năng để áp dụng phương pháp
đối tác công – tư và thiết lập môi trường pháp lý khuyến khích thích đáng ?
- Liệu khu vực Tư nhân có đủ năng lực chuyên môn để đảm bảo thực
hiện PPP ?
- Không thể chuyển giao rủi ro tuyệt đối.
- Dể xảy ra mâu thuẫn giữa lợi ích chung và lợi ích cá nhân của đối tác tư
nhân.
- Chi phí lớn hơn do các nhà đầu tư tư nhân yêu cầu một suất sinh lợi cao
hơn.
III. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUAN HỆ ĐỐI TÁC
CÔNG – TƯ TRONG CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN
NAM.
1. Xây dựng khuôn khổ pháp lý cho dự án hợp tác công – tư.
Xây dựng môi trường pháp lý, quy định và chính sách thuận lợi là yếu tố
quan trọng cho mối quan hệ hợp tác Nhà nước – Tư nhân bền vững. Ở mức độ
ban đầu, cần phải có môi trường pháp lý có thể hổ trợ sự tham gia của khu vực
tư nhân trong lĩnh vực dịch vụ công. Môi trường pháp lý cần giảm thiểu sự xuất
hiện của tham nhũng và phải đủ tin cậy để khuyến khích đầu tư và tham gia của
khu vực tư nhân. Nếu môi trường luật pháp và môi trường tư pháp không được
xác định, các nhà đầu tư và những người tham gia dự án là không thể dự toán
được và có độ rủi ro cao.
2. Đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư.
Trước tiên, cần phải xây dựng hệ thống chính sách đồng bộ nhằm phát
triển bền vững cơ sở hạ tầng, bao gồm chính sách sử dụng đất đai, phát triển kết
Trang 8
cấu hạ tầng, xây dựng mạng lưới giao thông vận tải công cộng, đồng thời
khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ công. Rà soát lại và
hoàn thiện các danh mục dự án BOT trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và có
chính sách ưu đãi về thuế, hỗ trợ và giảm rủi ro cho nhà đầu tư nhằm thu hút
nguồn vốn ngoài nước. Trong hợp đồng BOT cần quy định rõ quyền lợi, lợi ích,
quyền hạn, trách nhiệm của mỗi bên tham gia.
3. Nâng cao chất lượng công tác lập kế hoạch
Trong quá trình lập kế hoạch, cần phải cân đối nhu cầu vốn đầu tư cho
phù hợp với khả năng cung ứng. Việc lập kế hoạch phải bám sát tình hình thực
tế, tranh tình trạng kế hoạch xa với, chỉ quan tâm đến nhu cầu đầu tư mà không
chú trọng đến khả năng cân đối nguồn vốn, chỉ nên tập trung vào một số dịch vụ
công cấp bách và cần thiết.
Trong quá trình lập kế hoạch vốn đầu tư, cần tính đến các yếu tố ảnh
hưởng, rủ ro có thể xảy ra như: giá cả, thời tiết, đối tác không tích cực cung cấp
vốn, giải ngân vốn chậm trể ảnh hưởng đế tiến độ dự án.
Muốn lập kế hoạch cần có một đội ngũ đủ kinh ghiệm, trình độ năng lực
cao, và có tầm nhìn xa, rộng đặc biệt là yêu cầu đối với việc lập kế hoạch dài
hạn. Vì vậy, công tác đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ lập kế hoạch là rất quan
trọng.
4. Nâng cao chất lượng quản lý hoạt động đầu tư công.
Để nâng cao chất lượng vốn đầu tư cần thiết phải phân kỳ đầu tư, bố trí
vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình,
quản lý chặt chẽ tiến độ, kế hoạch đầu tư vốn, khắc phục tính trạng thiếu vốn, nợ
đọng vốn dầu tư xây dựng cơ bản nhằm hạn chế thấp nhất những tiêu cực có thể
xảy ra trong thời kỳ đầu tư.
Ngoài ra, cần phải xây dựng và ban hành tiêu chí, tiêu chuẩn là chủ đầu
tư, ban quản lý dự án kèm theo chức năng và trách nhiệm cụ thể cho từng chức
danh công việc.
Trang 9
5. Xúc tiến việc tìm kiếm các nguồn huy động vốn để bổ sung và hỗ
trợ cho ngân sách.
Trước thực trạng nhiều dự án không thể triển khai được vì nguồn vốn
ngân sách hạn hẹp, do vậy cần tập trung nguồn vốn cho các dịch vụ quan trọng,
cần tìm kiếm những dự án bổ sung khác để cung cấp cho những dự án còn dỡ
dang hoặc bị đình hoãn do không bố trí được nguồn vốn
Việc huy động nguồn vốn thông qua phương thức này còn hạn chế so với
tiềm năng trong dân cư và ngoài nước. Cho nên dịch vụ công muốn hấp dẫn các
thành phần kinh tế tham gia cần phải mang tính kinh tế cao, nghĩa là nhanh
chóng thu phí, hoàn vốn và hưởng lợi nhuận hợp lý trước khi chuyển giao.
Ngoài phương thức trên, nhà nước có thể phát hành trái phiếu, trái phiếu
Chính phủ để xây dựng hạ tầng cơ sở, Đẩy nhanh hình thức góp vốn gián tiếp
của tư nhân và nước ngoài.
IV. KẾT LUẬN.
Với hoàn cảnh, điều kiện ở Việt Nam hiện nay, việc xã hội hóa mới chỉ
được thực hiện ở cấp độ thấp. Lý do chủ yếu là chưa có cơ chế quản lý hiệu quả,
thêm nữa khu vực tư chưa đủ lớn mạnh để tiếp nhận việc cung ứng một cách tốt
nhất. Như vậy ở Việt Nam, Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ chốt trong cung ứng
dịch vụ công. Vấn đề đặt ra là đồng thời với việc thúc đẩy xã hội hóa dịch vụ
công, thì chính các cơ sở công lập phải tự nâng cao chất lượng lượng phục vụ.
Với quan điểm đặt chức năng phục vụ lên hàng đầu, Nhà nước cần phải đảm bảo
những dịch vụ cần thiết, chất lượng cho người dân.
Hơn nữa, Nhà nước phải là người có trách nhiệm điều tiết dịch vụ công.
Trách nhiệm này nhằm đảm bảo sự công bằng giữa các vùng miền, bằng cách hỗ
trợ cho những khu vực có điều kiện kinh tế, môi trường sống khó khăn hơn như
khu vực miền núi, hải đảo, khu vực có nhiều người dân tộc thiểu số sinh sống…
Bên cạnh đó, Nhà nước còn có vai trò đặc trưng là đảm bảo các dịch vụ công
ích, đem lại cho người dân môi trường và các điều kiện sống tốt hơn.
Trang 10
Xã hội hóa dịch vụ công một phần xuất phát từ quá trình chuyển đổi nền
kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Song chính dịch vụ
công lại bị ảnh hưởng trở lại bởi kinh tế thị trường với những tác động hai mặt
của nó. Bởi vậy, để tránh được tình trạng biến tướng từ “xã hội hóa” dịch vụ
công thành “tư nhân hóa”, không chỉ cần đến những giải pháp tác động mạnh và
đồng bộ hơn mà còn yêu cầu phải có cách nhìn thấu đáo hơn trong việc xác định
trọng tâm của công cuộc đổi mới.
Trang 11