Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

TẢI HỘ 0984985060 bài 3 những quan điểm của đảng về công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta được đại hội đảng toàn quốc lần VIII thông qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.47 KB, 11 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ đại hội Đảng lần thứ III, Đảng ta luôn coi công nghiệp hoá, hiện
đại hoá (CNH-HĐH) là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, Đảng ta đã
xác định thực chất của CNH xã hội chủ nghĩa là “Quyết tâm thực hiện cách
mạng kỹ thuật, thực hiện phân công mới về lao động xã hội là quá trình
tích luỹ xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng“.
Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ để thủ tiêu tình trạng lạc hậu về kinh tế xã hội,
khai thác tối ưu các nguồn lực và lợi thế, bảo đảm tăng trưởng nhanh ổn
định, nước ta phải xác định rõ cơ cấu kinh tế hợp lý, trang thiết bị ngày
càng hiện đại cho các ngành kinh tế. Mặt khác, nước ta là nước đang phát
triển vì vậy quá trình ấy gắn liền với quá trình công nghiệp hoá để từ đó
hiện đại hoá đất nước.
Việc xây dựng đúng đắn những quan điểm CNH-HĐH ở Việt Nam
hiện nay có vị trí rất quan trọng đối với quá trình CNH-HĐH. Bởi xây
dựng đầy đủ các quan điểm CNH-HĐH sẽ là cơ sở đúng đắn cho việc định
hướng, định lượng chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nội dung và các bước
đi của CNH-HĐH phù hợp với bối cảnh xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nghị quyết đại hội VIII của Đảng đã đưa sự nghiệp đổi mới lên tầm cao
mới, đẩy mạnh CNH-HĐH. Mặt khác, CNH-HĐH đất nước phải chứa
đựng được mục tiêu, chiến lược, nội dung, hình thức, phương hướng cách
mạng của đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Để đạt mục tiêu nhất quán và
xuyên suốt đó là dân giầu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn
minh thì Đảng ta phải trung thành với chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kế thừa 15 năm đổi mới đất nước.
CNH-HĐH là một mục tiêu chiến lược bởi lẽ ngày nay nó đang được
thừa nhận là xu hướng phát triển chung của các nước trên thế giới và Việt
Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Cũng chính xuất phát từ vai trò
của nó trong quá trình đưa kinh tế phát triển qua thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội mà em chọn đề tài "Những quan điểm của Đảng về Công
nghiệp hoá - Hiện đại hoá ở nước ta được đại hội Đảng toàn quốc lần
VIII (6/1996) thông qua".


Trang 1 trên 11
1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. KHÁI NIỆM CNH - HĐH
Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
đống sản xuất từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động dựa trên sự phát triển của Công nghiệp cơ khí
"gắn liền với cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất".
Hiện đại hoá là quá trình ứng dụng và trang bị những thành tựa khoa
học và công nghệ tiên tiến, hiện đại vào quá trình sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội.
Tính tất yếu khách quan của CNH - HĐH:
- Do yêu cầu phải tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho việc xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
- Do yêu cầu phải rút ngắn khoảng cách tụt hậu về kỹ thuật, kinh tế
giữa nước ta với các nước trong khu vực.
- Do yêu cầu phải tạo ra năng suất lao động xã hội cao đảm bảo cho sự
tồn tại và phát triển của CNXH
II. NỘI DUNG, THỰC CHẤT CỦA CNH - HĐH Ở NƯỚC TA
1. Nội dung của CNH - HĐH ở nước ta
a. Đầu tư xây dựng đội ngũ tri thức
Những quan điểm của C.Mác về ứng dụng khoa học, công nghệ vào
quá trình sản xuất nói trên đã chỉ cho chúng ta thấy rằng muốn thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn ở nước ta, chúng ta phải:
Một là, tăng tỷ trọng lao động trí óc trong cơ cấu lao động xã hội bằng
cách tăng đầu tư cho giáo dục đào tạo, cho nghiên cứu khoa học và công
nghệ. Nếu chỉ hô hào giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là quốc
sách hàng đầu mà không có giải pháp cụ thể để tăng đầu tư cho giáo dục,
đào tạo, cho R&D, không cái cách giáo dục, đào tạo thì "quốc sách" sẽ
không trở thành hiện thực được. Không tăng được số lượng công nhân tri

thức (knowledge workers) thì sẽ rơi vào tình huống thừa lao động giản đơn,
Trang 2 trên 11
2
thiếu lao động lành nghề, số người dôi dư do công nghiệp hoá, hiện đại hoá
tăng lên thành một sức ép xã hội gay gắt, trong khi có quá nhiều việc làm
không tìm được người thích hợp. Ngay một nước phát triển rất coi trọng
giáo dục, đào tạo như oxtrâylia mà cũng có khoảng 30.000 chỗ làm việc
chưa tìm được công nhân thích hợp và có nhiều cảnh báo rằng tình hình sẽ
còn xấu đi.
Hai là, đổi mới giáo dục và đào tạo. Vì sản xuất công nghệ trở thành
loại hình quan trọng hàng đầu, phát minh trở thành một nghề đặc biệt, nên
giáo dục, đào tạo phải khuyến khích tư duy sáng tạo của người học chứ
không phải là nhồi nhét kiến thức, không nên đẩy người học vào tình trạng
"chết đuối trong thông tin nhưng lại chết đói vì tri thức".
Do tốc độ thay đổi nhanh chóng của công nghệ mà giáo đục phải cập
nhật liên tục trong suốt cuộc đời người lao động. Ngày nay, tri thức cứ 7
năm lại tăng gấp 2 lần, và trong lĩnh vực kỹ thuật thì một nứa những điều
mà sinh viên học được trong năm đầu tiên ở Đại học sẽ trở nên lạc hậu khi
họ tốt nghiệp. Để Công ty có khả năng cạnh tranh và người lao động có thể
tiếp tục làm việc thì mỗi người đều phái học tập thường xuyên. Các hãng
phải thúc đẩy việc phát triển lực lượng lao động của mình với chi phí tối
thiểu bằng một chiến lược gọi là "vừa đúng lúc". Điều đó có nghĩa là phải
đạt được các kỹ năng hoặc tri thức đúng lúc, đúng địa điểm, thay vì học
trước lúc cần thiết và ở địa điểm khác. Học ngay trong quá trình sản xuất.
Ranh giới giữa dạy nghề và đào tạo hàn lâm đang có xu hướng xích lại
thông qua cuộc cải cách giáo dục: tăng cường lý thuyết cho các lớp học
nghề, tạo điều kiện cho những người đã tốt nghiệp các lớp học nghề theo
học đại học, và tăng thời gian thực tập cho các học sinh, tăng giáo dục
thông qua việc làm. Hoặc kết hợp giáo dục với sản xuất bằng cách đặt
doanh nghiệp ở các trường học, như ở Hoa Kỳ, Anh, Đan Mạch, Singapore.

Ba là, xã hội hoá các công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ, xã
hội hoá giáo dục và đào tạo. Không những Nhà nước phải tăng chi cho R &
Trang 3 trên 11
3
D, cho giáo dục đào tạo mà từng doanh nghiệp cũng phải chi cho lĩnh vực
này. Thí dụ, ở Phần Lan, các Công ty không chờ đợi sự trợ cấp của Chính
phủ. Trong khi 300 Công ty lớn nhất thế giới chi trung bình 4,% doanh thu
cho R & D, các Công ty Phần Lan đã đầu tư cho R & D gấp đôi mức trung
bình của OECD, đạt 10,4%. Riêng Công ty NOKIA chi cho R & D nhiều
hơn toàn bộ chỉ tiêu này của Niu Dilân.
Chỉ có tăng đầu tư cho giáo dục, đào tạo, cho nghiên cứu khoa học,
công nghệ, chỉ có xã hội hoá việc nghiên cứu và giáo dục đào tạo thì mới
có thể thực hiện được chủ trương của Đảng: "Đẩy mạnh đổi mới công nghệ
trong sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực hoạt động khác, thu hẹp khoảng
cách về trình độ công nghệ so với các nước tiên tiến trong khu vực. Đi
thẳng vào công nghệ hiện đại đối với các ngành mũi nhọn, đồng thời lựa
chọn các công nghệ thích hợp, không gây ô nhiễm và khai thác được lợi thế
về lao động. Chú trọng nhập khẩu công nghệ mới, hiện đại, thích nghi công
nghệ nhập khẩu, cải tiến từng bộ phận, tiến tới tạo ra những công nghệ đặc
thù Việt Nam.
Tóm lại, nhân tố quan trọng hàng đầu để thực hiện công nghiệp hoá,
hiện đại hoá rút ngắn là đào tạo được một đội ngũ công nhân tri thức hùng
hậu. Trong điều kiện nước ta rất nghèo, ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp,
phải kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí, phải giảm bớt đầu tư vào một
số lĩnh vực kém thiết yếu (như xây dựng các trụ sở làm việc quá nguy nga,
cán bộ đi xe ôtô quá hào nhoáng ) để tăng đầu tư cho nghiên cứu khoa
học, công nghệ và giáo dục, đào tạo, phải thi hành kỷ luật nghiêm những kẻ
không chấp hành những quy định tiết kiệm mà Nhà nước đã ban hành.
b. Đưa nông nghiệp, nông dân, nông thôn phát triển nhanh
Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng

bộ gắn với quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH. CNH-HĐH nông nghiệp, nông
thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và là nhân tố bảo
đảm thành công của CNH-HĐH đất nước.
Trang 4 trên 11
4
Vấn đề đặt ra là phải giải quyết đồng bộ và có hiệu quả cao, khắc phục
yếu kém, khó khăn, nắm bắt thời cơ, vượt qua thử thách, đưa nông nghiệp,
nông dân, nông thôn phát triển nhanh. Trong thời gian tới, chúng ta phải
tập trung xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng
thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn phù hợp với đặc
điểm của từng vùng; coi trọng công tác quy hoạch sử dụng đất đai, bảo vệ
lâu dài diện tích đất lúa, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia;
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế nông thôn hiện đại gắn với phát triển các
đô thị; giải quyết việc làm cho nông dân, thực hiện đồng bộ chiến lược xóa
đói, giảm nghèo, nâng cao nhanh đời sống vật chất, tinh thần của dân cư
nông thôn, nhất là những vùng khó khăn
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là vấn đề lớn, nhiều khó khăn,
phức tạp. Chỉ khi vấn đề này được giải quyết một cách thỏa đáng thì sự
nghiệp ổn định và phát triển của đất nước ta mới thực sự lâu dài, bền vững.
c. Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh trong tình
hình mới.
Từ khi C.Mác qua đời, thế giới có nhiều biến đổi. Giai cấp công nhân
thế giới trải qua những bước thăng trầm. Nhiệm vụ của giai cấp công nhân
là vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết C.Mác. Điều cơ bản là phải
biết gắn lý luận với thực tiễn.
Giai cấp công nhân Việt Nam hiện có khoảng gần 5 triệu người, chiếm
khoảng 6% dân số. Điểm thuận lợi lớn nhất hiện nay của giai cấp công
nhân Việt Nam là có Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng của giai cấp công
nhân và nhân dân Việt Nam lãnh đạo. Đảng cầm quyền là điều kiện thuận
lợi nhất cho giai cấp công nhân Việt Nam phát triển.

Trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, giai cấp công nhân
Việt Nam không ngừng phát triển, trưởng thành. Cùng với việc thành lập
các khu công nghiệp, khu chế xuất, mỗi năm hàng trăm doanh nghiệp ra
đời, số lượng công nhân tăng nhanh. Trong sản xuất - kinh doanh của các
Trang 5 trên 11
5
doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế khác nhau diễn ra sự phân tầng của
nhiều loại trình độ công nghệ. Tương ứng với các loại trình độ công nghệ là
trình độ kiến thức, tay nghề, mức thu nhập, tâm lý, tình cảm khác nhau của
công nhân dẫn đến phân hóa ngay trong cùng một doanh nghiệp. Tuy
nhiên, cơ chế, chính sách, luật pháp liên quan đến đời sống, việc làm của
công nhân lại chưa theo kịp với tình hình. Công nhân trong doanh nghiệp
nhà nước giảm mạnh do tiến trình cổ phần hóa, công nhân trong doanh
nghiệp dân doanh nhìn chung trẻ, xuất thân từ nông dân, trình độ tay nghề
thấp, chưa được đào tạo cơ bản. Tiền lương thấp, thậm chí trong doanh
nghiệp không có thang, bảng lương theo quy định của pháp luật. Đến nay,
hầu hết các tỉnh, thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung chưa xây
dựng nhà ở lưu trú cho công nhân. Cả nước hiện có 131 khu công nghiệp,
khu chế xuất với 900.000 công nhân, nhưng chỉ có 2% số công nhân được
thuê nhà ở do doanh nghiệp xây dựng. Công nhân ít được tuyên truyền,
thông tin về chính trị, pháp luật, văn hóa, đời sống tinh thần nghèo nàn.
Tình hình đình công diễn biến phức tạp. Cả nước đã xảy ra trên 1.370
vụ đình công. Riêng năm 2006 xảy ra 390 vụ và từ đầu năm 2007 đến nay
là 63 vụ.
Để khắc phục những hạn chế trên cần phải có nghị quyết của Đảng về
xây dựng giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Tăng cường xây dựng tổ chức cơ sở đảng và phát triển đảng viên trong các
doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Có chính
sách nhà ở, tiền lương, thực hiện ký kết thỏa ước lao động tập thể, hợp
đồng lao động, thiết chế văn hóa, phát triển tổ chức công đoàn trong tất cả

các doanh nghiệp để trực tiếp bảo vệ lợi ích cho công nhân. Định kỳ, lãnh
đạo các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương tiếp xúc với công nhân giải
quyết những vấn đề bức xúc của công nhân.
Các nhà khoa học cần tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa về giai cấp
công nhân Việt Nam, tư vấn, tham mưu cho Đảng và Nhà nước để có
Trang 6 trên 11
6
những giải pháp hữu hiệu nhằm phát triển cả về số lượng, chất lượng giai
cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ mới.
Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh đáp ứng yêu cầu CNH,
HĐH đất nước là trách nhiệm của các cấp ủy đảng và chính quyền, góp
phần quan trọng xây dựng Đảng vững mạnh.
2. Thực chất của CNH - HĐH ở nước ta.
Quá trình thực hiện nhiệm vụ này kể từ năm 1986 đến nay gắn liền và
là kết quả đổi mới tư duy của Đảng, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế.
Nhìn lại chặng đường 20 năm đổi mới vừa qua, có thể khái quát những
bước chuyên lớn, mang tính đột phá trong phát triển tư duy lý luận và thực
tiễn của Đảng ta về công nghiệp hóa như sau:
1. Đã chuyển từ quan niệm CNH trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, bao cấp sang quan niệm CNH trên những nguyên tắc của
thị trường và kinh tế thị trường.
Nội dung cốt lõi của sự đổi mới tư duy này xét thực chất là thay đổi
cơ chế phân bổ, điều tiết các nguồn lực cho CNH, thừa nhận vai trò phân
bổ, điều tiết của thị trường và cho phép thị trường tham gia phân bổ các
nguồn lực, kết hợp tốt vai trò của thị trường và của Nhà nước trong việc
phân bổ, điều tiết các nguồn lực cho CNH, thông qua đó tạo điều kiện giải
phóng tối đa sức sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất
nước để đẩy mạnh CNH.
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta xác định tiếp tục xây
dựng những tiền đề cần thiết để đẩy mạnh CNH và từ Đại hội Đảng lần thứ

VIII (năm 2001), đất nước chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, giai
đoạn đẩy mạnh phát triển CNH, HĐH. Theo đó, chúng ta đã từng bước gắn
liền CNH, HĐH với việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, với nội dung cơ bản là phát triển đồng bộ các loại thị trường
(thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị
Trang 7 trên 11
7
trường lao động, thị trường khoa học và công nghệ); kết hợp hài hòa giữa
thể chế thị trường và thể chế nhà nước, sự tham gia của nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo và Nhà nước có vai trò định
hướng, tạo môi trường, hỗ trợ phát triển, kiểm soát và điều tiết vĩ mô nền
kinh tế.
2. Gắn liền CNH với HĐH, đẩy mạnh CNH, HĐH để đến năm 2020,
về cơ bản Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (năm 2001), Đảng ta đã nhấn mạnh phải thực hiện “CNH đất nước theo
hướng hiện đại” và coi đây là một nhiệm vụ trung tâm, phương hướng cơ
bản của quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc. Việc chuyển từ
quan niệm “công nghiệp hóa” sang quan niệm “công nghiệp hóa đất nước
theo hướng hiện đại” (Đại hội VII) và “công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” (Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đại hội Đảng
lần thứ VIII và Đại hội Đảng lần thứ IX), là một sự phát triển quan trọng
trong tư duy lý luận và thực tiễn của Đảng ta về CNH, HĐH đất nước. Tại
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta đã khẳng
định, “CNH, HĐH là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với
các nước chung quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc
lập chủ quyền và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa.
Cũng bắt đầu từ đây, một quan niệm mới về CNH ngày càng được
định hình rõ nét, CNH không chỉ đơn giản là phát triển công nghiệp, xây
dựng nhà máy. Đó là quá trình cải biến căn bản, toàn diện để tạo nền tảng

của một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh
tế tiên tiến, quan hệ sản xuất phù hợp sự phát triển đất nước theo định
hướng XHCN, tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội
trong từng bước và chính sách phát triển vì mục tiêu phát triển con người
Việt Nam. Đó cũng là quá trình tăng cường nguồn lực con người, năng lực
Trang 8 trên 11
8
nội sinh về khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng theo hướng hiện đại,
thân thiện và bảo vệ môi trường theo quan đếm phát triển bền vững.
3. Thực hiện chiến lược CNH, hướng mạnh vào xuất khẩu, đồng
thời thay thế nhập khẩu ở những sản phẩm trong sản xuất có hiệu quả,
phát huy lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của cả nước, từng vùng,
từng ngành, từng lĩnh vực, từng sản phẩm
Trong 20 năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã từ bỏ mô hình công
nghiệp hóa khép kín, thay thế nhập khẩu, từng bước xây dựng nền kinh tế
mở, hội nhập thế giới và khu vực, thực hiện chiến lược CNH trên cơ sở
phát huy lợi thế, hướng mạnh vào xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu
bằng những sản phẩm sản xuất trong nước có hiệu quả. Đây là bước đột
phá rất quan trọng trong đổi mới tư duy của Đảng về CNH. Nó đã mở ra
một không gian phát triển mới, không giới hạn cho việc đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước.
4. Định hình ngày càng rõ hơn quan điểm rút ngắn thời gian thực
hiện CNH, HĐH; đẩy mạnh CNH, HĐH, gắn với phát triển kinh tế trí
thức và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
Tiếp tục phát triển tư duy lý luận và thực tiễn về CNH, HĐH, đến Đại
hội Đảng lần thứ IX, lần đầu tiên trong văn kiện của mình, Đảng ta chính
thức khẳng định quan điểm rút ngắn thời gian thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. “Con đường CNH, HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn
thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt” (Văn kiện Đại
hội Đảng lần thứ IX).

Trong thực tế, quá trình CNH ở từng quốc gia, tuy vẫn phải tuân theo
những lôgích tổng quát, nhưng lại rất khác nhau trong việc lựa chọn mô
hình, nội dung chiến lược, bước đi và giải pháp CNH cụ thể. Các nước đi
sau đều có khả năng rút ngắn quá trình thực hiện CNH so với các nước đi
trước. Việc rút ngắn này được thực hiện bằng cách:
Trang 9 trên 11
9
- Đẩy nhanh tốc độ thực hiện các bước chuyển tuần tự từ nền kinh tế
nông nghiệp truyền thống sang nền kinh tế công nghiệp hiện đại.
- Rút ngắn các bước đi, thực hiện những bước nhảy vọt về cơ cấu.
Sự kết hợp hai xu hướng này đòi hỏi quá trình CNH ở Việt Nam phải đồng
thời thực hiện hai nội dung của một quá trình phát triển rút ngắn theo
hướng hiện đại là vừa xây dựng nền kinh tế công nghiệp hiện đại, vừa từng
bước phát triển kinh tế tri thức trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế
dưới tác động của toàn cầu hóa kinh tế. Đây là tư duy phát triển hiện đại
mà Đảng ta đã nắm bắt và trở thành một trong những tư tưởng chủ đạo của
việc đẩy mạnh, đẩy nhanh CNH, HĐH ở nước ta, nhằm nhanh chóng thoát
khỏi tình trạng một nước nghèo, kém phát triển, rút ngắn khoảng cách tụt
hậu phát triển so với các nước trong khu vực.
Trên cơ sở kết hợp tốt cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra, với
những tiềm năng và lợi thế của đất nước, nhất là tiềm năng và lợi thế của
con người Việt Nam và do con người Việt Nam tạo ra, chúng ta có đủ điều
kiện thực tế để rút ngắn quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri
thức và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Để hiện thực hóa khả năng rút
ngắn, có nhiều việc phải làm, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến việc hình
thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
coi phát triển giáo dục và đào tạo khoa học và công nghệ thật sự là nền tảng
và động lực của CNH, HĐH đất nước.
III. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CNH - HĐH Ở NƯỚC TA
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: "Xây

dựng nước ta thành một nước Công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh
thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công
bằng văn minh". Mục tiêu đó là cụ thể hoá học thuyết Mác - Lênin về hình
Trang 10 trên 11
10
thái kinh tế xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam. Nó là cơ sở
lý luận của sự nghiệp CNH - HĐH ở nước ta.
Hình thái kinh tế xã hội có tính lịch sử, có sự ra đời phát triển và diệt
vong, chế độ lạc hậu sẽ mất đi, chế độ xã hội mới cao hơn sẽ thay thế. Đó
là khi phương thức cũ đã trở nên lỗi thời hoặc khủng hoảng do mâu thuẩn
của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện
chứng với nhau thể hiện ở chỗ:
Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi và phát triển.
Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực
lượng sản xuất mà trước hết là công cụ.
Quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất
(phù hợp) nhưng do mâu thuẫn của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
thì quan hệ sản xuất lại trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất (không phù hợp).
Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi
của quan hệ sản xuất. Khi không thích ứng với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm thậm chí phá hoại sự phát
triển của lực lượng sản xuất, mâu thuẫn của chúng tất yếu sẽ nảy sinh.
Khi quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất nó sẽ trở thành động lực thúc đẩy định hướng và tạo điều
kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
Quan hệ sản xuất phải tạo được điều kiện sản xuất và kết hợp với tối

ưu giữa tư liệu sản xuất và sức lao động, đảm bảo trách nhiệm từ sản xuất
mở rộng.
Vậy quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của người sản xuất là quy luật chung của sự phát triển xã hội.
Trang 11 trên 11
11

×