SKKN: Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyên từ và câu ở lớp 4
a- ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LỜI NÓI ĐẦU
Môn Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học nhằm hình thành và phát triển
cho Học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, đọc, nói, viết) để học tập và
giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Giúp học sinh có cơ sở tiếp
thu kiến thức ở các lớp trên. Trong bộ môn Tiếng Việt thì phân môn Luyện từ và
câu có một nhiệm vụ đó là cung cấp nhiều kiến thức sơ giản về viết Tiếng Việt và
rèn luyện kĩ năng dùng từ đặt câu (nói- viết), kĩ năng đọc cho học sinh, cụ thể là:
1- Mở rộng hệ thống hoá vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu biết cơ
bản về từ và câu.
2- Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng dấu câu.
3- Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu, có
ý thức sử dụng tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp.
Bên cạnh đó, trường Tiểu học Thị trấn Thống Nhất hiện nay là một ngôi
trường đạt chuẩn mức độ II đầu tiên của huyện nhà, lại là ngôi trường có bề dày về
thành tích trong nhiều năm học vừa qua. Trường vinh dự được Thủ tướng chính
phủ tặng bằng khen và huân chương Lao động hạng Ba cao quý. Trường không
những được trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học hiện đại mà
còn là ngôi trường có chất lượng dạy và học luôn đứng ở tốp đầu trong huyện.
Chính vì vậy, nhận thức rõ được yêu cầu thiết thực của nhà trường cũng như tầm
quan trọng của phân môn Luyện từ và câu tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến kinh
nghiệm “Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4” .
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng
a. Thuận lợi
* Về phía giáo viên:
Người thực hiện: Phạm Thị Ngọc Dung – GV Trường Tiểu học Thị Trấn Thống Nhất.
1
SKKN: Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyên từ và câu ở lớp 4
Nhà trường luôn tạo điều kiện cho công tác giảng dạy, công tác thay sách đạt
kết quả tốt nhất, giáo viên được học chương trình mới, phương pháp dạy học mới
trong các đợt chuyên đề thay sách. Lớp học được trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất
như: bàn ghế hợp qui chuẩn, bảng chống loá, thiết bị chiếu sáng đầy đủ,… phục vụ
cho việc dạy và học được đảm bảo. Giáo viên là người có tay nghề, có đầy đủ
SGK, sách hướng dẫn, tài liệu Chuẩn kiến thức và được học về cách sử dụng các
phương tiện dạy học hiện đại như: máy tính, đèn chiếu… Đội ngũ giáo viên luôn
yêu nghề, có năng lực sư phạm. Phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 nhìn chung
ngắn gọn, cụ thể đã được giảm bớt nhiều so với chương trình Từ ngữ - Ngữ pháp
của lớp 4 trước đây, phân môn đã chỉ rõ 2 dạng bài đó là: Bài lí thuyết và bài tập
thực hành với định hướng rõ ràng.
*Về phía Học sinh:
- Học sinh đã quen với cách học từ ở lớp 1, 2, 3 nên các em đã biết cách lĩnh
hội và luyện tập thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên
- Hầu hết các em học sinh đều ngoan ngoãn, chăm chỉ học tập lại được sự
quan tâm của phụ huynh học sinh mua sắm cho con em các loại sách tham khảo,
sách hướng dẫn tương đối đầy đủ cũng góp phần nâng cao chất lượng của môn học
Luyện từ và câu nói riêng, môn Tiếng Việt nói chung.
- Các em học sinh đều được học 2 buổi/ ngày. Buổi sáng học lí thuyết, buổi
chiều các em được luyện tập thực hành để củng cố khắc sâu thêm kiến thức. Từ đó
giúp các em có khả năng sử dụng thành thạo các bài tập thực hành và áp dụng linh
hoạt vào các phân môn khác.
2. Khó khăn
- Ai cũng cho rằng khi dạy phân môn Luyện từ và câu thường khô khan, khó
truyền đạt được hết ý trong bài học, do đặc thù của môn học, nhất là trong cách tìm
từ, giải nghĩa từ hay dùng từ đặt câu…khiến cho học sinh cũng phải tiếp thu bài
một cách thụ động.
Người thực hiện: Phạm Thị Ngọc Dung – GV Trường Tiểu học Thị Trấn Thống Nhất.
2
SKKN: Nõng cao cht lng dy hc phõn mụn Luyờn t v cõu lp 4
- Giỏo viờn ụi lỳc cũn ging dy theo phng phỏp c, vic phõn chia thi
lng lờn lp mụn dy ụi khi cũn dn tri, hot ng ca cụ- trũ cú lỳc thiu
nhp nhng, nng tớnh hỡnh thc.
- Bờn cnh ú mt s ph huynh cha thc s quan tõm n con em mỡnh
cũn cú quan im trm s nh nh trng, nh cụ giỏo cng lm nh hng n
cht lng hc tp ca phõn mụn.
- Cú nhiu hc sinh cha tht s chỳ trng khi hc mụn Ting Vit núi
chung, mụn Luyn t v cõu núi riờng. Trong tõm tng ca cỏc em v mt s ph
huynh hc sinh u hng cho con em hc mụn Toỏn nhiu hn m cha tht s
chỳ trng mụn Ting Vit, coi nh mụn Ting Vit, cho rng, cỏc em ch cn c
c, vit c l c. Chớnh vỡ vy nhiu hc sinh khụng hng thỳ vi mụn hc,
th vi mụn hc v l thuc vo cỏc loi sỏch tham kho, sỏch bi dng, sỏch
bi tp cú sn ỏp ỏn, khụng chu khú hc, suy ngh hay chỳ tõm vo mụn hc,
nht l i vi phõn mụn Luyn t v cõu. Do ú cỏc em cha tht s hng th vi
mụn hc ny.
Theo kt qu kho sỏt ln th nht, vo tun 4 (trung tun thỏng 9) vi bi
T n T ghộp lp 4C, kt qu tụi thu c nh sau :
Lp S s Xp loi
Gii Khỏ Trung bỡnh Yu
4C 28 5 9 11 3
Tỉ lệ 17,7% 32,3% 39,3% 10,7%
Sau khi kiểm tra khảo sát, tôi nhận thấy rằng trong bài làm của học sinh đạt
điểm trung bình và yếu còn mắc nhiều lỗi, cách phân biệt từ đơn, từ ghép còn cha
rõ ràng, nhầm lẫn, cha theo yêu cầu đề bài. Chất lợng học sinh trung bình và yếu
còn nhiều và số học sinh khá, giỏi cha cao.
3. Nguyờn nhõn ca nhng tn ti, yu kộm ú.
- Vỡ cho rng phõn mụn Luyn t v cõu l mụn hc khụ khan, khụng gõy
c hng thỳ vi hc sinh. Bờn cnh ú s tp trung ca hc sinh li cha bn
vng, kh nng tp trung cha cao, hay núng vi, kh nng ngụn ng cũn thp
cng lm nh hng n cht lng mụn hc.
Ngi thc hin: Phm Th Ngc Dung GV Trng Tiu hc Th Trn Thng Nht.
3
SKKN: Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyên từ và câu ở lớp 4
- Mặc dù học sinh có đủ sách vở học tập nhưng nhiều em không chịu học mà
phụ thuộc hoàn toàn vào sách có đáp án được in, bán sẵn.
- Cha mẹ học sinh không kịp thời khuyến khích, động viên con em học tập.
Thời gian dành cho việc học ở nhà còn ít. Đa số phụ huynh học sinh lại có nguyện
vọng cho con em học thiên về môn Toán nhiều hơn.
- Bên cạnh đó còn một bộ phận học sinh do bị hổng kiến thức từ lớp dưới,
do khả năng tiếp thu bài hạn chế, nên không thể hoàn thành hệ thống bài tập trên
lớp.
Từ những tồn tại nêu trên tôi đã rất băn khoăn và trăn trở, luôn suy nghĩ để
tìm ra nguyên nhân của chất lượng môn Luyện từ và câu. Mặc dù trong giảng dạy
phân môn Luyện từ và câu có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn. Song
khó khăn nào cũng có hướng giải quyết, thuận lợi nào đều có thể phát huy được
những khó hăn đó. Vì vậy tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và cùng trao đổi với một số
đồng nghiệp trong tổ, trong trường. Được sự hỗ trợ và giúp đỡ của đồng nghiệp,
của lãnh đạo nhà trường, thông qua cuộc họp Cha mẹ học sinh đầu năm học tôi
mạnh dạn đề ra một số biện pháp khắc phục, cách dạy phù hợp với nhận thức của
học sinh nhằm giúp học sinh có hứng thú với môn học và nắm bắt bài một cách tốt
hơn, nâng cao chất lượng, hiệu quả của phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4C, năm
học 2009 - 2010.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Nghiên cứu kĩ nội dung chương trình, yêu cầu chuẩn kiến thức, kĩ năng của
phân môn luyện từ và câu.
1.1. Nội dung chương trình gồm 62 tiết được phân như sau:
Người thực hiện: Phạm Thị Ngọc Dung – GV Trường Tiểu học Thị Trấn Thống Nhất.
4
SKKN: Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyên từ và câu ở lớp 4
Mỗi tuần 2 tiết. Học kì I 32 tiết gồm 5 chủ điểm. Học kì II 30 tiết gồm 5 chủ
điểm. Mỗi chủ điểm học sinh được học một chủ đề tương ứng với từng chủ điểm
đó.
1.2. Yêu cầu kiến thức
a. Mở rộng và hệ thống hoá vốn từ : Môn Tiếng Việt có 10 đơn vị học thì phân
môn Luyện từ và câu mở rộng và hệ thống hoá 10 chủ điểm đó.
b. Trang bị các kiến thức giảng dạy về từ và câu.
* Từ – Cấu tạo tiếng : - Cấu tạo từ : Từ đơn, từ ghép và từ láy.
- Từ loại : Danh từ, Động từ, Tính từ.
* Các kiểu câu: Câu hỏi, Câu kể, Câu cầu khiến, Câu cảm.
* Các dấu câu: Dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm, dấu ngoặc kép,
dấu ngoặc đơn.
1.3. Yêu cầu kĩ năng về từ và câu:
a. Từ:
- Nhận biết được cấu tạo của tiếng.
- Giải các câu đố tiếng liên quan đến cấu tạo của tiếng.
- Nhận biết từ loại.
- Đặt câu với từ đã cho.
- Xác định tình huống sử dụng Thành ngữ - Tục ngữ.
b. Câu:
- Nhận biết các kiểu câu.
- Đặt câu theo mẫu.
- Nhận biết các kiểu trạng ngữ.
- Thêm trạng ngữ cho câu.
- Tác dụng của dấu câu.
- Điền dấu câu thích hợp.
c. Dạy tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp.
Người thực hiện: Phạm Thị Ngọc Dung – GV Trường Tiểu học Thị Trấn Thống Nhất.
5
SKKN: Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyên từ và câu ở lớp 4
Thông qua nội dung dạy Luyện từ và câu ở lớp 4, bồi dưỡng cho học sinh ý
thức và thói quen dùng từ đúng, nói viết thành câu và ý thức sử dụng tiếng Việt
trong giao tiếp phù hợp với các chuẩn mực văn hoá.
- Chữa lỗi dấu câu.
- Lựa chọn kiểu câu kiến thức, kĩ năng mà học sinh cần đạt được và cũng
như là nhiệm vụ mà người giáo viên cần nắm vững khi giảng dạy phân môn này.
2. Nắm vững qui trình dạy luyện từ và câu ở lớp 4.
Cách dạy theo 2 dạng bài lí thuyết và bài thực hành.
3. Vận dụng một số phương pháp dạy học khi dạy luyện từ và câu ở lớp 4.
3.1. Phương pháp vấn đáp
Phương pháp gợi mở vấn đáp là phương pháp dạy học không trực tiếp đưa ra
những kiến thức đã hoàn chỉnh mà hướng dẫn cho học sinh tư duy từng bước một
để các em tự tìm ra kiến thức mới phải học.
Phương pháp gợi mở vấn đáp nhằm tăng cường kĩ năng suy nghĩ, tư duy sáng
tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức và xác định mức độ hiểu bài cũng như kinh
nghiệm đã có của học sinh. Giúp các em hình thành khả năng tự lực tìm tòi kiến
thức. Qua đó học sinh ghi nhớ tốt hơn, sâu sắc hơn.
Yêu cầu khi sử dụng giáo viên phải lựa chọn những câu hỏi theo đúng nội dung
bài học, câu hỏi đưa ra phải rõ ràng, dễ dàng phù hợp với mọi đối tượng học sinh
trong cùng một lớp. Giáo viên dành thời gian cho học sinh suy nghĩ sau đó cho học
sinh trả lời, các em khác nhận xét bổ sung. Phương pháp này phù hợp với cả hai
loại bài lí thuyết và thực hành.
VD: Khi dạy bài Danh từ (tuần 5) mục đích của bài là học sinh phải nắm được
Danh từ là gì?- Biết tìm danh từ trừu tượng trong đoạn văn và đặt câu với danh từ đó.
- Giáo viên đưa ra ví dụ: Mang theo truyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa
Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa
Người thực hiện: Phạm Thị Ngọc Dung – GV Trường Tiểu học Thị Trấn Thống Nhất.
6
SKKN: Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyên từ và câu ở lớp 4
Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi
Đời cha ông với đời tôi
Như con sông với chân trời đã xa
Chỉ còn truyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình.
LÂM THỊ MỸ DẠ
+H: Em hãy tìm những từ chỉ sự vật trong đoạn thơ?
Dòng 1: Truyện cổ Dòng 5: Đời, cha ông
Dòng 2: Cuộc sống, tiếng xưa Dòng 6: Con sông, chân trời
Dòng 3: Cơn nắng, cơn mưa Dòng 7: Truyện cổ
Dòng 4: Con sông, rặng dừa Dòng 8: Ông cha.
+ H: Hãy sắp xếp các từ vừa tìm được vào từng nhóm sau cho thích hợp:
- Từ chỉ người: Ông cha- Cha ông
- Từ chỉ vật: sông, dừa, chân trời.
- Từ chỉ hiện tượng: mưa, nắng
- Từ chỉ khái niệm : Cuộc sống, truyện cổ, tiếng xưa, đời.
- Từ chỉ đơn vị : Cơn, con, rặng.
+ H : Những từ đó thuộc loại từ gì? (Danh từ)
+ H: Vậy danh từ là gì? (Danh từ là những từ chỉ sự vật: người, vật hiện tượng,
khái niệm hoặc đơn vị).
Như vậy, qua 4 câu hỏi gợi mở cho các em hình thành một khái niệm ngữ pháp
mà nội dung của bài đề ra.
Tóm lại phương pháp gợi mở vấn đáp được sử dụng trong tất cả tiết học và phát
huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh.
3.2. Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề.
Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề là cách mà giáo viên đưa ra những tình
huống gợi vấn đề điều khiển học sinh phát hiện vần đề, tự giác hoạt động, trực tiếp
Người thực hiện: Phạm Thị Ngọc Dung – GV Trường Tiểu học Thị Trấn Thống Nhất.
7
SKKN: Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyên từ và câu ở lớp 4
chủ động và sáng tạo để giải quyết vấn đề thông qua đó mà kiến tạo tri thức, rèn
luyện kĩ năng.
Tăng thêm sự hiểu biết và khả năng áp dụng lí thuyết vào giải quyết vấn đề của
thực tiễn. Nâng cao kĩ năng phân tích và khái quát từ tình huống cụ thể và khả
năng độc lập cũng như khả năng hợp tác trong quá trình giải quyết vấn đề.
Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên cần chuẩn bị trước câu hỏi sao cho
phù hợp với mục đích, yêu cầu và nội dung của bài đảm bảo tính sư phạm, đáp ứng
với các đối tượng học sinh, giáo viên cần chuẩn bị tốt kiến thức để giải quyết vấn
đề mà học sinh đưa ra.
VD: Khi dạy bài mở rộng vốn từ “Đồ chơi- trò chơi” (tuần 16) Giáo viên
đưa ra một số thành ngữ- tục ngữ sau: “Chơi với lửa”, “Ở chọn nơi, chơi chọn
bạn”, “Chơi diều đứt dây”, “Chơi dao có ngày đứt tay”, hãy chọn câu thành ngữ,
tục ngữ thích hợp để khuyên bạn:
a- Nếu bạn em chơi với một số bạn hư nên học kém hẳn đi.
b- Nếu bạn em thích trèo lên một chỗ cao chênh vênh, rất nguy hiểm để tỏ
mình gan dạ.
- Với tình huống (a) các em có thể chọn thành ngữ tục ngữ: “Ở chọn nơi,
chơi chọn bạn”. Nhưng với tình huống (b) các em có thể chọn 1 hoặc 2 thành ngữ
tục ngữ như:“Chơi với lửa” hoặc “Chơi dao có ngày đứt tay” đều được.
* Tóm lại: Với phương pháp này người giáo viên cần hiểu rằng trong từng tình
huống cụ thể sẽ có nhiều cách giải quyết hay, thích hợp để học sinh có thể ứng
dụng vào trong học tập, trong cuộc sống.
3.3. Phương pháp trực quan.
Phương pháp trực quan là phương pháp dạy học trong đó giáo viên có sử dụng
các hình ảnh trực quan nhằm giúp học sinh có biểu tượng đúng về sự vật và thu
nhận được kiến thức, rèn luyện kĩ năng theo nội dung bài học một cách thuận lợi.
Người thực hiện: Phạm Thị Ngọc Dung – GV Trường Tiểu học Thị Trấn Thống Nhất.
8
SKKN: Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyên từ và câu ở lớp 4
Thu hút sự chú ý và giúp học sinh hiểu bài, ghi nhớ bài tốt hơn, học sinh có thể
khái quát nội dung bài và phát hiện mối liên hệ của các đơn vị kiến thức.
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát theo nội dung cần truyền đạt.
VD: Khi dạy bài “Đồ chơi – Trò chơi” (tuần 15) giáo viên đưa ra 6 bức
tranh trong SGK Tiếng Việt 4 tập 1 (trang 147) để tìm ra các từ ngữ chỉ tên đồ chơi
– trò chơi mà các em được mở rộng trong bài học.
Bức tranh 1: HS tìm từ chỉ đồ chơi: Diều – Trò chơi: thả diều.
Bức tranh 2: đồ chơi: đèn ông sao, trống cơm, đầu sư tử – trò chơi: múa lân,
rước đèn, đánh trống.
Bức tranh 3: đồ chơi: dây, nồi xoong, búp bê – trò chơi: nhảy dây, nấu ăn,
cho bé ăn bột…
Bức tranh 4: đồ chơi: máy tính, bộ xếp hình – trò chơi: điện tử, xếp hình.
Bức tranh 5: đồ chơi: dây, súng ná - trò chơi: kéo co. bắn súng.
Bức tranh 6: đồ chơi: khăn – trò chơi: bịt mắt bắt dê…
*Tóm lại: Sử dụng phương pháp trực quan giảng giải khi dạy phân môn
Luyện từ và câu là rất quan trọng vì sẽ khai thác được triệt để các kênh hình của
bài học, nhờ đó mà giáo viên giúp học sinh nắm bài một cách tốt hơn.
3.4. Phương pháp rèn luyện theo mẫu.
Là phương pháp dạy học mà giáo viên đưa ra các mẫu cụ thể qua đó hướng
dẫn học sinh tìm hiểu các đặc điểm của mẫu, cấu tạo mẫu và thực hiện theo mẫu.
Giúp học sinh có điểm tựa để làm bài đặc biệt là với học sinh trung bình và
yếu còn đối với học sinh khá giỏi không bắt buộc phải theo mẫu để học sinh có thể
phát huy được tính tích cực chủ động.
3.5. Phương pháp phân tích.
Đây là phương pháp dạy học trong đó học sinh dưới sự hướng dẫn tổ chức
của giáo viên tiến hành tìm hiểu các dấu hiệu theo định hướng bài học từ đó rút ra
bài học. Giúp học sinh tìm tòi huy động vốn kiến thức cũ của mình ra kiến thức
Người thực hiện: Phạm Thị Ngọc Dung – GV Trường Tiểu học Thị Trấn Thống Nhất.
9
SKKN: Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyên từ và câu ở lớp 4
mới. Tạo điều kiện cho học sinh tự phát hiện kiến thức (về nội dung và hình thức
thể hiện).
VD: Khi dạy bài “Câu hỏi và dấu chấm hỏi”, tiến hành như sau:
Bước 1: Cho học sinh tìm ra các câu hỏi trong bài tập đọc “Người tìm đường
tới các vì sao”. Các em sẽ tìm được 2 câu:
1. Vì sao quả bóng không có cánh mà vẫn bay được?
2. Cậu làm thế nào mà mua được nhiều sách và dụng cụ thí nghiệm như thế?
Bước 2: Phân tích:
H: Câu hỏi (1) là của ai? (Xi-ôn- cốp – xki hỏi mình)
H: Câu hỏi (2) là của ai? (Bạn của Xi-ôn-cốp-xki hỏi)
H: Dấu hiệu nào giúp em nhận ra đó là câu hỏi? (Cuối câu có dấu chấm hỏi)
Giáo viên nêu: Khi đọc câu hỏi phải nhấn mạnh vào ý cần để hỏi.
Qua phân tích của giáo viên, học sinh rút ra được bài học:
1. Câu hỏi (còn gọi là câu nghi vấn) dùng để hỏi về những điều chưa biết.
VD: - Có phải trái đất quay xung quanh mặt trời không?
- Bạn Hoa là học sinh giỏi à?
2. Phần lớn câu hỏi là để hỏi người khác nhưng cũng có những câu để tự hỏi mình.
VD: - Chiếc bút này mình đã mua ở đâu nhỉ?
- Vì sao Trái Đất lại quay nhỉ?
3. Câu hỏi thường có các từ nghi vấn (có phải, không, phải không, à,…). Khi viết
cuối câu hỏi có dấu chấm hỏi (?).
VD: - Bạn đã học bài rồi à?
- Chú đất trở thành chú Đất Nung phải không?
Tóm lại, trên đây là một số phương pháp dạy học mà tôi đã áp dụng trong
giảng dạy phân môn Luyện từ và câu, tuy nhiên tôi cũng nhận thấy rằng không có
một phương pháp dạy học nào là tối ưu. Mỗi phương pháp thường có mặt mạnh -
mặt yếu của nó. Mặt mạnh của phương pháp này sẽ hỗ trợ cho mặt yếu của phương
Người thực hiện: Phạm Thị Ngọc Dung – GV Trường Tiểu học Thị Trấn Thống Nhất.
10
SKKN: Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyên từ và câu ở lớp 4
pháp kia. Cho nên để tránh nhàm chán cần phối hợp nhiều phương pháp giảng dạy
phù hợp với nhiều đối tượng học sinh, có như vậy tiết học mới đạt kết quả tốt.
II. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
Để có thể thực hiện các yêu cầu về kiến thức, kĩ năng của phân môn Luyện
từ và câu theo chuẩn kiến thức và kĩ năng của bộ giáo dục, tôi mạnh dạn đề ra một
số biện pháp thực hiện dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4 như sau:
Biện pháp thứ nhất: Phát huy ý thức học tập của học sinh từ đó bồi dưỡng
hứng thú học tập cho học sinh qua các bài học.
Cũng như các phân môn khác của Tiếng Việt, một trong những nhiệm vụ
của phân môn Luyện từ và câu là bồi dưỡng ý thức và thói quen sử dụng tiếng Việt
văn hoá. Để thực hiện nhiệm vụ đó giáo viên cần bồi dưỡng hứng thú học tập cho
học sinh, học sinh cần có ý thức học tập đúng đắn.
Trước hết đó là cách làm cho học sinh ý thức được ích lợi của việc học để
tạo động cơ học tập. Cho nên ở mỗi tiết dạy người giáo viên đều cần hướng đến
việc hình thành và duy trì hứng thú cho học sinh. Dạy Luyện từ và câu chính là dạy
cho các em kiến thức về từ ngữ và ngữ pháp nhưng giáo viên cần đưa ra một số thủ
pháp dạy học, hình thức dạy học phù hợp với sở thích của các em, đó chính là các
trò thi đố, các trò chơi để gây hứng thú cho học sinh trong giờ học, giảm bớt sự
căng thẳng, nhàm chán.
Bên cạnh đó người giáo viên cần thiết lập được mối quan hệ hợp tác tích cực
và tốt đẹp giữa cô và trò, giữa các trò với nhau cũng sẽ tạo được hứng thú học tập
cho học sinh. Hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn cùng với một bầu không khí thân
ái hữu nghị trong giờ học sẽ tạo hứng thú cho cả cô và trò. Vì vậy, bên cạnh việc
giáo dục tính mục đích kỉ luật, ý thức về trách nhiệm v.v…cho học sinh, với mỗi
giáo viên trực tiếp giảng dạy trong nhà trường phải là người tổ chức cuộc sống ở
trường thật hấp dẫn, tạo niềm vui, phải phấn đấu sao cho Mỗi ngày các em đến
Người thực hiện: Phạm Thị Ngọc Dung – GV Trường Tiểu học Thị Trấn Thống Nhất.
11
SKKN: Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyên từ và câu ở lớp 4
trường là một ngày vui. Mỗi học sinh sẽ luôn mong muốn phải là người được hạnh
phúc ngay ngày hôm nay. Bởi vậy, giáo viên phải thường xuyên tìm hiểu học sinh
muốn việc học diễn ra như thế nào? cái gì làm các em thích? cái gì làm các em
không thích? để có thể tổ chức quá trình dạy học như các em mong đợi.
Trong quá trình dạy học người giáo viên cần chú trọng vào mặt thành công
của trẻ, nhìn nhận các em theo cách nhìn: em nào cũng ngoan, em nào cũng giỏi,
em nào cũng cố gắng. Chỉ có em này ngoan, giỏi, cố gắng nhiều hơn, em kia
ngoan, giỏi, cố gắng ít hơn mà thôi. Bên cạnh đó giáo viên là người luôn nâng đỡ,
khích lệ, thông cảm chú trọng vào mặt thành công của các em, đề cao tính sáng tạo
của các em. Đôi lúc cô giáo cũng cần tỏ ra ngạc nhiên, vui sướng, tôn trọng những
sáng tạo của các em dù là rất nhỏ, giúp các em tự phát hiện ra chân lí. Sau cùng là
cách kiểm tra đánh giá của cô giáo đối với các em. Việc đánh giá trong dạy học đòi
hỏi phải nghiêm khắc nhưng không có nghĩa là khắt khe và quá chặt chẽ khi cho
điểm Có thể đặt ra câu hỏi ‘‘Cần đặt ra yêu cầu gì với các em để đánh giá, cho
điểm hợp lí nhằm khuyến khích, học sinh học tốt hơn?’’. Thành quả mà các em
thấy được qua sự học tập của mình được thể hiện bằng những điểm số. Chỉ có đạt
được thành công trong học tập mới thực sự tạo ra hứng thú và niềm say mê cho các
em. Chỉ có thành công, niềm tự hào về thành công, cảm giác xúc động khi thành
công mới là nguồn gốc thật sự của ham muốn học tập.
*Tóm lại, để tạo hứng thú trong học tập cho học sinh cũng là một nghệ thuật
trong quá trình dạy học của người giáo viên. Tạo hứng thú cho học sinh trong học
tập cũng chính là làm cho các em thấy hạnh phúc trong học tập, bởi vì học là hạnh
phúc không chỉ vì những lợi ích mà nó mang lại mà hạnh phúc còn nằm ngay trong
chính sự học từ đó mà các em nâng cao ý thức trong học tập.
Biện pháp thứ hai: Biện pháp về tài liệu, đồ dùng học tập.
Người giáo viên phải là người giúp học sinh biết cách lựa chọn và sử dụng
các tài liệu, đồ dùng học tập như thế nào cho phù hợp. Tài liệu nào các em có thể
Người thực hiện: Phạm Thị Ngọc Dung – GV Trường Tiểu học Thị Trấn Thống Nhất.
12
SKKN: Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyên từ và câu ở lớp 4
sử dụng khi học ở trên lớp, khi học ở nhà, nguồn tài liệu nào phù hợp với các em
hay khi nào thì có thể sử dụng sách giáo khoa, vở bài tập, sách tham khảo. Không
chỉ sử dụng các thông tin có trong sách mà các em còn có thể tự tìm tòi, tự làm lấy
để trở thành đồ dùng học tập hữu ích. Từ đó học sinh sẽ chủ động hơn khi sử dụng
các loại tài liệu mà không còn phụ thuộc hay lệ thuộc vào sách tham khảo. Làm
được điều này cũng đồng nghĩa với việc học sinh sử dụng các loại sách tham khảo,
có sẵn đáp án chỉ là một tài liệu giúp các em dùng để so sánh với kết quả bài làm
của mình.
Biện pháp thứ ba: Biện pháp về phân chia đối tượng học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học là phải phát huy tính tích cực của học sinh,
giáo viên cần chú ý đến mọi đối tượng học sinh, vì vậy có thể phân chia học sinh ra
nhiều mức độ (giỏi, khá, trung bình, yếu) để có phương pháp dạy thích hợp. Muốn
phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh người giáo viên phải có hệ
thống câu hỏi trong mỗi bài thật cụ thể phù hợp với từng đối tượng học sinh cụ thể.
VD: Khi dạy bài “Câu kể Ai làm gì?” (tuần17)
BT1: Đọc đoạn văn sau: “Trên nương mỗi người một việc. Người lớn thì
đánh trâu ra cày. Các cụ già thì nhặt cỏ đốt lá. Mấy chú bé bắc bếp thổi cơm. Các
bà mẹ lom khom tra ngô. Các em bé ngủ khì trên lưng mẹ. Lũ chó sủa om cả
rừng” rồi tìm trong mỗi câu ở đoạn văn trên các từ ngữ:
a) Chỉ hoạt động:
b) Chỉ người hoặc vật hoạt động.
Thì học sinh có thể tìm được:
+ Từ chỉ hoạt động: đánh trâu ra cày, nhặt cỏ đốt lá, ngủ khì trên lưng mẹ, bắc
bếp thổi cơm, lom khom tra ngô, sủa om cả rừng.
+ Từ chỉ người hoặc vật hoạt động: người lớn, các cụ già, mấy chú bé, các em bé,
lũ chó.
Người thực hiện: Phạm Thị Ngọc Dung – GV Trường Tiểu học Thị Trấn Thống Nhất.
13
SKKN: Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyên từ và câu ở lớp 4
Lúc này giáo viên gạch chân những từ ngữ mà các em đã tìm được. Sau đó
tiến hành hỏi: Em hãy đặt câu hỏi cho từng từ chỉ hoạt động?
Thì học sinh nêu: Người lớn làm gì? Các cụ già làm gì?
Giáo viên cần chú ý đến mọi đối tượng học sinh trong giờ học để cho tất cả
các em đều được nói, đều được làm việc phù hợp với khả năng tư duy.
Biện pháp thứ tư: Biện pháp về phân bố thời gian học tập.
Để nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 4, việc phân
bố thời gian học tập cho học sinh một cách hợp lí cũng là một yếu tố quan trọng
của sự thành công. Người giáo viên phải biết phối kết hợp nhịp nhàng các hoạt
động dạy học và phân chia thời gian của từng hoạt động đó phù hợp trong mỗi tiết
học, mỗi bài học cụ thể. Tránh tình trạng hết tiết học mà không hết bài hoặc ngược
lại tạo cơ hội cho học sinh không làm việc. Điều này cũng giúp ích cho học sinh
trong việc tự phân bố thời gian học ở nhà hợp lí, mang lại hiệu quả.
Biện pháp thứ năm: Biện pháp kèm cặp học sinh yếu.
*Về phía giáo viên: Với đối tượng là học sinh yếu cần giúp các em xác định
được mạch kiến thức trong chương trình được sắp xếp theo vòng tròn đồng tâm,
tuỳ theo ở mỗi lớp mà có những yêu cầu khác nhau.Từ đó giúp học sinh yếu nắm
chắc những kiến thức ở lớp dưới, bổ xung những lỗ hổng về kiến thức ở lớp dưới
thì đến lớp 4 các em sẽ nắm kiến thức một cách dễ dàng hơn, phát huy được những
kiến thức và kĩ năng học sinh đã đạt ở lớp 1, 2, 3 theo hệ thống lôgic.
VD: Ở lớp 1, các em được học về âm – vần, học sinh tìm tiếng có vần mới
học, nói câu chứa tiếng mới học, thì lớp 4 các em sẽ được học kĩ hơn về cấu tạo
của tiếng: tiếng thường gồm có 3 bộ phận: âm đầu – vần – thanh (có tiếng không
có âm đầu).
Hay chỉ một khái niệm “Câu hỏi và dấu chấm hỏi” ở lớp 2 học sinh mới chỉ
cần đạt yêu cầu: chọn dấu chấm hay dấu hỏi để điền vào ô trống; ở lớp 3, các em
phải đặt và trả lời câu hỏi ; nhưng đến lớp 4 các em không những phải hiểu khái
Người thực hiện: Phạm Thị Ngọc Dung – GV Trường Tiểu học Thị Trấn Thống Nhất.
14
SKKN: Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyên từ và câu ở lớp 4
niệm mà còn phải biết giữ lịch sự khi đặt câu hỏi, tránh những câu hỏi làm phiền
lòng người khác.
VD: Bạn có thể chờ hết tiết sinh hoạt, chúng mình cùng nói chuyện được không?
Phải biết sử dụng câu hỏi vào mục đích khác, không chỉ dừng lại ở hỏi
những điều muốn biết mà còn phải biết dùng câu hỏi để thể hiện thái độ, khen, chê,
khẳng định, phủ định, yêu cầu, mong muốn.
*Về phía gia đình: Giáo viên cần gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh học sinh
học yếu cùng phối kết hợp để giúp đỡ, kèm cặp các em. Thông qua bài tập được
giao ở lớp, về nhà phụ huynh cần dành thời gian cho các em học tập để hoàn thành
các bài tập đó. Theo tình trạng hiện nay, học sinh chỉ học trên lớp còn về nhà hầu
như là không học, nhất là với đối tượng học sinh yếu. Đó là một lối suy nghĩ sai
lầm của một số bậc phụ huynh và học sinh mà giáo viên cần trao đổi với phụ
huynh để loại bỏ. Mặt khác, một số cha mẹ thường vin cớ bận công việc làm ăn
nên coi nhẹ việc học ở nhà của con cái, không để ý đến việc con em mình học cái
gì? học thế nào? Vì vậy nhiệm vụ học tập của học sinh không thể tách rời khỏi yếu
tố gia đình bởi đây chính là động lực cơ bản thúc đẩy các em phấn đấu cho sự học
của mình.
*Về phía bạn bè: Giáo viên cũng cần tranh thủ sự trao đổi thông tin, học hỏi
lẫn nhau giữa học sinh với học sinh. Đôi khi qua cách nói nôm na của bạn bè lại
giúp cho đối tượng học sinh yếu thấy đơn giản và dễ hiểu hơn. Chẳng phải “Học
thầy không tày học bạn” đó sao. Giao cho học sinh khá thường xuyên kèm cặp học
sinh yếu cùng hưởng ứng thi đua “Đôi bạn cùng tiến”. Cùng nhau tham gia các
hoạt động ngoài giờ lên lớp như các giờ chơi, giờ chào cờ, các cuộc tọa đàm, trao
đổi, sinh hoạt, các em sẽ thấy thích thú và tự giác tích luỹ được vốn từ, vốn kiến
thức cho mình.
VD : Qua bài Mở rộng vốn từ Đồ chơi – Trò chơi các em cũng thấy được
những trò chơi nào có lợi, những trò chơi nào có hại, nên tránh.
Người thực hiện: Phạm Thị Ngọc Dung – GV Trường Tiểu học Thị Trấn Thống Nhất.
15
SKKN: Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyên từ và câu ở lớp 4
Thông qua các cuộc tọa đàm trao đổi đó, các em sẽ học được ở bạn bè để đặt
câu hỏi một cách lịch sự, tránh hỏi trống không hoặc những câu hỏi tò mò thiếu tế
nhị. Biết giữ phép lịch sự khi bày tỏ yêu cầu, đề nghị với mọi người xung quanh.
*Về phương tiện, thiết bị: giáo viên cần tận dụng và sử dụng một cách triệt
để các đồ dùng và trang thiết bị dạy học không chỉ trong quá trình dạy học mà còn
đóng góp một phần không nhỏ trong viêc giúp đỡ học sinh yếu. Với đối tượng học
sinh yếu khả năng tư duy trừu tượng thấp do đó cần tăng cường, hỗ trợ các em về
khả năng tư duy bằng hình ảnh, bằng âm thanh… bằng trực quan sinh động sẽ giúp
các em tiếp thu bài tốt hơn, hiệu quả hơn.
Biện pháp thứ sáu: Biện pháp về lập kế hoạch bài học.
Giáo viên cần nắm vững nội dung cơ bản của từng bài học trong SGK và
những hướng dẫn cụ thể về mục tiêu cần đạt. Tuỳ theo đặc điểm của từng bài học
mà xây dựng kế hoạch bài giảng cho phù hợp. Song, cho dù thế nào cũng cần có
đầy đủ các hoạt động lớp và tổ chức các hoạt động đó một cách phong phú, phối
hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức cho phù hợp với nội dung của bài dạy
và chủ điểm của bài đó.
Có thể sử dụng linh hoạt nhiều hình thức dạy học trong cùng một tiết dạy.
Đó là các hình thức tổ chức: làm việc cá nhân, trao đổi nhóm, đàm thoại gây hứng
thú cho học sinh tránh nhàm chán đơn điệu.
VD: Khi dạy bài Mở rộng vốn từ Ước mơ (tuần 9)
Bài tập 2: Học sinh thảo luận nhóm đôi
Tìm thêm những từ cùng nghĩa với “ước mơ”
- HS 1 tìm từ bắt đầu từ tiếng “ước”: ước ao, …
- HS 2 tìm từ bắt đầu từ tiếng ‘‘mơ’’: mơ mộng,
- HS 2 tìm từ bắt đầu từ tiếng “ước”: ước mong,
- HS 1 tìm từ bắt đầu từ tiếng ‘‘mơ’’: mơ ước,
Người thực hiện: Phạm Thị Ngọc Dung – GV Trường Tiểu học Thị Trấn Thống Nhất.
16
SKKN: Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyên từ và câu ở lớp 4
BT 3 : Nêu yêu cầu viết thêm những từ : đẹp đẽ, viển vông, cao cả, lớn, nho nhỏ, kì
quặc, dại dột, chính đáng vào sau từ ước mơ thể hiện sự đánh giá :
+ HS thảo luận nhóm 4.
- Đánh giá cao: ước mơ đẹp, ước mơ chính đáng, ước mơ cao cả, ước mơ lớn, ước
mơ đẹp đẽ.
- Đánh giá không cao: ước mơ bình thường, ước mơ nho nhỏ.
- Đánh giá thấp: ước mơ kì quặc, ước mơ dại dột, ước mơ viển vông, ước mơ tầm thường.
BT 4 : Nêu VD về 1 loại ước mơ nói trên.
+ Bài này cho học sinh làm việc cá nhân.
VD: +Ước mơ được đánh giá cao: Đó là những ước mơ vươn lên làm những việc
có ích cho mọi người như: - Ước mơ học giỏi để trở thành bác sĩ/ kĩ sư…
- Ước mơ chinh phục vũ trụ…
+ Ước mơ được đánh giá không cao: Đó là những ước mơ giản dị, thiết thực, có
thể thực hiện được không cần nỗ lực lớn:
- Ước mơ có truyện đọc/ có xe đạp/ có một đồ chơi…
+ Ước mơ bị đánh giá thấp: Đó là những ước mơ phi lí, không thể thực hiện được
hoặc là những ước mơ ích kỉ, có lợi cho bản thân nhưng gây hại cho người khác:
- Ước mơ được xem ti vi suốt ngày/ ước không phải học mà vẫn được điểm cao…
- Ước mơ thể hiện lòng tham không đáy của vợ ông lão đánh cá.
- Ước mơ tầm thường – ước được ăn dồi chó – Ba điều ước.v.v…
Tóm lại, vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học sẽ làm cho lớp học sôi
nổi, gây hứng thú cho học sinh sẽ giúp học sinh tiếp thu bài học một cách tốt hơn,
nắm vững nội dung của bài học. Bên cạnh đó, giáo viên cần phải có dự kiến về các
câu trả lời của học sinh và các tình huống sư phạm có thể xảy ra trong mỗi hoạt
động từ đó có biện pháp giải quyết, điều chỉnh kịp thời. Việc tổ chức các hoạt động
học tập có tác dụng rất lớn đến việc giảng dạy phân môn Luyện từ và câu, giúp học
sinh biết quý trọng và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt từ đó hình thành cho các
Người thực hiện: Phạm Thị Ngọc Dung – GV Trường Tiểu học Thị Trấn Thống Nhất.
17
SKKN: Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyên từ và câu ở lớp 4
em nhân cách sống và kĩ năng sống. Do đó để có kết quả cao trong tiết dạy Luyện
từ và câu giáo viên cần lập kế hoạch bài học chu đáo, cẩn thận chuẩn bị về mọi mặt
cho tiết dạy. Việc làm này phải diễn ra trước khi thi công bài dạy trên lớp học.
C. PHẦN KẾT LUẬN
I. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Qua quá trình vừa nghiên cứu vừa áp dụng vào thực tế giảng dạy tôi nhận
thấy rằng những phương pháp dạy học mà tôi áp dụng đã có những kết quả đáng
vui mừng và phấn khởi.
Sau khi áp dụng cách đổi mới phương pháp dạy theo đề tài, tôi đã khảo sát
lần 2 vào tuần 14 cuối tháng 11 với bài tập Tìm Danh từ - Động từ – Tính từ trong
đoạn văn. Kết quả thu được như sau :
Lớp Sĩ số Xếp loại
Giỏi Khá Trung bình Yếu
4C 28 15 10 3 0
Tỉ lệ 53,6% 35,7% 10,7% 0%
Kết quả khảo sát cho thấy chất lượng học tập phân môn Luyện từ và câu Lớp
4C đã được nâng lên trông thấy. Cụ thể trong bài làm của các em đã thể hiện hiểu
và phân biệt được từ loại một cách rõ ràng, biết sử dụng từ loại trong đặt câu và
viết văn. Kết quả trên đã minh chứng cho cách làm như đã nêu là hiệu quả và đi
đúng theo sự chỉ đạo của nhà trường và của ngành đề ra. Cho đến nay tôi vẫn tiếp
tục thực hiện và phát huy những mặt đạt được, khắc phục những mặt còn tồn tại để
năng cao chất lượng dạy học hơn nữa. Trong quá trình nghiên cứu tôi xin rút ra
một số kết luận sau :
- Trước hết giáo viên phải là người nắm vững chương trình, kiến thức, kĩ
năng tiếng Việt, có vốn sống phong phú.
- Thực sự yêu nghề, có tâm huyết với nghề.
Người thực hiện: Phạm Thị Ngọc Dung – GV Trường Tiểu học Thị Trấn Thống Nhất.
18
SKKN: Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyên từ và câu ở lớp 4
- Thường xuyên học hỏi trau dồi kiến thức, nghiên cứu tài liệu, sách báo
giao lưu học hỏi đồng nghiệp có nhiều kinh nghiệm đề ngày càng làm phong phú
thêm vốn kiến thức, kĩ năng cho mình.
- Có phương pháp nghiên cứu bài, soạn bài, thiết kế bài học một cách khoa
học, sáng tạo, linh hoạt.
- Tạo sự giao tiếp cởi mở, thân thiện với học sinh, mẫu mực trong lời nói, việc
làm, thái độ, cử chỉ. Có tâm hồn trong sáng lành mạnh để học sinh noi theo.
- Giáo viên là người khơi dậy niềm say mê hứng thú của học sinh với phân
môn Luyện từ và câu nói riêng, môn Tiếng Việt nói chung. Luôn phối hợp với gia
đình để tạo điều kiện tốt nhất cho các em tham gia học tập.
Trong quá trình nghiên cứu, xuất phát từ thực tế chất lượng học tập phân môn
Luyện từ và câu ở Lớp 4C trường Tiểu học Thị trấn Thống Nhất năm học 2009 –
2010, tôi mạnh dạn đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân
môn Luyện từ và câu ở Lớp 4C như sau:
Biện pháp thứ nhất: Phát huy ý thức học tập của học sinh từ đó bồi dưỡng
hứng thú học tập cho học sinh qua các bài học.
Biện pháp thứ hai: Biện pháp về tài liệu, đồ dùng học tập.
Biện pháp thứ ba: Biện pháp về phân chia đối tượng học sinh.
Biện pháp thứ tư: Biện pháp về phân bố thời gian học tập.
Biện pháp thứ năm: Biện pháp kèm cặp học sinh yếu (các đối tượng kèm
cặp học sinh yếu là: giáo viên, gia đình, bạn bè và dưới sự hỗ trợ của phương tiện,
thiết bị dạy học).
Biện pháp thứ sáu: Biện pháp về lập kế hoạch bài học.
III. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT.
Trong quá trình thực hiện đề tài: “Nâng cao chất lượng giảng dạy phân
môn Luyện từ và câu ở lớp 4” tôi đã tham khảo các tài liệu dạy học của phân môn
cũng như học hỏi kinh nghiệm từ bạn bè đồng nghiệp, đề tài đã hoàn thành và đã
Người thực hiện: Phạm Thị Ngọc Dung – GV Trường Tiểu học Thị Trấn Thống Nhất.
19
SKKN: Nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyên từ và câu ở lớp 4
dạy thực nghiệm ở lớp 4C năm học 2009 – 2010. Tuy nhiên trong quá trình thực
hiện đề tài chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong được sự
đóng góp ý kiến của các đồng chí lãnh đạo cũng như bạn bè đồng nghiệp để đề tài
của tôi có tính khả thi hơn cũng như phạm vi sử dụng được rộng rãi hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thống Nhất, ngày 08 tháng 03 năm 2010.
NGƯỜI VIẾT
Phạm Thị Ngọc Dung
Người thực hiện: Phạm Thị Ngọc Dung – GV Trường Tiểu học Thị Trấn Thống Nhất.
20